Chỉ vài mét phía dưới thủ đô
hiện đại của Mexico, một loạt các đền thờ, cung điện và hiện vật từ một
vương quốc cổ đại đang được khai quật.
Nằm sâu khoảng 7 m bên dưới Nhà thờ Chính tòa của thành phố Mexico City là một trong những ngôi đền lớn nhất và lâu đời nhất ở khu vực Mỹ Latin.
Kể từ khi được phát hiện vào những năm 1970, công chúng vẫn không thể
chiêm ngưỡng nơi này. Giờ đây, khu vực này đã cho phép du khách vào
khám phá những bí mật cổ xưa ẩn dấu ngay bên dưới đô thị hiện đại bậc
nhất Mexico.
Gần 500 năm sau khi vị tướng người Tây Ban Nha Hernán Cortés chiếm
thủ đô Tenochtitlan của người Aztec, phần còn lại của đô thị cổ này đã
tiếp tục ẩn mình bên dưới thành phố Mexico City ngày nay.
Người Tây Ban Nha bắt đầu xây dựng Nhà thờ Chính tòa vào năm 1573
phía trên ngôi đền linh thiêng của người Aztec (hay Mexica như cách họ
tự gọi bản thân) như một biểu tượng cho sự chinh phục của họ.
Bên trong nhà thờ chính tòa thành phố Mexico. Ảnh: Lucas Vallecillos/Alamy/BBC.
Việc các công nhân điện lực vô tình phát hiện một tảng đá nguyên
khối khổng lồ gần nhà thờ vào năm 1978 đã dẫn đến một cuộc khai quật kéo
dài 5 năm. Ngôi đền đặc biệt Templo Mayor đã được phát hiện trong cuộc
khai quật này.
Việc phát hiện ngôi đền và các ghi chép cũ của Tây Ban Nha về bố cục
thủ đô của Mexica đã giúp các nhà khảo cổ xác định rằng có thể có nhiều
công trình thuộc thời kỳ trước khi Tây Ban Nha xâm lược bị chôn vùi gần
đó.
Những phát hiện bất ngờ
Từ năm 1991, Chương trình Khảo cổ Đô thị (PAU), dẫn đầu bởi nhà khảo
cổ học Raúl Barrera Rodríguez, đã làm việc không ngừng nghỉ để khai quật
khu vực rộng 500 m2 nhằm tìm lại Tenochtitlan.
Theo luật, bất cứ khi nào công nhân sửa chữa đường ống nước hoặc lắp
đặt dây cáp điện dưới lòng đất ở trung tâm thành phố Mexico, Viện Nhân
chủng học và Lịch sử phải được thông báo để các nhà khảo cổ học có thể
giám sát hoạt động.
Nhiều công trình tiếp tục được tìm thấy ở trung tâm thành phố Mexico. Ảnh: BBC.
“Luật pháp tạo điều kiện cho ngành khảo cổ học”, tiến sĩ Eduardo
Matos Moctezuma, người chỉ đạo cuộc khai quật tại El Templo Mayor bắt
đầu năm 1978, nói. Mặc dù luật pháp khiến công việc trở nên phức tạp
hơn, cũng đảm bảo rằng mọi cổ vật đều được bảo vệ.
Nhiều công trình tiếp tục được tìm thấy ở trung tâm thành phố. Việc
cải tạo một tòa nhà phía sau nhà thờ vào năm 2015 đã giúp PAU khám phá
ra el gran tzompantli: một kệ chứa sọ người dài 35m. Nơi đây từng có
những cột gỗ người Mexica dùng để trưng bày hộp sọ của những người bị
hiến tế.
Trong hai năm khai quật, gần 700 hộp sọ đã được phát hiện. Bên cạnh
đó, các nhà khảo cổ cũng tìm thấy một khu vực đầy các hố dùng để cắm các
cột gỗ đựng đầy sọ.
Một kệ chứa sọ người dài 35 m, nơi đựng hộp sọ của những người bị hiến tế đặt bên ngoài Templo Mayor. Ảnh: BBC.
Vào năm 2017, các nhà khảo cổ đã kêu gọi cải tạo một khách sạn trong
trung tâm thành phố. Tại đây, họ đã phát hiện ra một sân bóng cổ, nơi
người Mexica chơi trò Juego de Pelota bằng hông. Đầu năm nay, một số lễ
vật hiến tế - bao gồm bộ xương của một cậu bé mặc trang phục của
Huitzilopochtli, vị thần chiến tranh của người Mexica - đã được phát
hiện ở bậc thang của Templo Mayor. Xương của báo đốm, các tầng vỏ sò và
san hô cũng đã được tìm thấy.
Điều này khiến các nhà khảo cổ học tin rằng họ gần tìm thấy lăng mộ
của Ahuitzotl, hoàng đế người Mexica trị vì từ năm 1486 đến 1502.
Ông Barrera hy vọng sẽ đạt được thỏa thuận với chủ sở hữu các tòa nhà
nằm phía trên sân bóng và kệ sọ người để những dấu tích này có thể được
trưng bày trong các bảo tàng ngầm dưới lòng đất. Kể từ năm 2018, du
khách có thể xuống bên dưới thánh đường vào thứ hai, thứ ba, thứ sáu để
xem các ngôi đền đã được khai quật.
Đi theo các vết nứt để tìm kim tự tháp
Ngoài nhà thờ chính tòa, các di tích văn hóa Trung Mỹ còn có thể được tìm thấy ở một số nơi khác thường ở Mexico City.
Khi đổi tuyến tàu điện ngầm tại ga Metro Pino Suárez, bạn sẽ đi qua
một kim tự tháp để tôn thờ Ehécatl, vị thần gió của người Mexica. Trên
đường ra khỏi bãi đậu xe ngầm tại một trung tâm mua sắm ở khu vực
Tlatelolco, cách trung tâm thành phố 4 km, bạn sẽ thấy một kim tự tháp
khác tôn thờ Ehécatl.
Nhờ các ghi chép do người Tây Ban Nha để lại và các biên niên sử chi
tiết được viết bởi một số tu sĩ dòng Franciscan và người Mexica, các nhà
khảo cổ học đã nắm được nơi chôn cất các đền thờ và cổ vật Aztec.
Các nhà khảo cổ đã dựa vào các ghi chép của người Tây Ban Nha và Mexica để lập bản đồ thành phố cổ Tenochtitlán. Ảnh: BBC.
Ngay cả khi biết được những thứ đang tồn tại dưới lòng đất, việc khai
quật ở một thành phố như thủ đô Mexico City không phải một điều dễ
dàng. Người Aztec đã xây dựng đô thị lớn của họ trên một hòn đảo nhỏ
giữa hồ.
“Ở một số nơi trong thành phố, chúng tôi tìm thấy nước ở độ sâu 5
m”, ông Barrera giải thích. Điều này có nghĩa là phần lớn trung tâm
thành phố đang chìm khoảng 5 - 7 cm mỗi năm, thậm chí lên tới 40 cm mỗi
năm ở một số khu vực khác.
“Nhiều năm trước có một vấn đề. Nhà thờ lớn bắt đầu chìm xuống và các
bức tường bắt đầu bị nứt vì có những công trình thời kỳ trước khi Tây
Ban Nha xâm lược nằm bên dưới”, ông Matos giải thích. Mặc dù việc sụt
lún gây hư hại các công trình thời thuộc địa, nó giúp các nhà khảo cổ
xác định được có các công trình thuộc văn hóa Trung Mỹ.
“Chúng tôi có thể nhìn thấy các vết nứt trong các tòa nhà”, ông
Barrera nói. “Và chúng tôi biết nếu chúng tôi đi theo các vết nứt đó,
chúng tôi có thể tìm thấy một kim tự tháp”.
Người Aztec vẫn hiện diện trong cuộc sống hiện đại
Có vẻ như một số người cho rằng việc khai quật ở một thành phố bận
rộn, đang sụt lún và dễ bị động đất mang lại nhiều rắc rối hơn là có
ích.
“Những người phản đối như vậy đang phủ nhận lịch sử của chính họ”,
ông Matos nói. Những cuộc khai quật này tiết lộ rằng thành phố Mexico
ngày nay có nhiều điểm tương đồng với Tenochtitlán thời cổ đại.
Nhiều tòa nhà ở trung tâm của đô thị ngày nay có chức năng tương tự
cách đây gần 700 năm. Nhà thờ của người Tây Ban Nha được xây dựng trên
đỉnh đền của người Mexica. Trong khi đó, Cung điện Quốc gia Mexico, nơi
tổng thống đang sống, được xây trên tàn tích cung điện của Moctezuma II,
vị hoàng đế Mexica bị giết trong giai đoạn đầu cuộc chinh phạt của
người Tây Ban Nha.
“Đây là một điều rất quan trọng bởi vì nó vẫn là biểu tượng của quyền lực, từ Moctezuma II cho đến ngày nay”, ông Barrera nói.
Gần 700 năm sau, một số người Mexico vẫn kỷ niệm ngày thành lập thủ đô cổ đại của Mexico, Tenochtitlán. Ảnh: BBC.
Ông Barrera cũng nói về một trường đại học được xây dựng tại nơi từng
là ngôi trường của người Aztec. Bên cạnh đó, thành phố của người Mexica
từng có một quảng trường trung tâm đóng vai trò tương tự quảng trường
Zócalo thời nay.
“Người Aztec vẫn hiện diện trong cuộc sống hàng ngày của chúng tôi", ông Barrera giải thích.
Mở nắp 30 quan tài cổ, sốc với những gì ở bên trong
Thứ Ba, ngày 22/10/2019 08:05 AM (GMT+7)
Các nhà khảo cổ học vừa mở nắp 30 quan
tài cổ 3.000 năm tuổi được phát hiện ở nghĩa địa Asasif của Ai Cập và vô
cùng bất ngờ khi thấy các xác ướp bên trong còn nguyên vẹn, được bảo
quản hoàn hảo.
Các quan tài cổ được mở nắp vào hôm 19/10, một tuần sau khi chúng
được khai quật tại nghĩa địa Asasif của Ai Cập, nơi thành phố cổ Thebes
từng tồn tại.
Nhóm khảo cổ đã tình cờ phát hiện ra những chiếc quan tài trong khu
đô thị Asasif, chính phủ Ai Cập tuyên bố. Asasif thuộc thành phố
cổ Thebes (nay là thành phố Luxor) - nơi từng là kinh đô nhộn nhịp, đông
đúc của Ai Cập cổ đại.
Những chiếc quan tài cổ trên được ước tính đã có 3.000 năm tuổi, lâu
đời hơn hầu hết các di tích cổ khác trong khu vực. Tuy nhiên, khi được
tìm thấy, chúng vẫn được niêm phong kín và nguyên vẹn, ngay cả tranh vẽ
và chữ khắc cũng còn nguyên chứng tỏ chúng được bảo quản rất tốt.
Các nhà khảo cổ đã mở các quan tài trong một buổi lễ hôm 19/10 và bất
ngờ phát hiện các xác ướp được bảo quản hoàn hảo bên trong. Các bản
khắc phức tạp chỉ ra rằng các xác ướp này khi còn sống đã từng là những
người rất được kính trọng, yêu mến, có khả năng là linh mục và trẻ em.
Những chiếc quan tài sẽ được phục hồi và trưng bày tại Bảo tàng Ai
Cập Vĩ đại, dự kiến sẽ mở cửa gần kim tự tháp Giza vào năm tới.
Theo Minh Nhật (Dân Việt)
Cho nổ quan tài đá 90 tấn được người Ai Cập cổ tôn thờ, sửng sốt với thứ bên trong
Chủ Nhật, ngày 01/09/2019 10:00 AM (GMT+7)
Khi cho nổ
nắp quan tài đá 90 tấn, các nhà khảo cổ vô cùng ngạc nhiên với con vật
lộ diện bên trong, được người Ai Cập cổ đại thờ như một vị pharaoh.
Tờ Daily Star hôm 31/8 đưa tin, chiếc quan tài đá khổng lồ được tìm
thấy trong lăng mộ thuộc khu chôn cất cổ xưa Saqqara, Ai Cập. Trong phần
mới nhất của loạt chương trình "Những kho báu lớn nhất của Ai Cập", nhà
sử học Anh Bettany Hughes đã hé lộ chi tiết về thứ bên trong quan tài
90 tấn.
Năm 1850, nhà khảo cổ học Auguste Mariette phát hiện chiếc đầu nhân
sư nhô ra khỏi cồn cát sa mạc. Sau khi dọn cát và đi theo con đường lớn,
Mariette phát hiện ra khu chôn cất. Sau khi vượt qua hàng loạt đường
hầm, Mariette tìm thấy một lăng mộ chưa từng bị xáo trộn năm 1851.
"Có hàng trăm mét đường hầm được xây dựng để tạo ra thứ gì đó khác
thường. Đây là một cung điện dưới lòng đất và nó không phải một cung
điện bình thường. Nó là cung điện dành cho thứ gì đó đã chết. Những gì
bạn thấy ở đây là một cỗ quan tài khổng lồ. Nó được làm hoàn toàn từ đá
granit và nặng khoảng 90 tấn. Chắc hẳn các bạn sẽ tự hỏi: Sinh vật nào
sẽ được chôn trong này?", nhà sử học Hughes nói trong chương trình.
Quan tài đá khổng lồ trong lăng mộ ở Ai Cập
Bà Hughes còn lý giải cách các nhà nghiên cứu phát hiện ra thứ kỳ quái trong lăng mộ.
"Các nhà khảo cổ chưa từng thấy chiếc quan tài đá nào lớn như vậy và
nóng lòng muốn tìm hiểu thứ giấu bên trong. Những quan tài khác trong
lăng mộ đều bị cướp sạch nhưng các nhà khảo cổ nhận thấy một chiếc quan
tài đá khổng lồ vẫn còn nguyên. Năm 1851, nhóm nghiên cứu của Mariette
sử dụng thuốc nổ để mở nắp quan tài và phát hiện xác ướp con bò đực
khổng lồ bên trong.
Người Ai Cập cổ đại tôn thờ những con bò đực vì nghĩ rằng chúng là
sinh vật siêu nhiên, đầy ma thuật. Khi còn sống, chúng được đối xử như
thần thánh. Khi chết, được ướp xác và chôn cất không khác các pharaoh.
Trong lăng mộ có khoảng 24 quan tài đá khổng lồ và hãy thử nghĩ xem
phải tốn bao công sức mới đưa được chúng xuống đây. Nhưng đây mới chỉ là
một phần nhỏ tại "Thành phố của người chết" Saqqara, vẫn còn nhiều điều
chưa được khám phá hết tại đây", nhà sử học Anh cho hay.
Người Ai Cập cổ đại tôn thờ bò đực
Mới đây, bà Hughes cũng hé lộ chi tiết sốc dẫn tới cái chết của pharaoh Ramses III sau quá trình chụp cắt lớp xác ướp.
Theo đó, pharaoh thứ hai của triều đại thứ 20 thời kỳ Ai Cập cổ đại,
trị vì trong khoảng thời gian từ năm 1186 đến 1155 trước Công nguyên,
chết không phải vì nguyên nhân tự nhiên mà là bị ám sát.
Những câu
chuyện mà tôi sắp kể ra đây có nhiều chi tiết được ghi rành rành trong
sổ sách của CSGT và cũng nhiều chi tiết được kể lại từ sự chứng kiến của
người dân.
Những sự trùng hợp kỳ lạ về
những cung đường chết chóc ấy dù tôi đã cố gắng tìm kiếm thông tin, hỏi
han nhiều người nhưng vẫn không sao lý giải được thỏa đáng.
Từ những vụ tai nạn hy hữu
Trời nhập nhoạng tối, gió hun hút thổi trên con
đường ngoằn ngoèo rậm rạp bóng cây. Anh Tuyến – người lái xe ôm ở đầu
đường Quốc lộ 70, đoạn qua xã Đại Mỗ, Từ Liêm, Hà Nội xốc lại cổ áo,
chuẩn bị ra về.
Từ bên kia đường, có người phụ nữ trạc 30 tuổi,
bụng bầu vượt mặt hớt hải gọi: “Anh ơi, chở giúp tôi xuống Hoài Đức
với”. Anh Tuyến ngoảnh lại, nhìn trời đất, lòng thầm nhủ: “Giờ này về
Hoài Đức mà qua miếu Đường Vòng là ớn lắm đây”. Anh ngần ngại định chối
từ nhưng rồi tặc lưỡi: “Mình sống lương thiện thì sợ gì ma mãnh, cố nốt
chuyến này rồi về nghỉ”.
Miếu Đường Vòng với vô vàn câu chuyện rùng rợn.
Anh
Tuyến giữ ga, điều khiển xe chạy thật chậm trên con đường hun hút gió.
Miếu Đường Vòng mờ hiện ra trước mặt. Bỗng nhiên có một cơn gió quẩn,
lốc bụi vào mặt anh. Anh Tuyến loạng choạng đạp phanh nhưng cần phanh
cứng đơ. Anh đứng cả người trên xe, hối hả nhấn phanh nhưng vẫn không có
tác dụng gì. Chiếc xe như bị ai đó nhấc bổng lên rồi hất văng ra vạt
cỏ. Cả anh và người khách đằng sau bị quật mạnh xuống đất.
Người phụ nữ mang bầu lăn lốc trên nền ruộng khô.
Nhưng một sự may mắn thần kỳ đã xảy ra. Cú ngã quăng người mạnh như thế
nhưng người khách không hề hấn gì, anh Tuyến không bị làm sao, chiếc xe
cũng chỉ bị xây xước nhẹ. Anh Tuyến lồm cồm bò dậy, mặt tái dại, miệng
lắp bắp: “Thánh thần trong miếu lại trêu ghẹo tôi rồi”.
Cần có nhiều hơn nữa những cảnh báo này.
Đó là một trong rất nhiều những vụ tai nạn kỳ lạ
xảy ra tại khúc đường qua ngôi miếu hoang mà người dân địa phương gọi là
miếu Đường Vòng nổi tiếng linh thiêng.
Trung úy Nguyễn Văn Sơn, Cảnh sát Giao thông, Công an
huyện Từ Liêm đã có một thời gian làm nhiệm vụ điều khiển giao thông
trên đoạn đường qua khu vực miếu Đường Vòng đã vài lần chứng kiến những
vụ tai nạn thương tâm khi đang làm nhiệm vụ ở đây. Trung úy Sơn khẳng
định: “Những vụ tai nạn thường xuyên xảy ra trên cung đường này hoàn
toàn có thể lý giải được. Mặt đường nhỏ, vòng cua hình chữ S, chỉ cần
không chú ý giảm tốc độ là có thể xảy ra. Bên cạnh đó, tại những khúc
cua gấp không đặt gương cầu, chỉ cần hai xe có trọng tải lớn đi qua là
có thể chiếm hết mặt đường, rất khó tránh nhau nên hay xảy ra tai nạn.
Không hề có những tai nạn bất thường nào xảy ra ở khu vực này”.
Từ những hiện tượng thực tế cộng thêm nhiều lời đồn
thổi trong dân gian, những câu chuyện hư hư, thực thực về ngôi miếu
hoang này được thêu dệt làm dựng tóc gáy bất cứ ai đã từng nghe.
Truyền kỳ miếu hoang
Câu chuyện kể lại của ông Nguyễn Văn Xuyền, 70
tuổi, bán nước cạnh miếu Đường Vòng đã mấy chục năm nay làm ai nghe cũng
nổi da gà. Chính ông là người đã từng chứng kiến không biết bao nhiêu
vụ tại nạn tại cung đường này.
Ông Xuyền kể: “Tôi cũng không biết, chỉ nghe các cụ
cao tuổi trong làng kể lại rằng, bãi đất chỗ miếu Đường Vòng trước kia
là nơi quy tập, chôn cất những nạn nhân chết đói năm 1945. Xác người
chất thành đống, không rõ quê hương bản xứ”.
Theo lời ông Xuyền, trong những xác người được đem
chôn cất ở đây, nhiều người khi đó vẫn còn sống, có nghĩa là họ bị chết
oan. Họ được chôn trần, không áo quan, không khâm liệm gì cả.
Ngày trước, cạnh khu vực miếu Đường Vòng có một đầm
lớn, rất nhiều tôm cá. Thời thanh niên, ông Xuyền hay ra đây thả lưới
bắt cá hàng đêm. Ông kể: “Đã không biết bao nhiêu lần tôi bị “ma trêu”,
dựng giường, hay lấy cắp mất chài lưới.
Có lần, vào lúc nửa đêm, qua ánh trăng mờ ảo, chính
ông đã thấp thoáng trông thấy một toán người nằm ngổn ngang cạnh mép
đầm, miệng rên rỉ: “Ông ơi, cho tôi ăn đi, tôi đói lắm”. Tưởng có người
gặp nạn, ông Xuyền đốt đèn kỳ rồi chạy lại phía đó. Ông soi đèn tìm mỏi
mắt nhưng không thấy bóng dáng một ai, chỉ toàn đám cỏ lau lách vượt
quá đầu người.
Nhiều đêm sau nữa, mỗi lần đi đánh cá khuya, ông
thường trông thấy những bóng người và những tiếng rên rỉ như thế. Ông
hãi quá, đốt hương, cúng lễ mặn thì những đêm sau bóng người và tiếng
rên rỉ tự nhiên biến mất”.
Nhiều người khẳng định, những vong hồn chết đường,
chết chợ không người thân thích hương khói thường rất linh thiêng. Ở
miếu Đường Vòng, có quá nhiều vong hồn như thế nên sự linh thiêng ấy
càng rõ rệt.
Người dân mỗi lần đi qua đều lẳng lặng, tự nguyện vứt
xuống đó một viên gạch. Cánh lái xe chở vật liệu xây dựng nghe kể
chuyện cũng “ớn” nên mỗi lần đi qua xúc xuống đó dăm ba xẻng cát, có khi
là cả một bao xi măng. Lâu dần, chỗ gạch cát đó chất thành đống, người
dân tự bảo nhau cất ngay tại đó một ngôi miếu nhỏ để tiện việc thờ cúng
hương khói.
Từ đó, những bóng người bí hiểm không còn thấy xuất hiện nữa, thế nhưng những vụ tai nạn giao thông thì vẫn thường xuyên xảy ra.
Nỗi ám ảnh đằng sau những bóng ma
Mật độ tai nạn trầm trọng hơn nhiều phải kể đến
khúc đường chạy qua mả Ông Đống trên Quốc lộ 39, đoạn qua xã Tân Dân,
huyện Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên. Từ nhiều năm nay, tại khúc đường này,
tai nạn giao thông nhiều đến nỗi nó như là chuyện “thường ở huyện”. Theo
phản xạ tự nhiên, người ta chỉ cần nghe thấy một tiếng động mạnh là
biết ngay đó là tai nạn.
Điều đặc biệt là những vụ tai nạn ấy chỉ xảy ra tại đúng một điểm, cạnh mô đất nhô lên, có cây bạch đàn nhỏ.
Nhiều thầy địa lý nổi tiếng cao tay trong vùng đã
bấm số mà phán rằng: “Tại khúc đường đó có một ngôi mả thiêng, cánh phu
làm đường khi xưa khi thi công đúc móng đường đã vô tình làm kinh động
đến người nằm dưới mộ. Vong hồn nổi giận nên thường “chơi khăm”, bịt mắt
người đi đường, giật tay lái gây tai nạn. Nếu không trấn yểm kịp thời,
chắc chắn sẽ còn nhiều người nữa bỏ mạng tại khúc đường này”.
Miếu Ông Đống là nỗi kinh hoàng của nhiều lái xe qua khúc đường này.
Theo nhiều người dân xã Tân Dân kể lại, ngôi mộ đó
là ngôi mộ của một đại địa chủ giàu có khét tiếng ngày xưa. Vì thời thế
loạn lạc, người này đã tán gia bại sản, mất hết ruộng đất, trâu bò, gia
đình ly tán đến nỗi phải đi ăn mày mà kiếm sống. Trong một đêm mưa gió,
ông lang thang đến đây rồi kiệt sức, chết bên vệ đường. Thời gian
nghiệt ngã đi qua, mưa gió, đất cát cốn lên vùi xác người sâu dưới lòng
đất mà không ai biết để có thể hương tuần rằm.
Có lẽ những ẩn ức của ông ta khi còn sống không được
siêu thoát nên vong hồn vẫn lẩn khuất trên cõi dương gian mà “trêu đùa”
người sống.
Biết ở nơi đó có
mả thiêng nên chẳng ai dám khai quật làm kinh động đến ông. Anh Minh,
chủ quán cơm đầu đường kể: “Là người ta đồn đại thế thôi chứ không biết ở
đó có xác người thật không. Thế nhưng, vì tai nạn quá nhiều nên người
làng xây ngay tại đó một ngôi miếu nhỏ, thắp hương đều đặn. Nhiều người
qua đường không biết nhưng thấy ngôi miếu lạnh lẽo cũng dừng xe thắp ở
đó vài nén nhang. Miếu Ông Đống từ lâu đã nổi tiếng khắp vùng vì sự linh
thiêng”.
Cánh tài xế chở hàng biết chuyện, qua lại đoạn đường
đó đều giảm tốc độ, cho xe từ từ bò qua, không dám hỗn hào. Đang hút
thuốc họ phải dập bỏ ngay, cởi trần thì phải mặc áo cài khuy cẩn thận,
mở nhạc thì phải vặn nhỏ volume. Họ truyền tai nhau một quy ước bất
thành văn: “Đi qua chốn linh thiêng thì phải biết cúi đầu”.
Thế nhưng, tai nạn tại miếu Ông Đống vẫn không hề
thuyên giảm. Có nhiều vụ ngã xe chết người vô lý đến kỳ quặc. Giữa ban
ngày, trên con đường thẳng tắp giữa cánh đồng vắng, có người phụ nữ lái
xe với tốc độ rất chậm nhưng qua khúc đường này vẫn bị ngã văng vì mất
lái. Cú ngã rất nhẹ, chiếc xe máy chẳng xây xước gì nhưng người phụ nữ
thì đập gáy vào hòn đá nhỏ, chết luôn tại chỗ.
Điều gì đằng sau những tai nạn thương tâm?
Hãi hùng hơn cả là vụ tai nạn kinh hoàng giữa xe
máy và xe ben vào hồi đầu tháng 5/2009 tại miếu Ông Đống làm nhiều người
choáng váng đến tận bây giờ.
Trên con đường nhựa thẳng tắp xuyên qua đồng lúa
rộng mênh mông không một khúc cua có chiếc xe ben lặc lè chở cát, lầm
lũi bám đường tiến lại. Phía ngược chiều, chẳng hiểu từ đâu, một chiếc
xe máy cũng rầm rập phi tới. Chiếc xe máy như bị một lực đẩy vô hình,
lồng lên rồi bất thần táp mạnh vào hông xe ben. Xe máy văng mạnh xuống
bờ ruộng, xe ben thắng gấp, mất đà rồi đổ ụp thùng sau xuống mặt đường.
Nghe tiếng động mạnh, người dân đang gặt lúa trên
cánh đồng hò nhau chạy tới cứu người. Cạnh lề đường, hai thanh niên đi
xe máy chết ngay tại chỗ. Tay tài xế xe ben hoảng quá, vứt lại chìa khóa
cùng giấy tờ xe rồi cuống cuồng băng đồng chạy trốn.
Tại hiện trường, người ta phát hiện ra cạnh xác chết
của hai thanh niên đi xe có tận 4 đôi dép dính máu. Hai đôi của hai nạn
nhân, một đôi của gã tài xế đã bỏ trốn còn một đôi dép nữa không hiểu là
của ai.
Lúc đó, trời bỗng đổ cơn mưa tầm tã, cát từ thùng
chiếc xe ben theo dòng nước trôi đi. Mọi người hãi hùng trông thấy vài
vệt máu đỏ thẫm chảy ra từ thùng xe bị lật úp. Họ hò nhau lật thùng xe
lên và bàng hoàng phát hiện thấy một người nữa bị vùi trong cát, đã chết
từ bao giờ.
Nói về hiện tượng này, ông Nguyễn Minh Giảng, Phó chủ
tịch xã Đại Mỗ, huyện Từ Liêm khẳng định: “Hiện tượng có nhiều vụ tai
nạn xảy ra tại khúc cua miếu Đường Vòng là có thật. Nhưng theo chúng
tôi, nó không hề kỳ lạ mà có nguyên nhân khách quan”.
Ông Giảng giải thích rằng: “Khúc đường này có hình
chữ S, tức là có hai khúc cua liền, vặn trái chiều nhau. Nhiều người
không quen đường sau khi đi hết vòng cua thứ nhất tưởng rằng đường phía
trước là đường thẳng nên cứ thế tăng tốc rồi gây tai nạn. Bên cạnh đó,
đoạn đường này lại vắng nên nhiều người đã chủ quan phóng nhanh vượt ẩu
nên thường xảy ra tai nạn”.
Để giảm thiểu tình trạng tai nạn giao thông, chính
quyền xã Đại Mỗ đã đề nghị lực lượng Cảnh sát Giao thông chặt hết những
cây to, tán lớn che khuất tầm nhìn của người đi đường. Đó chỉ là cách
khắc phục tạm thời, những hạn chế của khúc đường này chứ chưa giải quyết
được triệt để nên thỉnh thoảng vẫn có vài vụ tai nạn giao thông xảy ra
tại đây.
Những vụ tai nạn thương tâm như vậy rất có thể là do
sự chủ quan của người điều khiển phương tiện giao thông. Thế nhưng, về
mặt xã hội, những cái miếu ấy xem như “biển báo” cho người điều khiển xe
trên đường biết rằng “nơi đây thường xảy ra tai nạn chết người rùng
rợn”.
Cũng có thể, chuyện oan hồn xô đẩy dẫn đến tai nạn
giao thông chết người là chuyện hoang đường do một số người chứng kiến
tai nạn bị ám ảnh. Tuy nhiên, nếu tham gia giao thông đến đoạn đường có
cất miếu oan hồn ven đường, chúng ta cần tin rằng, nơi ấy đã từng xảy ra
những vụ tai nạn giao thông thảm khốc.
Nếu không tin vào những chuyện huyền bí, hoang
đường, bạn cũng nên tin rằng, đoạn đường ấy tồn tại nhiều vấn đề về độ
an toàn như: Tán cây che khuất tầm nhìn, mặt đường có ổ gà, chiều ngang
đường bị hẹp, mặt đường trơn… Đó là tác nhân tạo nên những vụ tai nạn
giao thông chết người. Hãy cẩn thận tay lái và giảm tốc độ khi trông
thấy miếu oan hồn.
Con đường "ma" ở Tiền Giang và những bí ẩn lần đầu được tiết lộ
Thứ tư, 26/11/2014 | 18:57 GMT+7
(ĐSPL) - Những câu chuyện đồn thổi về "oan hồn"
ở con đường mang tên Lộ Ma đã trở thành những "giai thoại" ly kỳ khiến
người dân tỉnh Tiền Giang một thời sợ hãi. Vì "thần hồn nát thần tính",
nhiều người dân nơi đây không dám bén mảng hay qua lại khu vực đường Lộ
Ma. Miếu Cây Gạo cũng được hình thành từ đó để người dân quanh vùng
hương khói cho những người đã khuất.
Tuy nhiên, sự thật về con đường có vẻ như đáng sợ này lại không giống như những "giai thoại" mà người dân nơi đây đồn thổi.
Những câu chuyện ly kỳ
Những
ngày cuối năm, tìm về thành Định Tường cũ (nay là TP.Mỹ Tho, tỉnh Tiền
Giang), PV được nghe người dân nơi đây kể không ít câu chuyện ly kỳ rùng
rợn về con đường mang tên Lộ Ma. Theo tìm hiểu của PV, con đường "ma"
mà người dân nơi đây nhắc tới chính là đường Thái Sanh Hạnh (trước đây
gọi là Lộ Ma, giáp ranh giữa phường 8 và phường 9, TP.Mỹ Tho).
Được
biết, một thời gian dài, nhiều người dân nơi đây không dám đi ngang qua
con đường này, bởi họ nghe kể về những lời khóc than văng vẳng của ai
đó nghe lạnh người.
Lộ Ma cũ nay là đường Thái Sanh Hạnh (ảnh Thơ Trịnh).
Bà
Nguyễn Thị Bé (60 tuổi, ngụ huyện Chợ Gạo, tỉnh Tiền Giang) cho hay:
"Vào đầu những năm 1990, người dân Tiền Giang vẫn rỉ tai nhau những câu
chuyện về "oan hồn" trên con đường Lộ Ma. Theo đó, người ta đồn thổi
rằng có người thấy "ma" không đầu thường ngồi vắt vẻo trên gốc cây gạo
với bộ đồ trắng toát và trêu khi thấy bóng dáng ai đi ngang qua đây".
Không
những thế, anh Nguyễn Văn Minh (46 tuổi, ngụ TP.Mỹ Tho) còn cho biết:
"Ông bà tôi còn kể lại mỗi khi đi ngang qua đoạn đường này, ai cũng
khiếp sợ khi nghe như có tiếng ai đó than khóc nức nở. Tưởng có người
gặp nạn, mọi người len lỏi đi tìm trong các bụi rậm. Thế nhưng, tìm mãi
vẫn không thấy người phát ra tiếng khóc héo hắt ấy nên mọi người mới sực
tỉnh nghĩ đó là "oan hồn". Cứ như thế, dù là ban ngày cũng ít ai dám
lui tới con đường đó".
Là người sống ở
khu vực này từ thời còn hoang vắng, ông Tám (ngụ TP.Mỹ Tho) cho hay:
"Có nhiều lần, tôi đi bắt cá, hái củi ở gần con đường Lộ Ma đã vô cùng
hoảng sợ khi thấy như có bóng người lủng lẳng trên cây me. Quá hãi hùng,
chúng tôi đã bỏ củi, bỏ cá chạy thục mạng. Hồi đó, khu vực này khá vắng
vẻ, hoang vu nên người ta càng sợ hãi hơn".
Vì
nghĩ rằng đã có không ít người chết oan ở khu vực con đường Lộ Ma nên
người dân nơi đây đã lập một miếu nhỏ dưới gốc cây gạo (hay còn gọi là
miếu Cây Gạo) để hương khói cho những cô hồn. Bà Nguyễn Thị Hồng (55
tuổi, ngụ TP.Mỹ Tho) cho biết: "Người ta đồn rằng, mỗi khi đi ngang qua
miếu Cây Gạo, mọi người phải đi đứng, ăn nói nhỏ nhẹ và cúi đầu vái lạy.
Nhưng có nhiều người vì không tôn trọng, nhạo báng miếu Cây Gạo, nên đã
bị loạn trí buộc phải nhờ các sư thầy cúng bái mới khỏi bệnh".
Sự thật được hé lộ...
Để
giải mã những câu chuyện ly kỳ nói trên về Lộ Ma, PV quyết định đi tìm
những người dân sống lâu nhất ở đây. Là một trong những người dân đầu
tiên đến sống gần khu vực đường Lộ Ma, ông Nguyễn Văn Hợi (SN 1932, ngụ
phường 8, TP.Mỹ Tho) cho hay: "Năm 1949, tôi về đây sinh sống thì xung
quanh con đường Lộ Ma rất hoang vắng. Lúc bấy giờ, tìm một người hàng
xóm ở đây quả là hiếm hoi, cây cỏ rậm rạp, mọc nhiều hơn người. Theo đó,
đường sá bị cây cối che phủ khiến người dân gặp nhiều khó khăn khi đi
lại nơi đây".
Nhớ lại cuộc sống của
người dân tại khu vực đường Lộ Ma thời hoang vu ấy, ông Hợi cho hay:
"Cuộc sống của người dân ở đây lúc bấy giờ vô cùng khó khăn. Mọi người
tồn tại bằng nghề cá bắt dưới vũng sâu và hái rau dại làm thức ăn. Thời
gian đầu, khi gia đình tôi về đây mới chỉ có 2 - 3 hộ sống lác đác ở hai
ven đường. Mãi đến năm 1960 trở đi, dân cư ở khu vực này mới tăng lên
dần. Mọi người tập trung khai hoang, lập địa để kiếm kế sinh nhai".
Cũng
theo ông Hợi, đường Lộ Ma trước giải phóng là một con đường hoang lạnh,
dẫn vào một trong những pháp trường thảm khốc nhất của triều Nguyễn
(tại thành Định Tường cũ).
Theo như
các bậc tiền bối kể lại, pháp trường của triều Nguyễn là nơi xử chém tội
nhân được thi hành án vào mùa thu. Tuy nhiên, nếu tội nhân phạm tội
nặng thì sẽ bị đem ra thi hành ngay chứ không cần chờ đến kỳ xét án.
Không chỉ chém đầu, pháp trường của triều Nguyễn còn là nơi thi hành án
"giảo" (treo cổ), án cưu thủ (chém rồi đem thủ cấp bêu ở chốn đông
người).
Theo đó, khu đất nơi thành
Định Tường cũ, trong đó có Lộ Ma bao phủ cảnh chết chóc, hoang lạnh
chẳng khác gì bãi tha ma. Kể từ đó, những câu chuyện đồn đại về ma quỷ
trên Lộ Ma được hình thành và phát tán khắp nơi.
Giải
thích về những lời đồn ma quỷ ở Lộ Ma ông Châu Văn Ngay (SN 1937, ngụ
phường 8, TP.Mỹ Tho) cho biết: "Khu vực xung quanh Lộ Ma trước kia là
nghĩa địa tự do dành cho những người nghèo. Những gia đình có hoàn cảnh
khó khăn không có tiền mua đất chôn cất người thân trong nghĩa trang nên
mang tới đây an táng. Theo thời gian, những ngôi mộ này trở thành mộ
không tên, đã được chính quyền địa phương di dời đi nơi khác, để tạo
điều kiện cho việc xây dựng cơ sở hạ tầng sau này. Riêng đường Lộ Ma
trước kia chỉ dành cho xe ngựa đi, chứ ít khi có phương tiện khác đi vào
đây".
Ông Ngay khẳng định không có "oan hồn" trên Lộ Ma (ảnh Thơ Trịnh).
Khi
PV thắc mắc về việc người dân nơi đây nghe được những tiếng khóc than
trên khu vực đường Lộ Ma, ông Ngay chia sẻ: "Theo như ông bà nói lại,
khu vực này trước kia là nơi hoạt động của lực lượng Việt Minh. Trong
khi đó, đây lại là nơi dân hay lui tới bắt cá, hái củi. Do vậy, để không
cho ai biết mình đang hoạt động tại khu vực này, có người giả gào khóc,
hú để nhát người đi đường. Sợ hãi bởi những tiếng khóc, gào hú ấy,
không ít người dân cho rằng khu vực này có nhiều ma quỷ nên không dám bén mảng hay qua lại".
Kết
thúc cuộc trò chuyện với PV, ông Ngay khẳng định: "Tôi sống ở đây mấy
chục năm qua nhưng chưa hề nhìn thấy bóng ma nào cả". Riêng Lộ Ma, nay
đã được gọi bằng cái tên khác là Thái Sanh Hạnh với nhiều thay đổi tươi
mới hơn.
Vì sao gọi là Lộ Ma?
Trao
đổi với PV, anh Dương Hồng Dũng, Trưởng ban quản lý di tích tỉnh Tiền
Giang cho biết: "Theo tài liệu lịch sử cho biết Lộ Ma trước kia là con
đường trung tâm của thành Định Tường cũ được xây dựng vào năm 1792. Năm
1836, triều Nguyễn đo đạc khu vực này được 40 mẫu để bán nhưng không ai
mua, cũng không ai mướn. Thấy vậy, các quan tỉnh Định Tường trưng dụng
làm pháp trường xử bắn tội nhân. Pháp trường này tồn tại đến đời Tự Đức.
Bao
nhiêu người đã bị hành quyết không rõ, nhưng người dân địa phương cho
dựng tại chỗ này một ngôi miếu thờ cô hồn hay còn gọi là miếu Cây Gạo.
Pháp trường, ngôi miếu cộng với sự hoang vắng trong khu vực nên người
dân nơi đây gọi con đường này là Lộ Ma. Địa danh Lộ Ma hiện nay nằm
trong địa bàn phường 9 (TP. Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang). Khu vực này giờ
khá sầm uất với nhiều cơ quan, đơn vị doanh nghiệp đóng trên tuyến
đường".
Thơ Trịnh
Thực hư 'hồn ma nữ' báo oán tại khúc cua tử thần
(Đời sống)
-
Tất cả những chuyện dị thường ấy đều chung một lí do là "hồn ma nữ" hận người yêu phụ bạc mà trả thù.
Nhiều tin đồn rùng rợn xung quanh "linh hồn ma nữ" báo oán.
Đầu
tiên phải kể đến là tin đồn hàng loạt những cô gái xinh đẹp nết na
trong làng đột nhiên trở nên ngây ngây dại dại, suốt ngày thẩn thơ lảm
nhảm những lời oán than như hờn như trách. Kì lạ hơn, những cô gái xinh
đẹp mà đám thanh niên làng ít người dám mơ tới ấy lại sẵn sàng ôm chầm
lấy những người khác giới và nhận đó là người yêu của mình.
Ngôi miếu được xây dựng ở khúc cua gần trường bắn Miếu Môn.
Thậm
chí nhiều người còn truyền tai nhau rằng vào những đêm trăng sáng xuất
hiện một bóng trắng vật vờ đi đi lại lại nơi khúc cua tử thần khiến mọi
người đều sởn da gà. Sở dĩ ai cũng tin chuyện này là bởi cách đó ít lâu
có ba chàng trai đi chơi đêm về không biết nhìn gà hóa cuốc thế nào mà
bỏ cả xe máy ở đoạn đường này để chạy thoát thân. Mãi sáng hôm sau,
người nhà của họ mới đến mang về.
Người dân đã lập miếu thờ tại khúc cua có nhiều vụ tai nạn xảy ra để cầu siêu cho những người xấu số và cầu mong bình an.
Mọi
người bảo, khi còn sống cô gái quá đau khổ và oán hận người yêu nên khi
chết đi trở thành oan hồn vất vưởng, luôn tìm cách trả thù kẻ bạc tình.
Từ đó, người dân địa phương đã lập một ngôi miếu nhỏ ven đường để khói
nhang cho người xấu số.
Chị Nguyễn Thị Xuân, chủ
quán cắt tóc ở gần đấy cho biết: "Bà con nơi đây không mê tín dị đoan
nhưng những sự việc trùng hợp liên tiếp xảy ra khiến mọi người đều hoang
mang, e ngại khi đi qua đoạn đường này".
Những vụ tai nạn thảm khốc
Nhắc
đến góc cua tử thần người dân nơi đây không chỉ hoang mang ám ảnh bởi
sự việc có hơi hướng tâm linh mà còn khiếp sợ những vụ tai nạn giao
thông thảm khốc.
Theo sự ước tính của anh Trần Văn
Lực thôn Đồng Mít, xã Đồng Tâm (Chương Mỹ- Hà Nội ) thì số người chết vì
tai nạn mỗi năm lên đến hơn chục người. Nạn nhân thường bị rất nặng ở
phần đầu, thậm chí là biến dạng toàn bộ khuôn mặt.
Không
biết có phải sự trùng hợp ngẫu nhiên hay không mà nạn nhân của những vụ
tai nạn ở đây chủ yếu là những người thanh niên khỏe mạnh, vậy mà khi
đi đến góc cua tử thần nếu họ không đâm đấu đầu xe khác thì cũng tự đâm
vào cột mốc ven đường, thậm chí có trường hợp một mình một đường cũng tự
lăn đùng ra ngã. Người dân địa phương cho rằng những người này đã bị
"ma nữ" "chấm" nên đi qua đây đều không tránh khỏi tai nạn
Tìm gặp nhân chứng
Trước
những tin đồn về câu chuyện rùng rợn của ngôi miếu oan hồn ở khúc cua
tử thần gần trường bắn Miếu Môn, chúng tôi đã đến đây để tìm hiểu thực
hư.
Đoạn đường mà người dân nơi đây đặt cho cái tên
rùng rợn "khúc cua tử thần" trước mắt chúng tôi là một cung đường vòng
với khúc cua rất hẹp. Một bên là hàng cây lâu năm với những tán lá um
tùm, một bên là dãy núi đá cao sừng sững khiến cho đoạn đường trở nên âm
u, heo hút. Theo quan sát của chúng tôi, ngôi miếu được người dân lập
bên vệ đường lúc nào cũng khói hương nghi ngút. Chốc chốc lại có một vài
chiếc xe đỗ lại để thắp hương cầu cho chuyến đi được bình an.
Nhiều người lái xe qua đây đã dừng lại để thắp hương tại ngôi miếu thiêng.
Tìm
gặp anh Nguyễn Văn Tráng là bố của cô gái mà theo nhiều người cho là bị
"hồn ma áo trắng" nhập vào và trở nên điên dại. Anh T. cũng là người
nhiều lần chứng kiến những vụ tai nạn thảm khốc và trực tiếp tham gia
cứu giúp người bị nạn ở khúc cua này.
Khi
được hỏi về câu chuyện người con gái tự vẫn vì bị phụ tình và những
hiện tượng bất bình thường xảy ra sau khi cô gái chết anh Tráng không
khỏi nhạc nhiên cho biết: "Tôi không hiểu tại sao mọi người lại có thể
đồn thổi một câu chuyện không đúng sự thật như thế. Quả thật ngày trước ở
đây có một vụ tự tử nhưng đó là đàn ông. Nghe đâu anh này ở tận Hà Nam
do mâu thuẫn tranh chấp đất đai với anh em trong gia đình nên đã giết
chết một người thợ xây. Chắc vì biết không thoát án tử nên anh ta chạy
xe máy đến đây rồi giấu xe vào bụi cây, sau đó tự tử. Khi xác chết bị
phân hủy, mùi hôi thối nồng nặc bốc lên mọi người mới phát hiện ra cái
xác thối rữa trong bụi cây từ bao giờ".
Anh Tráng
cũng vô cùng bức xúc khi biết gia đình anh bị kéo vào câu chuyện li kì
trên. Theo lời anh nói thì chuyện cô con gái anh "bị hồn ma nữ" nhập vào
và phát điên phát dại là hoàn toàn bịa đặt. Con gái anh rất thông minh,
khỏe mạnh và hiện giờ đang lao động, sinh sống ở Đài Loan.
Theo
anh Cao Xuân Lin, Trưởng thôn Đồng Mít thì những tin đồn ma quỷ như
trên hoàn toàn là vô căn cứ. Đa số nạn nhân là những thanh niên không
chấp hành quy định khi tham gia giao thông như chạy quá tốc độ, không
đội mũ bảo hiểm, uống bia rượu...
"Một
nguyên nhân nữa khiến khúc cua tử thần thường xuyên xảy ra tai nạn là
vì đoạn đường đó trước đây rất xấu, đá sỏi và ổ gà lởm chởm. Những người
gặp nạn thường hay bị bất ngờ, phanh gấp xe nên khi ngã thường bị đập
xuống mặt đường. Nhiều người vỡ đầu nát mặt cũng là điều dễ hiểu".
Anh
Lin cũng cho biết thêm, kể từ khi con đường dẫn qua khúc cua tử thần
được làm lại thì những vụ tai nạn giao thông giảm đi đáng kể. Nếu như
trước đây một năm số người chết vì tai nạn lên đến hơn chục người thì
giờ còn rất ít, thậm chí là không có người tử vong. Người dân sống trong
khu vực khúc cua tử thần cũng tự giác chặt bỏ những tán cây che lấp tầm
nhìn của người đi đường, làm cho cung đường trở nên thông thoáng và dễ
quan sát hơn.
-Chế độ Việt nam cộng hòa là chế độ "lộng giả thành chân" thứ thiệt. -Quân tướng VNCH mạo danh là quân tử nhưng thực ra chính danh là ngụy quân tử. Hầu hết tướng lĩnh VNCH đều bắt đầu đường binh nghiệp bằng việc đầu quân cho Thực dân Pháp, phản quốc. Đó là lũ "tướng tiền" chứ không phải "tướng tài". -Việt Cộng sinh ra nhằm giải phóng đất nước, thống nhất giang sơn. VNCH do ngoại bang nhào nặn ra nhằm vì danh lợi mà làm tay sai cho chúng, yêu Tổ Quốc bằng cách cam tâm và cả mù quáng "cõng rắn cắn gà nhà", âm mưu chia cắt giang sơn của giống nòi mình, gieo rắc hận thù Dân Tộc cho chính giống nòi mình.
Không nỗi đau nào bằng nỗi đau "nồi da xáo thịt" Không nỗi buồn nào bằng nỗi buồn chia cắt giang sơn Yêu Tổ Quốc là phải biết thương tận lòng Tổ Quốc Thật bụng khen chê, thà ngây như kẻ thất phu.
---------------------------------------------------------------------
(ĐC sưu tầm trên NET)
"LỘNG GIẢ THÀNH CHÂN"
Thành
ngữ Việt Nam có câu "lộng giả thành chân” có nghĩa là “bỡn quá hóa
thật”. Trước khi tìm hiểu định nghĩa này, tôi và nhiều người thường hiểu
câu thành ngữ này nôm na là, biến cái giá thành cái thật, hay lời nói
dối được nói đi nói lại nhiều lần lâu ngày ngưòi ta sẽ tin là thật.(...)
Wesminster
(Thanh Huy)- - Tại nhà hàng Paracel Seafood Restaurant vào lúc 6 giờ
chiều Thứ Sáu ngày 6 tháng 3 năm 2020, Lực Lượng Đặc Biệt Việt Nam Cộng
Hòa Nam California đã tổ chức Đêm Tình Ca Vinh Danh Đời Lính với chủ đề
“Hổ Nhớ Rừng”.
Đây là dịp để ghi ơn quý niên trưởng trong binh chủng
Lực Lượng Đặc Biệt và một số các niên trưởng khác ngoài binh chủng đã
một thời khoác chinh y lên đường bảo vệ quê hương miền Nam Việt Nam.
Tham
dự Đêm Tình Ca Vinh Danh Đời Lính ngoài qúy niên trưởng và gia đình Lực
Lượng Đặc Biệt, còn có một số qúy niên trưởng và các chiến hữu thuộc
các quân binh chủng Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, đặc biệt còn có sự tham
dự của của các chiến hữu về từ Úc Châu, New Orlean, Tiểu Bang Louisiana
và các hậu duệ.
Ngoài
ra còn có sự hiện diện của cựu Đại Tá Hồ Sĩ Khải và phu nhân, cựu Đại
Tá Lê Bá Khiếu và phu nhân, cựu Đại Tá Cổ Tấn Tinh Châu và phu nhân, Cựu
Trung Tá La Tinh Tường…
Mở đầu với nghi thức chào quốc kỳ Việt Nam
Cộng Hòa, Hoa Kỳ và phút mặc niệm, trong phút mặc niệm cũng để nhớ về
những đồng đội đã hy sinh, đồng bào đã liều thân trên đường vượt thoát
tìm tự do.
Trong nghi thức chào cơ,ø chiến hữu Ngô Văn Quy đã nói:
“Hễ có tiếng thét hãi hùng của quân giặc từ phương Bắc thì có tiếng hò
reo chiến thắng của quân dân ta từ ải địa đầu giới tuyến từ vĩ tuyến 17
đổ vào Nam, nơi mà ý chí gia tài cha ông của Quân Lực VNCH được cụ thể
hóa bằng những chiến công sáng rực sử xanh. Tất cả sự chiến đấu đó để
gìn giữ một lá cờ. Người lính cũ và lá cờ vàng, là máu của hàng triệu
quân dân cán chính đã đổ xuống để gìn giữ cho miền Nam chống lại quân
Cộng Sản Bắc Việt và Tàu Cộng. Lá cờ vàng là niềm hãnh diện, là dòng
sinh mệnh của dân tộc,”
Sau
phần nghi thức, chiến hữu Nguyễn Đức Tiến, hội trưởng Lực Lượng Đặc
Biệt VNCH Nam California lên ngỏ lời chào mừng và cảm ơn các niên
trưởng, quý vị quan khách cùng toàn thể tham dự, ông nói: “Thời gian
thoáng qua mau, trải qua bao dâu bể trong đời, từ thời thơ ấu cho đến
những năm tháng dài phục vụ trong quân ngũ, đến những ngày tháng lao tù
Cộng Sản, tất cả người lính VNCH đều phục vụ cho đất nước với ước mơ tự
do, thanh bình no ấm cho nước Việt thân yêu. Tiếc rằng giấc mơ đó chưa
thành, trong đó có rất nhiều đồng đội hy sinh cho tổ quốc thân yêu.
Hôm
nay chúng tôi cũng xin cảm ơn và đốt nén hương lòng vinh danh tất cả
những anh hùng liệt nữ đã hy sinh cho tổ quốc thân yêu để chúng ta có
ngày hôm nay. Với chúng ta những người cùng chung lý tưởng trong tổ chức
Danh Dự Trách Nhiệm, các chiến sĩ Quân Lực VNCH trong thời chinh chiến
ấy đã từng nằm gai nếm mật, đối mặt với quân thù hôm nay còn hiện diện
nơi đây.”
Trong
lúc nay ban tổ chức mời các vị niên trưởng trong Lực Lượng Đặc Biệt
Quân Lực VNCH lên sân khấu để vinh danh, trong số có các Niên Trưởng:
Phạm Châu Tài, Nhan Hữu Hậu, bà quả phụ Nguyễn Quang Ngọc, Huỳnh Văn
Thanh, Nguyễn Văn Vỹ, Hà Kinh Danh, Nguyễn Văn Bảo, Trần Văn Mừng, Mai
Bá Trác… Trong lúc nay, ban tổ chức đã lần lượt trao những tấm plaque
tri ân đến các niên trưởng.
Trong phần phát biểu, Niên Trưởng Nhan
Hữu Hậu đã cảm ơn ban tổ chức và ông cũng đã nhắc lại một vài kỷ niệm
đối với những đồng đội đã hy sinh trên các chiến trường, ông tiếp:
“Trong cuộc chiến, chúng tôi không mong có được những huy chương, cấp
bậc, mà chỉ mong bảo toàn sự sống đồng đội để được trở về. Tôi vẫn giữ
mãi tình đồng đội và luôn nghĩ tới những người thương phế binh VNCH ở
quê nhà.”
“Hổ
Xám” Phạm Châu Tài cũng đã xúc động khi kể về những kỷ niệm trong các
mặt trận khắp bốn vùng chiến thuật, với 68 ngày nhảy vào trận An Lộc, và
trận đánh cho đến giờ phút cuối cùng tại Sài Gòn với tư cách là chiến
đoàn trưởng Chiến Đoàn 3 Biệt Cách Dù…
Buổi tiệc bắt đầu, một chương
trình văn nghệ xuất sắc, mở đầu với vũ khúc lịch sử “Trấn Thủ Lưu Đồn”
do các em thuộc Liên Đoàn Hướng Đạo Lam Sơn trình bày cùng Ban Hợp Ca
Bắc Ninh, tiếp theo là những đóng góp của ca sĩ Công Thành và Lynn, ban
hợp ca Lực Lượng Đặc Biệt, ban hợp ca Tập Thể Chiến Sĩ Tây Nam Hoa Kỳ
cùng các nghệ sĩ than hữu qua những bản nhạc về lính, và những bản tình
ca quê hương, đặc biệt các hậu duệ Lực Lượng Đặc Biệt hát ca khúc “Lực
Lượng Đặc Biệt Hành Khúc”
Được
biết, Lực Lượng Đặc Biệt như những bóng mờ trong chiến trường, là những
toán biệt kích đột phá vào lòng địch, những thanh niên ưu tú ngày ấy vì
yêu miền Nam thanh bình no ấm, thương yêu màu cờ sắc áo kiêu hùng của
Binh Chủng Lực Lượng Đặc Biệt, đã tình nguyện dấn thân chấp nhận mọi
hiểm nguy, gia nhập đơn vị để được phục vụ cho tổ quốc và một số đã hy
sinh âm thầm lặng lẽ, đem xác thân tô điểm cho đơn vị, cho tổ quốc thân
yêu.
Mọi chi tiết liên laic: Nguyễn Đức Tiến (714) 261-7714, Ngô Văn Quy (714) 675-9046, Don Nguyễn (714)412-6515.
Thuật lại trận đặc công so tài với cả thầy trò biệt kích VNCH
Nga: “Đặc công Việt Nam thiện chiến “ngoài sức tưởng tượng“
Trịnh Thái Bằng
VietTimes -- Khả năng bí mật đột nhập, luồn sâu đánh hiểm, sống còn trong môi trường
khốc liệt với sức chịu đựng ngoài sức tưởng tượng, đặc công Việt Nam
khiến cho các lực lượng quân sự thiện chiến nhất phải kinh hoàng.
Lực lượng đặc công Việt Nam đặc biệt tinh nhuệ chuyên luồn sâu đánh hiểm
'Ngoài sức tưởng tượng'
Việt Nam trong thế kỷ 20 đã trải qua 4 cuộc chiến tranh lớn và ác
liệt để đấu tranh giành độc lập, bảo vệ tổ quốc với Pháp (1944-1954), Mỹ
(1967-1975), chống bè lũ diệt chủng Pol Pot (1975-1978) và chiến tranh
biên giới (1979-1980).
Với học thuyết quân sự mang tính cách mạng trong chiến tranh hiện
đại mà người xây dựng nên cơ sở căn bản là chủ tịch Hồ Chí Minh, người
đưa học thuyết quân sự Việt Nam lên tầm nghệ thuật là đại tướng Võ
Nguyên Giáp, đã hình thành một hệ thống lý thuyết của đấu tranh vũ trang
trong điều kiện chiến tranh hiện đại. Địa hình đất nước Việt Nam dường
như rất thích hợp cho một cuộc chinh phục tổng lực của các siêu cường,
nhưng lại rất chông gai cho những thế lực hiếu chiến.
Học thuyết quân sự Việt Nam dựa trên sức mạnh của tinh thần yêu nước,
mục đích cuối cùng là toàn vẹn lãnh thổ, từ đó hình thành và phát triển
các lực lượng vũ trang nhằm đạt được mục đích đó, tư duy chiến lược và
tư tưởng chỉ đạo chiến dịch, chiến thuật định hướng theo nhiệm vụ trước
mắt và hướng phát triển tiếp theo cũng nhằm mục đích toàn vẹn lãnh thổ.
Từ đó nảy sinh những lực lượng đặc biệt đáp ứng yêu cầu thực tế của
chiến trường và đối tượng tác chiến. Hình thành nghệ thuật quân sự linh
động và sáng tạo qua mỗi thời kỳ.
Lực lượng Đặc công, trên một khía cạnh nào đó được hình thành và phát
triển từ học thuyết quân sự Việt Nam. Do phải đấu tranh chống lại kẻ
thù mạnh hơn rất nhiều lần, những lý luận ban đầu của tư duy quân sự
được hình thành từ chiến tranh du kích, sự phát triển biện chứng của các
quân binh chủng dựa trên cơ sở lực lượng chính quy và chiến tranh du
kích đã hình thành các đơn vị tác chiến đặc biệt – các lực lượng đặc
nhiệm (thực hiện công tác đặc biệt). Và hiệu quả của nó đã khiến cho các
lực lượng quân sự thiện chiến nhất phải kinh hoàng.
Từ những chương trình huấn luyện của Team Six, SFC Thụy sĩ, GSG-9
của Đức, SBS Hải quân của Anh, Seal của Hải quân Mỹ, lực lượng Denphil,
Vampel của Nga, có thể thấy được những dấu ấn rất đặc thù của Đặc công
Việt Nam, đó là khả năng bí mật đột nhập, khả năng luồn sâu, khả năng
phá hoại và tiêu diệt các mục tiêu quan trọng, khả năng sống còn trong
môi trường đặc biệt khó khăn (rừng hoang nhiệt đới, đầm lầy, sông hồ,
trên biển, trên sa mạc) với sức chịu đựng vượt ngoài sự tưởng tượng của
con người.
Hình thành và phát triển trong cuộc chiến tranh dữ dội và khốc liệt
chống lại một siêu cường quân sự, hùng mạnh cả về binh lực và phương
tiện chiến tranh hiện đại, những phương thức và kỹ năng tác chiến của
Đặc công Việt Nam đã trở thành một nguy cơ đe dọa nghiêm trọng luôn
thường trực cùng quân đội Mỹ trên chiến trường Việt Nam.
Những đòn tấn công vào những nơi được canh giữ cẩn mật nhất, lực
lượng đặc công phá hủy các sân bay quân sự, kho tàng, bến cảng, tiêu
diệt các đoàn vận tải quân sự, ngăn chặn và gây tổn thất nặng nề các
cuộc hành quân, đánh phá các căn cứ quân sự và bắt hoặc tiêu diệt các sĩ
quan cao cấp trong quân đội Mỹ và Sài Gòn, thậm chí lực lượng Đặc công –
Biệt động còn tiến hành các trận tập kích hỏa lực ngay giữa nội đô
thành phố. Đặc công – biệt động đã biến miền Nam trở thành một chiến
trường không có hậu phương và không có bất cứ một nơi nào an toàn cho
quân đội Mỹ.
Đột nhập căn cứ địch.
Ngay từ cuộc kháng chiến giành độc lập tự do của dân tộc Việt Nam, lực
lượng bộ đội “đặc biệt tinh nhuệ” đã thể hiện được bản lĩnh và năng lực
tác chiến hiệu quả trước một đội quân thường trực chiến đấu chuyên
nghiệp, vũ khí trang bị hiện đại của Pháp và lực lượng lính đánh thuê lê
dương.
Lực lượng lê dương thực tế là một đội quân chiến tranh chuyên nghiệp
có khả năng tác chiến tốt nhất và nguy hiểm nhất của quân đội Pháp. Nhận
xét về lính lê dương của cựu binh trung sĩ trung sĩ Claude-Yves
Solange: “Có thể sẽ là quá khoa trương khi nói về đội quân lê dương,
nhưng trong lực lượng này tham gia chiến đấu là những chiến binh thật
sự, không chỉ có người Pháp, có cả người Đức, Scandinavia, Nga, Nhật
Bản, thậm chí một số người Nam Phi, Đức và cả người Nga. Toàn những
chiến binh bẩm sinh ra dành cho chiến tranh”.
Quân đội Pháp cũng có những lực lượng đặc nhiệm, được tổ chức từ các
quân nhân SS cũ, đã chiến đấu trên chiến trường thành các lữ đoàn biệt
kích luồn sâu phá hoại và tấn công. Tuy bộ đội Việt Minh không có các
phương tiện chiến tranh hiện đại, nhưng họ có những vũ khí vô cùng lợi
hại khác. Những chiến sĩ Việt minh hiểu biết sâu sắc địa hình và các kỹ
thuật chiến đấu bí mật, bất ngờ.
Thời điểm đầu tiên, cuộc chiến vô cùng khó khăn gian khổ. Các trận
đánh thông thường đều có những tổn thất nặng về người, dưới sự chỉ đạo
tài tình của Đại tướng Võ Nguyên Giáp, bộ đội Việt Minh đã thay đổi cách
chiến đấu. Phải thừa nhận rằng, lực lượng đặc nhiệm là sự phát triển
cao độ của du kích quân, và người Việt Nam là những chiến sĩ du kích
giỏi nhất thế giới.
Các lực lượng bộ đội đặc biệt tiến hành các đợt trinh sát luồn sâu và
chiến đấu trong lòng địch, trong các đội quân đó, điển hình là các
chiến sĩ cảm tử với khẩu hiệu “quyết tử cho tổ quốc quyết sinh”. Đó là
những chiến sĩ công kiên trên các tuyến phòng ngự dày đặc đồn bốt địch,
họ mang theo thuốc nổ (bộc phá) và mở con đường tấn công cho các lực
lượng công kích, cửa mở qua các tuyến hàng rào dây thép gai, chông mìn
và lưới đạn súng máy dày đặc luôn thấm đẫm máu và lòng dũng cảm của các
chiến sĩ cảm tử.
Phương thức tác chiến khởi điểm ban đầu là tác chiến Mật tập (bí mật
đột nhập hệ thống phòng ngự đồn bốt) kết hợp với tác chiến Cường tập (sử
dụng lực lượng tập trung công đồn).
Trong những giai đoạn này đã hình thành hai lữ đoàn đặc công bộ đầu
tiên là 112 và 113. Kết hợp với tác chiến trên bộ là sự phát triển của
đặc công nước nhằm tấn công các tuyến đường vận tải đường sông của đối
phương, đặc biệt là khu vực Miền Nam Việt Nam, nơi có nhiều sông rạch và
kênh vận tải, yểm trợ hỏa lực.
Các trận đánh khốc liệt trên sông nước miền Nam đã hình thành lực
lượng đặc công “Rừng Sác” đầu tiên. Những chiến công của họ đã bẻ gẫy
mọi ý đồ chiến trang và đưa Lực lượng vũ trang Việt Nam từ chiến thắng
này đến chiến thắng khác ngày một lớn hơn.
Những năm 1953 –1954 là những năm phát triển mạnh mẽ nhất của các lực
lượng đặc nhiệm Việt Minh khi những lực lượng nhỏ, được trang bị tốt và
có kỹ năng tác chiến hoàn hảo, từ các chiến khu Miền Nam tấn công mạnh
mẽ vào các đơn vị phòng ngự của quân đội Pháp.
Họ đã gây những tổn thất nặng nề về binh lực, đồng thời những đòn
tiến công liên tiếp vào sân bay, kho tàng quân sự, các đoàn congvoa quân
sự và các tuyến đường vận tải trên khắp đất nước đã phá hủy hoàn toàn
tham vọng xây dựng 18 binh đoàn cơ động mạnh của tướng Nava và đẩy quân
đội Pháp vào một trận đánh cuối cùng Điện Biên Phủ, chấm dứt cuộc chiến
tranh ở Việt Nam.
Đặc công Miền Nam với lời thề Quyết tử.
Đặc biệt tinh nhuệ, lẫy lừng chiến công
Sau chiến thắng Điện Biên Phủ lừng lẫy, cùng với định hướng xây dựng
quân đội chính quy, các đơn vị trinh sát biệt động đã có những bước đi
ban đầu khá mạnh mẽ. Cuối năm 1959 đầu năm 1960, đã có quyết định xây
dựng lực lượng đặc nhiệm đổ bộ đường không, lữ đoàn dù 305 đầu tiên của
Quân đội Nhân dân Việt Nam, có căn cứ tại Bắc Giang.
Lực lượng nhảy dù bao gồm các cán bộ đặc nhiệm cốt cán, được huấn
luyện tại Trung Quốc, sau đó, các sĩ quan đặc nhiệm đã biên chế thành lữ
đoàn dù và tiến hành các công tác huấn luyện, thực hành chiến đấu với
các huấn luyện viên Liên Xô (5 chuyên gia). Cuộc đấu tranh chính trị đòi
thực hiện hiệp định Genève ở Miền Nam đã chuyển thành khởi nghĩa vũ
trang và chiến tranh giải phóng.
Từ miền Bắc, các lực lượng đặc nhiệm đã hành quân theo tuyến đường
mòn Hồ Chí Minh lịch sử, tiếp cận chiến trường Miền Nam, xây dựng các
lực lượng đặc công, biệt động tại chỗ trên các chiến khu. Từ đó, hình
thành các đơn vị đặc nhiệm chính quy của Quân Giải phóng nhân dân Miền
Nam Việt Nam, những đơn vị bán chính quy (dân quân du kích) trên khắp
miền Nam.
Được huấn luyện trong các chiến khu, kỹ thuật tác chiến của đặc công
được phát triển và nhân rộng trên toàn bộ miền Nam Việt Nam, từ đột nhập
các khu căn cứ địch dưới nhiều hình thức, vận chuyển vũ khí khí tài vào
hậu phương trong lòng địch đến các trận đánh bí mật bất ngờ, các lực
lượng đặc công hình thành ở tất cả các binh chủng trên chiến trường,
được phân chia thành hai ba mô hình chiến thuật tổ chức lực lượng –
trinh sát đặc công, đặc công và biệt động.
Các lực lượng trinh sát đặc công thường tác chiến trong đội hình của
một đơn vị binh chủng hợp thành, thực hiện nhiệm vụ trinh sát và khi
cần, sẵn sàng tiến hành các đòn tiến công mở đầu cho một trận đánh, các
lực lượng đặc công thủy và bộ có những trận đánh độc lập hoặc phối
thuộc, là một binh chủng riêng biệt, các lực lượng biệt động là những
lực lương bán chính quy, tập trung chủ yếu ở hậu phương của đối phương,
biệt động có thể thực hiện các nhiệm vụ khác nhau, từ tình báo chiến
dịch chiến thuật, tấn công các mục tiêu quan trọng hoặc có ý nghĩa chính
trị lớn (các nhân vật quan trọng của đối phương) đến các hoạt động phá
hoại, bắt tù binh và hỗ trợ các chiến dịch tuyên truyền.
Chỉ tính riêng trong tháng 2.1964 đã diễn ra 7 cuộc tấn công
tiêu diệt các đối tượng nguy hiểm của chính quyền Sài Gòn và của quân
đội Mỹ, các đòn tấn công của các chiến sĩ biệt động nhằm cả vào các nhân
vật quan trọng của Mỹ như Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Mỹ Robert McNamara,
tướng William C. Westmoreland-Tư lệnh Bộ chỉ huy cố vấn Quân sự Mỹ tại
miền Nam Việt Nam ngay tại sân bay Tân Sơn Nhất.
Những đòn tấn công của đặc công Việt Nam diễn ra khắp mọi nơi, kể cả
những khu vực được coi là căn cứ quân sự được bảo vệ tốt nhất và chắc
chắn nhất trên thế giới như Tổng kho Long Bình, sân bay Tân Sơn Nhất,
các khách sạn dành riêng cho các sĩ quan cao cấp Mỹ và cuối cùng mục
tiêu là đại sứ quán Mỹ tại Sài Gòn bị tấn công ngày 30.3.1965.
Mục tiêu tác chiến của đặc công các binh chủng (đặc công, trinh sát
đặc công công binh, đặc công pháo binh – tên lửa) chủ yếu nhằm vào các
kho tàng bến cảng và căn cứ quân sự, đặc biệt nhất là sân bay – vốn là
chỗ dựa hỏa lực chính và cũng là ưu thế mạnh nhất của quân đội Mỹ trên
chiến trường Việt Nam, trận đánh đầu tiên vào sân bay Biên Hòa từ 31.10
đến ngày 1.11.1964 đã gây tổn thất nặng nề cho quân đội Mỹ, phá hủy 15
máy bay, tiêu diệt nhiều binh sĩ Mỹ, tiếp theo đó là trận tập kích và
trại Holloway gần Pleiky 7-8.02.1965 (8 quân nhân Mỹ chết, 106 bị
thương, 5 máy bay trực thăng bị phá hủy).
Lực lượng đặc công Miền Nam trong chiến tranh chống Mỹ
Trong các trận tấn công liên tiếp vào các căn cứ kho tàng hậu cần
kỹ thuật như trận tấn công vào kho xăng Esso ngày 5.8.1965 ở Đà Nẵng đã
đốt cháy 10 triệu lít xăng, mất 40% tổng dự trữ xăng dầu của Mỹ ở Việt
Nam.
Ngoài ra, các lực lượng đặc công còn tiến hành các trận pháo kích vào
các khu sân bay dã chiến, các sở chỉ huy và các địa điểm quan trọng của
thành phố Sài Gòn, như trận tập kích hỏa lực súng cối ngày 27.10.1965
kết hợp với mật tập đã tiêu diệt hàng chục máy bay trực thăng chiến đấu
tại căn cứ Mably Mauthen gần Phú Bài của lính thủy đánh bộ Mỹ.
Kho xăng nhà Bè bị đốt cháy năm 1968.
Tổng kết toàn bộ thành tích của Đặc công QĐNDVN trong chiến tranh đã phá
hủy 1.600 khẩu pháo, 30 giàn tên lửa, 9.000 xe quân sự, 2,7 triệu tấn
bom đạn, 600 triệu lít xăng dầu; đánh chìm, đánh hỏng 400 tàu xuồng
chiến đấu, hàng nghìn máy bay chiến đấu các loại.
Cắt hàng rào dây thép gai.
Trinh sát đặc công.
Máy bay F-4C bị đặc công tiêu diệt tại sân bay .
Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của đặc công trên bộ là đặc công nước
Việt Nam, số lượng và kỹ năng tác chiến của lực lượng này vượt xa tất cả
những hiểu biết về khả năng tác chiến ngầm của tất cả các lực lượng
trên thế giới.
Theo báo cáo của lực lượng tình báo hải quân Mỹ, đến năm 1969 trên
chiến trường Miền Nam có 3 tiểu đoàn, 4 đại đội và hai trường huấn luyện
đặc công nước ở ngay miền Nam. Ngoài ra còn có trung đoàn đặc công nước
số 126 hoạt động gần khu vực vĩ tuyến 17.
Lực lượng đặc công nước Việt Nam trong cuộc chiến tranh chống Mỹ đã
đánh chìm chiến hạm USS Card với nhiều máy bay trực thăng chiến đấu trên
boong tàu vào 02.05.1964, tàu USS Baton Rouge Victor 23.8.1966 cùng với
hàng ngàn tàu xuồng vận tải chiến đấu và kho tàng bến cảng. Có những
thời điểm đặc công nước đã phong tỏa cả quân cảng Cam Ranh, gây nhiều
tổn thất cho hoạt động cung cấp trang thiết bị, khí tài quân sự đường
biển cho quân đội Mỹ.
Chiến dịch chiến đấu tiến công lớn nhất và cũng là quan trọng nhất,
chưa từng có trong lịch sử quân sự thế giới về sử dụng lực lượng đặc
nhiệm là tổng tấn công và nổi dậy Tết Mậu Thân năm 1968. Lực lượng đặc
công, biệt động, trinh sát đặc công kết hợp với các lực lượng vũ trang
toàn miền Nam tiến hành một cuộc tấn công và nổi dậy trên toàn bộ chiến
trường, tập kích vào tất cả các cơ quan đầu não, căn cứ quân sự của Mỹ.
Điển hình nhất là cuộc tấn công vào tòa đại sứ Mỹ, một pháo đài thật
sự ở giữa Sài Gòn. Cuộc tập kích đã tiêu diệt và làm bị thương gần 190
quân nhân Mỹ, nhưng quan trọng hơn cả, nó đánh gãy tư tưởng chiến lược
chiến tranh của quân đội Mỹ ở Miền Nam Việt Nam, chiến dịch Tổng tấn
công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968 đã tiêu hủy mọi hy vọng giành thắng
lợi ở chiến trường và làm dấy lên cuộc đấu tranh đòi chấm dứt chiến
tranh Việt Nam ở Mỹ và khắp thế giới.
Đòn tấn công của đặc công biệt động vào sân bay Tân Sơn Nhất.
Trong chiến tranh khốc liệt, lực lượng đặc công cũng được biên chế tổ
chức và xây dựng theo hướng hiện đại. Hình thành các đơn vị trinh sát,
các đơn vị đột kích luồn sâu. Trong đó có đoàn bộ đội đặc công 198 được
tổ chức biên chế theo hướng hiện đại đầu tiên. Tính đến năm 1975. lực
lượng vũ trang Việt Nam có khoảng 47 tiểu đoàn và 13 đại đội độc lập.
Một trong những lực lượng đặc công ít người biết đến là lực đặc nhiệm
tác chiến trên đường Trường Sơn với nhiệm vụ chống các toán biệt kích
phá hoại của quân đội Mỹ. lực lượng này có nguồn gốc từ Lữ đoàn 305 bộ
đội nhảy dù, theo các báo nước ngoài thì có khoảng 9 tiểu đoàn tác chiến
dọc tuyến đường Trường Sơn, được huấn luyện theo phương pháp biệt kích.
Các đơn vị này đã trực tiếp đối đầu với các lực lượng biệt kích của
sư đoàn đổ bộ đường không số 1 Mỹ trong khu vực A Sầu – A Lưới và đường 9
Nam Lào. Lực lượng đặc nhiệm đã chiến đấu rất quyết liệt, đánh thiệt
hại nặng nhiều đơn vị thám báo, biệt kích của đối phương.
Những binh sĩ Mỹ bị thương trên chiến trường mong chờ cứu hộ.
Các hoạt động tác chiến của bộ đội Đặc công Việt Nam không giới hạn ở
đường biên giới, khi chiến tranh mở rộng, các căn cứ quân sự của Mỹ ở
Campuchia và ở Thái Lan cũng bị tấn công bởi lực lượng đặc công. Trận
đánh khá nổi tiếng Lima Site 85 trên đỉnh Phathi thuộc biên giới Lào đã
tiêu diệt căn cứ radar trinh sát dẫn đường và chỉ huy tác chiến đường
không của Mỹ.
Đặc công Việt Nam cũng nhiều lần tập kích các căn cứ không quân Mỹ ở
Udon và Utapao. Đặc biệt, trận tập kích của lực lượng đoàn 1 Đặc công đã
đánh thiệt hại nặng 8 máy bay ném bom B-52 của Mỹ ở căn cứ Utapao.
Đặc công Hải quân giải phóng đảo Song Tử Tây
Trong chiến tranh biên giới, lực lượng Đặc công Việt Nam cũng là
những lực lượng chính quy đầu tiên tham chiến chống lại lực lượng đặc
nhiệm “Sơn cước”. Đồng thời tiến hành những hoạt động tập kích phục kích
tiêu diệt cả đoàn vận tải quân sự và cơ sở vật chất, hậu cần kỹ thuật
xăng dầu của đối phương, đánh chặn những đợt đột nhập của các lực lượng
biệt kích đối phương trên các tuyến đường biên giới.
Thực tế
cho thấy, nếu so với các lực lượng đặc nhiệm trên thế giới, Đặc công
Việt Nam là lực lượng chuyên nghiệp nhất, có kỹ năng chiến đấu hoàn hảo
nhất và cũng có nhiều kinh nghiệm tác chiến tốt nhất trong môi trường
chiến trường phức tạp và lực lượng đối phương mạnh hơn gấp nhiều lần.
Không có được sức mạnh yểm trợ của hỏa lực đường không và các loại khí
tài hiện đại, với kỹ năng tác chiến và sức chịu đựng vượt ngoài giới hạn
con người, lực lượng Đặc công Việt Nam là một mô hình lực lượng mà hầu
hết các lực lượng đặc nhiệm, bao gồm cả Lực lượng Hải cẩu Mỹ, lực lượng
Vampel của Nga đều nghiên cứu và học tập.
Đặc Công Giải Phóng Vượt 9 Hàng Rào Kẽm Gai Chinh Phục Tổng Kho LONG BÌNH Khiến VNCH Ngỡ Ngàng
Tổng thống Hàn Quốc gọi lính đánh thuê ở Việt Nam là 'cứu tinh kinh tế nước nhà'
Ông Moon Jae-in nhấn mạnh rằng "nền kinh
tế Hàn Quốc đã tồn tại được là nhờ vào sự cống hiến và hy sinh (của
những người lính) đã tham gia chiến tranh Việt Nam".
Trong bài phát biểu nhân Ngày tưởng niệm những người lính Hàn Quốc đã hy
sinh cuộc sống của họ vì lợi ích quê hương (Memorial Day), tân tổng
thống mới được bầu của Hàn Quốc Moon Jae-in đã bày tỏ lòng biết ơn của
mình đối với những người tham gia chiến tranh Việt Nam, nêu bật tinh
thần yêu nước đặc biệt của họ.
Tổng thống Hàn Quốc gọi lính đánh thuê ở Việt Nam là 'cứu tinh kinh tế nước nhà'
Tuy nhiên, những lời này đã gây ra phản ứng khác nhau trong xã hội Hàn Quốc.
Thực tế là khi phái quân đi đánh thuê trong chiến tranh Việt Nam, Hàn
Quốc đã được Mỹ viện trợ để phát triển kinh tế — một thực tế ai cũng
biết. Nhưng tại Việt Nam, nơi mà hàng triệu người đã chết trong cuộc
chiến tranh tàn bạo đó, tinh thần ái quốc như vậy của ông Moon Jae-in có
thể được tiếp nhận là thái độ chủ nghĩa dân tộc. Chưa kể đến rằng tuyên
bố bất cẩn của tổng thống Hàn Quốc động chạm tới cảm xúc của người dân
Việt Nam.
Phát biểu vào hôm thứ Ba tại Nghĩa trang tưởng niệm quốc gia ở Seoul
(Seoul National Cemetery), ông Moon Jae-in nhấn mạnh rằng "nền kinh tế
Hàn Quốc đã tồn tại được là nhờ vào sự cống hiến và hy sinh (của những
người lính) đã tham gia chiến tranh Việt Nam".
"(Những người tham gia chiến tranh) không chút do dự đáp lại tiếng gọi
của Hàn Quốc, và âm thầm thực hiện nhiệm vụ của họ trong miền nhiệt đới
và rừng núi. Đây là tinh thần yêu nước… Nhà nước cũng phải chịu trách
nhiệm vì bệnh tật và vết thương (mà những người lính ấy) đã nhận được
khi tham chiến ở nước ngoài. Tôi sẽ cố gắng hết sức để đảm bảo rằng
chúng ta trung thực trả họ món nợ đó. Đây là những gì mà nhà nước nên
giải quyết", — ông Moon Jae-in cho biết.
Tuy nhiên, theo Giáo sư Heo Seok-Ryeol ở trường đại học Chungbuk, tổng
thống nên đuổi việc những người đã soạn cho ông ấy bài phát biểu như
vậy, hoặc ít nhất nên xem trước kỹ càng hơn những gì họ viết.
"Nếu như Thủ tướng Nhật Bản cũng phát biểu theo kiểu ông Moon Jae-in,
ông ấy sẽ nói rằng "nền kinh tế của chúng ta đã sống sót được nhờ những
người Hàn Quốc đã đổ máu trong cuộc đấu tranh Triều Tiên"… Trước đây đã
từng có những phát biểu như vậy…" — giáo sư viết trên Facebook.
Nhiều dân mạng Hàn Quốc cũng đã bày tỏ sự bất bình của với sự đánh giá của tổng thống.
"Không hiểu vì lý do gì, những người phụ nữ của chúng ta làm việc tại
các nhà máy (trong điều kiện vô cùng khó khăn) tự nhiên cũng biến thành
người yêu nước. Nói chung, đơn giản là có người dường như không thể tách
rời khuynh hướng dân tộc chủ nghĩa của mình ra khỏi nhiệm vụ lãnh đạo
nhà nước." — một người sử dụng mạng xã hội bình luận.
Đến lượt mình, Quỹ Hòa bình Hàn Quốc-Việt Nam hôm qua ra tuyên bố bày tỏ
sự lo ngại về sự thiếu hiểu biết của Tổng thống trong vấn đề lính đánh
thuê Hàn Quốc tham gia chiến tranh Việt Nam.
"Chúng tôi chân thành hy vọng rằng chính quyền ông Moon Jae-in sẽ thực
hiện nhiệm vụ quốc gia của mình, dựa trên sự kiểm tra nghiêm túc và làm
rõ tất cả các tình huống chiến tranh ở Việt Nam", — giám đốc Quỹ Hòa
bình Hàn Quốc-Việt Nam Kang Woo-Il tuyên bố.
Theo SPUTNIK
Đặc Công Việt Nam Đối Đầu Mãnh Hổ Rồng Xanh HQ 1967 – Chiến Thắng Đầy Ngoạn Mục
Trận Quang Thạnh ngày 15/2/1967: “Xé xác Rồng Xanh, Phanh thây Mãnh Hổ, quyết trả thù cho đồng bào”
Trước năm 1965 chính phủ Đại Hàn Dân Quốc đã gửi các đơn vị quân y và
các võ sư sang tham gia vào các hoạt động giao lưu với chính phủ Việt
Nam Cộng Hòa nhằm dọn đường cho việc tham gia chính thức vào chiến
trường Việt Nam sau này.
Từ năm 1965 trở đi lần lượt các đơn vị chiến đấu của Đại Hàn lần lượt cập bến quân cảng Đà Nẵng và chính thức tham chiến.
Đó là Sư đoàn bộ binh Capital có cái tên rất kêu “Mãnh hổ” đóng quân ở
Qui Nhơn, tiếp theo là sư đoàn bộ binh “Bạch Mã” đóng ở Phú Yên, Lữ đoàn
thuỷ quân lục chiến “Rồng Xanh” đóng quân tại Quảng Ngãi, Hội An
So với lực lượng giải phóng quân của ta thì quân Hàn Quốc được huấn
luyện rất bài bản và được chọn lựa kỹ càng. Chúng rất thành thạo về các
chiến thuật “phản” du kích, kỹ chiến thuật điêu luyện. Được huấn luyện
đào tạo theo các giáo trình huấn luyện biệt kích của Mỹ, chúng rất gan
lỳ và được đầu độc nặng nề về lòng căm thù chế độ Cộng sản.
Ngoài
ra ngay cả người Mỹ cũng phải kính nể về trình độ võ thuật của lính Hàn
Quốc. Tiêu chuẩn của binh lính tham gia vào các đơn vị kể trên là phải
có trình độ cao đăng môn Teakwon-do hoặc Happkido truyền thống của Đại
Hàn.
Lính Hàn Quốc có thể độc lập tác chiến và tự tìm cách duy
trì sự sống trong rừng sâu khi bị lạc đơn vị trong chiến đấu một thời
gian tương đối lâu. Chúng nghiên cứu quy luật chiến đấu và hoạt động của
du kích ta rất kỹ lưỡng và đối phó khá hiệu quả trong thời gian đầu.
Chúng tổ chức các đợt càn quét lớn và rộng, đêm đêm chia quân đi phục
kích các vị trí nghi ngờ với sự kiên trì và tính kỷ luật cao độ. Khi đi
càn chúng luôn luôn đi đầu, trực thăng Mỹ và pháo binh yểm trợ trên đầu
và bộ binh Mỹ ủng hộ vòng ngoài.
Quân Hàn Quốc hoạt động gần như
là độc lập với quân VNCH và không tin tưởng vào đồng minh trong vấn đề
tác chiến. Chúng sẵn sàng nổ súng tiêu diệt mà không cần bắn cảnh cáo
khi có một dân vệ VNCH đi lạc đường vào khu vực mà chúng chiếm giữ.
Quân ta gặp khá nhiều khó khăn và tổn thất khi đối đầu với lính Hàn
Quốc. Chúng rất lỳ lợm trong việc phục kích và khủng bố dân trong các
vùng chiếm đóng với cách thức hết sức dã man.
Tướng Chae Myung Shin, người khôn ngoan đề nghị không ký hiệp ước về chỉ huy quân Hàn Quốc tại Nam Việt Nam.
Quân đội Hàn Quốc gây ra rất nhiều tội ác man rợ, trời không dung đất
không tha như giết hại cùng một lúc 500 dân làng ở Tịnh Sơn Sơn Tịnh
Quảng Ngải với thành phần chủ yếu là người già trẻ em và phụ nữ để khủng
bố răn đe mọi người không được ủng hộ du kích và trả thù cho những tên
bị quân ta tiêu diệt…
Tư lệnh miền đã nhận được rất nhiều thư tố
cáo và yêu cầu trừng trị lũ giặc đánh thuê man rợ của chi hội phụ nữ và
dân trong vùng bị chúng chiếm đóng.
Quân ta đã tập trung lại và
thề tiêt diệt bọn Đại Hàn để trả thù cho các chiến sĩ và đồng bào hy
sinh vơi khẩu hiệu viết bằng máu: “Xé xác Rồng Xanh, Phanh thây Mãnh Hổ!
Máu phải trả bằng máu, quyết trả thù cho đồng bào Bình Sơn, Sơn Tịnh bị
Nam Triều Tiên sát hại”.
Các chiến sĩ ta và trận với quyết tâm
cao cùng với vành khăn tang trắng quấn trên đầu để tưởng nhớ những đồng
bào bị giặc sát hại. Và các hoạt động “Khai tử Rồng Xanh ” liên tục diễn
ra.
Vào một ngày giữa năm 1966, như thường lệ lính Hàn Quốc lên
trực thăng đi càn khá đông, chúng đổ bộ xuống một cánh đồng mà không
biết đã có tiểu đoàn 48 quân giải phóng bố trí trận địa bao vây phục
sẵn.
Đợi bọn giặc vào thật gần cả tiểu đoàn đồng loạt nổ súng,
địch bị bất ngờ chống cự yếu ớt và tháo chạy tìm đường thoát thân. Quyết
không để kẻ thù chạy thoát quân ta nhất loạt xung phong truy kích tiêu
diệt địch. Cuối trận đánh địch hầu như bị tiêu diệt toàn bộ, bỏ lại hơn
200 xác chết, chỉ có một số ít tháo chạy được.
Sau đó, nhiều đại
đội Hàn Quốc bị tiêu diệt gọn trong các trận bao vây và phục kích của
ta. Địch bắt đầu hoang mang và chùn tay hơn khi đi càn quét.
Tuy
nhiên, tinh thần của chúng chỉ gục ngã hẳn sau một trận đánh lớn, trận
đánh giáng một đòn mạnh vào quân đội Hàn Quốc rung động đến cả Seoul và
làm Tổng thống Park Chung Hee phải điên đầu. Đó là trận tấn công một
tiểu đoàn lính thuỷ đánh bộ của Lữ đoàn “Rồng Xanh” nổi tiếng tàn ác
khát máu đóng đóng tại đồi tranh Quang Thạnh tỉnh Quảng Ngãi vào năm
1967.
Trận đánh này có ý nghĩa rất lớn, nó củng cố tinh thần cho
quân giải phóng, làm hả lòng hả dạ đồng bào Quản Ngãi nơi quân giặc đã
gây ra nhiều tội ác tày trời. Làm tan rã ý chí chiến đấu và sự hung hăng
của quân Hàn Quốc đánh thuê.
Đặc biệt, trận này không phải là ta
phục kích đánh lẻ tẻ mà đánh tiêu diệt xoá xổ một lực lượng cỡ tiểu
đoàn trong một căn cứ phòng ngự vững chắc được kết cấu bởi một hệ thống
các công sự phòng ngự kèm các lô-cốt cố thủ bao quanh bởi một hệ thống
dây kẽm gai gài mìn nhiều tầng được giám sát bảo vệ bởi các tốp lính đi
tuần và canh gác cẩn mật.
Diễn biến trận Quang Thạnh ngày 15/2/1967
Tư lệnh miền đã cân nhắc rất kỹ các kế hoạch tấn công vào cứ điểm đồi
tranh Quang Thạnh. Mục tiêu của ta đề ra là phối hợp các tiểu đoàn chiến
đấu vận động bí mật tiếp cận mục tiêu theo hình thức đặc công. Đến nơi
tạo 4 cửa mở ở bốn góc bằng cách gài bộc phá để phá đồng loạt các hàng
rào dây kẽm gai sau đó đồng loạt xung phong tiến vào tiêu diệt quân địch
trong cứ điểm bằng AK, lựu đạn và súng phun lửa kết hợp với DKZ và B-40
ở bên ngoài.
Yếu tố bất ngờ đóng vai trò chủ đạo và trận đánh
phải sẽ diễn ra vào khoảng 10 giờ tối và phải kết thúc trước càng nhanh
càng tốt trước khi trời sáng để đề phòng quân địch ở các căn cứ khác kéo
đến tiếp viện và hạn chế hoả lực của phi pháo bắn tiếp cứu
Trận
đánh bắt đầu đúng như kế hoạch, ta dùng 4 mũi tấn công bí mật tiếp cận
từ các hướng, giữa các mũi tấn công luôn luôn đảm bảo liên lạc thông
suốt với nhau và với ban chỉ huy trận đánh. Tuy nhiên do rải lộ tiêu
không tốt mà một mũi tấn công bị lạc đường mất liên lạc và không đến vị
trí tập kết được.
Mặc dù chỉ còn ba mũi nhưng ta vẫn quyết định
tấn công cứ điểm. Ta đã thành công trong việc bịt mắt bọn đi tuần và bọn
gác bên ngoài. 3 mũi bí mật tiếp cận các cửa mở và đã đặt bộc phá xong,
chỉ huy trận đánh ra lệnh đồng loạt phát hoả để mở các cửa.
Sau
những tiếng nổ của bộc phá và DKZ, B-40 cùng lựu đạn. Quân ta nhất loạt
xung phong đột phá qua các cửa mở dùng AK bắn xối xả vào các giao thông
hào, các ụ phòng ngự có đặt trung liên, và các khu dã chiến cho lính ngủ
nửa chìm nửa nổi.
Bọn địch bị hoàn toàn bất ngờ , vòng ngoài
nhanh chóng bị hoả lực của ta tiêu diệt. Số còn lại lùi vào bên trong
vừa phản kích dữ dội vừa tìm cách tập trung lực lượng dựa vào các lô cốt
phòng ngự. Nắm được ý đồ của địch, ta vừa tăng cường sức tiến công vừa
bao vây chia cắt địch theo từng khu vực để tiêu diệt và gọi hàng.
Mặc dù sức tấn công của ta mạnh ở 3 mũi nhưng do thiếu một mũi tấn công
thứ tư cho nên việc chia cắt cô lập địch thành các khu nhỏ để bao vây
tiêu diệt triệt để trở nên khó khăn. Quân Hàn Quốc dựa vào các lô-cốt
hầm ngầm điên cuồng chống cự bằng trung liên, nhất quyết không đầu hàng.
Ta dùng súng phun lửa và lựu đạn tiêu diệt các ụ phòng ngự ngoan cố
này.
Đến gần sáng, ta làm chủ phần lớn cứ điểm, căn cứ ngổn ngang
xác địch. Do sơ hở, ta để một đại đội thuộc sư đoàn bộ binh Mãnh Hổ từ
bên ngoài đánh vào tiếp cứu và chúng co cụm vào 2 lô-cốt kiên cố nhất ở
trên cao, dùng hoả lực chống cự quyết liệt…
Lúc này phi pháo ở
bên ngoài bắn vào dữ dội hơn. Do bên trong căn cứ lúc này chủ yếu là
quân ta cho nên chỉ huy trận đánh ra lệnh giải quyết số thương binh tử
sĩ và rút lui dần vì nếu kéo dài đến sáng sẽ không có lợi.
4 giờ sáng quân ta rút lui an toàn ra khỏi căn cứ đồi tranh Quang Thạnh.
Mặc dù không tiêu diệt được 100% quân số địch, không bắt được tù binh
nhưng số mà ta tiêu diệt và loại khỏi vòng chiến đấu đủ để xoá sổ tiểu
đoàn lính thuỷ đánh bộ của Lữ đoàn Rồng Xanh đóng tại đây. Trận này ta
tiêu diệt tại chỗ 420 lính Hàn Quốc (chúng có khoảng 500 tên trong căn
cứ).
Đây là một trận đánh lớn, có ý nghĩa cực kỳ quan trọng, đánh
qụy Lữ đoàn thuỷ quân lục chiến Rồng Xanh, giáng một đòn chí tử vào đội
quân đánh thuê tàn ác, củng cố tinh thần cho bộ đội khu Năm về khả năng
đánh địch trong cứ điểm phòng ngự kiên cố.
Âm vang của trận đánh
lớn đến nỗi làm lình Hàn Quốc sống sót mất hết tinh thần. Sau trận
đánh, sáu tên lính Park Chung Hee ở một đơn vị Rồng Xanh đã rút chốt lựu
đạn tự tử tập thể, một số tự bắn vào chân để phản đối lệnh đi càn của
chỉ huy.
Ở các nơi có bọn Đại Hàn đóng quân, một số đem súng tìm
du kích để đầu hàng. Một số thông qua dân nhắn bộ đội giải phóng đừng có
bắn chúng, đổi lại chúng sẽ chỉ đi càn lấy lệ
Sau chiến thắng
này bà con ta hả lòng hả dạ và yên tâm bám đất ủng hộ du kích kiên quyết
không vào các ấp chiến lược do địch cưỡng chế.
- Trần Phiệt -
Đặc công - Biệt động Sài Gòn: Nỗi khiếp sợ của Mỹ ngụy
Những chiến công vang dội của Biệt động Sài Gòn - Gia Định
Thứ Sáu, 17/09/2010, 03:26:00
Là lực lượng đặc biệt (nhằm đáp ứng yêu cầu cách mạng trong từng giai
đoạn lịch sử), hoạt động ở một chiến trường đặc biệt (nội ô Sài Gòn -
trong thời gian chống Mỹ là thủ đô của địch, nơi kẻ địch canh phòng cẩn mật, bố
trí lực lượng dày đặc...) cho nên ngay từ khi mới ra đời, lực lượng Biệt động
Sài Gòn - Gia Định đã tuyệt đối chấp hành nguyên tắc bí mật tối đa. Lực lượng
được tổ chức thành từng tổ, liên tổ, hoạt động đơn tuyến; cán bộ, chiến sĩ phải
tinh thông nhiều nghề nghiệp trong xã hội, rất am hiểu tập quán, phong tục ở địa
phương nơi mình hoạt động, phải có trình độ giao tiếp, làm tốt công tác binh
địch vận. Đặc biệt là công tác vận động quần chúng, thực hiện năm bước công tác
cách mạng trong xây dựng lực lượng. Mỗi chiến đấu viên biệt động phải tự xây
dựng lấy cơ sở để tồn tại trong lòng địch (ở, cất giấu vũ khí, liên lạc với
trên), tham gia các phong trào đấu tranh chính trị của quần chúng. Muốn tồn tại
và bám lấy chiến trường thì phải ba hóa (công khai hóa, có giấy tờ hợp pháp, địa
phương hóa). Muốn phát triển được lực lượng và che mắt địch thì phải ba
cùng (cùng ăn, cùng ở, cùng với quần chúng đấu tranh). Qua đấu tranh mà phát
hiện được người tích cực dũng cảm và kết nạp họ vào đội ngũ chiến đấu.
Thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, cấp ủy sớm có chủ trương về tổ chức
lực lượng vũ trang, bán vũ trang mở rộng đến các ban, ngành, đoàn thể (công,
nông, thanh, phụ). Các lực lượng này đã kết hợp được với du kích vùng ven, tạo
ra thế liên hoàn từ trong ra ngoài và đã dấy lên một phong trào du kích chiến
tranh ngay trong sào huyệt địch, huy động được sức mạnh tổng hợp của cuộc chiến
tranh nhân dân ở các vùng ven đô thị. Với quy mô lực lượng được phát động xây
dựng, đã hình thành lực lượng biệt động nhiều cấp nhằm phục vụ trực tiếp các yêu
cầu về nhiệm vụ vũ trang của cấp mình đề ra. Do đó, trong thời kỳ
kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, lực lượng biệt động đã tổ chức đánh địch liên
tục trên đường phố, đánh vào nơi sinh hoạt ăn chơi, nơi ở của chúng (có tháng
biệt động thành phố đã đánh nhỏ, lẻ 127 vụ). Các hình thức chiến thuật luôn thay
đổi, mỗi trận xuất hiện một kiểu đánh mới, thay đổi một loạt vũ khí cho phù hợp
hoàn cảnh và điều kiện chiến đấu. Các chiến đấu viên phải sử dụng thành thạo các
loại vũ khí, trang bị nhằm phát huy tính năng, hiệu quả trong chiến đấu. Ngoài
ra còn phải nắm vững các quy ước về ám, ký, tín hiệu trong thực hiện nhiệm vụ
được giao.
Trong suốt chín năm kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (1945-1954), Ban
công tác thành và Tự vệ thành đã tiến hành các công tác trừ gian, diệt ác, đột
phá kho tàng hậu cần của địch kết hợp công tác tuyên truyền vận động quần chúng,
tạo dựng thanh thế của cách mạng. Qua đó, thật sự duy trì được phong trào đấu
tranh cách mạng ở vùng đô thị Sài Gòn, trung tâm điều hành chiến tranh của bọn
thực dân đế quốc và tay sai. Các hoạt động vũ trang đã góp phần đập tan âm mưu
thành lập Nhà nước "Nam Kỳ tự trị"; đốt cháy kho tàng (vụ đốt kho đạn Thị Nghè);
vụ tiêu diệt tên thực dân Ba-din khét tiếng gian ác; những tháng cuối năm 1947,
các Ban công tác thành được biên chế thành ba đơn vị quyết tử nằm trong đội hình
cấp tiểu đoàn, lấy phiên hiệu là tiểu đoàn quyết tử 950. Đến giữa năm 1951,
Trung ương Cục điều chỉnh chiến trường Nam Bộ thành hai Phân liên khu. Thành phố
Sài Gòn - Chợ Lớn được mở rộng để thành lập Đặc khu Sài Gòn - Chợ Lớn. Nhờ có sự
lãnh đạo tập trung thống nhất cả về chính trị - quân sự nên phong trào du kích
chiến tranh ở nội đô và vùng ven được giữ vững và phát triển. Bước vào chiến
cuộc Đông Xuân 1953-1954, phối hợp chiến trường Điện Biên Phủ, lực lượng biệt
động và đặc công đã tổ chức tập kích kho hậu cần liên hợp của quân Pháp nằm bên
cạnh sân bay Tân Sơn Nhất vào đêm 31-5 rạng ngày 1-6-1954, kết quả: hơn mười
nghìn tấn bom đạn các loại, hàng triệu lít xăng, dầu bị thiêu hủy; hàng trăm tên
lính Ấu Phi bị thương vong. Chiến thắng này làm nức lòng quần chúng nhân dân và
kẻ thù phải khiếp sợ.
Bước sang giai đoạn kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975), dưới sự chỉ
đạo của Khu ủy và Quân khu, các đội biệt động thành được tổ chức xây dựng theo
hướng "tinh nhuệ", tồn tại và hoạt động trong phong trào quần chúng, luồn sâu
đánh hiểm, tự lực, tự cường phát huy cao độ chủ nghĩa anh hùng cách mạng trong
chiến đấu, tiêu diệt địch và lập nhiều chiến công. Đó là: các đội viên "chim
sắt" đánh vào trụ sở Bộ Tư lệnh viện trợ Mỹ tại Việt Nam (MACV) hai lần trong
vòng một tháng, tiêu diệt hàng chục tên cố vấn Mỹ. Trong những năm 1963-1964,
lực lượng biệt động đã tổ chức những trận đánh đạt hiệu suất chiến đấu cao,
trong đó nổi bật là trận đánh cư xá Brin, trận tập kích khách sạn
Ca-ra-ven và trận đánh chìm tàu Card tải trọng 16.000 tấn tại bến Bạch Đằng,
tiêu diệt hàng trăm tên địch, đã chứng tỏ tài nghệ chỉ huy chiến đấu và khả năng
to lớn của cách đánh biệt động tại đô thị; góp phần làm phá sản chiến lược
"Chiến tranh đặc biệt" của Mỹ-ngụy.
Trong thời kỳ "Chiến tranh cục bộ" và các thời kỳ tiếp theo, lực lượng biệt
động thành luôn đảm nhiệm vai trò đánh đòn phủ đầu quân xâm lược Mỹ và chư hầu.
Ngày 30-3-1965, lực lượng biệt động đã dùng 150 kg thuốc nổ đặt trong xe hơi lao
thẳng vào Đại sứ quán Mỹ trên đường Hàm Nghi, làm thương vong hàng trăm tên quan
chức cấp cao. Ngày 16-8-1965, đội 5 thuộc F100 tiến công Tổng nha Cảnh sát ngụy;
ngày 4-12-1965, lại tiến công khách sạn Mê-tơ-rô-pôn, diệt hàng trăm tên phi
công và nhân viên kỹ thuật không lực Hoa Kỳ.
Nói về chiến công của lực lượng biệt động, không thể không nói đến công tác
bảo đảm của bộ phận phục vụ. Bằng sự cống hiến thầm lặng, các gia đình cơ sở
cách mạng đã không quản nguy hiểm, khó khăn để tham gia vận chuyển hàng chục tấn
vũ khí vào nội thành phục vụ các đơn vị chiến đấu. Từ năm 1965 đến 1967, đã
chuyển vào nội thành cất giấu an toàn khoảng bốn tấn vũ khí để trang bị trực
tiếp cho chín đội biệt động chiến đấu. Tham gia Tổng tiến công và nổi dậy Mậu
Thân 1968 (đợt 1 và đợt 2), lực lượng biệt động được phân công đánh chiếm chín
vị trí đầu não ở Sài Gòn, gồm: Dinh Độc Lập, Đại sứ quán Mỹ, Bộ Tổng tham mưu,
Đài phát thanh, Tổng nha Cảnh sát, Bộ Tư lệnh Hải quân ngụy, Biệt khu Thủ Đô,
sân bay Tân Sơn Nhất, khám Chí Hòa. Đây là những mục tiêu hết sức quan trọng,
cho nên địch bố trí canh phòng cẩn mật, ta rất khó tiếp cận. Chấp hành nghiêm
mệnh lệnh cấp trên, lực lượng biệt động đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được
giao, làm nức lòng quân dân cả nước và tạo tác động rất lớn trên trường quốc
tế.
Trong thời kỳ "Việt Nam hóa chiến tranh", lực lượng Biệt động Sài Gòn - Gia
Định vẫn đang trong giai đoạn phục hồi cả về tổ chức, lực lượng để đến khi bước
vào chiến dịch mùa xuân 1975, các chiến sĩ biệt động đã hoàn thành nhiệm vụ dẫn
đường cho xe tăng và bộ binh ta đánh chiếm các mục tiêu đầu não của địch,
phát động quần chúng nhân dân nổi lên diệt ác, trừ gian, giành chính quyền về
tay nhân dân và kết thúc vai trò lịch sử của mình một cách vẻ vang.
Những chiến công vang dội của lực lượng Biệt động Sài Gòn - Gia Định đã hun
đúc nên truyền thống vẻ vang:
"Đoàn kết một lòng
Mưu trí vô song
Dũng cảm tuyệt vời
Trung kiên bất khuất"
Đại tá NGUYỄN ĐỨC HÙNG (Tư Chu)
Nguyên Chỉ huy trưởng lực lượng Biệt động Sài Gòn - Gia Định
Tuyển tập những bài hát về bộ đội ĐẶC CÔNG
Các bài hát về Đặc Công Hải Quân – Hành khúc Đặc Công
Luận