KIẾP GIANG HỒ 191/2 (Al Capone)
(ĐC sưu tầm trên NET)
Bí mật về Al Capone thần tượng đen P2
Câu chuyện về trùm mafia khét tiếng Al Capone (Kỳ 1): Những ngày đầu tiên
Cứ nhắc tới mafia, phần lớn người ta nghĩ tới các tổ
chức mafia chuyên nghiệp và quy mô rộng lớn ở Italia. Điều đó khiến
nhiều người nhầm lẫn về trùm mafia khét tiếng Al Capone. Trên thực tế Al
Capone sinh ra, lớn lên và hoạt động hoàn toàn trên đất Mỹ.
Trùm mafia Mỹ gốc Ý
Đã
có rất nhiều người Italia di cư tới các thành phố cảng rộng lớn ở Mỹ và
làm công nhân vì họ không rành ngôn ngữ và thiếu những kỹ năng công
việc. Tuy nhiên, với Gabriele Capone – bố đẻ của Al Capone – thì lại
khác. Ông sang Mỹ và quyết tâm gây dựng cho mình một cửa hiệu cắt tóc
riêng. Gabriel Capone sinh ra ở làng Castellmarre di Stabia, cách thành
phố Naples, Italia, 16 dặm về phía Nam. Năm Gabriel 30 tuổi, đã mang vợ
là Teresina, 27 tuổi, đang mang thai, cùng với hai cậu con trai di cư
sang Mỹ với ước mơ mở một tiệm cắt tóc và bắt đầu một cuộc sống tươi
đẹp. Gia đình nhà Capone chuyển về Brooklyn sinh sống.
Johny Torrio
Nhờ
biết đọc và viết tiếng Anh, Gabriel đã xin được vào làm ở một tiệm bán
tạp phẩm cho tới khi anh có thể mở tiệm cắt tóc cho riêng mình.
Teresina, ngoài công việc nội trợ còn làm thêm nghề may vá để tăng thu
nhập. Đứa con thứ ba của họ, Slavator Capone ra đời vào năm 1895. Và đứa
con thứ tư, người con đầu tiên sinh ra trên đất Mỹ là Alphonse Capone
(17/1/1899) chính là người sau này trở thành ông trùm của băng đảng
mafia khét tiếng toàn thế giới. Như vậy, Al Capone mặc dù có gia đình là
người Italia, nhưng lại là một gangster Mỹ chính hiệu. Al Capone đã
thành lập nghiệp đoàn tội phạm Mỹ theo mô hình tổ chức tội phạm của
Italia.
Tháng 5/1906, Gabriele Capone được nhập
quốc tịch và thành công dân Mỹ, vì thế cả gia đình đổi sang tên Mỹ,
Alphonse trở thành Al Capone. Với những tên tội phạm khét tiếng, khi bị
đưa ra xét xử, người bào chữa thường lấy hoàn cảnh sống của tên tội phạm
thời thơ ấu để biện minh cho những hành động của hắn. Nhưng với trường
hợp Al Capone thì luật sư không thể sử dụng cách đó được. Bởi gia đình
nhà Capone vốn rất hiền lành. Ông bố Gabriele không bao giờ đánh con cái
mà chỉ dùng cách nói chuyện với con để dạy dỗ hằng ngày và các con của
ông luôn nghe lời bố.
Sau khi Al chào đời, gia
đình họ chuyển tới một khu phố sung túc hơn, phía trên cửa hàng của
Gabriele ở số 69 đại lộ Park tại Brooklyn. Năm 1904, khi được 5 tuổi, Al
vào học tại trường phổ thông số 7 đường Adams. Việc học rất chán nản vì
lúc đó có nhiều sự phân biệt đối xử với dân nhập cư. Nhưng Al học rất
khá cho tới năm lớp 6 rồi bắt đầu mải mê với các vụ đánh nhau. Năm 14
tuổi, Al bỏ học. Bố mẹ buồn rầu, còn Al thì bắt đầu bộc lộ chiều hướng
phạm tội, nhất là khi gia đình chuyển về số 21, quảng trường Garfield,
sống cùng cặp vợ chồng hàng xóm tội phạm là Johnny Torrio và Mae. Cặp
đôi của thế giới ngầm này có những ảnh hưởng đầu tiên tới cuộc đời tội
phạm của Al Capone.
“Người thầy” đầu tiên
Cách
nhà Capone một vài dãy là một tòa nhà nhỏ khá khiêm tốn nằm trên quảng
trường Garfield được ông trùm xã hội đen Johny Torrio sử dụng làm trụ
sở. Lúc đó, Johny Torrio là một trùm xã hội đen mới nổi và là kẻ đi tiên
phong trong việc phát triển mô hình tập đoàn tội phạm hiện đại. Với tài
năng tổ chức của mình, Torrio đã thành lập một băng đảng và điều hành
hoạt động của nó hết sức chuyên nghiệp khiến băng đảng này ngày càng lớn
mạnh.
Torrio sớm trở thành một hình mẫu cho đám
thanh niên trẻ tuổi trong khu phố trong đó có Al Capone. Cậu bé Al
Capone đã tìm cách làm quen với Torrio và được Torrio tin tưởng Al
Capone và giao cho ngày càng nhiều trọng trách trong các hoạt động phi
pháp. Trong khi làm việc cho Torrio, Al Capone đã học được rất nhiều,
đặc biệt là bài học là phải biết sống và phân biệt rõ ràng giữa bề ngoài
và bản chất. Bề ngoài phải lịch lãm, có giáo dục, trong khi bên trong
vẫn làm những gì mình nghĩ như hoạt động trong giới tội phạm. Nhờ có
phong cách của một quý ông, Torrio khéo léo giấu bản chất là ông trùm
bảo kê của gái điếm và các giang hồ đàn em của mình. Đó cũng là chiến
thuật hoạt động của Torrio.
Torrio chính là
“người thầy” đầu tiên của Al Capone, người cho hắn những bài học kinh
nghiệm giúp hắn sau này thành lập và lãnh đạo tập đoàn tội phạm khét
tiếng của riêng mình. Năm 1909, Torrio chuyển tới Chicago làm ăn. Al
Capone chia tay người thầy đầu tiên và tiếp tục gia nhập những băng nhóm
khác.
(Còn nữa)
Trâm Anh (theo TruTV)
Câu chuyện về trùm mafia khét tiếng Al Capone (Kỳ 2): Biến cố thay đổi cuộc đời
20/9/2013 21:45 UTC+7
Trong cuộc đời tội phạm của mình, Al Capone đã từng có lúc
muốn sống một cuộc sống yên bình. Nhưng dường như hắn không thể nào
cưỡng lại nổi bản năng và khao khát thống trị của mình và tìm đến với
những ông trùm của thế giới ngầm.
Người thầy thứ hai
Khi đó, mặc dù hay giao du với nhiều tay giang hồ đường phố, Al Capone
vẫn không hề có dấu hiệu nào cho thấy sẽ chọn cuộc sống của một tên tội
phạm hay sử dụng súng đạn. Hằng ngày chú bé Al vẫn sống cùng gia đình và làm việc để phụ giúp gia đình sau khi bỏ học. Dù làm công việc gì, Al Capone luôn làm rất tốt và sống hòa hợp với mọi người.
Al Capone
Tuy nhiên, “người thầy” đầu tiên Torrio đã có ảnh hưởng khá lớn tới Al
để rồi tới khi gặp một ông trùm khác là Frankie Yale, bản năng và khao
khát thống trị của hắn mới trỗi dậy. Hoàn toàn trái ngược với phong thái
lịch lãm của Johnny Torrio, Frankie Yale lại là kẻ luôn ưa thích sử
dụng bạo lực. Al Capone được Torrio giới thiệu vào làm ở một quán bar
của Frankie Yale lúc mới 18 tuổi. Chỉ sau một năm, Al đã trở thành người
tin cậy của ông chủ và những khách hàng quen thuộc. Nhưng một sự cố xảy
ra khi hắn nhỡ lời xúc phạm một phụ nữ là khách hàng quen thuộc của
quán bar và bị người đàn ông đi cùng chém nhiều nhát vào mặt và bị buộc
xin lỗi vị khách đó. Mặc dù không bảo vệ cho Al Capone vụ rạch mặt, lại
còn bắt Al phải xin lỗi nhưng Yale luôn che chở và dạy dỗ cậu học trò
nhỏ những phương thức để “kinh doanh”
dựa trên sự tàn bạo của mình. Yale là một kẻ rất bạo lực và có ảnh
hưởng rất lớn tới việc phát triển theo chiều hướng cứng rắn của Al
Capone.
Tạm lánh xa thế giới ngầm
Năm 19 tuổi, Al gặp một cô gái người Ai-len rất duyên dáng có mái tóc
vàng tên là Mae Coughlin. Cô gái ít hơn Al 2 tuổi, sinh trưởng trong một
gia đình trung lưu. Gia đình nhà Mae đã phản đối rất mạnh mẽ mối tình
của 2 người, mãi cho tới khi cặp đôi vẫn tới với nhau và sinh con, bên
nhà vợ mới chấp nhận chàng rể.
Ngày 4/11/1918, Albert Francis Capone ra đời, thường được gọi là Sony
và nhận Johnny Torrio làm bố đỡ đầu. Sony bị bệnh giang mai từ bố. Có
một gia đình nhỏ với người vợ đẹp và một đứa con nhỏ cần chăm sóc, Al
tập trung làm việc nghiêm túc. Hắn không làm cho Frankie Yale nữa mà
chuyển tới Baltimore, làm kế toán cho công ty xây dựng của Peter Aiello.
Và Al Capone đã làm rất tốt. Với bản tính thông minh, có cái đầu lạnh
và sắc sảo, Al làm việc rất hiệu quả với những con số và được nhiều
người tin cậy. Cuộc sống gia đình của Al Capone khá ổn định.
Nhưng khi cha của Al Capone đã qua đời vì bệnh tim ở tuổi 55, Al đau
lòng vì chưa làm được gì để cha mình có được cuộc sống sung túc, Al
Capone nhận thấy làm nghề kế toán đơn giản như thế này không giàu được
nên hắn đã đi tìm Johnny Torrio lúc này đang ở Chicago.
Mảnh đất màu mỡ của thế giới tội phạm
Chicago vào thời điểm đó là một mảnh đất hoàn hảo để xây dựng một đế
chế tội phạm. Nơi đây thường xuyên xảy ra tình trạng rối loạn trật tự,
các phe nhóm liên tục tranh chấp và đánh nhau, đặc biệt lượng tiêu thụ
rượu “như nước” của người dân là yếu tố quan trọng nhất, mang lại khối
điều kiện cho thế giới tội phạm tung hoành. Thành phố này nổi tiếng nạn
mại dâm. Khi Al Capone tới Chicago vào năm 1920, nền kinh doanh này mang
lại lợi nhuận tột đỉnh cho giới tội phạm. Ông trùm thâu tóm mạng lưới
mại dâm của thành phố là Jim Colosimo “lớn” và vợ là Victoria Moresco
thu được 50.000 đô la một tháng - một số tiền lớn không thể tưởng tượng
nổi đối với người dân thời bấy giờ. Ngoài ra, Jim “lớn” có một quán bar
nổi tiếng nhất thành phố lúc bấy giờ mang tên hắn: Colosimo.
Khi công việc kinh doanh của gia đình này đang ngày càng phát triển,
Jim “lớn” đã khéo léo đẩy ông trùm Johnny Torrio ra khỏi Brooklyn để
tiếp tục hoạt động và đẩy mạnh đế chế của mình. Biết vị thế của mình
đang thua Jim "lớn", Torrio nằm đợi thời cơ.
Trong khi Torrio là một “doanh nhân” rất cẩn trọng, không quan tâm tới
rượu và gái thì Jim “lớn” lại là kẻ rượu chè gái mú. Và đó chính là điểm
yếu của hắn. Khi Jim “lớn” bị cô ca sĩ xinh đẹp Dale Winter hớp hồn và
li dị vợ để cưới cô ca sĩ này, hắn đã có những phút sơ hở và bị Frankie
Yale để ý tới. Franke Yale vốn là kẻ cạnh tranh với Jim “lớn” tại
Brooklyn. Ngày 11/5/1920, Yale ám sát Jim trong hộp đêm Colosimo. Torrio
lúc này mới lộ diện, chiến đấu để giữ lại cả một gia tài mà hắn đã dày
công giúp Jim gây dựng nên. Torrio trở thành kẻ thắng chung cuộc. Chính
trong giờ phút huy hoàng đó, Torrio gặp lại Capone, lúc đó 22 tuổi, đang
làm kế toán tại Baltimore. Torrio đã mở rộng cánh cửa chào đón Al
Capone. Sự phát triển tột bực của Torrio đã tạo cho Al cơ hội rất là lớn
trên các lãnh vực: chơi bài, bảo kê, và cả rượu lậu… tại Chicago.
(còn nữa)
Trâm Anh (theo TruTV)
Câu chuyện về trùm mafia khét tiếng Al Capone (Kỳ 3): Cặp đôi quyền lực
25/9/2013 09:07 UTC+7
Gặp lại Al Capone trong khi “sự nghiệp” của Torrio đang lên
như diều gặp gió, Torrio đã tạo cho học trò của mình một mảnh đất màu mỡ
để phát triển....
Tái ngộ
Al Capone lúc này đã 22 tuổi và rất có “tài năng” trong lãnh vực kinh doanh
phi pháp. Tới năm 1921, Al Capone đã thực sự trở thành cánh tay đắc lực
của Torrio, được ông trùm này hoàn toàn tin tưởng giao cho cầm đầu các
đường dây và phi vụ làm ăn lớn.
Có đủ lực về tài chính, Al mua một căn nhà sang trọng hàng đầu tại số
7244 đại lộ Prairie, rồi đưa mẹ và anh chị của mình tới sống. Trong cộng
đồng dân cư Al sống, hắn luôn cố gắng ra tay giúp người để thu phục về
làm cho mình. Trong công việc, nhờ có sự chỉ bảo của Torrio, cùng phong
cách vượt trên những định kiến, sẵn sàng kết bạn và thu phục người tài
mà không hề phân biệt chủng tộc, màu da, giai cấp..., Al Capone ngày
càng có vị thế trong việc quản lý. Dần dần hắn được Torrio giao cho toàn
quyền tại vùng Levee. Em và anh trai của hắn cũng gia nhập vào nghiệp
đoàn của Torrio.
Johnny Torrio
Thế nhưng, khi William E. Dever về giữ chức thị trưởng, ông đã bắt đầu
chiến dịch cải tổ hành chính và luật lệ điều hành trong thành phố khiến
việc bán rượu trở nên khó khăn hơn. Torrio và Capone quyết định đưa tất
cả những hoạt động “kinh doanh” của mình ra khu ngoại ô Cicero, nơi cảnh
sát và chính quyền dễ bị mua chuộc hơn. Torrio mở một nhà chứa tại
Cicero, đồng thời đưa mẹ mình trở lại Italy để Capone một mình thống trị
đế quốc mới. Hắn đưa anh trai mình là Frank ra làm người chính thức
thực hiện các “giao dịch” với chính quyền địa phương.
Phá vỡ mô hình kinh doanh ngầm
Tuy nhiên, khi tờ Cicero Tribune liên tục đăng những phóng sự nói về
những hoạt động bẩn thỉu của Al Capone làm ảnh hưởng tới hai ứng cử viên
hội đồng thành phố được Al tài trợ, Al đã sai tay chân bắt cóc những
người hoạt động cho ứng cử viên đối lập và phá hoại cuộc bầu cử năm
1924. Để “trả đũa”, cảnh sát đã bắn chết Frank Capone. Al Capone đã tức
tối sai tay chân giết hại một sĩ quan cảnh sát. Tại lễ tang của Frank
Capone, cảnh sát trưởng Chicago đã gửi chính những cảnh sát trước đó vài
ngày vừa bắn chết Frank tới chứng kiến lễ tang của hắn đã khiến ông
trùm Al Capone coi đó là một sự sỉ nhục ghê gớm. Cơn nóng giận của Al
bùng phát khi đàn em của hắn là Jack Guzik bị một tay côn đồ tên Joe
đánh đập. Al đã tới tận quán bar nơi Joe đang uống rượu và bắn chết tên
này. Tuy nhiên, dù không có khó khăn gì trước pháp luật
sau vụ bắn chết Joe nhưng tiếng xấu về Al đã thu hút sự chú ý của toàn
thành phố. Đó là lần đầu tiên Al phá vỡ mô hình kinh doanh ngầm bao năm
Torrio gây dựng và gìn giữ.
Chỉ trong vòng 4 năm ở Chicago, 25 tuổi, Al đã là trùm tội phạm vô cùng
giàu có và đầy thế lực, xây dựng và củng cố được mạng lưới “pháp luật”
của riêng mình. Hắn đã là ông chủ của thành phố Cicero trong các hoạt
động kinh doanh giải trí, bảo
kê và mại dâm. Dĩ nhiên, Al cũng trở thành mục tiêu của những tổ chức
luật sư muốn trục lợi từ việc bắt giữ hắn hoặc những tên tội phạm luôn
kình địch.
Trong khi Al Capone thường xuyên trở thành đối tượng nghi ngờ số một
của cảnh sát mỗi khi xảy ra một vụ giết người nào sau vụ hạ thủ Joe thì
có nhiều ông trùm khác luôn cố gắng tìm cách giết thầy trò Terrio. Điều
này khiến Al Capone và Torrio luôn phải gồng mình chống đỡ. Chính điều
đó khiến Al Capone bắt đầu để lộ yếu điểm của mình – đó là không kìm chế
cơn nóng giận. Hắn đã ra thẳng tay giết chết những đối thủ của mình một
cách vô tội vạ, đầu tiên là Dion O’Banion, chủ cửa hàng hoa và kinh
doanh rượu. Sau cái chết của Dion là địa bàn Chicago được sắp xếp lại
theo trật tự do Torrio và Al Capone để ra.
Quyền lực tăng cao
Tuy nhiên, có một hậu quả mà hai trùm tội phạm này không nghĩ tới khi
ám sát Dion là bạn thân của Dion là "Hymie" Weiss, và một đối thủ khác
là Bugs Moran liên kết với nhau để trả thù cho Dion. Mọi việc căng thẳng
tới mức Torrio phải rời Chicago một thời gian vì lo cho mạng sống của
mình. Còn Al Capone trong suốt 2 năm sau đó trở thành mục tiêu của hàng
chục cuộc mưu sát bất thành. Tháng 1/1925, Torrio trở lại Chicago và bị
ám sát hụt. Dù Torrio thoát chết nhưng Al Capone rất lo lắng. Hắn nhận
ra Chicago không phải là nơi an toàn cho một ông trùm có nhiều kẻ thù.
Capone tự tay lo liệu việc bảo vệ an toàn cho thầy Torrio của mình. Kết
quả là 4 tuần sau khi xảy ra vụ mưu sát hụt, giới giang hồ vô cùng ngạc
nhiên khi Torrio bị bắt tại Sieben Brewery. Hắn bị kết án 9 tháng tù
giam. Trong thời gian thi hành án, Torrio đã có thời gian suy nghĩ và
đột nhiên không còn muốn tiếp tục cuộc sống đầy nguy hiểm này nữa. Tháng
3/1925, khi Al Capone vào tù thăm Torrio, Torrio đã cho biết sẽ rời bỏ
Chicago và ra nước ngoài sinh sống khi hết hạn tù. Torrio để lại cho anh
em nhà Capone tất cả những doanh nghiệp đang còn sinh lời của hắn. Bất ngờ, quyền lực của Capone đột ngột tăng lên không giới hạn.
(còn nữa)
Trâm Anh (theo TruTV)
Câu chuyện về trùm mafia khét tiếng Al Capone (kỳ 4): Thay đổi chiến lược
27/9/2013 08:47 UTC+7
Chỉ trong một thời gian ngắn sau khi thừa hưởng “đế chế” của
Johnny Torrio, Al Capone đã trở thành thế lực chính trong thế giới ngầm
ở Chicago.
Xây dựng hình ảnh mới
Al Capone có quan hệ với Harry Read, chủ của một tờ báo. Read khuyên Al tham gia các hoạt động xã hội công khai như những buổi lễ hội, sự kiện thể thao, từ thiện… để trở thành một người quan trọng và “dễ mến” trong con mắt công chúng.
Kể từ đó, hắn bắt đầu thường xuyên xuất hiện ở các buổi biểu diễn
Opera, tại những buổi tiếp tân long trọng và những dạ hội từ thiện. Vui
vẻ, hào phóng, thành đạt, luôn giúp đỡ người nghèo... tất cả giúp ông
trùm trở nên vô cùng đáng kính trọng. Ngoài ra, để có chút ảnh hưởng về
chính trị, hầu như ngày nào, Capone cũng tới nơi hội đồng thành phố họp.
Hăng hái xuất hiện trước công chúng, Al Capone đã làm một điều mà những
ông trùm tội phạm luôn muốn lẩn tránh.
Tiếp tục để lộ điểm yếu
Tháng 12/1925, Al đưa con trai mình tới New York để chữa bệnh kết hợp
với việc gặp lại ông chủ cũ là Frankie Yale. Cả hai bàn thảo về việc
buôn bán whisky nhập lậu từ Canada vào Mỹ. Lúc đó, Yale nhập whisky về
New York dễ hơn nhiều so với việc Capone nhập rượu về Chicago. Việc còn
lại là Al phải lo đưa số rượu đó từ New York tới Chicago.
Al-capone luôn xuất hiện trước công chúng với dáng vẻ hào hoa, phong nhã
Trong thời gian đó, Yale mời Al tới dự lễ Noel tại một Câu lạc bộ khá
sang trọng tại Brooklyn. Nhưng khi biết thông tin rằng bữa tiệc đó sẽ bị
một tên gangster khác tên là “Peg-Leg” Lonergan phá quấy, Yale đổi ý.
Song Capone vẫn khăng khăng tới đó và chuẩn bị một kế hoạch “đón tiếp”
Lonergan. Khi người của Lonergan tới nhà hàng lúc 3 giờ sáng để gây sự
thì đã bị cả dàn nhạc hóa trang tấn công. Vụ tàn sát chính là cách ông
trùm xứ Chicago nói với giới xã hội đen rằng với hắn New York chẳng là
gì so với Chicago của hắn.
Đầu năm 1926, mọi vinh quang và quyền lực của Al Capone bị dập tắt.
Ngày 27/4, hắn xuống tay với Billy McSwiggin, người luật sư đã từng đưa
Al ra tòa vào năm 1924 vì tội giết Joe Howard, một ông trùm tội phạm
địch thủ của hắn khi luật sư này đang đi với Doherty, một tên trùm tội
phạm khác. Mặc dù McSwiggin có chết cùng với một tên trùm tội phạm nhưng
công chúng vẫn rất bất bình về việc này. Thế là cả thành phố dấy lên
phong trào chống lại Al.
Gác kiếm?
Mặc dù chắc chắn là Al Capone là thủ phạm chính trong vụ sát hại này
nhưng cảnh sát không tìm được chứng cứ. Vì thế, họ chỉ còn cách trả đũa
Al bằng những cuộc truy quét các nhà chứa và quán rượu. Al Capone đã
phải lẩn trốn khi gần 300 thám tử tham gia tìm kiếm hắn trên toàn nước
Mỹ, tại Canada và cả ở Italy. 3 tháng trôi qua mà không có tin tức
gì về Al, cơn tức giận của công chúng cũng lắng xuống và người ta lại
bắt đầu nhìn hắn như là một nhà tài trợ hào phóng và một người chuyên
làm phúc. Dù phần lớn việc cứu trợ người nghèo của Al có nguồn gốc từ
mục đích cá nhân, song thực sự Capone đã có công phần nào đó trong việc
đóng góp cho phúc lợi xã hội.
Biết rằng không thể lẩn trốn mãi, Al Capone quyết định đến gặp cảnh sát
Chicago và tìm cách bác bỏ lời cáo buộc về sự dính líu tới vụ giết
người. Dù ai cũng nghĩ rằng Al chính là thủ phạm gây nên cái chết của
luật sư McSwiggin và điều này khiến công chúng rất phẫn nộ nhưng trước pháp luật,
vẫn chưa có bằng chứng hay nhân chứng rõ ràng nào chứng minh việc này.
Nhờ những áp lực của nhiều cộng đồng dân cư - những người "yêu mến" và
biết ơn Al, cộng thêm sự "lo lắng" của các quan chức trong ngành cảnh
sát, Al Capone đã tránh được vòng tù tội.
Tuy nhiên, điểm yếu của Al Capone là không thể kiềm chế được những cơn
nóng giận đã lại khiến hắn gặp rắc rối. Vừa mới thoát khỏi vụ giết
McSwiggin, Al lại tiếp tục sai người giết chết Hymie Weiss, một tên trùm
khác khi tên này từ chối hợp tác làm ăn với hắn. Sau cái chết của
McSwiggin, lại là vụ của Hymie khiến người dân Chicago chán ngán với các
vụ bạo lực của các băng phái xã hội đen. Cộng với sự can thiệp của báo
chí khiến nỗi bất bình ngày càng dâng cao. Khi đó, Al Capone buộc phải
tổ chức một buổi gặp mặt giữa các ông trùm để đưa ra phương thức hoạt
động chung không có bạo lực cho cả giới xã hội đen. Cuộc thương thuyết
đã thành công với sự đồng ý chung là không thực hiện các vụ bắn giết và
nhất là không được phép trả thù cho bất kỳ tên giang hồ nào đã chết.
Trong suốt thời gian dài sau đó, giới giang hồ dù vẫn luôn mâu thuẫn
nhưng không có sự bắn giết lẫn nhau. Nhưng tới tháng 1/1927, Theodore
Anton, bạn thân của Al Capone bị bắn chết đã khiến hắn cảm thấy bất an
nên quyết định "ở ẩn". Hắn mượn báo chí để thông báo quyết định "gác
kiếm" của mình.
Tuy nhiên, việc Al thật sự nghiêm túc hay là đang diễn trò không ai biết chắc được câu trả lời.
(còn nữa)
Trâm Anh (theo TruTV)
Câu chuyện về trùm mafia khét tiếng Al Capone (Kỳ 5): Lọt vào danh sách kẻ thù của công chúng
02/10/2013 08:50 UTC+7
Mệt mỏi vì bị cảnh sát Chicago bám sát mọi hoạt động, Al
quyết định tới Miami nhưng tại đây hắn bị theo dõi sát sao...
Thẳng tay hạ hàng loạt đối thủ
Al, vẫn quyết định mua căn nhà 14 phòng kiểu Tây Ban Nha tại số 93
đường Palm Island. Trong nhiều tháng sau đó, hắn sửa chữa lại căn nhà,
biến nó thành một pháo đài nhỏ có tường bằng bê tông và những cánh cửa
gỗ nặng trịch. Trong khi vợ hắn là Mae Capone lo việc trang trí lại căn
nhà, thì Al Capone lo lót để trở thành công dân của Miami.
Thời gian này Al nghi ngờ Yale đứng đằng sau những vụ hợp đồng mua bán
rượu của hắn bị đánh cắp. Hắn yêu cầu 6 người cộng tác với mình tới
Chicago để tìm cách đối phó với trùm Yale quyền lực. Một kế hoạch chung
đã được vạch ra. Ngày 1/7, khi Frankie Yale đang uống rượu tại một quán
bar ở công viên Borough thì nhận được một cú điện thoại. Ngay sau đó,
hắn vội ra xe của mình đỗ cách đó không xa. Khi đi tới một ngã rẽ nhỏ
trên đường số 44, xe của Yale bị một chiếc xe ô tô mui kín màu đen chặn
lại và một cơn mưa đạn từ đủ loại súng xả vào xe của Yale.
Al Capone
Sau khi “loại” được đối thủ kình địch nhất là Yale, hắn sống như một
nhà độc tài với căn hộ có 6 phòng, bố trí nhà bếp cao cấp và đặc biệt để
phục vụ cho các bữa ăn của mình tại khách sạn cao cấp bậc nhất
Lexington. Trong đó, Capone bố trí nhiều lối thoát bí mật trong nhà để
trốn thoát khi cần thiết.
Thời gian đó, Al lập ra một hiệp hội các doanh nghiệp kinh doanh
bất hợp pháp dưới cái tên nghe rất hợp pháp là “Hiệp hội bảo trợ”. Al
Capone gom tất cả các doanh nghiệp nhỏ lẻ vào hiệp hội này và thu bất kỳ
mức phí nào mà hắn thích, đặt ra luật về giờ làm và tiền lương của
những nhân công trong các doanh nghiệp đó. Bất kỳ doanh nghiệp nào từ
chối nộp tiền hoặc không tiếp tục nộp thì sẽ phải nhận hậu quả từ phía
hắn.
Trong công cuộc thống trị thế giới
ngầm của mình, Al Capone gặp lại kẻ thù cũ là Bugs Moran. Tên này đã 2
lần từng cố ám sát bạn của Al và tên đệ tử ruột Jack McGurn của hắn. Khi
Capone tới Palm Island vào mùa đông, Jack McGurn đã tới thăm hắn và bàn
kế hoạch triệt hạ Bugs và những tên trùm tội phạm còn lại ở địa bàn của
tên này.
Al tạo bằng chứng ngoại phạm bằng việc đi nghỉ ở Florida và để lại
quyền chỉ huy vụ việc cho McGurn. Một nhóm những tay súng thiện xạ sẽ
mặc đồng phục cảnh sát để thực hiện vụ ám sát quan trọng này. Sắp xếp
xong người, McGurn cũng giống như Al, cố tình tránh mặt để tạo bằng
chứng ngoại phạm. Tuy nhiên, vụ ám sát diễn ra tốt đẹp ngoại trừ một
việc chúng đã không ám sát được Moran. Trong phút xảy ra vụ thảm sát,
hắn may mắn không có mặt tại hiện trường. Moran đến chỗ hẹn muộn vài
phút và khi nhìn thấy xe cảnh sát, hắn đã nhanh chân trốn.
Không khó khăn gì, giới giang hồ đoán ra ngay mục tiêu của vụ tấn công
là Bugs Moran và kẻ đứng sau vụ này chính là Al Capone và McGurn.
Ảnh hưởng của vụ thanh toán dù đã được tính toán kỹ càng này thật kinh
khủng, vượt qua mọi sự lường trước của Al Capone và McGurn. Tai tiếng
của Al Capone đã tới tai Tổng thống Herbert Hoover và ông đã ra lệnh tất
cả các cơ quan của lực lượng Liên bang tập trung giám sát Capone và
những đồng mình của hắn.
Bí mật điều tra
Đầu tháng 3/1929, Tổng thống Hoover yêu cầu Andrew Mellon, thư ký kho bạc nhà nước, đưa Capone ra trước pháp luật.
Chỉ vài ngày sau, Al Capone bị triệu tập tới Tòa án tối cao ở Chicago
nhưng hắn dường như chưa lường trước được sự trầm trọng của vấn đề và
quyền lực mà hắn sẽ phải đối mặt.
Mellon, người chỉ huy trong vụ điều tra tìm ra bằng chứng kết tội Al
Capone đã quyết định thực hiện trên cả 2 phương diện: tiếp tục thu thập
bằng chứng về hành vi trốn thuế của Al và việc hắn phạm luật cấm nấu và
bán rượu. Nhiệm vụ thu thập đầy đủ các bằng chứng phạm luật cấm nấu, bán
rượu của Al Capone được giao cho Eliot Ness. Eliot đã tập hợp những
người nhiều khả năng nhất, trong đó có Elmer Irey, một thám tử xuất sắc
của đội điều tra hình sự. Irey sẵn sàng thực hiện mọi mệnh lệnh mà Tổng
thống Hoover đề ra. Lúc đó, Mellon vẫn còn lo rằng chưa thể kết tội
Capone về tội phạm luật cấm nấu, bán rượu, nhưng ông tin chắc rằng có
thể kết Capone về tội trốn thuế thu nhập. Cuộc điều tra dù được thực
hiện với quy mô lớn nhưng hoàn toàn bí mật mà chính Al cũng không hề
biết.
Tháng 5/1929, khi tới xem phim tại Philadelphia, hắn bị bắt vì tội mang
vũ khí theo người. Thời gian đầu, hắn bị giam tại nhà tù Holmesburg,
sau đó đến nhà trừng giới Eastern và hắn ở lại tại đó cho đến ngày
16/3/1930. Ralph, Jack Guzik và Frank Nitti, những người thân cận nhất
của Capone bị toà án đưa ra xử vì các tội làm ăn gian lận trong thời
gian này.
Khi Al Capone ở trong tù, Ralph, Guzik và Nitti điều hành việc kinh
doanh, điệp viên Ness được giao nhiệm vụ thu thập các bằng chứng vi phạm
pháp luật, trốn thuế và các hoạt động kinh doanh phi pháp của Al
Capone. Ralph cũng bị bắt vì bị buộc tội trốn thuế vào tháng 10 năm đó.
Để cảnh cáo các băng nhóm xã hội đen khác, cảnh sát đã bắt Ralph ngay
tại một trận đấu quyền Anh và giải hắn đi với chiếc còng số 8. Vụ bắt
giữ làm tăng thêm quyết tâm của Elmer Irey, người đã điều tra Ralph
trong nhiều năm trước đó.
Giữa tháng 3/1930, Al Capone được ra tù trước thời hạn một vài tháng vì
thái độ tốt. Một tuần sau, Frank J.Loesch, vị lãnh đạo của tổ chức
chống tội phạm của Chicago, đã đưa ra danh sách những kẻ thù của công
chúng, trong đó dẫn đầu là Al Capone, Ralph Capone, Frank Rio, Jack
McGurn, và Jack Guzick cùng với tất cả tay chân của Al. Danh sách này
được công bố trên nhiều tờ báo và nhanh
chóng được tổ chức FBI chọn làm danh sách những tên tội phạm bị truy nã
đặc biệt. Chính vì điều này đã khiến Al Capone không còn được coi trọng
trong mắt công chúng như trước. Việc này khiến hắn vô cùng giận dữ, cảm
thấy bẽ mặt vì bị giới công an làm nhục thông qua báo chí.
(Còn nữa)
Trâm Anh (theo TruTV)
Câu chuyện về trùm mafia khét tiếng Al Capone (kỳ 6): Đoạn cuối cuộc đời của một ông trùm
Thanh tra Elmer Irey tới
Chicago để gặp một điệp viên Arthur P. Madden để vạch ra chiến lược đưa
Al Capone vào tù theo lệnh của Tổng thống...
Thanh
tra Elmer Irey tới Chicago để gặp một điệp viên Arthur P. Madden để
vạch ra chiến lược đưa Al Capone vào tù theo lệnh của Tổng thống...
Cuốn sổ đen
Trước
khi quay trở lại Washington, Irey dành hai ngày để thăm dò khách sạn
Lexington, chứng kiến sự xa hoa và quyền lực của ông trùm Capone với tư
cách là một thương gia. Trong khi giả làm một thương gia để tới khách
sạn Lexington chứng kiến cuộc sống xa hoa của Al Capone, Elmer Irey đã
nảy ra một ý tưởng là cài điệp viên vào thế giới của Al Capone. Và ông
đã chọn Michael J. Malone, một điệp viên thông minh với tài diễn xuất và
một tinh thần thép… Malone có vẻ bề ngoài của người Địa Trung Hải và
giỏi tiếng Ý.
Malone,
dưới cái tên De Angelo, và một mật vụ khác là Graziano được cảnh sát
"khoác" lên lý lịch bất hảo của hai tên gangster. Họ phải làm việc một
cách cẩn trọng vì chân tay của Capone không thiếu gì người có khả năng
lần ra gốc tích của hai viên cảnh sát. Ngoài ra, tham gia trong vụ này
còn có Frank J. Wilson, 43 tuổi, làm trung gian đưa tin cho De Angelo và
Graziano với cảnh sát.
Mike
“De Angelo” đã tới khách sạn Lexingcon ăn chơi và dành phần lớn thời
gian để đọc báo tại quán bar của khách sạn. Sự chơi nổi này cuối cùng
cũng làm người của Al Capone chú ý. Sau đó vài ngày, Capone cho người
mời anh tới dự một bữa tiệc tối.
Nhờ
tài ứng phó thông minh và sự sắp xếp khéo léo, Graziano đã tiếp cận với
một trong những đàn em của Al Capone và biết được rằng có một cuốn sổ
ghi lại những hoạt động tài chính của Al Capone. Cuốn sổ này sẽ là bằng
chứng vô cùng tuyệt vời, đủ tư cách pháp lý để đưa ông trùm vào tù.
Cả
núi thông tin được ghi trong cuốn sổ, từ những năm đầu tiên ở khách sạn
Hawthorne, bao gồm cả các hoạt động tài chính của vụ buôn bán thuốc lậu
từ năm 1924 tới 1926. Việc mà Irey cần làm là hai người đã ghi chép
cuốn sổ này. Tuy nhiên, những chữ viết tay này không hề phù hợp với bất
kỳ tên đàn em nào của Al Capone. Trước nhiệm vụ khó khăn, Graziano đã
đánh cược cả mạng sống của mình nếu chẳng may bị nghi ngờ và phát giác.
Anh liều lĩnh hỏi các đàn em của Capone rằng có phải 2 người đó đã bị
chúng giam giữ hay không. Cuối cùng Graziano đã có được tên của hai
người này: Leslie Shumway và Fred Reis.
Al Capone khi bị bắt
Đầu
năm 1931, Irey tìm được một trong hai viên kế toán, Shumway, đang làm
việc tại trường đua ngựa Hialeah ở Miami. Frank Wilson tới Miami để thẩm
vấn Shumway và tìm ra người còn lại là Weiss. Wilson tìm cách đưa họ
trốn thoát khỏi thành phố chỉ vài phút trước khi những kẻ đâm thuê chém
mướn tìm tới chỗ họ đang ở. Cả hai người này đồng ý hợp tác với cảnh sát
và được lực lượng bố trí người bảo vệ nhân chứng một cách cực kỳ chặt
chẽ.
Trong
khi đó, Eliot Ness ngày càng thành công trong việc theo dấu và đóng cửa
các nhà chứa của Capone. Ông kiếm được rất nhiều bằng chứng về việc vi
phạm luật cấm nấu và bán rượu của Al.
Bị đưa ra tòa
Chiến
dịch của chính phủ chống lại Capone kết thúc vào mùa xuân năm 1931.
Luật pháp Mỹ quy định khi tìm được chứng cứ thì phải xét xử trong vòng 6
năm. Và vì thế các chứng cứ về vụ án của Al Capone được thu thập từ năm
1924 phải được đưa ra làm căn cứ xét xử xong trước ngày 15/3/1931. Ngày
13/3, Tòa đại hình liên bang họp về việc chính quyền Mỹ buộc tội Capone
trốn 32.488 USD tiền thuế trong năm 1924. Ngày 5/6, Tòa đại hình buộc
Capone 22 tội, chủ yếu là trốn thuế với số tiền lên tới 200.000 USD.
Nếu
bị kết án, Capone nhiều khả năng phải chịu 34 năm tù. Thấy rõ trước
tương lai không mấy sáng sủa của thân chủ, các luật sư của Capone đã gặp
và đề nghị một thỏa thuận với công tố viên Johnson: Capone sẽ nhận tội
để đổi lấy việc hắn được xử một mức án nhẹ. Johnson, trước đó đã thảo
luận việc này với Irey và Giám đốc mới của Kho bạc Mỹ là Ogden Mills,
chấp nhận đề nghị này và cho biết Capone sẽ phải chịu mức án 2-5 năm. Họ
chấp nhận đề nghị này là do lo sợ cho tính mạng của hai nhân chứng
Shumway và Reis và lo các thành viên Bồi thẩm đoàn sẽ nhận hối lộ nếu để
việc xét xử kéo dài.
Tuy
nhiên, việc thỏa thuận giữa đàn em của Al với chính quyền đã bị bại lộ,
khiến báo chí vô cùng tức giận và đả kích mạnh mẽ mức án quá nhẹ mà ông
trùm tội phạm sắp lĩnh. Ngày 16/6, Al Capone ra tòa với vẻ mặt tự mãn.
Tuy nhiên, Thẩm phán Wilkerson lại tuyên bố không chấp nhận Capone nhận
tội. Hắn phải rút lại lời thú tội của mình và chờ đến lúc bị đem ra xét
xử vào ngày 6/10 năm đó.
Bản
thỏa hiệp bị bác bỏ khiến Al tỏ rõ sự lo lắng nên trong thời gian đợi
phiên tòa xét xử vào ngày 6/10, Al đã ra sức rải tiền, hối lộ các thành
viên bồi thẩm đoàn. Thám tử Wilson và công tố viên Johnson tới gặp thẩm
phán Wilkerson với bằng chứng rằng Al Capone đã đưa hối lộ cho họ và nếu
có người không nhận, ông trùm đe dọa sẽ ra tay. Thẩm phán Wilkerson đã
trả lời: “Hãy mang bằng chứng của các ông tới tòa theo dự tính. Phần còn
lại để cho tôi lo”.
Ngày
6/10/1931, 14 thám tử áp giải Capone ra trước tòa. Thẩm phán Wilkerson
vào phòng xử và làm cả phòng xử án phải sững sờ khi tuyên bố: “Thẩm phán
Edwards đang phải điều hành một vụ xử án diễn ra ngày hôm nay. Hãy đưa
ban hội thẩm của tôi tới cho ông Edwards và đưa ban hội thẩm của ông ấy
sang chỗ tôi”. Người cảm thấy sốc nhất không ai khác chính là Al Capone
và luật sư Michael Ahern của hắn. Các thành viên trong ban bồi thẩm đoàn
mới này chưa bao giờ nằm trong danh sách được “chăm sóc” của ông trùm
Al Capone. Thẩm phán Wilkerson đã giữ kín mọi việc đến tận giây phút
chuận bị phiên tòa xét xử khiến tổ chức của Al không kịp trở tay. Kết
quả là Al nhận mức án 11 năm tù.
Ban
đầu, Al Capone bị giam giữ tại nhà tù liên bang ở Atlanta và nhanh
chóng thành một tù nhân nổi tiếng vì cuộc sống xa hoa ở trong tù. Những
ngày sống như một ông hoàng trong tù của hắn chấm dứt khi hắn bị chuyển
tới nhà tù trên đảo Alcaltraz vào tháng 8/1934.
Trong
tù, sức khoẻ của Al Capone ngày càng suy sụp. Bệnh hoa liễu của hắn
ngày càng trầm trọng. Vì cư xử tốt nên thời hạn tù của hắn đã được giảm
xuống còn 6 năm, 5 tháng và hắn được chuyển tới khu bệnh viện trên đảo
để chữa bệnh. Tháng 11/1939, khi mãn hạn tù, hắn được vợ là Mae đưa tới
bệnh viện tại Baltimore. Hắn nằm điều trị tại đây cho đến tháng 3/1940.
Trong suốt những năm còn lại của cuộc đời, Al sống với vợ trong lâu đài
lộng lẫy ở đảo Palm. Ngày 25/1/1947, Al Capone chết vì một cơn đau tim.
Trâm Anh – congly.com.vn
Nhận xét
Đăng nhận xét