Tây bắc ư?Có riêng gì Tây Bắc? Khi lòng ta đã hóa những con tàu Khi tổ quốc bốn bề lên tiếng hát Tâm hồn ta là Tây Bắc,chứ còn đâu.
Con tàu này lên Tây Bắc,anh đi chăng? Bạn bè đi xa,anh giữ trời Hà Nội Anh có nghe gió ngàn đang rú gọi Ngoài cửa ô?Tàu đói những vần trăng.
Đất nước mênh mông,đời anh nhỏ hẹp Tàu gọi anh đi,sao chửa ra đi? Chẳng có thơ đâu giữa lòng đóng khép Tâm hồn anh chờ gặp anh trên kia.
Trên Tây Bắc!Ôi mười năm Tây Bắc Xứ thiêng liêng rừng núi đã anh hùng Nơi máu rỏ tâm hồn ta thấm đất Nay rạt rào đã chín trái đầu xuân.
Ơi kháng chiến!Mười năm qua như ngọn lửa Nghìn năm sau,còn đủ sức soi đường, Con đã đi nhưng con cần vượt nữa Cho con về gặp lại mẹ yêu thương.
Con gặp lại nhân dân như nai về suối cũ Cỏ đón giêng hai,chim én gặp mùa, Như đứa trẻ thơ đói lòng gặp sữa Như chiếc nôi dừng bỗng gặp cánh tay đưa.
Con nhớ anh con,người anh du kích Chiếc áo nâu anh mặc đêm công đồn Chiếc áo nâu suốt một đời vá rách. Đêm cuối cùng anh cởi lại cho con.
Con nhớ em con,thằng em liên lạc Rừng thưa em băng,rừng rậm em chờ Sáng bản Na,chiều em qua bản Bắc Mười năm tròn!chưa mất một phong thư.
Con nhớ mế!lửa hồng soi tóc bạc Năm con đau,mế thức một mùa dài. Con với mế không phải hòn máu cắt Nhưng trọn đời con nhớ mế ơn nuôi.
Nhớ bản sương giăng,nhớ đèo mây phủ Nơi nào qua,lòng lại chẳng yêu thương? Khi ta ở,chỉ là nơi đất ở Khi ta đi,đất đã hóa tâm hồn!
Anh bỗng nhớ em như đông về nhớ rét Tình yêu ta như cánh kiến hoa vàng, Như xuân đến chim rừng lông trở biếc Tình yêu làm đất lạ hóa quê hương.
Anh nắm tay em cuối mùa chiến dịch Vắt xôi nuôi quân em giấu giữa rừng Đất Tây Bắc tháng ngày không có lịch Bữa xôi đầu còn tỏa nhớ mùi hương.
Đất nước gọi ta hay lòng ta gọi? Tình em đang mong,tình mẹ đang chờ, Tàu hãy vỗ giùm ta đôi cánh vội Mắt ta thèm mái ngói đỏ trăm ga.
Mắt ta nhớ mắt người,tai ta nhớ tiếng Mùa nhân dân giăng lúa chín rì rào Rẽ người mà đi,vịn tay mà đến Mặt đất nồng nhựa nóng của cần lao.
Nhựa nóng mười năm nhân dân máu đổ Tây Bắc ơi,người là mẹ của hồn thơ, Mười năm chiến tranh,vàng ta đau trong lửa Nay trở về,ta lấy lại vàng ta.
Lấy cả những cơn mơ!Ai bảo con tàu không mộng tưởng? Mỗi đêm khuya không uống một vầng trăng, Lòng ta cũng như tàu,ta cũng uống Mặt hồng em trong suối lớn mùa xuân.
Phân tích bài thơ Tiếng hát con tàu của Chế Lan Viên
Đề bài: Phân tích bài thơ Tiếng hát con tàu của Chế Lan Viên
Bài làm
Ở
miền Bắc vào những năm 1958 – 1960 có phong trào vận động nhân dân miền
xuôi – chủ yếu là thanh niên lên xây dựng kinh tế ở miền núi Tây Bắc.
Chính sự kiện kinh tế – xã hội này đã gợi cảm hứng giúp Chế Lan Viên
sáng tác bài Tiếng hát con tàu. Nhưng
không chỉ dừng lại ở đó, bài thơ là khúc hát thể hiện khát vọng trở về
với nhân dân, hoà nhập vào cuộc sống lớn của đất nước, của tình nghĩa
nhân dân vĩ đại. Đó cũng là tìm về với ngọn nguồn của hồn thơ.
Tiếng hát con tàu với hai khổ thơ mở đầu: Là sự trăn trở, lời giục giã mời gọi lên đường Tiếp đó, chín khổ thơ giữa là hồi tưởng về những kỉ niệm với nhân dân trong kháng chiến, thể hiện khát vọng về với nhân dân. Sau cùng, bốn khổ thơ cuối là khúc hát lên đường say mê náo nức. Để
hiểu được bài thơ này trước hết cần hiểu hai hình ảnh có ý nghĩa biểu
tượng trong suốt bài thơ. Đó là hình ảnh "con tàu" và hình ảnh "Tây
Bắc".
Phân tích bài thơ Tiếng hát con tàu của Chế Lan Viên
Thực
tế thì chưa hề có đường tàu và con tàu lên Tây Bắc. Con tàu ở bài thơ
là biểu tượng cho khát vọng lên đường với cuộc sống bao la, nhân dân vĩ
đại, đến với ước mơ cao đẹp, ngọn nguồn của cảm hứng nghệ thuật. Vì vậy
mà có những câu thơ: Khi lòng ta đã hoá những con tàu, Tàu đói những
vầng trăng, Tàu gọi anh đi, sao chửa ra đi, Chẳng có thơ đâu giữa lòng
đóng khép, Tâm hồn anh chờ gặp anh trên kia… Còn
hình ảnh "Tây Bắc" không chỉ là Tây Bắc mà đó còn là Tổ quốc bao la,
nơi có cuộc sống gian lao vất vả mà thắm đượm nghĩa tình với muôn vàn kỉ
niệm không thể nào quên. Lên Tây Bắc cũng có nghĩa là trở về với chính
lòng mình, tâm hồn mình với những tình cảm trong sáng, tình nghĩa sâu
nặng đối với nhân dân và đất nước! Vì vậy mà có những câu thơ: Khi tổ quốc bốn bề lên tiếng hát, Tâm hồn ta là Tây Bắc chứ còn đâu? Trên Tây Bắc! ôi mười năm Tây Bắc, Xứ thiêng liêng, rừng núi đã anh hùng. Nơi máu rỏ tâm hồn ta thấm đất, Tây Bắc ơi, người là mẹ của hồn thơ… Hiểu
được ý nghĩa hai hình ảnh biểu tượng cơ bản trên chúng ta sẽ hiểu được
ngay tên của bài thơ và các câu thơ đề từ, thấy được tính khái quát rộng
hơn, vượt lên các sự vật cụ thể cùa bốn câu thơ ấy. Ngay
sau lời đề từ đã là lời giục gĩa mời gọi lên đưòng với những câu hỏi
dồn dập lay gọi, hối thúc, khích lệ sự ra đi. Giọng hối hả, hăm hờ bộc
lộ ở những lời tự chất vấn đầy trăn trở của chính nhà thơ: – Con tàu này lên Tây Bắc anh đi chăng? – Anh có nghe gió ngàn đang rú gọi – Tàu gọi anh đi, sao chừa ra đi?… Ở
đây có sự phân thân của chủ thể trữ tình. Anh là người khác mà cũng là
chính mình. Nhà thơ tự vấn mà nghe như đang thuyết phục ai. Chính điều
này cộng với nhiều phép đối lập (bạn bè đi xa / anh giữ trời Hà Nội, Đất
nước mênh mông/ đời anh nhỏ hẹp, thơ/ lòng đóng khép…) đã thể hiện sinh
động ý tưởng tác giả, cuộc sống mới đang mời gọi, thôi thúc người nghệ
sĩ vượt ra khỏi cuộc đời nhỏ hẹp quẩn quanh. Tiếp đó là hồi tường những
kỉ niệm với nhân dân trong kháng chiến. Phần này, nhà thơ gợi lên được
những kỉ niệm thiêng liêng, đẹp đẽ trong những tháng ngày kháng chiến
gian khổ chống thực dân Pháp của mảnh đất Tây Bắc anh hùng.
Nói
về cuộc kháng chiến chống Pháp, lời thơ Chế Lan Viên chứa chan một ân
tình sâu nặng. Thời kháng chiến! Mười năm qua như ngọn lửa, Nghìn năm
sau, còn đủ sức soi đường". Điều này dễ hiểu. Bởi vì đối với nhà thơ và
các văn nghệ sĩ tiền chiến sau 1945 đi cùng cách mạng thì cuộc kháng
chiến chống Pháp có một ý nghĩa đặc biệt là đã đánh dấu sự chuyển biến
của cả cuộc đời lẫn con đường nghệ thuật của họ hoà nhập vào sự nghiệp
của nhân dân và cách mạng.
Lên
Tây Bắc là về lại với những kỉ niệm thiết tha máu thịt trong lòng minh,
đảnh thức dậy không chỉ những hồi tưởng quá khứ mà cả khát vọng trong
hiện tại với bao cảm hứng sáng tạo nghệ thuật. Lên với Tây Bắc là trở về
và hoà nhập với cuộc sống bao la của đất nước, của tình nghĩa nhân dân
vĩ đại. Nhằm thể hiện ý nghĩa sâu sắc, niềm hạnh phúc lớn lao của cuộc trở về đó, nhà thơ dùng đến năm hình ảnh so sảnh tiếp liền nhau: Con gặp lại nhân dân như nai về suối cũ Cò đón giêng hai, chim én gặp mùa Như đứa trẻ thơ đói lòng gặp sữa Chiếc nôi ngừng bỗng gặp cánh tay đưa Các
hình ảnh so sánh trên, hình ảnh nào cũng đơn sơ, gần gũi và gợi cảm
biết bao. Trong hồi tưởng của Chế Lan Viên, nhân dân đã thể hiện mối
quan hệ ruột thịt thân thiết, những người mà nhà thơ gọi là anh, là em,
là mế (mẹ). Đó là hình ảnh cụ thể của những con người: người anh du
kích, đứa em nhỏ liên lạc, bà mế già, cô em gái… Họ đều một lòng một dạ,
chiến đấu hi sinh trong cuộc kháng chiến chống Pháp vừa qua. Nhà thơ đã
khắc hoạ hinh ảnh những con người này gắn liền với những đóng góp thầm
lặng, lớn lao, với tình thương và sự chở che, đùm bọc trọn vẹn và rộng
lớn. Từ hình ảnh người anh du kích với chiếc áo nâu vá rách cởi lại cho
con đến hình ảnh thằng em liên lạc xông xáo rừng thưa băng, rừng rậm
chờ, từ bản Na qua bản Bắc mười năm ròng rã luôn hoàn thành xuất sắc
nhiệm vụ của mình. Cảm động biêt mấy là cảnh bà mế già đêm đêm cời bếp
lửa hồng ân cần chăm sóc đứa con chiến sĩ suốt một mùa dài!. Con
nhớ mế! Lửa hồng soi tóc bạc Năm con đau, mế thức một mùa dài Con với
mế không phải hòn máu cắt Nhưng trọn đời con nhớ mãi ơn nuôi. Đang
là hình ảnh xây dựng theo lối tả thực cụ thể nhưng đặc biệt điển hình
là cô em gái nuôi quân, Chế Lan Viên bỗng có những liên tưởng bất ngờ về
vẻ đẹp: Anh bỗng nhớ em như đông về nhớ rét Tình yêu ta như cánh kiến hoa vàng Như xuân đến chim rừng lông trở biếc Nỗi
hoài tưởng Tây Bắc với những kỉ niệm đượm thắm nghĩa tình vừa nói ,nhà
thơ dẫn tới những suy ngẫm sâu sắc có tính khái quát cao:
Khi ta ở chỉ là nơi đất ở Khi ta đi, đấtt đã hóa tâm hồn Tình yêu làm đất lạ hóa quê hương. Đến
đây âm hưởng bài thơ càng trở nên sôi nổi và lôi cuốn. Tiếng thôi thúc
của Tây Bắc, của đất nước, của nhân dân và của đời sống cũng la tiếng
của lòng người, lòng nhà thơ tha thiet mời gọi: Đất nước gọi ta hay
lòng ta goi? Lên
với Tây Bắc đã là niềm khát khao cháy bỏng. Mau hãy lên đường để đến
với những tình cảm ruột rà thân thiết "Tình em đang mong, tình mẹ đang
chờ". Lên với Tây Bắc để thấy sự xây dựng mới "Tàu hãy vỗ giùm ta đôi
cánh vội, Mắt ta thèm mái ngói đỏ trăm ga" và để tìm lấy nguồn cảm hứng
đầy mộng tưởng nên thơ : Mười năm chiến tranh vàng ta đau trong lửa Nay ta về, ta láy lai vàng ta Lấy cả những cơn mơ? Ai bao con tau không mộng tưởng? Mỗi đêm khuya không uống một vầng trăng Lòng ta cũng như tàu, ta cũng uống Mặt hồng em trong suối lớn mùa xuân. Một
đặc điểm nổi bật của thơ Chế Lan Viên thể hiện ngay trong bài Tiếng Hát
con tàu đã là sự kết hợp một xúc cách hài hòa giữa chất trí tuệ và chữ
tình, giữa cảm xúc suy tưởng chân thành và trí tuệ sâu sắc sự trải nhiệm
và những khái quát cao. Nhờ
vào thủ pháp sử dụng những câu nghi vấn có hơi hướng thúc dục, nhắc nhở
và những câu khẳng định, có dấu chấm than nhằm diễn đạt ý tưởng cảm
xúc, những hình ảnh chọn lọc, những suy tư khái quát đặc sắc, những cảm
xúc chân thành tha thiết. bài thơ Tiếng hát con tàu trở thành bài thơ
tiêu biểu của Chế Lan Viên.
Cuộc kháng chiến chống Pháp đi qua để lại những dâu ấn không thể phai mờ trong tâm hồn dân tộc.
Yêu cầu làm bài
1. Cần phải lưu ý, Quang Dũng - tác giả bài thơ - cũng như không
ít chia đoàn Tây Tiến vốn là học sinh, sinh viên Hà Nội để có cơ sở góp
phần giải thích cảm hứng bi tráng và tinh thần lãng mạn độc đáo của bài
thơ này, so với một số bài thơ cùng viết về người lính trong cuộc kháng
chiến chống Pháp.
2. Tây Tiến là sự hồi tưởng của Quang Dũng về đoàn quân Tây Tiến,
về con người và thiên nhiên Tây Bắc ở một thời kì gian khổ mà oai hùng.
Tất cả đều được thể hiện qua một hồn thơ lãng mạn. nặng tình với quê
hương, đất nước bằng bút pháp tài hoa, độc đáo.
- Đoạn một: Thông
qua cách sử dụng một loại địa danh, gợi cảm giác xa xôi, hoang dã, cách
dùng từ bạo khoẻ, cách phối âm để tạo giọng điệu lạ…. Quang Dũng vừa
khắc hoạ được sinh động cảnh núi rừng hiểm trở vừa diễn tả được nỗi vất
vả, chất tinh nghịch của người lính.
- Đoạn hai: Miêu
tả con người và cảnh vật Tây Bắc. Con người e ấp, tình tứ; thiên nhiên
thơ mộng, tươi mát (khác xa sự hiểm trở, dữ dội ở đoạn đầu). Đây chính
là vẻ đẹp của phương xa, xứ lạ có sức lôi cuốn mạnh mẽ những người lính
xuất thân từ học sinh, sinh viên.
- Đoạn ba: Tập
trung khắc hoạ người lính bằng bút pháp lãng mạn. Họ có diện mạo khác
thường, oai phong dữ dội, có chất anh hùng của tráng sĩ thời xưa và có
một tâm hồn rất lãng mạn. ở đây, hình ảnh người Lính còn thể hiện rõ
chất bi tráng của bải thơ.
- Bốn dòng cuối cùng của bài thơ có thể coi là lời thề quyết chiến đấu cùng vì lí tưởng của người lính Tây Tiến.
3. Đây là bài thơ
có nghệ thuật đặc sắc: nét bút tả người, tả cảnh gây tượng mạnh, lúc thỉ
gân guốc, bạo khoẻ, khi thì mềm mại, tình tứ, thủ pháp đối lập được sử
dụng linh hoạt và mang lại hiệu quả đáng kể; giọng thơ khi thì thiết
tha, khi thì hào hùng; ngôn ngữ sắc sảo, từ Hán Việt được dùng rất nghệ
thuật.
BÀI LÀM
Cuộc kháng chiến
chống Pháp đi qua để lại những dâu ấn không thể phai mờ trong tâm hồn
dân tộc. Đó là điểm hội tụ của muôn triệu tấm lòng yêu nước môi trường
thử thách tinh thần chiến đấu ngoan cường, bất khuất của nhân dân ta.
Cuộc kháng chiến còn làm nảy sinh biết bao hình ảnh đẹp mà đẹp nhất là
hình ảnh người lính.
Bên cạnh những bài
thơ nổi tiếng một thời như Đồng chí của Chính Hữu, Nhớ của Hồng
Nguyên..., Tây Tiến của Quang Dũng là một thi phẩm đặc sắc Đoàn quân Tây
Tiến quy tụ một lực lượng đông đảo đủ mọi tầng lớp thanh niên từ khắp
phố phường Hà Nội. Có nhiều thanh niên học sinh thuộc tầng lớp trí thức
tiểu tư sản vừa rời trang sách nhà trường để tham gia vào cuộc chiến đấu
của dân tộc. Tất cả những con người ấy ra đi với lí tưởng chung của dân
tộc chiến đâu bảo vệ độc lập, tự do của Tổ quốc. Họ ra đi không hẹn
ngày trở về chiến đấu với mục đích “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh” Cái
ảnh thần ấy là hào khí của cả một thế hệ, đã từng được phản ánh trong
một bài hát thời đó:
Đoàn Vệ quốc quân một lần ra đi,
Nào có sá chi đâu ngày trở về.
Trong đoàn người
nô nức lên đường đi chiến đấu, trong hàng ngũ những thanh niên trí thức
ngày hôm qua có khi là những tự vệ chiến đấu trên phố phường, chiến lũy
Hà Nội, mà hôm nay đã có mặt trong đoàn quân Tây Tiến, thấp hoáng xuất
hiện một khuôn mặt: Quang Dũng, tác giả của bài thơ. Như bao thanh niên
trí thức của Hà Nội ngày ấy, Quang Dũng cũng háo hức gia nhập đoàn quân
Tây Tiến với một niềm say mê của tuổi trẻ và một chút lãng mạn của những
người thanh niên “nho sĩ quỵ tộc” ảnh hưởng trong Chinh phụ ngâm:
Giã nhà đeo bức
chiến bào hay Gieo Thái Sơn nhẹ tựa hồng mao. Cũng chính vì thế mà những
thanh niên như Quang Dũng sẵn sàng chấp nhận mọi gian khổ, hi sinh để
chiến đấu đến ngày thắng lợi cuối cùng. Vào Tây Tiến, Quang Dũng cùng
sống và chiến đấu một thời gian với đơn vị này và sau đó chuyển sang đơn
vị khác. Một ngày ngồi ở Phù Lưu Chanh, Quang Dũng nhớ về những người
đồng đội, nhớ về những tháng ngày chiến đâu gian nan nhưng hào hùng, nhớ
đơn vị cũ, nhớ những con đường hành quân mà ông cùng đơn vị từng đi
qua. Nỗi nhớ ấy dần lớn lên trong Quang Dũng, bật ra thành hai câu thơ:
Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi.
Cuộc sống chiến
đấu của Tây Tiến cùng những nơi mà đơn vị đã đi qua hẳn là những kỉ niệm
hết sức sâu đậm trong tâm hồn nhà thơ. Hẳn một phần quãng đời Quang
Dũng gắn bó với Tây Tiến là cuộc sống hoạt động trong vùng rừng núi. Bởi
thế, nhà thơ nhớ về Tây Tiến là nhớ ngay về sông Mã, nhớ về rừng núi
với bao kỉ niệm vui buồn, ấn tượng về một miền rừng núi khắc nghiệt đã
để lại trong tâm hồn nhà thơ dấu ẩn chẳng phai mờ. Vì thế, Quang Dũng
nhớ về những tháng ngày đã qua với một tình cảm yêu thương lắm nhưng
chẳng biết gọi lên chính xác nỗi nhớ ây. Nhớ chơi vơi! hai liếng chơi
vơi dùng ở đây thật là đắc địa. diễn tả một nỗi nhớ không có hình, không
có lượng nhưng hình như rất nặng và mênh mang đầy ắp. Cái tâm trạng nhớ
ấy ta đã bắt gặp không chỉ một lần trong ca dao: Ra về nhớ bạn chơi
vơi, hoặc:
Nhớ ai bổi hổi bồi hồi,
Như đứng đống lửa, như ngồi đống than.
Quang Dũng lấy nỗi
nhớ trong ca dao để tượng trứng thêm cho nỗi nhớ chơi vơi của mình,
thật là chi tiết đắt giá! Ngay từ đầu bài thơ, ông đã miêu tả vùng rừng
núi ấy thiết tha như thế làm cho người đọc chú ý ngay. Nhớ Tây Tiến, nhớ
về sông Mã và núi rừng trùng điệp, nhớ con đường hành quân:
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi.
Con đường hành
quân điệp trùng với bao cái khắc nghiệt, dữ dội của mỗi vùng rừng biên
ải. Đọc đoạn thơ, chưa cẩn suy ngẫm nội dung bên trong, chúng ta đã có
thể hình dung ra con đường mà Quang Dũng miêu tả. Kết câu đoan thơ cứ
thanh bằng thanh trắc đan chéo nhau, trải dài ra miên man, vô tận như
con đường xa thẳm khấp khểnh. Nhạc điệu êm ả, triền miên. Đoàn quân Tây
Tiến đi trong lớp sương dày của núi rừng, tất cả lung linh trong lớp
sương khói mờ ảo, như thực, như mộng. Thế nhưng, mỗi địa danh đều gợi
lên trong người đọc về hình ảnh của một xứ lạ, phương xa; nếu ta chỉ thử
thay Sài Khao bằng một tên gọi khác là lớp sương huyền ảo ấy lan biến
ngay. Đoàn quân Tây Tiến cất bước , trên con đường xa vạn dặm, với cái
trắc trở, gập ghềnh của con đường. Đã dốc lên khúc khuỷu mà còn dốc thăm
thẳm, đã ngàn thước lên cao rồi lại ngàn thước xuống thì đúng là đến độ
cao chất ngất, ngoằn ngoèo khó đi. Tất cả những đặc điểm ấy diễn tả nổi
khó khăn của đoàn quân Tây Tiến khi hành quân. Nó ghi lại ấn tượng về
một miền rừng núi thật là dữ dội và khắc nghiệt Quang Dũng có những cách
dùng từ rất tinh tế mà cũng hết sức tinh nghịch: núi cao chạm mây nổi
thành cồn heo hút, và để diễn tả chiều cao của núi thì chỉ ba chữ súng
ngửi trời nghe thật ngộ nghĩnh. Phải chăng đó là cách gọi của lính mà
Quang Dũng ghi lại với tư cách một người trong cuộc? Dù sao, qua những
từ ngữ, chi tiết và cách kết hợp thanh điệu của đoạn thơ cũng đã vẽ lên
trước mát ta hình ảnh một miền rừng núi mà đoàn quân Tây Tiến đã từng đi
qua. Có những câu thơ dùng toàn vần bằng rất hay:
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi
Sau khi ngàn thước
lên cao, ngàn thước xuống người chiến sĩ Tây Tiến như đứng trên nùi
cao mà nhìn xuống thung lũng phủ kín trong màn mưa. Những ngôi nhà như
đang trôi bồng bềnh trong làn mưa trắng. Thanh bằng của từng chữ trải
ra, mênh mang, diễn tả cái màn mưa phủ giăng thung lũng. Rừng núi trùng,
ấn tượng về miền rừng núi cũng thật là khắc nghiệt và dữ dội:
Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người.
Chỉ hai câu thơ
thôi mà gieo vào lòng ta tất cả những sự khắc nghiệt của miền rừng núi
này - một miền núi rừng âm u với thú dữ đe doạ con người. Hai chữ Mường
Hịch đi với nhau nghe nặng như chân cọp. Có một điều kì lạ là nếu ta
thay địa danh này bằng hai chữ khác như Châu Thuận chẳng hạn, thì hiệu
lực câu thơ sẽ giảm sút ngay. Qua sự miêu tả của Quang Dũng, một vùng
núi rừng biên ải hiện lên với tất cả sự khắc nghiệt, dữ dội của thiên
nhiên. Đó là những khó khăn mà người chiến sĩ Tây Tiến phải vượt qua
trên con đường hành quân. Cái trắc trở, gian lao cùa con đường Tây Tiến
chợt làm chúng ta nhớ đến câu thơ của Lí Bạch:
Thục đạo chi nan, nan ư thướng thanh thiên.
(Đường xứ Thục khó đi, khó hơn lên tận trời xanh).
Đó là tất cả những gian khổ, nguy hiểm do thiên nhiên đem đến mà người chiến sĩ Tây Tiến phải chịu đựng.
Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ, bỏ quên đời!
Quang Dũng nói cái
thực trên con đường Tây Tiến. Bao người chiến sĩ đã nằm lại trên con
đường hành quân. Có một điều lạ làm toả sáng cả ý thơ là người lính Tây
Tiến đến lúc gục xuống vẫn cố gắng trong tư thế của người lính, chết rồi
nhưng súng mũ vẫn còn đó, hành trang của người chiến sĩ vẫn còn trong
tư thế tiếp tục cuộc hành trình. Bao cảnh gian khổ khó khăn, khắc nghiệt
dữ dội của con đường hành quân, của thiên nhiến xứ lạ đã thử thách
người chiến sĩ Tây Tiến một cách ghê gớm. Có những người lính đã vượt
qua được, và cũng không ít những người phải nằm lại phía sau. Người lính
dãi dầu qua mưa nắng, đi từ khó khăn này đến gian khổ khác, chịu hết
thử thách này đến thử thách thác mà dường như vẫn chẳng nể hà; đến khi
kiệt sức phải gục xuống thì cũng cố gắng gục xuống trong tư thế của
người chiến sĩ.
Cho dù Quang Dũng
có nói sự thực về một vùng rừng núi che lấp con người, nhưng chính những
phẩm chất cao đẹp của người chiến sĩ đã đưa họ bay lên, vượt lên trên
cái gian khổ và thiếu thốn. Quang Dũng là một người trong cuộc, rừng là
chiến sĩ Tây Tiến, chính vì vậy mà nhà thơ viết về cuộc sống gian khổ
của người chiến sĩ Tây Tiến một cách hết sức cảm động. Cái khắc nghiệt,
khổ và dữ dội của một miền biên ải, những gian truân mà người chiến sĩ
Tiến phải chịu đựng và những ấn tượng không thể nào quên. Quang Dũng về
người lính Tây Tiến không như những nhà thơ khác; ông nói thật về sự
khổ, hi sinh của người lính một thời. Thế nhưng, hình ảnh anh bộ đội Tây
Tiến không vì thế mà trở nên uỷ mị, ngược lại càng thêm cao đẹp hơn.
Miêu tả nét chiến sĩ với cái bi, nhưng là “bi tráng”. Nói cái gian khổ
để đề cao chiến thắng nói hi sinh để nâng hình ảnh người lính lên một
tầm cao thời đại cũng là một cách “vẽ mây nảy trăng” trong hội hoạ vậy.
Bởi chiến thắng có giá trị gì khi chiến thắng dễ dàng, không có hi sinh?
Và hình ảnh người lính sẽ không thật cao đẹp nếu họ không trải qua
những thử thách gian truân của cuộc sống chiến đấu khắc nghiệt.
Lao xao sóng vỗ ngọn tùng
Gian nan là nợ anh hùng phải vay.
Đó là một lời đúc kết kinh nghiệm
về giá trị cùa chiến thắng, giá trị cả phẩm chất con người. Giữa bao cái
gian khổ, khắc nghiệt đã thành ấn tượng niềm vui, dù ít ỏi, càng đáng
nhớ hơn:
Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói ....
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa.
Dường như để trả trạng thái tâm hồn chúng ta về
thế cân bằng sau khi chùng xuống trước cuộc sống chiến đấu cùa người
chiến sĩ Tây Tiến, Quang Dũng hồi tưởng lại nhiều hình ảnh vui, ấm áp.
Khói bếp, mùi thơm cơm nếp gợi cái ấm cúng của cuộc sống thanh bình,
hạnh phúc. Sức nóng của nó đủ làm tâm hổn dần ấm lại sau những phút giây
chứng kiến những gian khổ của người lính, đuốc hoa là hình ảnh có sức
khơi gợi, gợi cho ta cái cảm giác tươi vui như đang chứng kiến lễ hội
đông vui. Hai liếng kìa em vừa ngỡ ngàng, vừa sung sưc nó diễn cả tâm
hồn của người chiến sĩ Tây Tiến. Trong cả đoạn thơ dìu dặt thành tiếng
nhạc, tiếng khèn, phảng phất hình ảnh vui tươi của cuộc sống ) bình như
chẳng biết đến chiến ưanh. Hình ảnh nhạc về Viên Chăn xây hồn là hình
ảnh đẹp, thơ mộng, diễn tả tâm hồn phong phú của người lính Tây Tiến .
Họ tổ chức hội vui, sau bao thử thách khắc nghiệt của núi rừng dữ dội.
Và mặc dù biết rằng sẽ còn liếp tục chịu đựng những gian truân, hi sinh,
người lính Tây Tiến vẫn múa hát, đùa vui, vẫn lạc quan yêu đời. Có thể
chỉ ngày hôm sau một người nào đó trong số họ phải nằm lại nơi núi rừng u
tịch, nhưng hôm nay làm hồn họ vẫn mộng mơ, mơ đến những hình ảnh đẹp
của thi và hoạ, xây hồn thơ. Và như vậy, họ sẵn sàng đón nhận mọi thử
thách tiếp theo, coi đó như một việc bình thường mà đời lính phải chấp
nhận. Không lên gân, không khiên cưỡng, mọi gian khổ hi sinh đối với
người lính là chuyện binh thường và tất yếu, vì vậy mà họ vẫn lạc quan,
vẫn yêu đời, vẫn sống với lâm hồn trẻ trung, tươi mát. Cũng vậy mà người
lính Tây Tiến có thể vẫn nhớ một dáng thuyền độc mộc, hoặc một bông hoa
trên dòng nước lũ. Những hình ảnh rất binh thường ấy, ngỡ rằng sau bao
sự thử thách về tinh thần, người lính sẽ quên đi. Nhưng không, họ vẫn
nhớ. Những hình ảnh ấy in sâu vàu tâm hồn ngựời lính Tây Tiến, là nguồn
động viên thúc giục họ chiến đấu, dù tiếp tục đón nhận những thử thách
mới:
Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm. li ''àn quân
không mọc tóc! Có cách nói nào lại khơi dậy nhiều cảm xúc đến thế! Như
vậy thì hình ảnh của anh bộ đội Tây Tiến có trở nên quái đản không?
Không đâu! Đó chính là hình ảnh oai hùng của anh “Vệ trọc” nổi tiếng một
thời rét nên tóc rụng vả lại, cái cách nói đoàn quân không mọc tóc ấy
phần nào cũng dựng nên hình ảnh người tráng sĩ với dáng dấp thật hùng
dũng và hiên Quân không mọc tóc, quân lại xanh màu lá, màu xanh ấy có
thể do cành lá trang, nhưng chủ yếu là do sốt rét rừng. Những cơn sốt
rét ghê gớm đã để lại ấn tượng sâu sắc cho người chiến sĩ. Ta cảm động
trước hình ảnh người sĩ Tây Tiến, và chợi nhớ đến hình ảnh người chiến
sĩ trong một số bài thơ đương thời:
Khuôn mặt đã lên màu bệnh tật,
Đâu còn tươi nữa những ngày qua.
Người lính Tây Tiến cũng chịu đựng những cơn
sốt rét ghê gớm ấy, thế nhưng, nó không làm nhụt đi ý chí của người
chiến sĩ mà ngược lại họ càng chiến đấu dũng cảm hơn, kiên cường hơn,
quân xanh màu lá nhưng vẫn dữ oai Cái khí phách hào hùng của người chiến
sĩ Tây Tiến được ghi lại bằng sự so sánh cân bằng. Nếu ở khổ thơ trên,
người lính chịu sự đe doạ của cọp thì họ cũng chiến đấu với tinh thần
dũng cảm của một chúa sơn lâm như thế. Câu thơ sau nâng đỡ câu thơ trước
vút bay lên như ánh hào quang của phẩm chất người lính Tây Tiến. Miêu
tả khí thế chiến đấu hào hùng của người chiến thắng một sự so sánh như
thế, Quang Dũng thực sự đã hiểu người lính và đã hòa đồng với họ. Chiến
đâu dũng mãnh như thế, nhưng người lính Tây Tiến vẫn có đời sống tâm Hà
Nội hết sức tinh tế:
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm.
Người chiến sĩ ra đi từ những mái
trường, chiến đấu nhưng vẫn không quên hậu phương. Phía trước là trận
đánh, tình cảm thể hiện qua giấc mộng, có thực, có mơ. Dáng kiều thơm
gợi nên cái dáng vẻ yêu kiều của người con gái Thủ đô chữ thơm được dùng
với nghĩa như “sắc nước hương trời” vậy! Người chiến sĩ của Quang Dũng
ra đi, mang theo cả phong thái hào hoa của người thanh niên trí thức,
cái phong thái đã giúp người chiến sĩ sống bằng đời sống tâm ít phong
phú sau mỗi trận đánh ác liệt.
Cái cuộc sống tâm hồn ây là nguồn động lực giúp người lính tiếp tục
chiến đâu để giành lây độc lập, tự do cho Tổ quốc thân thương. Và cũng
vì thế, người chiến sĩ chấp nhận sự hi sinh:
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc ười xanh.
Cứ thử làm công việc tách hai câu thơ thành từng câu một. Ôi! Cái ấn
tượng bi thảm đên vô cùng mà câu thơ đầu mang đến thật mạnh mẽ. Không
hiểusao, cứ mỗi lần đọc đên câu thơ này là tôi lại chìm vào trong suy
tưởng và nước mắt cứ rưng rưng! Trên con đường gập ghềnh xa thẳm của
miền núi rừng biên giới đoàn quân Tây Tiến cứ đi và thỉnh thoảng có
những con người phải tách ra khỏi đội hình. Những nấm mộ của người chiến
sĩ mọc lên. Câu thơ thật là bi thảm. Nhưng câu thơ sau như một lực nâng
vô hình, đã đưa câu thơ đầu lên cao, cái thảm giờ đây đã trở thành bi
tráng. Nó bi tráng và hào hùng bởi Quang Dũng nói được một điều cốt lõi
trong nhân cách của người lính: biết hi sinh, biết gian khổ nhưng vẫn cứ
ra đi giải phóng quê nhà. Họ ra đi chẳng tiếc đời xanh, bởi quãng đời
tươi đẹp ấy đã hiến dâng cho một lí tưỏng cao đẹp: chiến đấu vì tổ quốc.
Họ ra đi và ngã xuống thanh thản không một chút vướng bận, cái chết
được xem nhẹ lựa lông hồng:
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành.
Cách dùng từ áo bào của Quang Dũng làm cho câu thơ trở nên cổ kính, áo
bào chứ không phải chiến bào; người chiến sĩ như những danh tướng thời
xưa da ngựa bọc thây là một điều vinh quang. Cũng như thế, người lính
coi việc hi sinh trên chiến trường là một nghĩa vụ thiêng liêng. Người
chiến sĩ Tây Tiến ngã xuống và thanh thản về đất. Đất sinh ra anh và lại
đón nhận anh về sau khi làm tròn nghĩa vụ. Anh về đất như một hành động
tựu nghĩa của những anh hùng. Mở đầu bài thơ là hình ảnh sông Mã, kết
thúc bài thơ vẫn là tiếng gầm thét của dòng sông này. Dòng sông tiễn anh
ra đi chiến đấu lại đón anh về:
Tây Tiến người đi không hẹn ước
Đường lên thăm thẳm một chia phôi
Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi.
Quang Dũng khẳng định lại một lần nữa cái ý chí nhất khứ bất phục phản
ra đi là không trở lại). Đó cũng là ý chí quyết tâm của cả một thế hệ,
của một thời đại.
Những gian khổ, hi sinh của cuộc kháng chiến là những kỉ niệm không
thể quên. Sẽ không bao giờ còn có lại thời kì gian khổ đến mức ấy và
cũng hào hung đến mức ấy. Và cũng khó có thể có được bài thơ Tây Tiến
thứ hai.
Em ơi! Buồn làm chi Anh đưa em về sông Đuống Ngày xưa cát trắng phẳng lỳ Sông Đuống trôi đi Một dòng lấp lánh Nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kỳ
Xanh xanh bãi mía bờ dâu Ngô khoai biêng biếc Đứng bên này sông sao nhớ tiếc Sao xót xa như rụng bàn tay
Bên kia sông Đuống Quê hương ta lúa nếp thơm đồng Tranh Đông Hồ gà lợn nét tươi trong Màu dân tộc sáng bừng trên giấy điệp Quê hương ta từ ngày khủng khiếp Giặc kéo lên ngùn ngụt lửa hung tàn
Ruộng ta khô Nhà ta cháy Chó ngộ một đàn Lưỡi dài lê sắc máu
Kiệt cùng ngõ thẳm bờ hoang Mẹ con đàn lợn âm dương Chia lìa đôi ngả Đám cưới chuột tưng bừng rộn rã Bây giờ tan tác về đâu ?
Ai về bên kia sông Đuống Cho ta gửi tấm the đen Mấy trăm năm thấp thoáng mộng bình yên Những hội hè đình đám Trên núi Thiên Thai Trong chùa Bút Tháp Giữa huyện Lang Tài Gửi về may áo cho ai Chuông chùa văng vẳng nay người ở đâu Những nàng môi cắn chỉ quết trầu Những cụ già phơ phơ tóc trắng Những em xột xoạt quần nâu Bây giờ đi đâu ? Về đâu ?
Ai về bên kia sông Đuống Có nhớ từng khuôn mặt búp sen Những cô hàng xén răng đen Cười như mùa thu tỏa nắng Chợ Hồ, chợ Sủi người đua chen Bãi Tràm chỉ người dăng tơ nghẽn lối Những nàng dệt sợi Đi bán lụa mầu Những người thợ nhuộm Đồng Tỉnh, Huê Cầu Bây giờ đi đâu ? Về đâu ?
Bên kia sông Đuống Mẹ già nua còm cõi gánh hàng rong Dăm miếng cau khô Mấy lọ phẩm hồng Vài thếp giấy dầm hoen sương sớm Chợt lũ quỷ mắt xanh trừng trợn Khua giầy đinh đạp gẫy quán gầy teo Xì xồ cướp bóc Tan phiên chợ nghèo Lá đa lác đác trước lều Vài ba vết máu loang chiều mùa đông
Chưa bán được một đồng Mẹ già lại quẩy gánh hàng rong Bước cao thấp trên bờ tre hun hút Có con cò trắng bay vùn vụt Lướt ngang dòng sông Đuống về đâu ? Mẹ ta lòng đói dạ sầu Đường trơn mưa lạnh mái đầu bạc phơ
Bên kia sông Đuống Ta có đàn con thơ Ngày tranh nhau một bát cháo ngô Đêm líu díu chui gầm giường tránh đạn Lấy mẹt quây tròn Tưởng làm tổ ấm Trong giấc thơ ngây tiếng súng dồn tựa sấm Ú ớ cơn mê Thon thót giật mình Bóng giặc dày vò những nét môi xinh
Đã có đất này chép tội Chúng ta không biết nguôi hờn
Đêm buông xuống dòng sông Đuống -- Con là ai ? -- Con ở đâu về ?
Hé một cánh liếp -- Con vào đây bốn phía tường che Lửa đèn leo lét soi tình mẹ Khuôn mặt bừng lên như dựng giăng Ngậm ngùi tóc trắng đang thầm kể Những chuyện muôn đời không nói năng Đêm đi sâu quá lòng sông Đuống Bộ đội bên sông đã trở về Con bắt đầu xuất kích Trại giặc bắt đầu run trong sương Dao loé giữa chợ Gậy lùa cuối thôn Lúa chín vàng hoe giặc mất hồn Ăn không ngon Ngủ không yên Đứng không vững Chúng mày phát điên Quay cuồng như xéo trên đống lửa Mà cánh đồng ta còn chan chứa Bao nhiêu nắng đẹp mùa xuân Gió đưa tiếng hát về gần Thợ cấy đánh giặc dân quân cày bừa Tiếng bà ru cháu buổi trưa Chang chang nắng hạ võng đưa rầu rầu "À ơi... cha con chết trận từ lâu Con càng khôn lớn càng sâu mối thù" Tiếng em cắt cỏ hôm xưa Hiu hiu gió rét mịt mù mưa bay "Thân ta hoen ố vì mày Hờn ta cùng với đất này dài lâu..."
Em ơi! Đừng hát nữa! Lòng anh đau Mẹ ơi! Đừng khóc nữa! Dạ con sầu Cánh đồng im phăng phắc Để con đi giết giặc Lấy máu nó rửa thù này Lấy súng nó cầm chắc tay Mỗi đêm một lần mở hội Trong lòng con chim múa hoa cười Vì nắng sắp lên rồi Chân trời đã tỏ Sông Đuống cuồn cuộn trôi Để nó cuốn phăng ra bể Bao nhiêu đồn giặc tơi bời Bao nhiêu nước mắt Bao nhiêu mồ hôi Bao nhiêu bóng tối Bao nhiêu nỗi đời
Bao giờ về bên kia sông Đuống Anh lại tìm em Em mặc yếm thắm Em thắt lụa hồng Em đi trảy hội non sông Cười mê ánh sáng muôn lòng xuân xanh.
-- Việt Bắc, tháng 4, 1948
Bên kia sông đuống qua giọng đọc của chính thi sĩ Hoàng Cầm
Nhà thơ HOÀNG CẦM Tranh sơn dầu của Đinh Quang Tỉnh (2001)
Có
nhiều tên gọi Hoàng Cầm nơi đất Việt quê ta như: Vị thuốc Đông y Hoàng
cầm (Radix Scutellariae), Thượng tướng Hoàng Cầm, sinh năm 1920. Và
Hoàng Cầm tên một anh nuôi của Quân đội Nhân dân Việt Nam trong trận
Điện Biên Phủ, người đã phát minh ra một loại bếp “Quân dụng không khói” được mang tên ông: “Bếp Hoàng Cầm”. Tuy vậy, hằn in trong tâm tưởng
chúng ta lại là một Hoàng Cầm Thi sĩ, Hoàng Cầm của Lá Diêu Bông, của
“Nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kỳ…” Ông sinh năm 1922 và qua
đời năm 2010.
Tang
lễ nhà thơ HOÀNG CẦM được tổ chức với nghi thức cao nhất của Hội Nhà
Văn Việt Nam. Lễ viếng và lễ truy điệu nhà thơ HOÀNG CẦM từ 13h đến 15h,
thứ ba, ngày 11 tháng 5 năm 2010, tại Nhà tang lễ Bộ Quốc phòng - Số 5 Trần Thánh Tông - Hà Nội
LỜI BÌNH BÀI THƠ “BÊN KIA SÔNG ĐUỐNG”
Bài thơ "Bên kia sông Đuống" của Hoàng Cầm xứng đáng là một kiệt tác của thi ca Việt Nam hiện đại.
Một đêm tháng 4/1948, tại Việt Bắc, được trực tiếp nghe tin giặc đánh phá quê hương mình, Hoàng Cầm xúc động và ngay đêm ấy viết bài thơ “Bên kia sông Đuống”, một trong những bài thơ hay nhất của ông.
Bài thơ thể hiện tình yêu mến, thương
nhớ và tự hào đối với quê hương kinh Bắc; căm giận quân xâm lược đang
giày xéo quê hương; niềm tin vào một ngày mai giải phóng, quê hương trở
lại thanh bình.
Những tình cảm đẹp về quê hương và những câu thơ hay đáng nhớ
1. Hai câu thơ mở đầu với tiếng “em” thần tình. Không xác định. Có thể là người thương trong nỗi nhớ đồng vọng. Có thể là một nhân vật trữ tình xuất hiện mơ
hồ trong tâm tưởng thi nhân? Cũng có thể là sự phân thân của tác giả?
“Em” xuất hiện, gợi nhớ gợi thương, để vỗ về an ủi và chia xẻ nỗi đau
buồn, thương nhớ. Cũng là để thi sĩ khơi nguồn cảm xúc đang dào dạt
trong lòng. Ý vị đậm đà chất thơ của bài “Bên kia sông Đuống” là ở tiếng “em” và 2 câu thơ này: “Em ơi buồn làm chi Anh đưa em về sông Đuống”
2. Dòng sông tuổi thơ Với Hoàng Cầm thì sông Đuống là dòng sông thơ ấu với bao thương nhớ. Con sông đã gắn bó với tâm hồn nhà thơ. Nhớ không nguôi “cát trắng phẳng lì”, nhớ nao nao lòng “Sông Đuống trôi đi - Một dòng lấp lánh”; lấp lánh ánh bình minh, lấp lánh trăng sao soi vào gương sông trong xanh. Nhớ về dáng hình, về thế đứng của nó trong lịch sử: “Nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kỳ”. Câu thơ mang hàm nghĩa thế đứng hiên ngang của quê hương trong kháng chiến. Đôi bờ dòng sông quê hương là một màu “xanh xanh” bát ngát, là sắc “biêng biếc” của bãi mía, bờ dâu, của ngô khoai. Bức tranh quê trù phú, giàu đẹp thật “nhớ tiếc” và “xót xa” vô cùng: “Xanh xanh bãi mía bờ dâu Ngô khoai biêng biếc Đứng bên này sông sao nhớ tiếc Sao xót xa như rụng bàn tay”
3.
Quê hương có nền văn hóa lâu đời đang bị quân thù giày xéo tàn phá. Nhà
thơ sử dụng nghệ thuật tương phản đối lập để làm nổi bật nỗi nhớ tiếc,
nỗi xót xa, nỗi đau đớn căm hờn… Tương phản xưa và nay, thuở bình yên với từ ngày khủng khiếp, đối lập giữa cảnh tưng bừng rộn rã với bây giờ tan tác về đâu… - Giặc Pháp cướp nước là kẻ đã gây ra cảnh chém giết đau thương và điêu tàn khủng khiếp: “Quê hương ta từ ngày khủng khiếp Giặc kéo lên ngùn ngụt lửa hung tàn Ruộng ta khô Nhà ta cháy Chó ngộ một đàn Lưỡi dài lê sắc máu…”
Xưa
kia, vùng Thuận Thành, bên kia sông Đuống, quê hương thân yêu của nhà
thơ là một vùng giàu đẹp, có hương lúa nếp “thơm nồng”, có làng tranh
Đông Hồ nổi tiếng, sự kết tinh những tinh hoa văn hóa cổ truyền giàu bản
sắc dân tộc:
“Bên kia sông Đuống Quê hương ta lúa nếp thơm nồng Tranh Đông Hồ gà lợn nét tươi trong Màu dân tộc sáng bừng trên giấy điệp”
Nay giặc kéo đến thì “Ruộng ta khô – Nhà ta cháy”, điêu tàn, tan tác, đau thương. Nỗi tang tóc trùm lên, đè nặng mọi kiếp người. Hạnh phúc và ước mơ bị giày xéo, bị chà đạp. Sự sống bị hủy diệt đến kiệt cùng:
“Kiệt cùng ngõ thẳm bờ hoang Mẹ con đàn lợn âm dương Chia lìa đôi ngả Đám cưới chuột đang tưng bừng rộn rã Bây giờ tan tác về đâu”
Tranh Đông Hồ trong thơ Hoàng Cầm không chỉ là nét đẹp riêng rất tự hào của quê hương mình mà còn là một biểu tượng của hạnh phúc, đoàn tụ, yên vui trong thanh bình, là nỗi đau trước sự tàn phá, điêu tàn, tan tác của một miền văn hóa lâu đời thời máu lửa. Thuận Thành, Kinh Bắc có núi sông mĩ lệ, chùa chiền thắng cảnh với bao lễ hội tưng
bừng mang theo bao huyền thoại, sự tích thần kỳ, với những gác chuông,
những tháp, những tượng Phật cổ kính bao đời nay. Chùa Phật Tích, núi
Thiên Thai, chùa Dâu, chùa Bút Tháp, tượng Phật Quan Âm nghìn
mắt nghìn tay. Ca dao: “Dù ai đi đẩu đi đâu - Cứ nhìn thấy tháp Chùa
Dâu mà về”. Tục ngữ: “Mồng bảy hội Khám, mồng tám hội Dâu, mồng chín đâu
đâu cũng về hội Gióng”. Phan Huy Chú đã viết trong “Lịch triều hiến chương loại chí”: “Kinh Bắc có mạch núi cao chót vót, nhiều sông quanh vòng, là mạn trên của nước ta… Mạch đất tốt tụ vào đấy nên càng nhiều chỗ có dấu tích đẹp, tinh hoa hợp vào đấy nên sinh ra nhiều danh thần”. Trong chiến tranh, đưa con ly hương nhớ tiếc, xót xa quê hương: “Ai về bên kia sông Đuống Cho ta gửi tấm the đen Mấy trăm năm thấp thoáng mộng bình yên Những hội hè đình đám Trên núi Thiên Thai Trong chua Bút Tháp Giữa huyện Lang Tài Gửi về may áo cho ai Chuông chùa văng vẳng nay người ở đâu”…
4. Nhớ con người quê hương Nhớ sông Đuống, nhớ bãi mía bờ dâu, nhớ hương lúa nếp thơm nồng… Nhớ mãi,
nhớ nhiều những hội hè đình đám, nhớ tranh gà lợn, nhớ giấy điệp. Nhớ
núi Thiên Thai, nhớ chuông chùa ngân nga… Nhớ “nàng môi cắn chỉ quết
trầu”, nhớ cụ già “phơ phơ tóc
trắng”, nhớ “những em sột soạt quần nâu”. Nhớ bồi hồi “từng khuôn mặt
búp sen - Những cô hàng xén răng đen - Cười như mùa thu tỏa nắng”. Nhớ
“những nàng dệt sợi – Đi bán lụa mầu”… nhớ “Những người thợ nhuộm - Đồng
Tỉnh, Huê Cầu…”. Câu
thơ “Bây giờ tan tác về đâu” và “Bây giờ đi đâu về đâu” được nhấn đi
nhấn lại nhiều lần, vừa gợi tả nỗi đau thương tan tác, vừa thể hiện nỗi
nhớ ứa máu tơi bời, nỗi xót xa và căm giận lũ hung tàn cướp nước. Những câu thơ nói về nỗi thương nhớ đàn con thơ và mẹ già rất xúc động:
- Thương mẹ già: “Mẹ ta lòng đói dạ sầu Đường trơn mưa lạnh mái đầu bạc phơ”
- Thương đàn con thơ: “Ngày tranh nhau một bát cháo ngô Đêm líu ríu chui gầm giường tránh đạn…”
5. Quê hương chiến đấu Cảnh đón bộ đội về làng rất cảm động. Cuộc hội ngộ tình quân dân cũng là sự hồi sinh và niềm vui hạnh phúc: “Lửa đèn leo lét soi tình mẹ, Khuôn mặt bừng lên như dựng trăng” Cảnh
giết giặc: Dao lóe giữa chợ - Gậy lùa cuối thôn – Lúa chín vàng hoe,
giặc mất hồn… Chúng mày phát điên – Quay cuồng như xéo trên đống lửa”…
- Đồng quê quật khởi đứng lên: “Mà cánh đồng ta còn chan chứa Bao nhiêu nắng đẹp mùa xuân Gió đưa tiếng hát về gần Thợ cấy đánh giặc, dân quân cày bừa”
6. Ngày hội non sông Hoàng Cầm viết bài thơ “Bên kia sông Đuống” vào năm 1948, lúc bấy giờ quê hương đất nước ta còn
đầy bóng giặc, chân trời thắng lợi còn xa vời. Phải gần 7 năm sau, ta
mới có chiến thắng Điện Biên Phủ. Thế mà thi sĩ đã nói đến ngày hội non
sông. Thơ kháng chiến hay nói đến “ngày mai”, một ngày mai thanh bình ca hát. Phải đổ biết bao xương máu, phải có ngàn vạn chiến sĩ ngã xuống, nhân dân ta mới có “ngày mai” như các nhà thơ đã viết: “Phải bao máu thấm trong lòng đất Mới ánh hồng lên sắc tự hào?” (Tố Hữu)
Vì
vậy, ta có thể nói, phần cuối bài “Bên kia sông Đuống” rất hay. Cảm
hứng lãng mạn dào dạt. Nhân vật “em” lại xuất hiện. Duyên dáng, trẻ
trung, tình tứ. Niềm tin về một ngày mai tái hợp sáng bừng vần thơ: “Bao giờ về bên kia sông Đuống Anh lại tìm em Em mặc yếm thắm Em thắt lụa hồng Em đi trẩy hội non sông Cười mê ánh sáng muôn lòng xuân xanh”. Cách chúng ta gần ba nghìn năm, nhà thơ Home (Hy Lạp) đã viết: “Không có mảnh đất nào êm đềm bằng quê cha đất mẹ”. Bài thơ “Bên kia sông Đuống” giúp ta cảm nhận sâu hơn ý tưởng
của Home. Con sông Đuống và Thuận Thành, Kinh Bắc là quê hương nhà thơ.
Nhưng người đọc thấy vô cùng thân thiết gắn bó với mình. Cái ý vị, cái hay của bài thơ
là ở chỗ ấy. Câu thơ dào dạt theo cảm xúc rất hồn nhiên mà giàu nhạc
điệu. Nhạc điệu ngọt ngào của dân ca Quan họ. Sâu lắng, thiết tha, bồi
hồi là âm hưởng, là sắc điệu trữ tình đã thấm sâu vào hồn ta tình yêu quê hương đất nước. “Bên kia sông Đuống” xứng đáng là kiệt tác của thi ca Việt Nam hiện đại.
Thi sỹ Hoàng Cầm đọc thơ"BÊN KIA SÔNG ĐUỐNG" Trong khai mạc phòng tranh của Đinh Quang Tỉnh Tại 51 Trần Hưng Đạo Hà Nội năm 2005
Xin giới thiệu nguyên tác "BÊN KIA SÔNG ĐUỐNG" Của Thi sỹ Hoàng Cầm,
Em ơi! Buồn làm chi Anh đưa em về sông Đuống Ngày xưa cát trắng phẳng lì Sông Đuống trôi đi Một dòng lấp loáng Nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kỳ
Xanh xanh bãi mía bờ dâu Ngô khoai biêng biếc Đứng bên này sông sao nhớ tiếc Sao xót xa như rụng bàn tay
Bên kia sông Đuống Quê hương ta lúa nếp thơm nồng Tranh Đông Hồ gà lợn nét tươi trong Màu dân tộc sáng bừng trên giấy điệp Quê hương ta từ ngày khủng khiếp Giặc kéo lên ngùn ngụt lửa hung tàn
Ruộng ta khô Nhà ta cháy Chó ngộ một đàn Lưỡi dài lê sắc máu
Kiệt cùng ngõ thẳm bờ hoang Mẹ con đàn lợn âm dương Chia lìa đôi ngả Đám cưới chuột tưng bừng rộn rãBây giờ tan tác về đâu ?
Ai về bên kia sông ĐuốngCho ta gửi tấm the đen Mấy trăm năm thấp thoáng mộng bình yênNhững hội hè đình đám Trên núi Thiên Thai Trong chùa Bút Tháp Giữa huyện Lang Tài Gửi về may áo cho ai Chuông chùa văng vẳng nay người ở đâu Những nàng môi cắn chỉ quết trầu Những cụ già phơ phơ tóc trắng Những em sột soạt quần nâu Bây giờ đi đâu ? Về đâu ?
Ai về bên kia sông Đuống Có nhớ từng khuôn mặt búp sen Những cô hàng xén răng đen Cười như mùa thu tỏa nắng Chợ Hồ, chợ Sủi người đua chen Bãi Tràm chỉ người giăng tơ nghẽn lối Những nàng dệt sợi Đi bán lụa mầu Những người thợ nhuộmĐồng Tỉnh, Huê CầuBây giờ đi đâu ? Về đâu ? Bên kia sông Đuống Mẹ già nua còm cõi gánh hàng rong Dăm miếng cau khô Mấy lọ phẩm hồng Vài thếp giấy dầm hoen sương sớm Chợt lũ quỷ mắt xanh trừng trợn Khua giầy đinh đạp gẫy quán gầy teo Xì xồ cướp bócTan phiên chợ nghèo Lá đa lác đác trước lều Vài ba vết máu loang chiều mùa đông
Chưa bán được một đồng Mẹ già lại quẩy gánh hàng rong Bước cao thấp trên bờ tre hun hút Có con cò trắng bay vùn vụt Lướt ngang dòng sông Đuống về đâu ?Mẹ ta lòng đói dạ sầu Đường trơn mưa lạnh mái đầu bạc phơ
Bên kia sông Đuống Ta có đàn con thơ Ngày tranh nhau một bát cháo ngô Đêm líu díu chui gầm giường tránh đạn Lấy mẹt quây tròn Tưởng làm tổ ấm Trong giấc thơ ngây tiếng súng dồn tựa sấm Ú ớ cơn mê Thon thót giật mình Bóng giặc dày vò những nét môi xinh
Đã có đất này chép tội Chúng ta không biết nguôi hờn Đêm buông xuống dòng sông Đuống-- Con là ai ? -- Con ở đâu về ?
Hé một cánh liếp -- Con vào đây bốn phía tường che Lửa đèn leo lét soi tình mẹ Khuôn mặt bừng lên như dựng giăng Ngậm ngùi tóc trắng đang thầm kể Những chuyện muôn đời không nói năng Đêm đi sâu quá lòng sông ĐuốngBộ đội bên sông đã trở về Con bắt đầu xuất kích Trại giặc bắt đầu run trong sương Dao loé giữa chợ Gậy lùa cuối thônLúa chín vàng hoe giặc mất hồn Ăn không ngon Ngủ không yên Đứng không vững Chúng mày phát điên Quay cuồng như xéo trên đống lửa Mà cánh đồng ta còn chan chứa Bao nhiêu nắng đẹp mùa xuân Gió đưa tiếng hát về gần Thợ cấy đánh giặc dân quân cày bừa Tiếng bà ru cháu buổi trưa Chang chang nắng hạ võng đưa rầu rầu "À ơi... cha con chết trận từ lâu Con càng khôn lớn càng sâu mối thù "Tiếng em cắt cỏ hôm xưa Hiu hiu gió rét mịt mù mưa bay "Thân ta hoen ố vì mày Hờn ta cùng với đất này dài lâu..."
Em ơi! Đừng hát nữa! Lòng anh đau Mẹ ơi! Đừng khóc nữa! Dạ con sầu Cánh đồng im phăng phắc Để con đi giết giặc Lấy máu nó rửa thù này Lấy súng nó cầm chắc tay Mỗi đêm một lần mở hội Trong lòng con chim múa hoa cười Vì nắng sắp lên rồi Chân trời đã tỏ Sông Đuống cuồn cuộn trôiĐể nó cuốn phăng ra bể Bao nhiêu đồn giặc tơi bời Bao nhiêu nước mắt Bao nhiêu mồ hôi Bao nhiêu bóng tối Bao nhiêu nỗi đời
Bao giờ về bên kia sông Đuống Anh lại tìm em Em mặc yếm thắm Em thắt lụa hồng Em đi trảy hội non sông Cười mê ánh sáng muôn lòng xuân xanh.
(Việt Bắc, tháng 4-1948)
"Bao giờ về bên kia sông Đuống Anh lại tìm em Em mặc yếm thắm Em thắt lụa hồng Em đi trảy hội non sông Cười mê ánh sáng muôn lòng xuân xanh".
BTV. Vũ Thanh Nhàn BT theo nguồn SGD-HN
Phân tích bài thơ Bên kia sông Đuống của Hoàng Cầm
Đề bài: Phân tích bài thơ Bên kia sông Đuống của Hoàng Cầm
Gợi ý ĐẶT VẤN ĐỀ Quê hương mỗi người chỉ một
Như là chỉ một mẹ thôi Quê hương nếu ai không nhớ Sẽ không lớn nổi thành người Mỗi
một con người ai cũng có một quê hương . Và Hoàng Cầm cũng vậy, mảnh
đất ăn sâu vào máu thịt ông là miền đất Kinh Bắc bên kia sông Đuống .
Nhớ về quê hương là nhớ về những gì sâu nặng nhất trong tâm hồn và trong
đáy sâu của cảm xúc đó nhà thơ cho ra đời “Bên kia sông Đuống” Bài
thơ ra đời khi quê hương Kinh Bắc của ông rơi vào tay giặc Pháp . Nỗi
đau xót khi nghe tin quê hương ngập chìm khói lửa chiến tranh trĩu nặng
tâm hồn ông .Đứng bên này Sông Đuống, mảnh đất tự do, hướng về quê hương
bên kia Sông Đuống , mảnh đất bị giặc chiếm đóng với bao nỗi niềm và
xót xa trong tâm trạng . Một dòng sông mà giờ đây đôi bờ cách biệt . II . GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ . Dòng
thơ đầu tiên mở ra tác phẩm là một tiếng gọi cất lên từ sâu thẳm trái
tim đau đớn của nhà thơ, đồng thời cũng là một lời an ủi : Em ơi buồn làm chi
Anh đưa em về sông Đuống
Ngày xưa cát trắng phẳng lì “Em”
ở đây là một nhân vật phiếm chỉ . Tuy nhiên, có phần chắc chắn đó là
một cô gái cùng quê bên kia sông Đuống với nhà thơ. Trong thơ Hoàng Cầm
ta thường gặp một nhân vật em như vậy, bởi đó là cái cớ để nhà thơ bộc
lộ xúc cảm của mình một cách chân thành nhất . Và
lời an ủi đưa em về sông Đuống thực chất chỉ diến ra trong hoài niệm
của nhà thơ . Trong niềm hoài niệm đó, hình ảnh trung tâm là con sông
quê hương với bờ cát trắng phẳng lì chảy từ quá khứ xa xôi về hiện tại ,
hiện lên trong tâm trí nhà thơ như một dòng sáng lấp lánh và trù phú
hai bên bờ những mầu xanh bạt ngàn của những bãi mía , nương dâu : Sông Đuống trôi đi
Một dòng lấp lánh
Nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kì Dáng
nằm nghiêng nghiêng của dòng sông Đuống là một phát hiện, một sáng tạo
độc đáo của Hoàng Cầm . Cảm xúc mãnh liệt cùng trí tưởng tượng phong phú
đã giúp nhà thơ sáng tạo ra một hình ảnh thơ độc đáo đầy ấn tượng, làm
xáo trộn cả không gian và thời gian, ám ảnh hoài tâm trí người đọc . Từ
bên này, nhà thơ đau đáu hướng cặp mắt về bên kia sông Đuống . Đoạn thơ
kết thúc bằng một hình ảnh diến tả nỗi đau “Sao xót xa như rụng bàn
tay”. .Hoàng Cầm đã mượn nỗi đau của thể xác để diến tả, thể hiện một
cách một cách cụ thể nỗi đau về tinh thần . Phải là người coi quê hương
là máu thịt của mình mới có tình cảm mãnh liệt đến như vậy . Có thể nói,
tâm trạng ở đây đã đạt đến độ điển hình .
Cảm hứng chủ đạo trong đoạn thứ nhất là nỗi đau, sự nuối tiếc, xót xa ,
căm giận trước cảnh tượng quê hương thanh bình, đông vui, tươi đẹp bị
giặc chiếm đóng . Từ cảm xúc về nỗi đau đó, quê hương Kinh Bắc dần dần
hiện lên trong kí ức nhà thơ .
Vùng quê Kinh Bắc, trong hoài niệm, được gợi lên bởi hương lúa nếp thơm
nồng – biểu tượng của cuộc sống ấm no , và tranh Đông Hồ – biểu tượng
của đời sống tinh thần lành mạnh . Bên kia sông Đuống
Quê hương ta lúa nếp thơm nồng
Tranh Đông Hồ gà lợn nét tươi trong
Màu dân tộc sáng bừng trên giấy điệp Vẻ
đẹp quê hương bừng sáng lên rồi bị ngập chìm trong khói lửa chiến tranh
. Nhà thơ miêu tả thật xúc động những cảnh tan tác chia lìa của quê
hương khi quân giặc tới : ngùn ngụt lửa hung tàn, ruộng khô, nhà cháy,
con người chia li, cả loài vật cũng thành ra tan tác :
Mẹ con đàn lợn âm dương
Chia lìa đôi ngả
Đám cưới chuột đang tưng bừng rộn rã
Bây giờ tan tác về đâu Ở
đây cái ảo đã hòa nhập cùng cái thực . Mượn hình ảnh trong tranh để
diễn tả cảnh tượng thật ngoài đời, nhà thơ đã lay động sâu xa tình cảm
của những con người vốn gắn bó máu thịt với truyền thống văn hóa hàng
ngàn đời của quê hương Kinh Bắc Không
chỉ có vậy, hình ảnh quê hương Kinh Bắc còn được gợi lên với những đền
chùa cổ kính, những hội hè đình đám thể hiện khát vọng một cuộc sống
hạnh phúc, bình yên của nhân dân . Vậy mà giấc mộng bình yên mấy trăm
năm ấy giờ đây tan vỡ . Những nàng môi cắn chỉ quết trầu
Những cụ già phơ phơ tóc trắng
Những em sột soạt quần nâu
Bây giờ đi đâu về đâu Những
con người mang một phần linh hồn của quê hương xứ sở ấy giờ đây trở nên
bơ vơ, tan tác . Cũng không còn nữa những hội hè đông vui, nhôn nhịp .
Chỉ còn tiếng chuông chùa văng vẳng từ thuở bình yên xa xưa vọng về càng
làm tăng thêm sự hoang vắng của quê hương như tiếng thở than nuối tiếc
một thời yên ấm .
Vùng quê Kinh Bắc còn được gợi lên bằng cảnh lao động nhộn nhịp, buôn
bán đông vui, sầm uất . Trong tâm trí nhà thơ, hình ảnh những cô gái
Kinh Bắc dăng tơ dệt lụa, buôn bán tảo tần hiện lên với những nét xinh
tươi, dịu dàng, duyên dáng và biết bao tình tứ . Ai về bên kia sông Đuống
Có nhớ từng khuôn mặt búp sen
Những cô hàng xén răng đen
Cười như mùa thu tỏa nắng Nhưng giờ đây cũng tan tác chia lìa , không biết đi đâu ,về đâu .
Trong niềm tiếc thương không nguôi những người, những cảnh vật của quê
hương, Hoàng Cầm đã dành tình cảm sau nặng nhất cho người mẹ già và em
nhỏ . Người mẹ già nua, còm cõi vốn đã vất vả trong thời bình lại càng
khốn khổ hơn khi quân giặc tới . Kinh Bắc vốn là đất lành giờ đây bỗng
hóa thành đất dữ . Chẳng những con người không sống được yên ổn mà cả
những cánh cò cũng táo tác, hốt hoảng không chốn nương thân . Có con cò trắng bay vùn vụt
Lướt ngang dòng sông Đuống về đâu
Mẹ ta lòng đói dạ sầu
Đường trơn mưa lạnh mái đầu bạc phơ Hình
ảnh cánh cò lồng vào hình ảnh người mẹ, nhưng không phải là cánh cò bay
lả bay la của thời bình nữa mà là cánh cò hốt hoảng chạy trốn đạn bom,
soi bóng trên lưng người mẹ run rẩy , bước thấp bước cao trên đường trơn
mưa lạnh .
Số phận tội nghiệp của những đứa trẻ trong chiến tranh được Hoàng Cầm
gợi lên trong cảnh đói khát cùng với sự đe dọa của đạn bom . Cả ban ngày
lẫn ban đêm, cả khi thức lẫn khi ngủ, cái chết luôn rình rập, đe dọa
chúng . Lòng uất hận , căm thù của nhà thơ bùng lên dữ dội . Câu thơ
Hoàng Cầm đến đây thét lên phẫn nộ : Đã có đất này chép tội
Chúng ta không biết ngươi hờn Phần
còn lại của bài thơ diễn tả cảnh bộ đội trở về và nhân dân vùng lên đấu
tranh tấn công một cách chủ động vào kẻ thù . Giọng thơ chuyển từ nhớ
tiếc, xót thương sang uất hận, căm thù .
Lời cảm thán, niềm hoài niệm ở đầu bài thơ đã trở thành lời hứa hẹn,
niềm hi vọng ở đoạn kết . Một khung cảnh mùa xuân tràn trề niềm vui và
ánh sáng lại trở về với vùng quê Kinh Bắc . Cô gái Kinh Bắc lại hiện ra
với nụ cười tươi tắn giữa không khí tưng bừng của ngày hội .
Em đi trẩy hội non sông
Cười mê ánh sáng muôn lòng xuân xanh III . KẾT THÚC VẤN ĐỀ . Bên
kia sông Đuống là những dòng tình cảm mãnh liệt nhất , chân thành và
trong sáng nhất mà Hoàng Cầm đã dành cho quê hươngyêu dấu của mình , và
qua đó đánh thức trong mỗi chúng ta tình yêu quê hương đất nước . Đó là
thứ tình cảm thiêng liêng cao cả và gắn bó như chính lời bài hát của
nhạc sĩ Giáp Văn Thạch.
Dân hô hoán khi tàu đến, người đàn ông tránh không kịp bị tông tử vong ở Sài Gòn
Minh Toàn |
0
Hiện trường vụ việc.
Phát hiện người đàn ông đi gần đường ray, mọi người hô
hoán nhưng người này tránh không kịp nên bị tàu tông trúng tử vong.
Thông tin ban đầu, khoảng 19h30 ngày 23/12, những người dân sinh sống ở P.4, Q.Phú Nhuận, TP.HCM phát hiện 1 người đàn ông (khoảng 40 tuổi) đi gần đường ray.
Lúc
này, chiếc tàu hỏa mang số hiệu SQN4 (chạy tuyến ga Sài Gòn – TP. Quy
Nhơn) đang lưu thông trên đường ray nên mọi người hô hoán, nhưng người
đàn ông không nghe thấy nên bị tàu hỏa tông trúng văng khỏi đường ray tử
vong.
Lực lượng chức năng ở hiện trường.
Người lái tàu nhanh chóng cho phương tiện dừng lại và thông báo lực lượng chức năng địa phương.
Lực
lượng chức năng Q.Phú Nhuận có mặt, khám nghiệm hiện trường, điều tra
nguyên nhân vụ tai nạn tàu hỏa. Sau khi lập biên bản xong, người lái tàu
hỏa tiếp tục lộ trình.
Đến 23h cùng ngày, thi thể nạn nhân được đưa về nhà xác để phục vụ công tác điều tra.
theo Trí Thức Trẻ
Tai nạn tàu hỏa kinh hoàng ở Italia, 20 người thiệt mạng
VOV.VN - Tính đến nay đã có
ít nhất 20 người thiệt mạng và hàng chục người khác bị thương sau vụ tai
nạn tàu hỏa ở Puglia, miền Nam Italia.
Tính
đến nay đã có ít nhất 20 người thiệt mạng và hàng chục người khác bị
thương sau vụ tai nạn tàu hỏa kinh hoàng xảy ra ngày 12/7 giữa hai tàu
hỏa chở khách tại khu vực Puglia, miền Nam Italia.
Hãng
thông tấn ANSA của Italia dẫn nguồn tin nhà chức trách Italia cho biết,
vụ tai nạn xảy ra trên đoạn đường ray chạy qua khu rừng ô-liu nằm giữa
thị trấn Corato và Andria. Hai tàu hỏa đã đâm trực diện khi đang cùng di
chuyển trên tuyến đường này .
Hiện trường vụ hai tàu hỏa chở khách đấu đầu ở Italia ngày 12/7. Ảnh: Reuters.
Truyền thông dẫn hình ảnh hiện trường cho thấy các toa tàu bị bóp méo
cùng nhiều mảnh vỡ khắp nơi, trong khi lực lượng cứu hộ đang nỗ lực giải
cứu hành khách còn đang mắc kẹt trong các toa tàu. Công tác cứu hộ gặp
khó khăn do vụ tai nạn xảy ra ở khu vực nông thôn. Ít nhất ba máy bay
trực thăng đã được huy động để đưa người bị thương tới bệnh viện.
Kênh
truyền hình nhà nước Italia đưa tin, lỗi kỹ thuật có thể là nguyên nhân
dẫn đến vụ tai nạn này. Trong một tuyên bố mới nhất, Thủ tướng Italia
Matteo Renzi khẳng định sẽ làm rõ vụ việc, đồng thời cắt ngắn chuyến
thăm thành phố Milan.
Vào tháng 12/2009 tại khu vực Tuscany của Italia cũng từng xảy ra tai nạn tàu hỏa kinh hoàng khiến hơn 30 người chết./.
Hồng Nhung/VOV-Trung tâm TinTheo Tân hoa xã
Ám ảnh những cái chết kinh hoàng của người lái tàu hỏa
“Nhiều lúc ở một mình, tôi bật khóc mà không có
lý do, tôi mất ngủ triền miên, những hình ảnh về vụ tai nạn bất chợt trở
về trong tâm trí dù ngày hay đêm”, người lái tàu kể. Trầm cảm và rối loạn tâm thần
Tai nạn đã qua đi rất lâu nhưng ám ảnh thì còn lại mãi với những
người ngồi sau tay lái. Có những người phải tìm đến chuyên gia tâm lý để
ổn định tinh thần, có người phải bỏ nghề vì mỗi lần ngồi vào khoang lái
lại nghĩ đến tai nạn đã xảy ra. Nghề lái tàu hỏa không “màu hồng” như
nhiều người vẫn nghĩ.
Peter Smith, một người lái tàu đã nghỉ hưu cho biết khi mới bước chân
vào nghề, ông không hề được cảnh báo về những nỗi kinh hoàng có thể gặp
phải trên đường ray. “Chúng tôi như bị ném vào giữa bầy sói”, anh so
sánh.
Sau 40 năm cầm lái, Smith cho rằng ông cũng là nạn nhân của những vụ tai do chính mình cầm lái.
Vụ tai nạn đầu tiên, con tàu ông lái đâm và giết chết một người mà
đến tận ngày hôm sau ông mới biết tin. Ông không nhìn thấy nạn nhân mà
chỉ được nghe kể lại vụ việc.
Cái chết thứ hai dưới con tàu ông lái xảy ra vào năm thứ 3 kể từ khi
ông vào nghề. Sau tai nạn ông vẫn phải đi làm. Không một lời hỏi han,
vào thời điểm đó, người lái tàu bất đắc dĩ xin nghỉ phép thì chỉ được
thanh toán 80% tiền lương.
“Đó giống như một sự trừng phạt cho những gì đã xảy ra. Không có lời
động viên, cũng không có thời gian nghỉ ngơi lấy lại tinh thần”, ông
Smith nói.
Trong
suốt sự nghiệp của mình, Smith đã ngồi sau tay lái của 3 vụ tai nạn gây
chết người và một vụ tai nại khiến một người phụ nữ mất cả hai chân.
Ông bố 5 con đã ly dị vợ tỏ ra kiên cường hơn những người khác nhưng
ông chia sẻ rằng vụ tai nạn cướp đi sinh mạng của một cậu bé 17 tuổi vẫn
luôn ám ảnh ông.
“Thỉnh thoảng những ký ức đó lại quay lại với tôi. Chúng vẫn luôn
quanh quẩn bên tôi. Tôi nghĩ là tôi có thể quên chúng nhưng những thứ
khiến tôi nhớ lại vụ tai nạn đó vẫn luôn hiện hữu”, ông chia sẻ.
Một nghiên cứu quốc tế chỉ ra rằng có tới 16% những người lái tàu
từng trải qua tai nạn bị rối loạn tâm lý, hơn 30% gặp các vấn đề khác về
sức khoẻ tâm thần, bao gồm cả trầm cảm và rối loạn lo âu.
Trung tâm sức khoẻ tâm thần sau chấn thương, ĐH Melbourne, Úc chỉ ra
rằng những người lái tàu cần có thời gian nghỉ ngơi lấy lại tinh thần
sau tai nạn nhiều gấp đôi các loại tai nạn khác, khoảng 1 năm tính từ
khi sự cố xảy ra.
5 người lái tàu kỳ cựu – những người gặp sang chấn tâm lý vì tai nạn
đường sắt cho biết ngày mới vào nghề họ không hề được cảnh báo về tần số
các vụ tai nạn hay những cái chết mà chiếc tàu gây ra.
Các chuyên gia tâm thần học cho rằng nếu những người lái tàu được
chuẩn bị sẵn tư tưởng cho những trường hợp xấu có thể xảy ra thì họ sẽ
dễ dàng trở lại cuộc sống bình thường hơn. “Lúc đó họ có thể làm chủ
tình huống và biết phải làm gì khi sự cố xảy ra”, chuyên gia của ĐH
Melbourne nói.
Người lái tàu kỳ cựu Michael Hinch cho biết cái chết cận kề đường ray
mỗi ngày. Ông chứng kiến cái chết đầu tiên năm 17 tuổi khi ông đang là
thực tập sinh lái tàu. Hơn 3 thập kỷ qua ông đã ngồi sau tay lái của 5
cái chết và 17 vụ tai nạn lớn.
Trong các bản báo cáo về các vụ tai nạn đã trải qua, ông không bao
giờ kể về vụ tai nạn đầu tiên hay nhắc về cảnh tượng người lái chính hét
lên “đèn đỏ, đèn đỏ” – chỉ sử dụng trong trường hợp khẩn cấp – trong
khi con tàu vẫn lao vun vút về phía người đàn ông trên đường ray năm
1976.
Rồi một ngày ông lái xe qua địa điểm xảy ra vụ tai nạn năm xưa. Ông
nhìn qua cửa kính xe và thấy mình đang trên con tàu 33 năm trước, và
người đàn ông trong vụ tai nạn năm trước lại một lần nữa chết trước mặt
ông.
“Những ký ức ùa về và tôi cảm giác như mình đang xem lại vụ tai nạn qua tivi vậy”, ông kể.
Các chuyên gia tâm lý cho rằng đây là phản ứng bình thường với những
sự kiện đau buồn họ đã trải qua, nó giống như một cơn ác mộng bủa vây
lấy họ. Bỏ việc vì ám ảnh sau tai nạn
Nik Douglas, một trong những người lái tàu phải bỏ việc vì ám ảnh sau
tai nạn đã đấu tranh đòi bồi thường sang chấn tâm lý cho những người
ngồi sau tay lái.
Vụ tai nạn khiến Douglas ám ảnh xảy ra năm ông 37 tuổi khi ông đang
điều khiển con tàu đến Newcastle thì thấy một người đàn ông khoảng 60
tuổi trên đường ray. Ông nhìn sang đường ray bên cạnh định chuyển hướng
con tàu, khi nhìn lại thì người đàn ông đã nằm dưới con tàu.
“Tôi vẫn nhớ như in cảnh tượng trước vụ va chạm. Con tàu đang đi với
vận tốc 200 km/h vì ga đó không nằm trong lịch dừng”, Douglas kể.
Ông kéo phanh gấp trong hoảng loạn như đang phanh một chiếc xe hơi
nhưng vô ích. “Tôi đã cố gắng dừng con tàu một cách nhanh nhất nhưng
chẳng ích gì”, anh nói.
Ông phải nghỉ làm 6 tháng sau đó vì căng thẳng. “Nhiều lúc ở một
mình, tôi bật khóc mà không có lý do, tôi mất ngủ triền miên, những hình
ảnh về vụ tai nạn bất chợt trở về trong tâm trí dù ngày hay đêm. Đang
tham gia tiệc tùng, đầy người xung quanh nhưng tôi vẫn cảm thấy cô đơn,
lạnh lẽo. Cảm giác cô đơn chính là vấn đề lớn nhất tôi gặp phải khi đó”,
Douglas kể.
Ông đã trải qua hai đợt điều trị với bác sĩ tâm lý, uống thuốc chống
trầm cảm để hồi phục lại tinh thần. “Vụ tai nạn đã thay đổi hoàn toàn
cuộc đời tôi, rằng tôi sẽ trở thành ai, như thế nào. Vợ tôi còn khó hình
dung về sự thay đổi ấy. Có thể với một số người là bình thường, nhưng
với tôi, tôi vẫn chưa thể trở lại là chính mình dù vụ tai nạn đã qua 2
năm”.
Douglas từng cố quay lại công việc sau 3 tháng xảy ra vụ tai nạn
nhưng sớm nhận ra mình chưa sẵn sàng cầm lái lại. “Khi tôi lái con tàu
qua địa điểm xảy ra vụ tai nạn, chân tay tôi vẫn bủn rủn. Tôi đã phải đề
nghị sếp cho mình chuyển lái sang con tàu ngược lại để trở về ga cũ”,
ông kể.
Lần thứ 2 trở lại công việc, ông lại tiếp tục bị “doạ tinh thần” khi
suýt đâm phải một cô gái. “Cô gái đi qua đường ray, vào phút cuối đã kịp
nhảy sang đường ray khác, tôi cứ ngỡ là mình đã đâm vào cô gái rồi
nhưng trung tâm điều khiển xem băng ghi hình và báo là không có va chạm
xảy ra”, ông nhớ lại.
Douglas được chính phủ bồi thường 4400 bảng (khoảng 122 triệu đồng)
vì sang chấn tâm lý năm 2012. Ông dường như là người cuối cùng được nhận
bồi thường vì sau đó luật bồi thường thay đổi vì cho rằng đó là một
phần của công việc và những người lái tàu phải làm quen với chúng.
Ấn Độ: Số người chết ở vụ tai nạn tàu hỏa tăng chóng mặt
TPO - Số người thiệt mạng trong vụ tai nạn tàu hỏa
kinh hoàng ở Ấn Độ đã tăng đến con số 120. Các nhân viên cứu hộ cho
biết, con số này sẽ còn tăng do lực lượng cứu hộ vẫn chưa thể tiếp cận
toa tàu bị ảnh hưởng nặng nề nhất.
Hiện trường vụ tai nạn thảm khốc
Vụ tai nạn thảm khốc xảy ra các thành phố Kanpur 100km vào khoảng 3h sáng ngày 20/11.
Hãng tin Indian Express dẫn lời ông Anil Saxena, người phát ngôn cơ
quan đường sắt Ấn Độ cho biết: “Mười bốn toa của con tàu đi từ Indore
đến Patna bị trật bánh gần Kanpur”.
Ít nhất 120 người đã thiệt mạng trong vụ tai nạn này
Hàng trăm cảnh sát và binh sỹ được triển khai tại hiện trường nhằm hỗ
trợ lực lượng cứu hộ. Họ đang sử dụng máy cắt kim loại để phá dỡ các toa
tàu, đưa nạn nhân bị mắc kẹt ra ngoài.
Cảnh sát cho biết, cho đến nay, số người thiệt mạng đã là 120 người,
ít nhất 200 người bị thương đã được đưa tới các cơ sở y tế gần nhất.
Theo lực lượng cứu hộ, số người thiệt mạng có thể tăng do họ chưa thể
tiếp cận toa tàu bị ảnh hưởng nặng nề nhất.
Thủ tướng Ấn Độ Narendra Modi gửi lời chia buồn tới thân nhân những
người bị nạn đồng thời cho biết Bộ trưởng Đường sắt đang theo dõi sát
sao tình hình.
Hiện vẫn chưa rõ nguyên nhân gây tai nạn. Bộ trưởng Đường sắt Ấn Độ
Suresh Prabhu đã ra lệnh mở một cuộc điều tra về vụ việc “ngay lập tức”.
Ông cho biết trên trang Twitter: “Người chịu trách nhiệm cho vụ tai nạn
sẽ bị trừng phạt nghiêm khắc nhất”.
Năm 2010, Ấn Độ cũng xảy ra một vụ tai nạn tàu hỏa nghiêm trọng tương
tự ở Tây Bengal khiến 146 người thiệt mạng, hơn 200 người bị thương.
Mạng lưới đường sắt của Ấn Độ thuộc hàng lớn nhất thế giới. Đây vẫn
là phương tiện di chuyển đường dài chủ yếu tại đất nước rộng lớn này.
Tuy nhiên chất lượng đường sắt chưa an toàn do hạn chế về kinh phí khiến
các vụ tai nạn thương tâm vẫn thường xuyên diễn ra.
Theo báo cáo năm 2012 của chính phủ Ấn Độ, mỗi năm nước này có tới gần 15.000 người thiệt mạng vì tai nạn đường sắt.
Phan Yến
Theo RT
Những tai nạn tàu hỏa thảm khốc nhất từ đầu thế kỷ 21
10:26 23/02/2012
Vụ tàu hỏa trật bánh vừa xảy ra ở Argentina hôm qua làm ít nhất 49 người
chết và khoảng hơn 600 người bị thương vẫn chưa phải là vụ tai nạn
đường sắt kinh hoàng nhất trên thế giới, tính từ năm 2000 tới nay.
Những tai nạn tàu hỏa thảm khốc nhất từ đầu thế kỷ 21
Vụ tàu hỏa trật bánh vừa xảy ra ở Argentina hôm qua
làm ít nhất 49 người chết và khoảng hơn 600 người bị thương vẫn chưa
phải là vụ tai nạn đường sắt kinh hoàng nhất trên thế giới, tính từ năm
2000 tới nay.
Hình ảnh vụ tai nạn tàu xảy ra hôm qua tại Argentina.
Dưới đây là tổng hợp những vụ tai nạn tàu hỏa để lại hậu quả nặng nề nhất về người và của trong hơn một thập kỷ qua:
Argentina năm 2011: Một đoàn tàu chở
hàng đã đâm vào xe bus chở học sinh ở tỉnh San Luis tháng 11 năm ngoái,
khiến 8 học sinh nữ thiệt mạng và 41 người khác bị thương.
Ấn Độ năm 2010: Vụ tai nạn tàu hỏa xảy
ra ở thị trấn Etawash, khoảng 270km về phía tây nam của Lucknow, khi
đoàn tàu đi vào vùng sương mù. Ít nhất 10 người đã chết và nhiều người
khác bị thương.
Cameroon năm 2009: Một đoàn tàu chở khách bị trật bánh gần Yaoundé, Cameroon làm 5 người chết và 275 người bị thương.
Ai Cập năm 2008: Ít nhất 44 người chết và 33 người bị thương sau khi một chiếc xe tải mất phanh gây ra tại nạn tàu hỏa ở Dabaa, Ai Cập.
Congo năm 2007: Ít nhất 100 người
chết và rất nhiều người bị thương trong vụ tai nạn xảy ra do phanh bị
hỏng khi tàu đang chạy với vận tốc lớn. Theo các nhân viên trên tàu,
đoàn tàu đang chạy rất nhanh thì phanh bị hỏng, 7 toa tàu bị lật.
Ấn Độ năm 2005: Ấn Độ là một quốc gia
rất hay xảy ra các vụ tai nạn tàu hỏa, cướp đi sinh mạng của nhiều người
dân. Vụ tai nạn tàu hỏa ở Ấn Độ năm 2005 khiến 10 người tử vong do đoàn
tàu bị trật bánh vì lũ lụt, xảy ra ở miền Nam nước này.
Pakistan năm 2005: 3 đoàn tàu chở
khách đâm liên hoàn vào nhau ở gần Ghotki, miền nam Sindh, làm ít nhất
132 người chết và hàng trăm người khác bị thương. Theo cảnh sát, đoàn
tàu đi về hướng Karachi đâm vào một đoàn tàu, cản đường đi của một đoàn
tàu khác nên đã xảy ra tai nạn thương tâm trên.
Nhật Bản năm 2005: Một đoàn tàu đâm
vào tòa nhà ở phía tây thành phố Amagasaki khiến 100 người thiệt mạng,
khoảng 450 người khác bị thương. Đây là vụ tai nạn đường sắt kinh hoàng
nhất kể từ sau vụ việc xảy ra ở Tokyo làm 161 người chết.
Sri Lanka năm 2004: Vụ việc xảy ra ở
Sri Lanka năm 2004 chính là vụ tai nạn đường sắt cướp đi sinh mạng của
nhiều người nhất trong lịch sử. Sóng thần đã cuốn trôi cả đoàn tàu ở
Telwatta, cách thủ đô Colombo khoảng 110 km về phía Nam.
Triều Tiên năm 2004: Ít nhất 150 người
chết và 1.300 người bị thương, khi đoàn tàu đâm vào một đường dây điện
gần biên giới Trung Quốc. Hơn 30 tòa nhà công cộng và nhà cửa của 8.000
gia đình đã bị phá hủy trong vụ tai nạn này.
Iran năm 2004: Đoàn tàu đang chạy thì
phanh bị hỏng, sau đó trật đường ray và bốc cháy, tạo ra tiếng nổ rất
lớn. Trên đoàn tàu có chở rất nhiều xăng và hóa chất. Khoảng gần 300
người đã thiệt mạng trong vụ tai nạn này.
Ai Cập năm 2002: Một đoàn tàu bốc cháy
khi đang di chuyển từ Cairo đến Luxor, khiến 373 người thiệt mạng.
Nguyên nhân là do đoàn tàu chạy quá tải. Hơn 100 người trong số đó không
thể xác định được danh tính, vì họ đã bị chết cháy.
đỗ quyên
Theo Infonet.vn
Pakistan: Tai nạn tàu hỏa kinh hoàng, 8 người trong một nhà chết thảm
Ngày 15/2, một vụ
tai nạn tàu hoả nghiêm trọng đã xảy ra ở miền nam Pakistan khiến 8
người chết và 4 người bị thương. Điều đáng nói, tất cả các nạn nhân đều
thuộc một đại gia đình.
Hiện trường vụ tai nạn
Theo AP, vụ tai nạn xảy ra tối 15/2 khi đoàn tàu Fareed Express đâm
trúng một ô tô tại khu vực đường ngang dân sinh ở làng Allah Dino Sand,
cách thành phố Karachi (tỉnh Sindh) 170 km về phía bắc.
Bác sĩ Hasan Shah Murad- một quan chức y tế tỉnh Sindh xác nhận, vụ tai
nạn khiến 8 người chết và 4 người khác bị thương. Điều đáng nói, tất cả
các nạn nhân đều thuộc một đại gia đình.
Tai nạn tàu hỏa ở Pakistan thường xảy ra ở các địa điểm giao nhau với
đường bộ, không có rào chắn và đèn tín hiệu cảnh báo. Ngoài ra, nhiều
tuyến đường sắt nước này cũng đã xuống cấp do thiếu đầu tư.
Vào cuối năm ngoái, một tàu hỏa chở 280 hành khách cũng bị trật đường
ray tại tỉnh Balochistan, Tây Nam Pakistan, khiến 17 người chết và 150
người bị thương.
Nguồn: Báo Tiền Phong
Tai nạn kinh hoàng: Tàu hỏa kéo lê xe tải 50m, giắt vào cầu sắt
Thứ sáu, 08/04/2016 10:21
Hãy là một trong những người thích nội dung này
Đang băng qua đường ngang dân sinh, chiếc xe tải bất ngờ bị đoàn tàu Bắc - Nam lao tới tông thẳng vào và kéo lê đi khoảng 50m.
Trưa 7/4, Thiếu tá Nguyễn Văn Đường - Đội trưởng Đội
CSGT đường sắt Nghệ An cho biết, hiện cơ quan đang xử lý, làm rõ nguyên
nhân dẫn đến vụ tai nạn giao thông nghiêm trọng xảy ra trên đường sắt Bắc - Nam, đoạn qua huyện Diễn Châu.
Thông
tin ban đầu cho biết, khoảng 10h sáng 7/4, một chiếc xe tải mang BKS:
37C-169.38, do tài xế Hoàng Danh Hai (SN 1993, trú xã Quỳnh Tân, huyện
Quỳnh Lưu, Nghệ An) điều khiển đi từ hướng Cầu Lồi lên xã Đô Thành
(huyện Yên Thành) chở vật liệu.
Hiện trường vụ tai nạn kinh hoàng.
Khi
tới km273+500 (thuộc Yên Lý, khối Bắc, xã Diễn Hồng, huyện Diễn Châu)
chiếc xe tải băng qua đường ngang dân sinh thì bị đoàn tàu hỏa mang số
hiệu D19E930, do Tạ Quang Thành (SN 1986, trú Xí nghiệp đầu máy Hà Nội)
điều khiển đi từ Bắc - Nam đâm vào.
Sau cú đâm cực mạnh, đoàn tàu đã kéo lê chiếc xe tải trượt 1 quãng chừng 50m rồi mới dừng lại.
Tại
hiện trường, chiếc xe tải nát bét trước đầu tàu và giắt ở cầu sắt trên
đường ray. Vụ tai nạn đã khiến tài xế xe tải bị thương nặng và được
người dân đưa đi cấp cứu tại bệnh viện.
Chiếc xe tải dắt vào đầu đoàn tàu, hư hỏng nặng.
Nhận được tin báo, lực lượng chức năng đã có mặt tại hiện trường, lập biên bản, điều tra làm rõ nguyên nhân sự việc.
Vụ
tai nạn đã khiến giao thông trên đường sắt Bắc Nam bị tắc nghẽn. Lực
lượng chức năng đang điều xe cẩu để giải phóng hiện trường vụ.
Vụ tai nạn đã khiến tài xế bị thương nặng.
Hiện cơ quan chức năng đang điều động xe cẩu để giải phóng hiện trường vụ tai nạn.
Theo Trí thức trẻ
Những vụ tai nạn tàu hỏa thảm khốc khiến nhiều người rùng mình khi ra đường
Chỉ vì một chút sơ sẩy, nhiều người đã mất mạng ngay trên đường ray tàu
hỏa, hoặc bị kéo lê trước sự hoảng sợ của nhiều người.
Tâm hỏa đâm ô tô ở Thường Tín, 5 người tử vong
Khoảng
hơn 5h sáng ngày 24/10 vừa qua, chiếc xe ô tô Honda CRV chở theo 7
người chạy trên quốc lộ 1A. Khi xe đi qua đường ngang dân sinh đoạn qua
thôn Văn Giáp, xã Văn Bình, huyện Thường Tín, Hà Nội, do không chú ý
quan sát, đúng lúc tàu hỏa chở khách đi tới và tông trực diện vào chiếc ô
tô này.
Nhiều nhân chứng kể lại, thời điểm trên họ
nghe thấy một rầm rất lớn. Khi chạy ra thì bàng hoàng trước cảnh xe ôtô
7 chỗ bị tàu hỏa đâm nát.
Hiện trường vụ tai nạn khiến 5 người tử vong
Vụ
tai nạn nghiêm trọng khiến 5 người tử vong, hai người bị thương nặng.
Trong số 5 người tử vong có 2 chị em ruột là Nguyễn Thị Kim Dung (29
tuổi và, Nguyễn Thị Mai (19 tuổi), đều ở Tương Mai, Hoàng Mai, Hà Nội.
Nguyên
nhân ban đầu được xác định là do lái xe ôtô không chú ý khi đi qua
đường sắt. Đây là đường ngang được phòng vệ bằng thiết bị cảnh báo tự
động, tại thời điểm xảy ra vụ tai nạn, thiết bị hoạt động bình thường.
Ngoài
ra, hiện trường xảy ra vụ tai nạn chỉ có chắn ngang tự quản, chủ yếu
hoạt động ban đêm. Hệ thống biển báo đang không đặt đúng vị trí.
Tàu hỏa đâm nát ô tô chở khách ăn cưới về, 9 người tử nạn
Khoảng
14h57 ngày 30/3/2014, tại Km 18 + 800 khu Thường Tín – Chợ Tía thuộc
địa phận xã Hà Hồi, huyện Thường Tín, Hà Nội đã xảy ra vụ tai nạn giao
thông thảm khốc giữa tàu hỏa chở khách SE8 từ TP.HCM ra Hà Nội với xe ô
tô khách biển kiểm soát 20L (16 chỗ) do Nguyễn Thế Hùng (30 tuổi, ở Tân
Hương, Phổ Yên, Thái Nguyên) điều khiển.
Hiện trường vụ tai nạn hôm 30/3
Theo
các nhân chứng, lái xe khách đã cố tình vượt đường ngang khi thiết bị
cảnh báo bên đường réo chuông và và đoàn tàu đang hú còi lao đến. Khoảng
cách giữa ôtô và tàu hỏa không đủ để chiếc ôtô kịp băng qua.
Một
tiếng rầm vang lên, đuôi xe khách bị đầu tầu húc quay một vòng 180 độ
rồi văng vào dải phân cách giữa đường sắt và Quốc lộ 1A. Hậu quả, xe ô
tô nát bét, 7 người ngồi ở giữa và đuôi xe tử nạn tại chỗ. 2 người khác
chết trên đường tới bệnh viện.
Bị tàu hỏa đâm chết vì đứng trên đường ray nghe điện thoại
Vào
khoảng hơn 7h ngày 6/12, trên tuyến đường sắt Bắc - Nam (đoạn qua địa
phận xóm 8, xã Nghi Liên, TP.Vinh, Nghệ An) đã xảy ra vụ tai nạn đường
sắt nghiêm trọng khiến một người đàn ông tử vong tại chỗ.
Được
biết, nạn nhân là anh Phạm Văn Mưu, trú tại xã Nghi Vạn, huyện Nghi
Lộc, Nghệ An. Theo người dân chứng kiến, anh Mưu vừa xuống xe buýt, sau
đó đứng trên đường ray mải nghe điện thoại.
Vợ con gào khóc khi nhìn thấy thi thể nạn nhân (Ảnh: Người lao động)
Lúc
ấy tàu hỏa đang đến, nhiều người dân đã la hét báo cho anh Mưu nhưng
vẫn không kịp. Hậu quả, khiến anh Mưu tử vong tại chỗ. Đoàn tàu phải
dừng lại gần 1 tiếng để xử lý vụ việc.
Trước đó,
vào khoảng 15h ngày 28/1/2014 trên tuyến đường sắt Bắc – Nam đoạn qua xã
Văn Tự, huyện Thường Tín (Hà Nội), do mải nghe điện thoại trên đường
sắt một người đàn ông đã bị tàu hỏa đâm vào kéo lê 10 m và tử vong.
Theo
một số người dân gần đó cho biết, vào khoảng thời gian trên, một người
đàn ông đứng nghe điện thoại trên đường tàu, đoạn đường ngang dân sinh
giao với đường sắt thuộc xã Văn Tự, huyện Thường Tín. Do mải nghe điện
thoại nên không biết có đoàn tàu đang đến gần nên đã bị đoàn tàu D91E –
924 tông thẳng và kéo lê hơn 10m, tử vong tại chỗ.
Ngay
sau khi nhận đươc tin báo của người dân, CSGT huyện Thường Tín đã có
mặt tai hiện trường vụ tai nạn để điều tiết giao thông trên Quốc lộ 1A,
đồng thời tiến hành điều tra làm rõ nguyên nhân vụ tai nạn.
Cố vượt đường ngang, xe ô tô 12 chỗ bị tàu hỏa hất văng
Do
không chú ý qua đường sắt, xe ô tô 12 chỗ đã bị tàu hàng 2318 đâm vào,
khiến một người bị thương, hai chuyến tàu bị chậm lịch trình.
Vụ việc xảy ra vào khoảng 8h ngày 5/12, đoạn đi qua thôn Đằng Chương, xã Yên Tiến, huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định.
Hiện trường vụ tai nạn
Theo
thông tin ban đầu, vào khoảng thời gian xe ô tô 12 chỗ mang BKS 18B -
015.09 do tài xế Phạm Tài Vinh (46 tuổi, trú tại xã Yên Tiến, huyện Ý
Yên, tỉnh Nam Định) điều khiển đã không quan sát khi qua đường sắt nên
đã bị tàu chở hàng 2318 đâm vào.
Cú đâm mạnh khiến
phần đầu xe ô tô bị biến dạng, tài xế xe ô tô bị thương và được người
dân sơ cứu tại chỗ. Vụ tai nạn đã làm hai chuyến tàu bị chậm lịch trình.
Tai nạn thảm khốc tàu hỏa đâm vào 6 ôtô, 26 người thương vong
Vụ
tai nạn kinh hoàng xảy ra đúng ngày mùng 4 Tết Tân Mão trên cầu Ghềnh,
nằm giáp ranh 2 xã Bửu Hòa và Hiệp Hòa, thành phố Biên Hòa, Đồng Nai).
Hôm
đó, đoàn tàu SE2, số hiệu D19E-951 hành trình từ TP.Hồ Chí Minh ra Hà
Nội khi qua cầu đã tông một lúc vào 6 xe ô tô đang lưu thông theo chiều
ngược lại trên cầu, trong đó có 4 xe taxi, 1 xe chở khách 7 chỗ và 1
xe tải nhẹ 1,5 tấn, biển số 60N đang lưu thông qua cầu. Riêng chiếc
xe tải bị kẹp bẹp dí giữa đoàn tàu phải vất vả lắm lực lượng cứu hộ mới
có thể đưa ra được.
(Ảnh: Người lao động)
Nguyên
nhân xảy ra tai nạn là do sự thiếu ý thức của những người điều khiển
phương tiên. Tối hôm đó,trước thời điểm xảy ra tai nạn, một xe ô tô con
và xe taxi mang BKS 56K-9697 “đối đầu” nhau, tài xế không ai chịu nhường
đường dẫn đến cãi vã gây kẹt xe trên cầu.
Tiếp đó,
do đèn tín hiệu hỏng cùng một loạt lỗi của lái tàu, nhân viên làm nhiệm
vụ gác chắn… tàu SE2 đã lao đến tông vào 6 ô tô, làm 2 người chết, 24
người bị thương.