CÂU CHUYỆN LỊCH SỬ 80/4 (MÁY BAY)
(ĐC sưu tầm trên NET)
Brewster Buffalo - Mỹ
Blackburn Botha - Anh
Blackburn Rock - Anh
Fairey Battle - Anh
Douglas TBD Devastator - Mỹ
Lavochkin Gorbunov Doudkov LaGG-3 - Liên Xô
Messerschmitt Me 163 Komet - Đức
Messerschmitt Me 210 - Đức
Yokosuka MXY-7 Ohka - Nhật Bản
Máy bay và đại chiến thế giới - Phần 2
10 máy bay ném bom nguy hiểm nhất trong Chiến tranh thế giới II
ĐTN |
Quả bom đầu tiên được thả từ máy bay là tại cuộc chiến Ý-Thổ năm 1911, từ đó khái niệm về việc tiêu diệt quân địch từ trên không đã gây ngạc nhiên và hấp dẫn các chỉ huy quân sự.
Những máy bay
ném bom đúng nghĩa được sử dụng trong Thế chiến thứ nhất, khi tất cả
các quân đội bắt đầu thay đổi phi cơ của họ để tăng cường khả năng oanh
tạc cho chúng.
Kết quả của
cuộc đánh bom rất thành công trên đã dẫn đến tính năng mới cho máy bay.
Lực lượng Đồng minh là những người tiên phong cho nhiệm vụ ném bom
chiến lược và hầu hết các cuộc tấn công được thực hiện bởi họ với độ
chính xác cao, khiến quân Đức tổn thất nặng nề.
Những trận ném bom chiến lược là một trong nhiều lý do giải thích tại sao phe Đồng minh thắng Đức trong Thế chiến thứ nhất.
Đến
Chiến tranh Thế giới Thứ 2, phe Đồng minh và phe Trục duy trì nhiều
chương trình vũ khí riêng và luôn luôn tồn tại một cái gì đó mới mẻ nhằm
gây ngạc nhiên cho kẻ thù.
Dưới đây là 10 máy bay ném bom đặc biệt nổi bật trong chiến tranh và là địa ngục đến từ trên không đối với lực lượng mặt đất.
1. Boeing B-17 Flying Fortress
Đây là máy bay ném bom hạng nặng tầm xa 4 động cơ đầu tiên của
thế giới, được phát triển trong những năm 1930 bởi Boeing cho Không quân Lục
quân Hoa Kỳ.
Hợp đồng ban đầu chỉ là 200 chiếc nhưng sau đó được tăng thêm vì chiến
tranh xảy ra. Nó được sử dụng cho các chiến dịch ném bom chiến lược vào những cụm
công nghiệp của Đức.
B-17 đủ sức tự bảo vệ mình với 8 vị trí súng, 13 súng máy
hạng nặng, được điều hành bởi phi hành đoàn 10 người, khả năng mang theo gần 5
tấn bom và đạn dược.
2. Boeing B-29 Superfortress
Tên gọi đã nói lên tất cả, B-29 "Siêu pháo đài bay" là oanh tạc cơ lớn nhất được sử dụng trong Chiến tranh thế giới Thứ 2. Mặc dù chỉ xuất hiện ở Thái Bình Dương nhưng nó sẽ luôn được nhớ
đến khi được sử dụng để ném bom nguyên tử vào Hiroshima và Nagasaki.
B-29 có phi hành đoàn gồm 10 người. Tầm bay tối
đa đạt tới 5.230 km trong khi tốc độ hành trình là 575 km/h.
3. de Havilland Mosquito
Một
máy bay ném bom hạng trung tốc độ cực nhanh, Mosquito nâng khả năng tấn
công cho bộ máy chiến tranh của Anh lên đến một cấp độ hoàn
toàn mới, với sức tải 1,8 tấn bom và cung cấp cho các phi công khả năng
cơ động chưa từng có.
Mosquito được phát triển vào đầu năm 1938 và phục
vụ ngay sau khi chiến tranh nổ ra. Nó tấn công đối phương với độ chính xác cực cao và
có vận tốc lớn nhất khoảng 600 km/h. Điều này là nhờ vào
trọng lượng và thiết kế xuất sắc.
Mosquito có thể thực hiện các cuộc đột kích ban
đêm rất tốt. Tổng cộng 7.781 chiếc đã được chế tạo cho đến năm 1947 và vẫn
tiếp tục phục vụ cho đến năm 1955 trước khi nghỉ hưu.
4. Avro Lancaster
Chiếc máy bay ném bom ban đêm 4 động cơ Lancaster rất được ưa
chuộng bởi Tư lệnh tối cao của Anh và đã được sản xuất với số lượng lớn cho hầu hết
các phần của cuộc chiến.
Lancaster mang được 10 tấn bom với một số loại bom đặc biệt như
bom xoay phá đập nước, nó có thể mang địa ngục đến tất cả các ngóc ngách của Đức
Quốc xã.
Lancaster bắt đầu thực hiện nhiệm vụ vào tháng 3/1942. Người ta ước
tính rằng có tổng cộng 150.000 phi vụ đã được thực hiện bằng máy bay ném bom
này và gần một nửa số phi cơ bị mất trong khi làm nhiệm vụ.
5. Petlyakov
Pe-2
Pe-2 là một máy bay ném bom hạng nhẹ của Liên Xô chính thức ra mắt vào năm 1941 khi châu Âu đã bắt đầu đi vào cuộc chiến tranh.
Các máy bay
ném bom Pe-2 cực kỳ thành công khi ở trên bầu trời và vượt trội so với một
số chủng loại khác khi thực hiện tốt cả vai trò của máy bay chiến
đấu hạng nặng.
Pe-2 được sử dụng cho các mục đích khác như trinh sát và chiến
đấu ban đêm rất tốt. Máy bay có tốc độ tối đa 580 km/h với trần bay 8.800 m, sức tải 1.600 kg bom.
6. Ilyushin
Il-4
Đây là chiếc máy bay được Liên Xô sản xuất chủ yếu
cho mục đích ném bom và ngư lôi vào các cơ sở vật chất và khí tài chiến
tranh của Đức.
Il-4 ra mắt năm 1936 nhưng đã không hoạt động cho
đến khi chiến tranh bắt đầu. Thiết kế chủ yếu như một máy bay ném bom hạng
trung tuy nhiên Il-4 lại đảm nhiệm vai trò của máy bay ném bom tầm xa.
7. Junker
Ju-87 Stuka
Cái
tên "Máy bay ném bom Stuka" mà Ju-87 nhận được thật sự
thuần khiết. Một oanh tạc cơ chính xác kinh điển được giới thiệu là
"pháo binh trên không", cung cấp hỏa lực hỗ trợ cho xe tăng Đức khi họ
thực
hiện chiến thuật Blitzkrieg.
Ju-87
mang 700 kg bom và một số sau nâng cấp còn mang được một quả bom lớn
1.800 kg. Độ chính xác của nó bây giờ được so sánh với
các máy bay tàng hình F-117 hiện đại!
Ngoài
ra, Hitler ra lệnh thêm các biện
pháp tấn công bao gồm súng máy và thậm chí còi báo động sẽ thấm
nhuần hơn nữa sự sợ hãi vào trái tim của kẻ thù. Ju-87 Stuka đã được sử
dụng trên cả hai mặt trận
Đông và Tây của người Đức.
8. Dornier
Do-217
Do-217 được sử dụng bởi Không quân Đức
trong Thế chiến thứ 2 và cũng là một máy bay ném bom siêu cao cấp với các tính năng đi
trước thời đại.
Nó được thiết kế như một oanh tạc cơ hạng nặng cho các nhiệm
vụ ngắn, việc sản xuất bắt đầu từ năm 1940. Con số chế tạo không phải
là tuyệt vời đặc biệt khi so sánh với các máy bay khác, khi chỉ có 2.000 chiếc xuất xưởng.
Do-217 có thể mang 3.000 kg bom, tốc độ tối đa 557
km/h, tầm bay 2.145 km khi hoạt động ở độ cao 7.370 m.
Đảm
nhiệm vai trò máy bay ném bom chiến lược và trinh sát, Do-217 phục vụ
cho đến những ngày cuối cùng của chiến tranh và thậm chí còn chuyển đổi
chức năng thành máy bay chiến đấu ban đêm khi Đức sắp bị đánh bại.
9. Arado Ar-234
Mặc dù không có nhiều vai trò trong chiến
tranh nhưng Ar-234 phải được đề cập đến vì ý nghĩa của nó trong thế giới của máy
bay ném bom.
Đây là chiếc oanh tạc cơ sử dụng động cơ phản lực, 1 chỗ ngồi đầu
tiên trên thế giới được phát triển bởi người Đức, chính thức ra mắt vào năm 1943.
Cuộc chiến đã đến hồi kết thúc nhưng Đức vẫn nghiên cứu và hoàn thiện máy bay
này.
Ar-234 được sản xuất với số lượng rất nhỏ (210 chiếc) và chỉ dùng để trinh
sát. Nó mang 1.500 kg bom và có thể ném với độ chính xác cực cao, Ar-234 sẽ thay đổi
cục diện chiến trường khi và chỉ khi được sản xuất từ 1 - 2 năm trước.
10. Mitsubishi
G4M Betty
Chiếc máy bay ném bom tầm trung G4M của Hải quân Đế quốc Nhật Bản trong Thế
chiến thứ 2 được Đồng
Minh đặt tên là Betty do kiểu dáng hình trụ và có khả năng biểu diễn tốt, máy
bay chiến đấu của Mỹ phải rất khó khăn khi muốn bắn hạ các máy bay này.
G4M có phi hành đoàn 7 người, bay với tốc độ tối đa 428 km/h
và có thể leo cao 8.500 m trong khi hoạt động ở khoảng cách 2.852 km.
theo Trí Thức Trẻ
10 máy bay chiến đấu tệ nhất trong Chiến tranh thế giới thứ 2
ĐTN |
Những nhược điểm sau đây khiến cho 10 chiếc máy bay chiến đấu này phải góp mặt trong danh sách không hề mong muốn.
Boulton Paul Defiant MK.I - Anh
Defiant MK.I không có súng ở
phía trước máy bay; Cơ động trên không chậm; Từng có 2 phi đội bị tiêu
diệt trong một ngày; Được sử dụng trong các nhiệm vụ ban đêm trong thời
gian ngắn; Cuối cùng chỉ được dùng như là một phần của nhiệm vụ cứu hộ,
huấn luyện xạ thủ và kéo mục tiêu.
Đây là chiếc máy bay chiến đấu cánh đơn có móc hãm đầu tiên của Hải quân Mỹ, nó được sản xuất trong giai đoạn 1938 - 1941.
Brewster Buffalo nổi tiếng
vì hiệu suất thao diễn kém, có thể là do trọng lượng khá nhẹ của máy
bay. Chỉ có 4 quốc gia ngoài Mỹ sử dụng nó, trong đó Phần Lan khai thác
hiệu quả nhất.
Hiệu suất kém; Khung máy bay
không ổn định; Số vụ tai nạn gây tử vong khá cao, được mệnh danh là cái
bẫy chết người; Cuối cùng bị thu hồi và sử dụng cho nhiệm vụ huấn
luyện, tuần tra ven biển và mang theo bom chống ngầm.
Phi công không thể bắn bắn
trừ khi máy bay đang bay thẳng và không thể không chiến quần vòng; Không
có súng ở phía trước máy bay; Gây khó khăn cho phi công khi muốn thoát
ly khỏi máy bay; Tốc độ tối đa chỉ là 260 km/h.
Được trang bị động cơ
Rolls-Royce nhưng tải trọng bom và kíp lái 3 người đã khiến trọng lượng
tăng quá nhiều đối với một máy bay ném bom hạng nhẹ; Vũ khí phòng vệ
không đủ để chống lại máy bay hiện đại hơn; Tốc độ chậm.
Mặc dù Fairey Battle được
ghi nhận đã mang lại chiến thắng trên không đầu tiên của Chiến tranh thế
giới thứ 2 cho Không quân Hoàng gia Anh, song tổn thất đối với nó là
rất nặng nề; Fairey Battle được rút khỏi trận chiến và sử dụng trong
việc đào tạo phi công ở nước ngoài.
Mặc dù trước chiến tranh TBD
Devastator được coi là một máy bay chiến đấu tiên tiến, nhưng sau vụ
đánh bom Trân Châu Cảng, nó nhanh chóng trở nên lỗi thời.
Khi Chiến tranh thế giới thứ
2 sắp nổ ra, nó vẫn còn trong giai đoạn thử nghiệm. Tốc độ chậm làm cho
Devastator dễ bị máy bay chiến đấu tấn công, toàn bộ phi đội TBD đã gần
như bị xóa sổ trong trận Midway.
Khung máy bay bằng gỗ - các
bộ phận cần thiết được bảo vệ bởi sơn mài Bakelite; Động cơ yếu và tốc
độ leo cao thấp; Dễ vỡ đôi khi bị bắn và quay vòng nếu như rẽ quá nhanh.
Các phi công Liên Xô đã đặt tên cho nó là "chiếc quan tài sơn véc-ni".
Chiếc máy bay chiến đấu sử
dụng động cơ rocket duy nhất được đưa vào hoạt động; Vũ khí trang bị chỉ
cho phép thời gian bắn ngắn; Vận tốc của đạn không khớp với đường ngắm;
Động cơ tiêu thụ nhiên liệu cao, dễ nổ; Tốc độ cất cánh lớn và gần như
không thể hạ cánh.
Một máy bay có khả năng thao
diễn kém; Trong thiết kế có lỗi nhưng không bao giờ thật sự khắc phục;
Không ổn định và dễ bị thất tốc.
theo Trí Thức Trẻ
Điểm danh 10 phi công Đức xuất sắc nhất trong CTTG 2
Nếu xét về thành tích chiến đấu trong CTTG 2 có lẽ phi công
Đức luôn đứng hàng top Ace xuất sắc nhất vượt xa Mỹ hay Liên Xô.
Trong
Chiến tranh Thế giới thứ hai, Không quân Đức và các phi công chiến đấu
của nước này luôn có thành tích khá nổi bật mặc dù họ không phải lúc nào
cũng dành được ưu thế trên không, nhưng tinh thần chiến đấu của các phi công Đức hoàn toàn vượt xa Mỹ và một số nước Đồng Minh. Nguồn ảnh: War History.
Theo
tài liệu thu giữ được từ Không quân Đức phát xít, trong suốt CTTG 2 họ
đã dành được khoảng 70.000 chiến thắng trên không trong đó bắn hạ hơn
25.000 máy bay của Anh và Mỹ còn với Liên Xô là 45.000 chiếc. Nhưng cái
giá Đức phải trả cho chiến thắng đó cũng không hề rẻ khi họ mất tới
14.800 phi công và gần 7.000 phi công khác bị thương. Dưới đây là top 10
phi công Ace xuất sắc nhất của Đức trong CTTG 2, họ đều có thành tích
bắn hạ hơn 200 máy bay của đối phương trong suốt thời giant ham chiến.
Nguồn ảnh: WordPress.com.
Đứng ở vị trí thứ 10 trong danh sách top Ace của Không quân Đức
trong CTTG 2 là Theodor Weissenberger với thành tích bắn hạ 208 máy bay
đối phương, ông tham gia Không quân Đức từ năm 1936 và một phi công
chiến đấu tình nguyện. Chiến thắng đầu tay của Weissenberger là vào năm
1941 trong một trận không chiến trên bầu trời Na Uy chống lại Không quân
Anh. Nguồn ảnh: WW2 Gravestone.
Giống
như nhiều phi công Ace khác của Đức trong chiến tranh mẫu chiến đấu cơ
yêu thích của Weissenberger là chiếc Messerschmitt Bf 109 và nó theo ông
trong suốt sự nghiệp của mình cho đến khi giải ngũ. Ông cũng là một
trong những phi công Đức đầu tiên được đào tạo để sử dụng dòng chiến đấu
cơ phản lực Messerschmitt Me 262. Nguồn ảnh: Airliners.net.
Vị
trí thứ 9 thuộc về Heinrich Ehrler với 208 lần lập công chủ yếu ở Mặt
trận phía Đông, tuy nhiên càng về sau cuộc chiến Ehrler càng thờ ơ với
các chiến thắng của mình điều này cũng dẫn đến việc phi công Ace này
thực hiện nhiệm vụ đánh chặn cuối cùng của mình bằng cách lao vào một
máy bay ném bom của Mỹ khi chiếc Me Bf 109 của ông đã hết đạn. Nguồn
ảnh: Alchetron.
Ở vị trí thứ 8 là Hemann Graf với 212 lần bắn hạ máy bay đối phương, ông cũng là một trong những phi công xuất sắc toàn diện nhất của Đức
trong suốt CTTG 2, thành tích của Graf cũng được bắt đầu tại Mặt trận
phía Đông. Sau chiến tranh Hemann Graf bị Quân đội Mỹ bắt làm tù binh
nhưng lại được bàn giao cho Quân đội Liên Xô. Ông qua đời vào năm 1988
tại Engen, Tây Đức. Nguồn ảnh: War History.
Đứng
ở vị thứ 7 là Heinrich Bär - một trong những phi công kỳ cựu của Không
quân Đức trong CTTG 2, ông tham gia hầu hết trên các mặt trận từ Bắc
Phi, Địa Trung Hải, mặt trận phía Đông cho đến mặt trận phía Tây. Thành
tích của Bär cũng thuộc hàng top với 220 lần bắn hạ máy bay đối phương.
Nguồn ảnh: World War II Pictures.
Trong
ảnh là chiếc Messerschmitt Bf 109F-4 của Heinrich Bär tham chiến cùng
ông ở Mặt trận phía Đông, bản thân Bär cũng là một phi công khá may mắn
khi ông bị bắn hạ tới 18 lần nhưng chỉ bị thương 3 lần trong số đó. Sau
chiến tranh, Heinrich Bär không bị xử bắn mà chỉ phải đi tù một thời
gian trước khi trở lại Tây Đức. Nguồn ảnh: Wikiwand.
Ở
vị trí thứ 6 là Erich Rudorffer với thành tích 222 lần bắn hạ máy bay
đối phương và cũng là một trong những Ace quan trọng của Không quân Đức,
chiến trường chủ yếu của Rudorffer là ở Mặt trận phía Đông và Ba Lan.
Erich
Rudorffer cũng là phi công cuối cùng của Đức nhận được huân chương Thập
tự Sắt hạng nhất cùng lá Oak và thanh gươm phần thưởng cao quý dành
nhất dành cho các binh sĩ hoặc sĩ quan Đức có thành tích chiến đấu xuất
sắc trên chiến trường. Nguồn ảnh: alifrafikkhan.blogspot.
Nằm
trong top 5 Ace của Không quân Đức trong CTTG 2 là Wilhelm "Willie"
Batz với thành tích 237 lần bắn hạ máy bay đối phương trong tổng số 445
phi vụ ông tham gia và chúng cũng đều đến từ Mặt trận phía Đông. Có một
điều đặc biệt là Batz không thuộc một phi đội tiêm kích đánh chặn mà ông
thường xuyên hoạt động trong vai trò bay hộ tống cho các phi đội máy
bay ném bom của Đức. Nguồn ảnh: Pinterest.
Vị
trí top 4 thuộc về Otto Kittel với 267 lần bắn hạ máy bay đối phương
tại Mặt trận phía Đông, chiến thắng đầu tay của ông là trong Chiến dịch
Barbarossa. Phi công Ace này của Đức thực hiện khoảng 583 phi vụ với
chiếc chiến đấu cơ quen thuộc Messerschmitt Bf 109. Nguồn ảnh:
Historical War Militaria.
Đứng
ở Top 3 là Gunther Rall một trong những phi công giỏi nhất của Không
quân Đức trong CTTG 2 và cả sau chiến tranh, ông có thành tích bắn hạ
275 lần chiến đấu cơ của đối phương và tất cả đều đến từ tại Mặt trận
phía Đông. Sau chiến tranh, Gunther Rall tiếp tục ở lại giảng dạy và
phục vụ trong Không quân Tây Đức và nhanh chóng trở thành một trong
những sĩ quan đại diện cấp cao của Tây Đức tại khối quân sự NATO. Nguồn
ảnh: en.ww2awards.com
Vị
trí top 2 thuộc về Gerhard "Gerd" Barkhorn với 300 lần bắn hạ máy bay
đối phương - một trong những thành tích hiếm có trong lịch sử không quân
thế giới. Và Gerhard "Gerd" Barkhorn cũng là phi công bắn hạ nhiều Ace
Liên Xô nhất ở Mặt trận phía Đông. Nguồn ảnh: Pinterest
Dù
có thành tích chiến đấu xuất sắc nhưng cuộc sống của Barkhorn ngày càng
trở nên căng thẳng và bế tắc hơn là hạnh phúc, trong những năm cuối
chiến tranh ông chỉ tham gia giảng dạy và đào tạo phi công Đức bằng kinh
nghiệm của mình. Thậm chí sau CTTG 2, Barkhorn cũng tiếp tục làm công
việc này trong Không quân Tây Đức. Nguồn ảnh: ThingLink.
Đứng
ở vị trí top 1 của Không quân Đức trong Chiến tranh Thế giới thứ 2
chính là Erich "Bubi" Hartmann còn được mệnh danh là “ác quỷ” của
Luftwaffe và là phi công Ace có thành tích chiến đấu xuất sắc nhất trong
lịch sử không quân thế giới với 352 lần bắn hạ máy bay đối phương,
trong đó 345 máy bay của Liên Xô và 7 của Mỹ. Nguồn ảnh: MiGFlug.
Tuy
nhiên niềm tự hào lớn nhất của Hartmann không phải là bắn hạ được nhiều
máy bay địch nhất mà lại là bảo vệ an toàn cho toàn bộ thành viên thuộc
phi đội tiêm kích của mình, khi ông không để mất bất cứ đồng đội nào
trong suốt thời gian tham chiến. Sau khi chiến tranh kết thúc, Hartmann
tiếp tục niềm đam mê bay của mình bằng công việc hướng dẫn bay dân sự
đến khi qua đời vào năm 1993. Nguồn ảnh: telenet.
Không quân Liên Xô đã vượt qua không quân phát xít Đức như thế nào?
VOV.VN - Ban đầu, không quân
Liên Xô lép vế trước đối thủ phát xít Đức. Nhưng sau đó, nhờ vào nhiều
bài học xương máu và nỗ lực lớn, họ đã đảo ngược tình thế.
Không
quân Liên Xô hứng chịu thất bại lớn nhất của họ trong giai đoạn đầu của
cuộc xâm lược do Hitler tiến hành ở mặt trận phía đông vào năm 1941.
Thảm họa này phơi bày các yếu kém hệ thống trong việc xây dựng không
quân Liên Xô. Quân đội Xô viết sau đó phải mất vài năm và rất nhiều công
sức mới loại bỏ được các điểm yếu này.
Lực lượng quân sự
Đức Quốc xã tiến vào lãnh thổ Liên Xô trong năm 1941 dưới sự yểm trợ
mạnh mẽ của không quân. Khi đó, một nhu cầu bức thiết đặt ra cho Hồng
quân là bắt kịp Luftwaffe (không quân Đức Quốc xã) về mặt công nghệ hàng
không. Thế nhưng nhiệm vụ này không dễ dàng chút nào.
Nỗ lực cải tiến
Năm 1942, sau khi Hồng quân Liên Xô hứng chịu nhiều thất bại trong giai đoạn đầu của cuộc Chiến tranh Vệ quốc,
các kỹ sư Xô viết đã tiến hành hiện đại hóa các máy bay mà lực lượng
không quân Liên Xô (khi đó thuộc lục quân) triển khai chiến đấu.
Các kỹ sư này đã
phải lao động cật lực để khắc phục nhược điểm kỹ thuật cơ bản của hàng
không Liên Xô – động cơ hoạt động yếu kém. Nỗ lực này ban đầu tưởng là
thành công ngay.
Các máy bay Yak của Liên Xô sánh được với các tiêm kích Đức về mặt tốc độ. Tuy nhiên, các trận chiến đầu tiên trên bầu trời Stalingrad
cho thấy còn quá sớm để ăn mừng. Các máy bay tiêm kích mới của Đức một
lần nữa khiến cho các phi công Liên Xô phải “ngồi chiếu dưới”. Mẫu máy
bay Messerschmitt của Đức đã đẩy lùi đáng kể cuộc chơi trở lại tình hình
của năm 1941.
Vì sao không quân Liên Xô thất bại trước phát xít Đức năm 1941?
VOV.VN - Khi phát xít Đức tấn
công Liên Xô vào năm 1941, cả lục quân và không quân Xô viết đều hứng
chịu thất bại nặng nề trong giai đoạn đầu.
Tình trạng lạc
hậu về công nghệ này có thể bù lại bằng sự vượt trội về số lượng. Theo
các ước tính của các chuyên gia Liên Xô, một máy bay Đức chọi được hai
máy bay Liên Xô. Quân đội Liên Xô vì thế đẩy nhanh đáng kể tốc độ sản
xuất máy bay tiêm kích, chấp nhận việc giảm sản xuất các loại máy bay
chiến đấu khác, như là máy bay cường kích và máy bay ném bom.
Đồng thời, Liên Xô tiếp tục hoàn thiện các mẫu máy bay vốn là thế mạnh của họ và đang tham gia tác chiến.
Tuy nhiên để giải
quyết tận gốc sự yếu kém, Liên Xô phải bắt tay chế tạo các máy bay mới
vào năm thứ 3 của cuộc chiến tranh vệ quốc chống phát xít.
Cuối cùng các máy bay tiêm kích Yak-3 và La-7 không những không chịu khuất phục mà còn vượt trội so với máy bay Đức.
Quá trình cải
tiến không đơn giản. Các nhược điểm cấu trúc vẫn còn và điều này khiến
tỷ lệ tai nạn của máy bay nằm ở mức cao. Đến cuối cuộc chiến tranh, hơn
15% đội bay của không quân Xô viết được xác định là có khiếm khuyết. Tuy
nhiên thông qua phép thử và sai, Hồng quân Liên Xô cuối cùng đã giải
quyết được tình trạng lạc hậu về chất lượng.
Bước nhảy từ số lượng lên chất lượng
Trong không chiến,
ưu thế số lượng không mang lại chiến thắng. Trên trời rất khó đè bẹp
đối thủ chỉ bằng số lượng. Trong trường hợp có khoảng cách về chất lượng
giữa đôi bên thì máy bay tiêm kích nào hiện đại hơn, cơ động hơn, dễ
tránh truy đuổi hơn sẽ dễ dàng tiêu diệt máy bay đối phương trong một
trận chiến riêng lẻ.
Điều này giải
thích thực tế là dù có số lượng áp đảo trong hầu hết các trận chiến lớn
của Thế chiến 2, không quân Liên Xô thường hứng chịu tổn thất lớn. Bộ tư
lệnh Xô viết nhanh chóng nhận ra thực tế này và tìm cách khắc phục. Cơ
cấu tổ chức của không quân đã được sắp xếp lại. Máy bay được phân về các
đơn vị không quân tách biệt, gắn với các tập đoàn quân và phương diện
quân tương ứng.
Phi công Mỹ giao chiến với phi công phát xít Đức trên bầu trời châu Âu
VOV.VN - Sau khi trở lại chiến
đấu, phi công tiêm kích Mỹ Gabby đã xông xáo tham gia nhiều trận không
chiến táo bạo, bắn hạ hàng chục máy bay phát xít Đức.
Không quân hợp tác ăn ý với các đơn vị lục quân và cố gắng lập công tập thể.
Liên lạc vô tuyến
điện giữa các phi đoàn và các máy bay riêng lẻ cũng được cải tiến.
Trước kia, các phi công cần nhất trí về cách phối hợp tác chiến ngay từ
khi họ còn ở trên mặt đất. Nhưng khi ở trên không gần như luôn xuất hiện
nhu cầu phải ứng biến và thay đổi tất cả đội hình chiến thuật. Về mặt
này các phi công Đức đã thực hiện liên lạc bằng vô tuyến điện để tổ chức
lại đội hình trên không một cách nhanh chóng.
Từ năm 1942-1943
trở đi, các phi công Liên Xô bắt đầu làm tương tự. Thay đổi này nhanh
chóng mang lại kết quả tích cực. Các tổn thất của không quân phát xít
Đức vào mùa hè và mùa thu năm 1942 vượt qua con số 7.000 máy bay – chiếm
hơn 70% tổng số thiệt hại trong thời kỳ này.
Chinh phục bầu trời
Các trận không chiến giai đoạn 1942-1943 trên bầu trời vùng Volga và Kursk diễn ra với mức độ thành công khác nhau.
Hồng quân bắt đầu
quá trình phát triển các kỹ thuật không chiến, điều chỉnh cách thức
liên lạc và hợp tác bên trong các phi đoàn. Các kỹ sư đã hỗ trợ tích cực
cho quá trình này. Năm 1943 các máy bay Liên Xô bắt đầu được trang bị
các điện đài mới, cũng đóng vai trò radar.
Hoạt động của
ngành chế tạo máy bay Liên Xô đạt tới mức độ tối đa: Số lượng các động
cơ được sản xuất lớn gấp 3 lần số động cơ bị mất trong chiến đấu. Đến
năm 1944 ưu thế của đội bay tiêm kích Liên Xô đạt tới mức độ áp đảo đối
phương. Hệ quả là, quân Đức buộc phải thực hiện các biện pháp như cắt
giảm đáng kể quy mô của lực lượng máy bay ném bom và tăng cường lực
lượng tiêm kích.
Quân Đồng minh đã
hỗ trợ đáng kể máy bay cho Liên Xô. Các phi cơ tiêm kích Mỹ và Anh được
gửi cho Liên Xô thông qua chương trình Lend-Lease, số lượng lên tới mức
chiếm 13% tổng số các động cơ tương ứng được sản xuất ở Liên Xô. Trong
số đó có các máy bay nổi tiếng như Air Cobra và King Cobra. Phi công
Liên Xô lừng danh Alexander Pokryshkin được cho là từng lái một trong
các chiếc Air Cobra đó.
Lao động cật lực
cộng với sự hỗ trợ của đồng minh đã đem lại kết quả lớn: Đến cuối năm
1944, lực lượng không quân của Hồng quân đã làm chủ bầu trời. Đây là cơ
sở cho sự hình thành một trong các lực lượng không quân tiên tiến nhất trên thế giới./.
Nhận xét
Đăng nhận xét