Chủ Nhật, 31 tháng 3, 2019

BÍ ẨN KHẢO CỔ 36

(ĐC sưu tầm trên NET)
 
Tổ Tiên Của Trung Quốc Là Người Việt Nam - Bí Ẩn Lịch Sử
Nội dung: Tài liệu di truyền học cho rằng, 40.000 năm trước người từ Việt Nam đi lên hoa lục. Nhưng suốt thế kỷ XX chỉ tìm thấy trên đất Trung Quốc sọ người hiện đại 27.000 năm tuổi tại Chu Khẩu Điếm. Sang thế kỷ XXI mới phát hiện tại Tiên Nhân Động tỉnh Giang Tây di cốt người 25.000 năm 

Tổ tiên người Trung Quốc là ai?

Tianyuan-cave[2]_16x9
Di chỉ 40,000 năm tuổi tại động Tianyuan. Ảnh: HAOWEN TONG
Hà Văn Thùy
Năm 2001, một tổ công nhân tình cờ tìm thấy ở hang Điền Nguyên những mảnh xương động vật có vú hóa thạch. Do không có kinh nghiệm, họ đã làm xáo trộn địa tầng trước khi báo cho các nhà khảo cổ. Không ngờ rằng đó là cái mốc quan trọng của lịch sử phương Đông. Năm 2003 và 2004 di chỉ đã được một nhóm nghiên cứu từ Viện Cổ sinh vật học thuộc Viện Hàn lâm Khoa học Trung Quốc khai quật.
Hang Điền Nguyên (Tianyuandong) là hang động nhỏ có cửa mở ra phía tây bắc, cao 175 m so với mực nước biển, nằm trên một trại cây thuộc thành phố Chu Khẩu Điếm, quận Phảng Sơn, Bắc Kinh, Trung Quốc, cách 6 km về phía Tây Nam của Chu Khẩu Điếm, một di chỉ khảo cổ quan trọng hàng đầu của thế giới. Ngày 22 tháng 10 năm 1926, nhà khảo cổ Thụy Điển Andersson đã công bố việc phát hiện ra hai chiếc răng của người đàn ông cổ từ Chu Khẩu Điếm. Điều này mang lại tiến bộ đột ngột cho các lý thuyết về nguồn gốc và sự tiến hóa của con người. Chủ nhân của hai chiếc răng được xếp vào giống mới và loài mới Sinanthropus pekinensis của Họ Người Hominidae, còn được gọi là “người Bắc Kinh ” Homo erectus pekinensis. Toàn bộ trầm tích hang Chu Khẩu Điếm được chia thành 17 lớp từ trên xuống dưới. Tuổi tuyệt đối của lớp 13 là khoảng 730.000 năm. Lớp thứ 10, lớp thấp nhất mang xương người Bắc Kinh hóa thạch, có tuổi khoảng 500.000 năm; trong khi lớp 3, lớp ở trên mang xương người hóa thạch, là từ 230.000 đến 250.000 năm trước. Như vậy, người Bắc Kinh đã sống trong hang động này khoảng 260.000 năm. Trong hai năm 1933-1934, khai quật Hang Thượng (Upper Cave). Ba hộp sọ (số 101, 102 và 103) được phát hiện. Các nhà nhân chủng học cho rằng người Hang Thượng thuộc Homo sapiens muộn. Tuổi tuyệt đối họ khoảng 27.000 năm trước. Sọ 101 được coi là một Mongoloid nguyên thủy, sọ 102 là một Melanesian và sọ 103 là một Eskimo.
Chu Khẩu Điếm là phát hiện quan trọng hàng đầu của nhân loại. Đó là lần đầu tiên và duy nhất trên thế giới có một di chỉ phong phú đến vậy dấu vết con người trong thời gian dài. Việc xuất hiện từ người Homo sapiens giai đoạn sớm 100.000 – 200.000 năm trước tới người Homo sapiens thời kỳ muộn cùng một nơi với người Bắc Kinh 600.000 năm tuổi dường như nói rằng, nơi đây là sự thu gọn của lịch sử nhân loại. Phát hiện Chu Khẩu Điếm là một chứng cứ mạnh mẽ ủng hộ Thuyết nhiều vùng về nguồn gốc con người (Multiregional hypothesis). Chính điều này dẫn tới quan niệm thống trị một thời: “Trung Hoa là dân tộc lâu đời bậc nhất trên thế giới. Người Trung Hoa từ người cổ Bắc Kinh tiến hóa thành.” Nhưng sang thế kỷ này, khoa học cho thấy sự thực không phải như vậy.
Ngày 6 tháng 4 năm 2007, bài báo “Một người hiện đại sớm từ hang Điền Nguyên Chu Khẩu Điếm” (An early modern human from Tianyuan Cave, Zhoukoudian, China” https://www.ncbi.nlm.nih.gov/pmc/articles/PMC1871827/ mô tả như sau:
“Trầm tích hang Điền Nguyên gồm bốn lớp, từ trên xuống dưới. Một số trong 34 thành phần của bộ xương người bị công nhân địa phương làm xáo trộn, nhưng phần còn lại được tìm thấy trong lớp III. Không có hiện vật bằng đá hoặc các di tích văn hóa khác được tìm thấy trong di chỉ cho đến nay. Có rất nhiều mảnh xương trong trầm tích hang động Tianyuan, nhưng hiện tại không thể biết liệu chúng có liên quan đến hành vi của con người hay không. Sáu mẫu động vật từ lớp III cung cấp tuổi trung bình dao động từ 39.500 đến 30.500 14C BP.”
Phải nói rằng, bài báo đã trình bày một nghiên cứu công phu, với phong cách khoa học đáng nể nhưng kết quả thu được không như kỳ vọng vì nó chỉ xác định được chủ nhân bộ xương là người hiện đại, khoảng 40-50 tuổi, sống khoảng 40.000 năm trước, không cho biết giới tính của bộ xương. Nó cũng không cho thấy người Điền Nguyên từ đâu tới, có quan hệ thế nào với những người cổ khác trong vùng?
Phải sáu năm sau, khi công nghệ di truyền vào cuộc, sự thật mới được sáng tỏ. Ngày 21 tháng 1 năm 2013 một nhóm các nhà nghiên cứu quốc tế thuộc Viện Nhân chủng học tiến hóa Max Planck ở Leipzig, Đức công bố bài viết “Họ hàng từ hang Điền Nguyên” (A relative from the Tianyuan Cave https://www.mpg.de/6842535/dna-Tianyuan-cave) nhận định: “Phân tích DNA xương chân của cá nhân này cho thấy rằng chủ nhân hang Điền Nguyên là người đàn ông sống 40.000 trước, có chung nguồn gốc với tổ tiên của nhiều người châu Á và người Mỹ bản địa ngày nay. Ngoài ra, các nhà nghiên cứu phát hiện rằng tỷ lệ gen Neanderthal và Denisovan trong con người hiện đại sớm này không cao hơn so với những người sống trong vùng này ngày nay.”
1
Trong thế kỷ XX, khảo cổ học Đông Nam Á phát hiện di cốt xưa nhất của người hiện đại tại Hang Niah, Indonesia khoảng 39.000 năm trước. Trên đất Việt Nam tìm được di cốt người sớm nhất tại Sơn Vi khoảng 32.000 năm tuổi. Đây được coi là bằng chứng đầu tiên về tổ tiên người Việt. Nhưng từ thập kỷ 1970, nhờ tìm được bộ xương người Mongoloid tại Lưu Giang Quảng Tây 68.000 năm nên nảy sinh hy vọng, người hiện đại nhiều khả năng có mặt trên đất nước ta sớm hơn nữa.
Sang đầu thế kỷ XXI, nhiều nghiên cứu di truyền học dân cư châu Á đưa ra nhận định: 70.000 năm trước, người tiền sử từ châu Phi theo ven biển Ấn Độ di cư tới Việt Nam. Sau khi gặp gỡ hòa huyết và tăng nhân số, 40.000 năm cách nay, người từ Việt Nam đi lên chiếm lĩnh Hoa lục. Nếu điều này đúng thì suốt 40.000 năm sống trên đất Việt (từ 70.000 đến 30.000 năm trước) ngoài những công cụ đá, tổ tiên ta không để lại chút vết tích nào của xương thịt! Một việc không khỏi khiến chúng ta băn khoăn.
Tài liệu di truyền học cho rằng, 40.000 năm trước người từ Việt Nam đi lên hoa lục. Nhưng suốt thế kỷ XX chỉ tìm thấy trên đất Trung Quốc sọ người hiện đại 27.000 năm tuổi tại Chu Khẩu Điếm. Sang thế kỷ XXI mới phát hiện tại Tiên Nhân Động tỉnh Giang Tây di cốt người 25.000 năm. Như vậy, vấn đề thời điểm người Việt Nam đi lên Hoa lục vẫn còn là câu hỏi. Trong khảo cứu của mình, tôi đặc biệt quan tâm tới điều này vì nó có ý nghĩa lớn trong lịch sử phương Đông.
Việc xuất hiện di cốt người đàn ông 40.000 năm trước ở Chu Khẩu Điếm cho thấy, khu vực này có điều gì đó đặc biệt nên đã thu hút nhiều lớp người tới cư trú và sinh sống lâu dài. Do đặc điểm của khí hậu, địa hình và thổ nhưỡng, nơi đây đã bảo tồn được di cốt xưa nhất của dòng người từ Việt Nam lên. Các báo cáo khoa học chưa cho biết người Điền Nguyên từ đâu tới. Nhưng từ khảo cứu của mình, tôi khẳng định là từ Việt Nam lên. Có thể nói gọn về quá trình con người hình thành ở đây như sau: 600.000 năm trước, người Đứng thẳng Homo erectus có mặt. Cho tới 250.000 năm trước không hiểu vì sao họ rời khỏi đây cũng như toàn châu Á, để lại khoảng hơn 200.000 năm châu lục vắng bóng người. Trong ý nghĩa nào đó, xương Điền Nguyên được coi là di cốt người hiện đại xuất hiện sớm nhất ở phương Đông. Tuy nhiên sự thực không phải như vậy. Thập kỷ 1970 phát hiện bộ xương người Mongoloid tại Lưu Giang Quảng Tây và sọ người Australoid ở Hồ Mungo châu Úc, cùng 68.000 năm tuổi. Năm 2009 tìm được tại hang Tampaling Bắc Lào cốt sọ người hiện đại 63.000 năm trước. Điều này phù hợp với những khám phá di truyền học cho rằng người hiện đại từ châu Phi di cư tới Việt Nam 70.000 năm trước, làm nên dân cư Việt Nam và châu Á. Nhưng do sự tàn phá của thời gian và môi trường, phần lớn di cốt người cổ chỉ có thể giữ được tới 30.000 năm. Sọ Lào và xương người Lưu Giang là hai đại diện hiếm hoi của dòng người tới Việt Nam 70.000 năm trước. Tới nay xương người hang Điền Nguyên là dấu vết xưa nhất của tổ tiên người Trung Quốc được tìm thấy. Nhà nhân học Trung Quốc Ngô Tân Trí (吴新智)nói: “Trung Quốc từ 20.000 năm trước cho tới nay, không có bằng chứng nào cho thấy con người có những hoạt động di cư lớn. Vì vậy, cần phải nói rằng ông là tổ tiên của chúng tôi.” (而我们中国从2万年前一直到现在,没有任何证据表明人类有很大的迁徙活动。所以应该说,他就是我们的祖先. https://baike.baidu.com/item/%E7%94%B0%E5%9B%AD%E6%B4%9E%E4%BA%BA)
Khúc xương chân người Điền Nguyên kể với ta câu chuyện thú vị:
  1. Với 40.000 năm tuổi và “có chung nguồn gốc với tổ tiên của nhiều người châu Á và người Mỹ bản địa ngày nay,” mảnh xương Điền Nguyên là di vật vô giá của Tổ tiên dân cư Đông Á và người Mỹ bản địa. Điều này phù hợp với nhận định của di truyền học cho rằng: người từ Việt Nam đi lên Trung Quốc và làm nên dân cư Đông Á. Đồng thời cũng xác nhận cuộc hành trình của người Việt cổ từ Hoa lục lên Siberia rồi vượt eo Bering sang chinh phục châu Mỹ 30.000 năm trước, trở thành cư dân bản địa châu Mỹ.
  2. Thông tin “tỷ lệ gen Neanderthal và Denisovan trong con người hiện đại sớm này không cao hơn so với những người sống trong vùng này ngày nay” cho thấy, người Điền Nguyên là hậu duệ của dòng người di cư từ châu Phi theo ven biển Ấn Độ tới Việt Nam 70.000 năm trước. Trên đường đi, họ đã gặp và giao phối với người Đứng thẳng Neanderthal và Denisovan ở nơi nào đó và nhận gen của những người này mang tới Việt Nam. Tại Việt Nam, những dòng người di cư đã gặp gỡ, hòa huyết sinh ra người Việt cổ mang 1-2 % gen Neanderthal và Denisovan. Rời Việt Nam, con cháu người Việt cổ mang theo trong mình 1-2% gen của người Đứng thẳng như một “dấu ấn nòi giống” đi khắp châu Á sang châu Mỹ, mà người Điền Nguyên là một trong những dòng con cháu ấy.
  3. Việc người hiện đại có mặt 40.000 năm trước ở hang Điền Nguyên Nam Hoàng Hà đã xác nhận kết quả nghiên cứu của di truyền học cho rằng 40.000 năm trước, người từ Việt Nam đi lên Hoa lục.
2
Xương chân người Điền Nguyên
3
4
Tổ tiên người Đông Á  (Trung Quốc, Triều Tiên, Nhật Bản) có tuổi 40.000 năm. Trong khi đó tổ tiên người Việt Nam có tuổi 70.000 năm, sớm hơn tổ tiên người Đông Á 30.000 năm, chứng tỏ đất Việt Nam là nơi phát tích của dân cư châu Á và người Việt Nam gần tổ tiên nhất. Điều này còn được chứng minh bằng chỉ số đa dạng sinh học của người Việt Nam cao nhất trong dân cư châu Á.
Đó là sự thật được chứng minh bằng khảo cổ và di truyền học, không thể phản bác. Nhưng sự đời không  dừng ở đó. Bởi lẽ nếu chỉ có vậy, thì người Việt Nam hôm nay sẽ khác. Sẽ có nước da đen hơn một Đinh Núp hay một Ama Kông bởi vẫn mang mã di truyên của chủng người Australoid trong máu huyết! Nếu hôm nay hiện về, chắc Cụ Điền Nguyên sẽ lắc đầu không nhận những người xung quanh là con cháu! Bởi lẽ Cụ là người da đen. Không chỉ Cụ đen mà con cháu vạn năm sau của Cụ như Đế Khốc cũng đen như con chim cốc, Thành Thang đen như hòn than còn Lão Tử có nước da đen bóng! 40.000 năm với biết bao biến chuyển!
Tại sao lại như vậy? Một câu hỏi hóc búa đeo đẳng tôi suốt những tháng năm đi tìm nguồn cội. Trong cuốn sách Nhân chủng học Đông Nam Á, Giáo sư Nguyễn Đình Khoa người Thầy của tôi thời đại học đã viết: “Suốt thời Đồ đá, người Việt Nam mang mã di truyền Australoid nhưng sang Thời Kim khí, người Mongoloid phương Nam xuất hiện và trở thành chủ thể của dân cư. Người Australoid biến mất khỏi đất nước này, không hiểu do nhập cư hay do đồng hóa?” Câu hỏi của Thầy gửi đến tôi như một thách đố nhưng cũng là gợi ý vô giá. Vấn đề là, người Mongoloid phương Nam từ đâu ra? Cố nhiên chỉ có thể từ phương Bắc! Tôi dõi theo những khai quật khảo cổ trên đất Trung Hoa. Và thật may mắn, gặp được tài liệu nói rằng người Ngưỡng Thiều 7.000 năm trước giống với người Trung Hoa hiện đại, mang mã di truyền Mongoloid phương Nam! Học giả Trung Quốc cho rằng họ từ phía Nam lên! Không thể như vậy,  bởi lúc này khu vực phía Nam chỉ có duy nhất người Australoid! Khi chứng cứ khoa học không đủ thì tưởng tượng ra đời. Tôi cho rằng, chỉ có thể là sự hòa huyết giữa người Việt cổ Australoid bờ Nam và người Mông Cổ North Mongoloid sinh sống trên bờ Bắc Hoàng Hà. Sống bên một dòng sông hàng nghìn năm, ai có thể cấm gái trai gặp gỡ? Tôi như thấy Tạo Hóa mỉm cười: “Thằng bé hiểu thâm ý của mình!” Quả đúng là sự kỳ diệu của Tạo Hóa! Vì lẽ gì, sau chuyến đi dài hàng nghìn năm từ châu Phi, khi đến Việt Nam, hầu hết người di cư tụ hội trên thềm Biên Đông ấm áp thì lại có những nhóm nhỏ lầm lụi đi tới vùng giá lạnh Tây Bắc Đông Dương để sống lẻ loi ở đấy hàng vạn năm? Rồi khi trời ấm lên họ lại theo con đường “Thục đạo nan” đi lên đất Mông Cổ vẫn còn hoang lạnh! Cuộc hành trình ấy đổi lấy điều gì? Phải chăng chỉ là giữ nguồn gen thuần Mông Cổ để rồi kết hợp với người Việt cổ, sinh ra giống dòng mới Mongoloid phương Nam? Một sự huyền bí diệu kỳ của Tự Nhiên!
Cụ Điền Nguyên – ta tạm gọi tên Cụ theo tên quê Cụ- là ngưới Việt cổ, thuộc nhóm loại hình Australoid được sinh ra trên đất Việt Nam. Cụ là lớp di dân đầu tiên. Sau Cụ, người Việt mang theo công cụ đá mới Hòa Bình rồi giống lúa, giống kê, giống gà, giống chó cùng đồ gốm và tộc danh người Việt (chủ nhân đầy tự hào của cái việt – công cụ và vũ khí siêu việt của loài người thời đó) đi lên xây dựng kinh tế nông nghiệp trên lưu vực Hoàng Hà. Khoảng 7.000 năm trước, tại trung du Hoàng Hà, con cháu Cụ Điền Nguyên đã đông đúc, với nghề trồng lúa, kê và đánh cá. Lúc này diễn ra sự tiếp xúc với người Mông Cổ phương Bắc (North Mongoloid) sống du mục bên kia sông. Hai dòng người gặp gỡ, hòa huyết, sinh ra chủng người Mông cổ phương Nam (Sauth Mongoloid). Là con do mẹ Việt mang nặng đẻ đau, bú sữa mẹ Việt, sống trên đất Việt với tiếng nói cùng văn hóa Việt, người Mongoloid phương Nam thành chủng người Việt mới. Người Việt Mongoloid phương Nam tăng số lượng, thay thế cha ông Việt cổ, trở thành chủ nhân văn hóa trồng kê nổi tiếng Ngưỡng Thiều và lưu vực Hoàng Hà. Năm 2879 TCN theo ý chỉ của vua cha Đế Nghi, nơi đây thành lập vương quốc của Đế Lai với hai trung tâm Thái Sơn và Trong Nguồn. Năm 2698 TCN, người Mông Cổ phương Bắc do Hiên Viên dẫn đầu đánh chiếm trung du Hoàng Hà, lập nhà nước Hoàng Đế. Một bộ phận dân Việt nằm trong vương quốc Hoàng Đế. Dân tại vùng chưa bị chiếm tổ chức kháng chiến lâu dài. Một bộ phận dân Việt từ Thái Sơn-Trong Nguồn vượt Dương Tử di cư về phía Nam. Theo thời gian, dòng người đi tới Việt Nam và Đông Nam Á, đem nguồn gen Mongoloid chuyển hóa dân cư phương Nam từ Australoid sang Mongoloid phương Nam. Hiện tượng này được nhân chủng học gọi là quá trình Mongoloid hóa dân cư Đông Nam Á. Đến 2.000 năm TCN, hầu như toàn bộ dân cư Đông Nam Á chuyển thành chủng Mongoloid phương Nam, được gọi là người Nam Á.
Như vậy, người Việt được hình thành theo hai giai đoạn: Ban đầu, 70.000 năm trước, hai đại chủng người Australod và Mongoloid từ châu Phi tới, hòa huyết sinh ra bốn chủng người Việt cổ là Indonesian, Melanesian, Vedoid và Negritoid, cùng thuộc loại hình Australoid. 40.000 năm trước, người từ Việt Nam (chủ yếu là người Indonesian đa số) đi lên khai phá Hoa lục. Tại Nam Hoàng Hà, khoảng 7.000 năm trước, người Việt cổ hòa huyến với người Mông Cổ, sinh ra người Việt chủng Mongoloid phương Nam. Khoảng năm 2698 TCN, do cuộc xâm lăng của người Mông Cổ, một bộ phận người Việt di cư về Việt Nam và Đông Nam Á, đem nguồn gen Mongoloid chuyển hóa dân cư trong vùng sang chủng Mongoloid phương Nam, được gọi là người Việt hiên đại.
Từ quá trình hình thành như vậy, cho thấy, người Việt Nam hiện nay không chỉ là hậu duệ của Cụ Thủy Tổ 70.000 năm trước mà còn là con cháu của Cụ Tổ Điền Nguyên. Vấn đề cần làm rõ là Cụ Tổ Điền Nguyên đóng góp bao nhiêu trong bộ gen của người Việt hôm nay? Đó là chuyện “nhạy cảm” vì nó sẽ phân định rằng người Việt Nam có bị Hán hóa hay không? Hai khả năng có thể xảy ra. Khả năng thứ nhất: người từ Trung Quốc xuống rất đông, tiêu diệt hay xua đuổi người Việt cổ đi nơi khác, chiếm đất thành lập quốc gia của người Trung Quốc. Khả năng thứ hai: người từ Trung Quốc di cư tới từ từ, trong thời gian dài rồi hòa huyết chuyển hóa dân cư sang chủng người mới. Khả năng đầu chỉ xảy ra bằng một cuộc xâm lăng có tổ chức của nhà nước mạnh, dẫn tới chiến tranh khốc liệt. Một sự kiện như vậy sẽ ghi dấu ấn sâu trong lịch sử và cả trong bộ gen con người ngày nay, như cuộc xâm lăng của người Arian vào Ấn Độ 1500 năm TCN. Sự kiện như thế chưa từng xảy ra ở Việt Nam. Trên thực tế là người từ Thái Sơn- Trong Nguồn trở về quê cũ theo từng làn sóng rải rác trong thời gian hơn nửa thiên niên kỷ. Cũng phải kể đến đặc điểm của máu huyết. Trong số bốn chủng người Việt cổ được sinh ra 70.000 năm trước thì theo nguyên lý di truyền học, người đa số Indonesian (sau này được gọi là Lạc Việt) nhận được lượng máu Mongoloid cao nhất. Do vậy, chỉ cần thêm lượng nhỏ gen Mongoloid thì như giọt nước làm tràn ly, người Lạc Việt Australoid chuyển hóa sang chủng Mongoloid phương Nam. Việc Mongoloid hóa dân cư Đông Nam Á diễn ra như phản ứng dây chuyền. Cho tới 2.000 năm TCN, dân cư Đông Á đã gần như cùng một chủng tộc và văn hóa. Minh chứng rõ ràng nhất là năm 2005 phát hiện tại di chỉ Mán Bạc Ninh Bình một khu mộ với 30 thi hài người Ausrtraloid và Mongoloid được chôn chung, là kết quả của viêc chung sống lâu dài. Ngày nay, khi khảo sát di truyền người châu Á, khoa học cho thấy người Việt Nam có độ đa dạng sinh học cao hơn cả, chứng tỏ người Việt cổ là tổ tiên dân cư châu Á. Do vậy chẳng làm gì có chuyện Hán hóa ở đây. Cho rằng người Việt Nam bị Hán hóa về dòng giống và văn hóa là sự lầm lẫn đáng buồn trong lịch sử. Nửa thiên niên kỷ di cư và chuyển hóa di truyền đã để lại cho người Việt câu ca:
Công Cha như núi Thái Sơn,
Nghĩa Mẹ như nước Trong Nguồn chảy ra.

                                                                                                        Sài Gòn, 8.11.2018

Tổ tiên người Trung Quốc đến từ Ai Cập?

12 Thanh Niên
Một nhà khoa học nổi tiếng ở Trung Quốc đang gây tranh luận gay gắt khi cho rằng nền móng của văn minh nước này được tạo dựng bởi người di cư từ Ai Cập.
Du khách Trung Quốc thăm di tích đền Luxor ở Ai Cập
CNBC
Trong một hội thảo tại ĐH Khoa học và công nghệ ở Hợp Phì, thuộc tỉnh An Huy của Trung Quốc, Giáo sư địa hóa học Tôn Vệ Đông say sưa thuyết trình trước cử tọa gồm sinh viên, các chuyên gia và nhiều người thuộc mọi thành phần. Ông không chỉ nói về địa hóa học mà còn trích dẫn nhiều sử liệu, văn bản cổ của Trung Quốc.
Giáo sư Tôn đặc biệt nhấn vào một đoạn trong phần Hạ bản kỷ thuộc Sử ký của Tư Mã Thiên mô tả địa hình đất nước thời nhà Hạ, vốn được giới sử gia Trung Quốc coi là triều đại có thật đầu tiên trong lịch sử nước này và gán cho niên đại từ năm 2070 - 1600 trước Công nguyên (TCN). Đoạn mô tả như sau: “...phía bắc lại chia thành 9 sông, sau đó hợp lưu, gọi là Nghịch Hà, đổ ra biển” (bản dịch của Trần Quang Đức, NXB Văn học, 2014).
Nói cách khác, con sông “Nghịch Hà” chảy ngược ở đây không thể là dòng Hoàng Hà nổi tiếng của Trung Quốc, vốn chảy từ tây sang đông. “Chỉ có một con sông lớn trên thế giới chảy ngược lên phía bắc. Đó là?”, chuyên san Foreign Policy dẫn lời Giáo sư Tôn hỏi trong hội thảo. “Sông Nile”, ai đó trả lời. Ông tiếp tục trải ra bản đồ dòng sông Ai Cập trứ danh và vùng châu thổ với 9 nhánh đổ ra Địa Trung Hải.
Cử tọa bắt đầu xôn xao. Nhiều người tỏ ra ngạc nhiên khi thấy mô tả trong Sử ký lại gần với địa lý Ai Cập hơn là Trung Quốc. Và đó không phải là lần đầu tiên Tôn Vệ Đông khiến người ta “ngã ngửa” vì giả thuyết về liên hệ giữa Ai Cập và Trung Quốc.
Giả thuyết táo bạo
Hồi tháng 3.2016, Tôn và các cộng sự công bố trên chuyên san Scientific Reports, cùng nhà xuất bản với chuyên san uy tín Nature, bài nghiên cứu mang tên Origin of the mysterious Yin-Shang bronzes in China indicated by lead isotopes (tạm dịch: Tìm hiểu nguồn gốc của đồ đồng bí ẩn thời Ân Thương ở Trung Quốc qua đồng vị chì). Trong đó, nhà khoa học thuộc Viện Hàn lâm khoa học Trung Quốc trình bày những khám phá mà ông đã buộc phải che giấu từ thập niên 1990.
Theo Foreign Policy, khi còn là nghiên cứu sinh tiến sĩ tại ĐH Khoa học và công nghệ, Tôn đã phân tích một số đồ đồng khai quật từ khu di tích Ân Khư, tỉnh Hà Nam. Giới chuyên gia Trung Quốc xác định nơi này là thủ đô của triều đại nhà Thương, được coi là tiếp nối nhà Hạ và có niên đại từ 1300 - 1046 TCN. Trong quá trình phân tích đồng vị phóng xạ, ông vô cùng kinh ngạc khi phát hiện thành phần của các hiện vật không hề giống với quặng đồng bản địa mà lại rất gần với đồ đồng Ai Cập cổ đại. Dường như tất cả đều có chung phương pháp chế tác và sử dụng nguyên liệu là quặng đồng châu Phi.
Lo ngại về tác động và độ tranh cãi của khám phá này, giáo sư hướng dẫn của Tôn đã không cho phép ông công bố. Tôn phải bàn giao lại toàn bộ dữ liệu và chuyển sang một dự án khác. Nay thì ông đã là một nhà khoa học uy tín và có thể lên tiếng về những ý tưởng “điên rồ” của mình.
Từ khám phá về đồ đồng, Giáo sư Tôn Vệ Đông cho rằng những triều đại được cho là đặt nền móng cho văn minh Trung Hoa như nhà Hạ và nhà Thương không phải là người bản địa, mà đến từ Ai Cập. Cụ thể, đó là dân tộc Hyksos được cho là xuất phát từ Tây Á. Theo sử liệu cổ của Ai Cập, Hy Lạp và La Mã, người Hyksos di dân đến Ai Cập và thống trị miền bắc nước này trong giai đoạn thế kỷ 17 - 16 TCN, nhưng vào khoảng năm 1550 TCN thì bị người Ai Cập bản địa đánh đuổi hoàn toàn.
Theo Foreign Policy, Tôn Vệ Đông chỉ ra rằng ngay thời điểm bắt đầu xuất hiện ở Ai Cập (khoảng trước năm 1650 TCN), người Hyksos đã sở hữu nhiều công nghệ tiên tiến như luyện đồng, xe ngựa, chữ viết... những gì mà giới chuyên gia Trung Quốc cho rằng được phát minh dưới thời nhà Hạ và Thương. Từ đó, Giáo sư Tôn lập luận rằng khi tháo chạy khỏi Ai Cập, một nhóm người Hyksos tiến về phía đông và cuối cùng đặt chân lên đồng bằng thung lũng sông Hoàng Hà, mang đến văn minh của thời đại đồ đồng để “khai hóa” cho các nền văn hóa thời đại đồ đá mới bản địa.
Hồi tháng 9.2015, giả thuyết của Tôn Vệ Đông lần đầu tiên xuất hiện trên internet với cái tựa gây sốc Khám phá khảo cổ bùng nổ: Tổ tiên người Trung Quốc đến từ Ai Cập. Ngay lập tức, đây trở thành chủ đề vô cùng nóng bỏng, được bàn luận, mổ xẻ sôi nổi trên các diễn đàn và mạng xã hội lớn như Sohu, Tiexue, Weibo... Tạp chí nổi tiếng Tài Tân cũng vào cuộc đưa tin, bình luận. Trong cái thời mà chủ nghĩa dân tộc đang sùng sục ở Trung Quốc như hiện nay, không có gì ngạc nhiên khi ông bị “ném đá” không thương tiếc. “Nực cười! Cái ông chuyên gia này nhận bừa phứa tổ tiên” hay “Cái này là bằng chứng cho tâm lý tự ti nhược tiểu của tác giả”, là những bình luận phổ biến.
Nhận tổ tiên “theo định hướng”
Có một thực tế mà những người chỉ trích Tôn Vệ Đông không nhớ hoặc “cố tình quên”. Đó là câu hỏi “người Trung Quốc đến từ đâu?” luôn mang nặng tính chính trị. Suốt thời phong kiến, để phục vụ tư tưởng thiên triều, các đời sử quan nhấn mạnh sự phát triển của Hán tộc từ trung nguyên mở mang, đánh bại và khai hóa cho các “man di nhung địch” ở bốn phương.
Đến thời Thanh mạt đầu thế kỷ 20, một Trung Quốc lạc hậu bị các đế quốc phương Tây “đè đầu cưỡi cổ” khiến giới trí thức trăn trở tìm con đường mới cho dân tộc và một trong những điểm xuất phát của họ là nhìn lại cội nguồn.
Theo Foreign Policy, vào năm 1892, nhà Đông phương học người Pháp Albert Terrien de Lacouperie đưa ra quan điểm văn minh Trung Hoa “xuất phát từ vùng Lưỡng Hà”. Ông cho rằng các quẻ trong Kinh Dịch rất tương đồng với văn tự hình nêm của các nền văn minh Lưỡng Hà, còn hệ thống can chi chính là biến thể của hệ đếm lục thập phân của người Babylon. Giả thuyết này nhanh chóng bị các học giả phương Tây thời đó bác bỏ, nhưng lại là “nguồn sáng” mới đối với các nhà cách mạng dân chủ Trung Quốc. Cốt lõi ở đây là “người Trung Quốc có cùng nguồn gốc với các nền văn minh vĩ đại khác và không có lý do gì để đất nước không thể bắt kịp các quốc gia tiên tiến Âu Mỹ”.
Vào những năm đầu sau khi Trung Hoa Dân Quốc vừa được thành lập, tư tưởng này vô cùng phổ biến. Dưới thời Viên Thế Khải, quốc ca Trung Hoa Dân Quốc có câu mô tả đất nước là “hậu duệ rạng rỡ của đỉnh Côn Luân”. Trong thần thoại Trung Quốc, núi Côn Luân là nơi ở của Tây Vương Mẫu và là nơi diễn ra hôn phối giữa Nữ Oa và Phục Hy. Vậy là để phục vụ nhu cầu chiến lược khi đó, đã có sự nhập nhằng giữa thần thoại và khảo cổ để rồi cái nôi của văn minh Trung Hoa được “chuyển” từ đồng bằng Hoàng Hà sang núi Côn Luân ở cực tây.
Tuy nhiên, tình hình hoàn toàn thay đổi vào cuối thập niên 1920 đầu thập niên 1930. Nhật Bản thay thế phương Tây trở thành thế lực chính áp đảo Trung Quốc. Nỗi hận lép vế trước một quốc gia cùng là Á Đông khiến thuyết nguồn gốc từ phương Tây trở nên thất sủng và điểm khởi nguyên văn minh Trung Hoa được “trả” ngược về Hoàng Hà. Quan điểm này càng được củng cố mạnh mẽ sau năm 1949.
Từ thời điểm đó đến nay, giới chuyên gia Bắc Kinh ra sức công bố lập luận, bằng chứng cho thấy văn minh Trung Quốc “phát triển rực rỡ từ nội tại suốt 5.000 năm một cách thống nhất, không gián đoạn và không có sự ảnh hưởng từ bên ngoài”. Ẩn hiện trong đó là mục tiêu xây đắp chủ nghĩa dân tộc cùng ý đồ về các yêu sách chủ quyền. Năm 1972, Viện trưởng Viện Khảo cổ Hạ Nãi viết thẳng là nhà khảo cổ “phải bắt quá khứ phục vụ hiện tại”.
Đến năm 1996, Trung Quốc khởi động dự án quy mô cực lớn mang tên “Hạ Thương Chu đoạn đại công trình” nhằm xác định niên đại của 3 triều đại nhà Hạ, Thương và Chu với sự tham gia của 200 chuyên gia từ nhiều ngành khác nhau và ngân sách hơn 1,5 triệu USD vào thời điểm đó. Tháng 11.2000, những kết quả đầu tiên đã được công bố.
Tuy nhiên, nhiều học giả uy tín trên thế giới đã đặt câu hỏi về động cơ và phương pháp của “Hạ Thương Chu đoạn đại công trình”. Theo họ, dự án này không nhằm tìm kiếm các khám phá mới mà cố gắng “ép” lịch sử vào khuôn khổ quan điểm “văn hiến 5.000 năm không gián đoạn” với Hạ, Thương, Chu là những triều đại hùng mạnh, văn minh nhất khu vực.
Tờ The New York Times dẫn lời sử gia Edward L.Shaughnessy thuộc ĐH Chicago (Mỹ) nhận định: “Mục tiêu ở đây là phải đẩy nguồn gốc về tận thiên niên kỷ thứ 3 TCN, đưa Trung Quốc sánh ngang với Ai Cập. Điều này mang tính chính trị và dân tộc chủ nghĩa hơn là khoa học”. Trong khi đó, nhà khảo cổ Li Liu thuộc ĐH Stanford chỉ trích việc nghiễm nhiên coi nhà Hạ là triều đại có thật và cố định niên đại cho nó trong khi vẫn chưa có bằng chứng thực địa nào. Khảo cổ và lịch sử trở thành công cụ để phục vụ mục tiêu chính trị đối nội, đối ngoại cũng như biện minh cho các yêu sách chủ quyền lãnh thổ.

Đến nay, giả thuyết của Tôn Vệ Đông dù đang “gây bão” trên mạng nhưng vẫn chưa có phản hồi nào từ giới học thuật chính thống. Ông có thể đúng, có thể sai lầm hoặc những gì ông đưa ra sẽ không bao giờ được chứng minh phân định rõ ràng. Tuy nhiên, không thể loại trừ rằng vào một tương lai xa nào đó, để phục vụ một nhu cầu chiến lược nào đó thì quan điểm của ông sẽ lại được công nhận.
Bí ẩn Tam Tinh Đôi
Tổ tiên người Trung Quốc đến từ Ai Cập ?
    Ảnh: Mythologica
Khu di chỉ Tam Tinh Đôi nằm ở tỉnh Tứ Xuyên, miền tây Trung Quốc lần đầu phát lộ năm 1929 và chính thức được khai quật quy mô lớn năm 1987. Tại đây, các nhà khảo cổ đã phát hiện nhiều cổ vật có niên đại khoảng thế kỷ 12 - 11 TCN. Trong số này bao gồm lượng lớn đồ tạo tác bằng đồng cực kỳ tinh xảo, thể hiện một nền văn minh phát triển rất cao, tách biệt với văn minh Hán ở lưu vực sông Hoàng Hà. Đặc biệt, mặt nạ đồng Tam Tinh Đôi (ảnh) đến nay vẫn là một bí ẩn lớn khi miêu tả những khuôn mặt có đặc điểm hoàn toàn khác với người Á Đông như mắt to và lồi, miệng rộng, mũi cao và to, lông mày rậm. Theo tờ China Daily, Tam Tinh Đôi đã làm rung chuyển quan điểm cho rằng nền văn minh Trung Hoa lan tỏa từ cái nôi duy nhất ở đồng bằng trung tâm Hoàng Hà. Để “chữa cháy”, giới khảo cổ Trung Quốc đã bắt đầu đề cập về “nhiều trung tâm văn hóa cùng phát triển và dung hợp thành văn minh Trung Hoa”.

Mặc dù còn nhiều dấu hỏi xoay quanh thân thế của vị Hoàng đế Trung Hoa này, nhưng người ta không thể phủ nhận một khả năng lớn rằng ông là người mang dòng máu Đại Việt. Đánh bại quân Nguyên, và ngồi trên ngôi Hoàng đế trong vỏn vẹn 3 năm, ông là ai?
Hậu duệ nhà Trần của Đại Việt trở thành Hoàng đế Trung Hoa?
Hoàng đế Trung Hoa. (Ảnh minh họa qua kienthuc.net.vn)
ADVERTISEMENT
Câu chuyện ly kỳ này phải bắt đầu kể từ vua Trần Thái Tông: Lúc bấy giờ, vua Trần Thái Tông đã có sáu hoàng tử là Trần Quốc Khang, Trần Hoảng (vua Trần Thánh Tông sau này), Trần Quang Khải, Trần Nhật Vĩnh, Trần Ích Tắc và Trần Nhật Duật; cùng hai công chúa là Thiều Dương và Thụy Bảo. Trong đó, Trần Ích Tắc là người đã đem cả gia quyến đầu hàng quân Nguyên Mông, nên thường bị các sử gia chê trách. Tuy nhiên nếu nhìn lại thì Trần Ích Tắc có lẽ không phải là một kẻ hèn nhát, mà là một kẻ sinh nhầm thời…

Trần Ích Tắc – Kẻ sinh nhầm thời hay định mệnh?

Cuốn Đại Việt sử ký toàn thư có viết về Trần Ích Tắc như sau:
“Khi Ích Tắc chưa sinh, vua Thái Tông nằm mộng thấy một vị thần có 3 mắt từ trên trời xuống nói rằng: Thần bị Thượng Đế trách phạt, xin ký thác vào vua, sau này lại về phương Bắc. Khi Ích Tắc sinh, giữa trán có vết giống như con mắt, hình dáng cũng giống như người trong mộng”.
Đồng thời, Đại Việt sử ký toàn thư cũng mô tả về Trần Ích Tắc là con người “thông minh hiếu học, thông hiểu kinh sử, lục nghệ, văn chương nhất đời. Dù nghề vặt như đá cầu, đánh cờ, không nghề gì không thông thạo; từng mở học đường ở bên hữu phủ đệ, tập hợp văn sĩ bốn phương cho học tập, cấp cho ăn mặc, đào tạo thành tài như bọn Mạc Đĩnh Chi ở Bàng Hà, Bùi Phóng ở Hồng Châu v.v… gồm 20 người, đều được dùng cho đời”.
Hậu duệ nhà Trần của Đại Việt trở thành Hoàng đế Trung Hoa?
Trần Ích Tắc cũng là một người rất tài giỏi. (Tranh minh họa)
Tuy nhiên, khi Huệ Túc phu nhân xem lá số cho hoàng thân quốc thích nhà Trần đã nói với vua Trần Thái Tông rằng: “Thiếp xem Tử Vi cho các thiếu niên trong Hoàng Tộc thấy họ đều là các vị anh hùng xã tắc mai sau. Sự nghiệp của Quang Khải, Quốc Tuấn mai sau rực rỡ vô cùng. Số của Quốc Tuấn là số của một vị anh hùng, là bậc thánh nhân chắc không có việc tạo phản đâu. Trong số các vị thái tử, thiếp chỉ lo có số của đệ tứ thái tử Trần Ích Tắc thông minh, nhưng sau này hình khắc lục thân, trôi nổi”. Đây là điều được ghi lại trong cuốn “Đông A di sự”.
Ly kỳ chuyện người đã giúp Trần Quốc Tuấn giữ chức “Quốc Công Tiết Chế” đánh bại quân Nguyên Mông
Huệ Túc Phu Nhân khi còn trẻ là một người am hiểu tướng số, đã từng dựa vào tử vi mà đánh cuộc với Thái sư Trần Thủ Độ (Ảnh minh họa)
Trần Ích Tắc là hoàng tử thứ năm của vua Thái Tông, nhưng Huệ Túc Phu Nhân lại dùng từ “đệ tứ”, là do bà không tính hoàng tử Trần Quốc Khang, vốn là con của bà Thuận Thiên với anh ruột vua Trần Thái Tông là Trần Liễu. (Xem bài: Người phụ nữ giúp Trần Quốc Tuấn giữ chức “Quốc Công Tiết Chế” đánh bại quân Nguyên Mông)
Trong khi hoàng tộc nhà Trần hầu như ai cũng giỏi võ nghệ vì kế thừa phái võ Đông A từ thời Trần Tự Viễn (582-637), thì Trần Ích Tắc lại không thích võ thuật. Tuy nhiên về văn thì Trần Ích Tắc lại giỏi nhất trong tất cả các hoàng tử. Ông cũng chê bai anh em của mình chỉ là bậc “võ biền”.
Nhưng Trần Ích Tắc là kẻ sinh nhầm thời. Khi quân Nguyên đánh bại nhà Tống, chuẩn bị tiến đánh Đại Việt, thì tình thế giang sơn nguy ngập, các võ tướng đều rất được trọng dụng. Trong khi đó, Trần Ích Tắc lại chỉ giỏi văn, còn như võ thuật hay cách bày binh bố trận đều không am tường, nên không được trọng dụng như những người khác. Văn tài giỏi nhất nhưng không được trọng dụng, tâm tật đố và bất bình của Trần Ích Tắc nổi lên…
Hậu duệ nhà Trần của Đại Việt trở thành Hoàng đế Trung Hoa?
Đất nước lâm nguy, võ tướng được trọng dụng (Tranh qua Ybook.vn, sách “Lịch sử Việt Nam bằng tranh”)
Năm 1285, khi đại quân Nguyên Mông tiến đánh Đại Việt, Trần Ích Tắc bèn đưa cả gia quyến ra đầu hàng, và được phong làm An Nam quốc vương. Nếu như quân Nguyên Mông đánh bại nhà Trần thì Trần Ích Tắc sẽ được lên ngôi vua. Có người nói rằng Trần Ích Tắc tham lam, cũng có người nghĩ ông ta hèn nhát sợ giặc, nhưng có lẽ phần nhiều là vì tâm tật đố. Trần Ích Tắc thật là kẻ sinh nhầm thời vậy.
Quân Đại Việt dưới sự chỉ huy của Quốc công tiết chế Trần Hưng Đạo đã đánh bại đại quân Nguyên Mông. Không chỉ thế, đến năm 1288, quân Nguyên lại một lần nữa thảm bại trước Đại Việt.
Nguyen Mong
Trận Bạch Đằng – Quân Nguyên ba lần thảm bại trước Đại Việt. (Tranh minh họa)
Quân Nguyên thua trận, Trần Ích Tắc mang theo cậu con trai đầu sinh năm 1275 là Trần Hữu Thành cùng gia đình đến ở Ngạc Châu (nay thuộc tỉnh Hồ Bắc, Trung Quốc), giữ chức quan Hồ Quảng bình chương chính sự.
Nhưng nếu nhìn lại điềm báo trong giấc mơ của vua Trần Thái Tông về Trần Ích Tắc thì phải chăng đây cũng là định mệnh?
“Thần bị Thượng Đế trách phạt, xin ký thác vào vua,
sau này lại về phương Bắc
Việc Trần Ích Tắc phải tha hương cũng ứng với dự báo của Huệ Túc phu nhân rằng “số của đệ tứ thái tử Trần Ích Tắc thông minh, nhưng sau này hình khắc lục thân, trôi nổi”.

Hậu duệ nhà Trần ở Trung Quốc

Ở phương Bắc, Trần Ích Tắc có được thêm người con thứ đặt tên là Trần Hữu Lượng, nhưng đến đây có sự mâu thuẫn trong sử sách nhà Minh và Đại Việt.
Theo Minh sử thì Trần Hữu Lượng sinh ở tỉnh Hồ Bắc trong gia đình đánh cá. Ông nguyên họ Tạ, nhưng vì tổ tiên ở nhà họ Trần nên đổi sang họ Trần. Ông là con Trần Phổ Tài. Sau khi Minh Thái tổ Chu Nguyên Chương bình định xong Vũ Xương có phong cho Trần Phổ Tài làm Thừa Ân hầu, con thứ của Trần Hữu Lượng làm Quy Đức hầu.
Hậu duệ nhà Trần của Đại Việt trở thành Hoàng đế Trung Hoa?
Trần Hữu Lượng nhận sắc phong từ nhà Nguyên (Tranh qua Ybook.vn, sách “Lịch sử Việt Nam bằng tranh”)
Theo các bộ sử Việt như Đại Việt sử ký toàn thư, Việt sử tiêu án của Ngô Thời Sĩ, Đại nam thực lục, Đại Việt sử ký bản kỷ cùng gia phả nhà Trần để lại thì những ghi chép về Trần Hữu Lượng chi tiết và rõ hơn. Nhưng khác với sử nhà Minh, các bộ sử Việt đều khẳng định Trần Hữu Lượng là con thứ của Trần Ích Tắc.
Các bộ sử Việt khác như Đại Việt Sử ký tiền biên, Khâm định Việt sử thông giám cương mục đều có nhắc đến Trần Hữu Lượng qua các sự kiện có liên quan, đặc biệt là hai lần Trần Hữu Lượng muốn được liên minh với Đại Việt đều có ghi chép.
Theo ghi chép của nhà Trần thì Trần Ích Tắc có người con là Trần Hữu Lượng ở Hồ Bắc. Khi ông qua đời, con cả là Trần Hữu Thành thay cha dạy học cho Trần Hữu Lượng. Vì thế câu chuyện về cha mình xưa kia đúng sai thế nào thì Trần Hữu Lượng không tỏ tường, nhưng nguồn gốc từ nhà Trần của Đại Việt thì Trần Hữu Lượng lại rất rõ.
Trần Hữu Lượng biết tổ tiên mình là cụ tổ Trần Tự Minh thuộc nhóm tộc người Bách Việt ở vùng Mân Việt (nay thuộc Phúc Kiến – Trung Quốc), theo dòng người Bách Việt xuống phía Nam giúp vua An Dương Vương. Trần Tự Minh cùng Cao Lỗ từng là những vị tướng tài ba trụ cột, là hai cánh tay đắc lực giúp An Dương Vương nhiều lần đánh bại quân Triệu Đà.
Lúc bấy giờ, ở Trung Quốc nổi lên phong trào noi gương Đại Việt từng 3 lần đánh bại quân Nguyên, khiến nhiều cuộc khởi nghĩa chống Nguyên nổ ra. Trần Hữu Lượng âm thầm dùi mài kinh sử, học theo cuốn sách Đông A võ phái của cụ tổ là Trần Tự An.

Khởi nghĩa chống quân Nguyên, xin “hòa thân” với nhà Trần

Năm 1354, Trần Hữu Lượng tham gia khởi nghĩa chống quân Nguyên. Nhớ lại nguồn gốc từ nhà Trần ở Đại Việt của mình, ông cho người sang gặp vua Trần Dụ Tông muốn được “hòa thân”.
Đại Việt sử ký toàn thư có ghi chép rằng: “Giáp Ngọ, [Thiệu Phong] năm thứ 14 [1354], (Nguyên Chí Chính năm thứ 14). Mùa xuân, tháng 2, quan trấn giữ biên giới phía Bắc cho chạy trạm tâu việc Trần Hữu Lượng nước Nguyên dấy binh, sai sứ sang xin hòa thân (Hữu Lượng là con Trần Ích Tắc)”.
Sách Việt sử tiêu án có ghi chép rằng: “Trần Hữu Lượng khởi binh ở Giang Châu, sai sứ giả sang nước ta xin hòa (Hữu Lượng là con của Ích Tắc, cuối đời Nguyên cùng vua Minh Thái Tổ khởi binh).”
Tuy nhiên từ khi Trần Ích Tắc chạy theo quân Nguyên, nhà Trần đã xem ông ta như kẻ phản bội và không công nhận là dòng tộc nữa, nên đã từ chối “hòa thân”.
Hậu duệ nhà Trần của Đại Việt trở thành Hoàng đế Trung Hoa?
Nhà Trần xử rất nghiêm đối với những kẻ phản bội (Tranh qua Ybook.vn, sách “Lịch sử Việt Nam bằng tranh”)
Việc Trần Hữu Lượng mới khởi binh đã muốn “hòa thân” với nhà Trần cho thấy nhiều khả năng ông ta là con Trần Ích Tắc. Nếu không phải con của Trần Ích Tắc thì một người lúc mới khởi binh, không có tên tuổi hay sự nghiệp gì, thì dựa vào cớ gì mà dám “hòa thân” với nhà Trần? Nhà Trần đương nhiên cũng chẳng có lý do gì để “hòa thân” với một cuộc khởi nghĩa chưa hề có tiền đồ gì cả.
Sự việc Trần Hữu Lượng tham gia khởi nghĩa cũng được ghi chép trong cuốn gia phả của hậu duệ Trần Quốc Toản là “Viêm phương Trần tộc lưu phả”. Theo đó thì hậu duệ Trần Quốc Toản theo quân khởi nghĩa của Trần Hữu Lượng rất đông. Điều này cho thấy Trần hữu Lượng thật sự có khả năng chính là hậu duệ nhà Trần. Vì thời đó có rất nhiều cuộc khởi nghĩa chống quân Nguyên khác còn mạnh hơn, vậy mà hậu duệ của Trần Quốc Toản lại về theo Trần Hữu Lượng. (Xem bài: Viêm phương Trần tộc Lưu phả: Trần Quốc Toản không hề tử trận)

Trở thành Hoàng đế Trung Hoa

Theo Minh sử ghi chép thì năm 1354, nhờ sự giới thiệu của Từ Thọ Huy, Trần Hữu Lượng tham gia vào cuộc khởi nghĩa của Nghê Văn Tuấn và trở thành một trong những trụ cột của nghĩa quân.
Năm 1357, ông giết Nghê Văn Tuấn vì y âm mưu định giết Từ Thọ Huy. Sau đó Trần Hữu Lượng tự xưng là Tuyên úy sứ kiêm Bình chương chính sự, khởi binh tấn công các lộ thuộc Giang Tây. Ông trở thành tổng chỉ huy quân đội các vùng Giang Tây, An Huy, Phúc Kiến.
Năm 1359, sau nhiều trận thất bại, quân Nguyên hoàn toàn suy yếu. Trong số các cuộc khởi nghĩa chống Nguyên thì mạnh nhất chính là quân của Trần Hữu Lượng, yếu hơn là đội quân của Trương Sĩ Thành, Chu Nguyên Chương. Cũng trong năm này Trần Hữu Lượng xưng làm Hán vương.
(Ảnh qua Kknews.cc)
Năm 1360, trước sức mạnh vượt trội của mình, Trần Hữu Lượng xưng là Hoàng đế. (Ảnh minh họa qua Kknews.cc)
Năm 1360, trước sức mạnh vượt trội của mình, Trần Hữu Lượng xưng là Hoàng đế, lấy quốc hiệu là Đại Hán, niên hiệu là Đại Nghĩa, tiếp tục đánh đuổi tàn dư của quân Nguyên và thu phục các cuộc khởi nghĩa chống Nguyên khác.
Nếu như Trần Hữu Lượng thật sự là con của Trần Ích Tắc, thì thực chất hậu duệ của nhà Trần đã trở thành Hoàng đế Trung Hoa.

Lưu Bá Ôn – Tiếc nuối lớn nhất của Trần Hữu Lượng

Năm 1360, Trần Hữu Lượng dẫn đại quân thủy bộ tiến đánh Chu Nguyên Chương. Quân Chu Nguyên Chương dù yếu hơn nhiều, nhưng ông ta lại có được vị quân sư lừng danh trong lịch sử là Lưu Bá Ôn. Người Trung Quốc vẫn có câu rằng:
Vạn thế quân sư Gia Cát Lượng
Nhất thống thiên hạ Lưu Bá Ôn
Khi đại quân do đích thân Trần Hữu Lượng tiến đến, quân tướng của Chu Nguyên Chương nhiều người e sợ, xuống tinh thần, có ý kiến nên lui binh về cố thủ Trung Sơn (Tử Kim Sơn, Đông Giao, Nam Kinh), có mưu sĩ cho rằng tốt nhất nên đầu hàng rồi sáp nhập vào quân của Trần Hữu Lượng. Chu Nguyên Chương lắng nghe chưa biết thế nào, nhìn lại thấy Lưu Bá Ôn vẫn lặng thinh, đoán biết ông ta đã có diệu kế nên ra lệnh ngừng tranh luận để gặp riêng Lưu Bá Ôn.
Chu Nguyên Chương mời Lưu Bá Ôn vào phòng riêng rồi hỏi: “Địch đã tới gần, tiên sinh có cao kiến gì chăng?”. Lưu Bá Ôn đáp rằng: “Kẻ địch kiêu ngạo, thì nên dụ địch vào sâu rồi dùng phục binh tiêu diệt”.
Sau khi bàn tính, Chu Nguyên Chương cho bạn cũ trước đây của Trần Hữu Lượng là Triệu Khang Mậu Tài trá hàng, sai một lão bộc mang thư đến cho Trần Hữu Lượng nói cứ đưa quân đánh vào thành Ứng Thiên, còn mình sẽ làm nội ứng ở cửa thành vào bắt Chu Nguyên Chương.
Lưu Bá Ôn (Tranh sưu tầm)
Lưu Bá Ôn (Tranh sưu tầm)
Trần Hữu Lượng rất mừng, nhưng cũng nghi ngờ, cất vấn lão bộc đưa thư nhiều điều nhưng lão này đều trả lời rất trôi chảy.
Trần Hữu Lượng đưa quân đến nhưng rất thận trọng vì nghi có thể chỉ là trá hàng. Tuy nhiên đến cầu Giang Đông thì quân Trần Hữu Lượng vẫn bị tập kích bất ngờ, thiệt hại nhiều không kể xiết. Trần Hữu Lượng nhờ các tướng hộ vệ, lên thuyền nhỏ mới chạy thoát.
Năm 1361, Chu Nguyên Chương tiến đánh Giang Châu, nhờ mưu kế của Lưu Bá Ôn mà quân Chu Nguyên Chương thắng trận, Trần Hữu Lượng phải cho quân rút về Vũ Xương. Biết mình bại bởi mưu kế của Lưu Bá Ôn, Trần Hữu Lượng đã nói rằng: “Dưới tay ta thiếu một mưu sĩ như Lưu Bá Ôn. Sau này kẻ tiêu diệt ta, chắc chắn chính là Bá Ôn rồi. Chả lẽ ý trời nghiêng về Chu Nguyên Chương, nên mới sai Bá Ôn tới trợ giúp đó chăng?”

Trận chiến cuối cùng

Đại Việt sử ký toàn thư cùng các sách sử khác đều đề cập đến sự việc vào năm 1361, để đương đầu với Chu Nguyên Chương, Trần Hữu Lượng lại cho người sang Đại Việt xin hợp quân. Tuy nhiên vua Trần Dụ Tông vẫn cự tuyệt với dòng họ của Trần Ích Tắc và nhất quyết không mang quân trợ giúp.
Theo Minh sử các cuộc giao tranh giữa Trần Hữu Lượng và Chu Nguyên Chương sau đó đều bất phân thắng bại. Năm 1363 diễn ra trận chiến trên hồ Bà Dương, quân của Trần Hữu Lượng có 60 vạn, Chu Nguyên Chương có 20 vạn quân.
Trận chiến trên hồ Bà Dương. (Ảnh minh họa qua Pinterest)
Với lực lượng mạnh hơn, sau ba ngày đại chiến dữ dội, quân của Trần Hữu Lượng giành được chiến thắng. Tuy nhiên khi nhận thấy các thuyền của Trần Hữu Lượng đều to lớn và sát vào nhau, Chu Nguyên Chương đã nghe lời khuyên, dùng hỏa công lật ngược được thế cờ. Trần Hữu Lượng bị tử trận trong cuộc chiến này.
Trần Hữu Lượng mất, con là Trần Lý lên nối ngôi, lấy niên hiệu là Đức Thọ. Năm sau Chu Nguyên Chương đưa quân đến thành Vũ Xương đánh bại Trần Lý, chính thức đánh bại triều đại do Trần Hữu Lượng dựng lập nên.
Dù Vương triều của Trần Hữu Lượng chỉ tồn tại vài năm ngắn ngủi, nhưng nếu theo như sử Việt ghi chép, thì đã có một Hoàng đế Trung Hoa mang dòng máu Đại Việt.

Nuối tiếc lớn nhất của nhà Trần?

Sau khi Chu Nguyên Chương lập ra nhà Minh, thì năm 1368, vua Trần Dụ Tông của Đại Việt phải sang thần phục nhà Minh. Ở Đại Việt, năm 1399, Hồ Quý Ly xử tử 370 tướng lĩnh tôn thất nhà Trần, năm 1400 thì lên ngôi vua. Tuy nhiên, cha con Hồ Quý Ly cũng nhanh chóng đầu hàng khi bị quân Minh tiến đánh.
Đây là lần duy nhất Đại Việt bị mất quyền tự chủ bởi phương Bắc tính từ thời Ngô Quyền (năm 939) đến nay. Quân Minh đã vơ vét rất nhiều tài nguyên của Đại Việt. Nhiều người tài giỏi, thầy thuốc có tiếng bị bắt sang phục vụ cho nhà Minh, ví như Hồ Nguyên Trừng là nhân tài người Việt đã sang nhà Minh và sáng tạo ra súng thần công rất nổi tiếng thời đó.
(Tranh qua Ybook.vn, sách “Lịch sử Việt Nam bằng tranh”)
Quân Minh đối xử tàn bạo với người dân Đại Việt (Tranh qua Ybook.vn, sách “Lịch sử Việt Nam bằng tranh”)
Một số nhà nghiên cứu tiếc nuối cho rằng, nếu vua Trần Dụ Tông liên minh với Trần Hữu Lượng, thì nhiều khả năng Trần Hữu Lượng sẽ thống nhất Trung Hoa với một triều đại vững chắc, không phải chỉ vài năm ngắn ngủi mà là tồn tại hàng trăm năm. Hai triều đại nhà Trần của hai nước sẽ tương hỗ với nhau, và như thế cũng sẽ không xảy ra cái họa Hồ Quý Ly cướp ngôi, Đại Việt cũng không bị xâm chiếm đô hộ bởi nhà Minh. Lịch sử quả thật đã có thể đi theo một chiều hướng khác.
Trần Hưng
Xem tiếp...

MUÔN MẶT ĐỜI THƯỜG I/352

(ĐC sưu tầm trên NET)
 
Thời sự quốc tế sáng 31/3/2019
 
Thời sự : Let's Cà phê 31/3/2019 - Let's Cafe 31/3/2019
 
An ninh ngày mới hôm nay | Tin tức 24h Việt Nam | Tin nóng mới nhất ngày 31/03/2019 | ANTV
 
Việt Nam có thu giữ được trực thăng tấn công AH-1 Cobra?
 
Venezuela Cực N-ó,ng - Ph,u Nh-â,n Guaido B-ấ,t Ng-ờ Gặp TT Donaltrump - Chuyện Quanh Ta
 
Người tiêu dùng không nên "tẩy chay" thịt heo | THỜI SỰ HẬU GIANG - 30/3/2019
 
MƯA VẮNG - Ca sĩ TRIỀU LINH




Nữ sinh lớp 9 bị bạn đánh hội đồng dã man phải nhập viện

Tuổi Trẻ Online

































































































VKSND Tối cao: Cần bắt giam người cha khai giết con ném xác xuống sông















































CLB Thanh Hóa nợ lương thưởng, nguy cơ bỏ V-League giữa chừng




Truy tố các đối tượng đánh Giám đốc Bệnh viện Nội tiết Trung ương





























Xem tiếp...