LỘNG GIẢ THÀNH CHÂN, YÊNG HÙNG NGỤY TẶC 20
-Chế độ Việt nam cộng hòa là chế độ "lộng giả thành chân" thứ thiệt.
-Quân tướng VNCH mạo danh là quân tử nhưng thực ra chính danh là ngụy quân tử. Hầu hết tướng lĩnh VNCH đều bắt đầu đường binh nghiệp bằng việc đầu quân cho Thực dân Pháp, phản quốc. Đó là lũ "tướng tiền" chứ không phải "tướng tài".
-Việt Cộng sinh ra nhằm giải phóng đất nước, thống nhất giang sơn. VNCH do ngoại bang nhào nặn ra nhằm vì danh lợi mà làm tay sai cho chúng, yêu Tổ Quốc bằng cách cam tâm và cả mù quáng "cõng rắn cắn gà nhà", âm mưu chia cắt giang sơn của giống nòi mình, gieo rắc hận thù Dân Tộc cho chính giống nòi mình.
Không nỗi đau nào bằng nỗi đau "nồi da xáo thịt"
Không nỗi buồn nào bằng nỗi buồn chia cắt giang sơn
Yêu Tổ Quốc là phải biết thương tận lòng Tổ Quốc
Thật bụng khen chê, thà ngây như kẻ thất phu.
---------------------------------------------------------------------
(ĐC sưu tầm trên NET)
"LỘNG GIẢ THÀNH CHÂN"
Thành ngữ Việt Nam có câu "lộng giả thành chân” có nghĩa là “bỡn quá hóa thật”. Trước khi tìm hiểu định nghĩa này, tôi và nhiều người thường hiểu câu thành ngữ này nôm na là, biến cái giá thành cái thật, hay lời nói dối được nói đi nói lại nhiều lần lâu ngày ngưòi ta sẽ tin là thật.(...)
Tướng Dù VNCH Dư Quốc Đống Cả Cuộc Đời Lầm Lạc Tội Lỗi Cuối Đời Sống Trong Dằn Vặt
Tướng Dư Quốc Đống và trận chiến Phước Long tháng 1 năm 1975
Vương Hồng Anh
* Tổng lược về tình hình chiến sự Phước Long
Đầu tháng 10/1974, bộ Tổng Tham Mưu QL.VNCH đã thu thập được rất nhiều tin tức tình báo tổng hợp về hoạt động của CSBV tại miền Đông Nam phần. Nhiều thông tin và tài liệu cho thấy CQ đang chuẩn bị và có kế hoạch tấn công Phước Long. Nguồn tin này cũng được bộ tư lệnh Quân đoàn 3 và bộ chỉ huy Tiểu khu Phước Long nắm vững, đồng thời cập nhật hóa thường xuyên, mỗi lần đều có những tín hiệu về sự chuyển biến rõ rệt của địch. Do đó, bộ Tổng Tham Mưu và bộ Tư lệnh Quân đoàn đã không có sự bất ngờ khi được báo cáo về vụ tấn công của CQ vào Phước Long, diễn ra vào 13/12/1974.
Đầu tháng 10/1974, bộ Tổng Tham Mưu QL.VNCH đã thu thập được rất nhiều tin tức tình báo tổng hợp về hoạt động của CSBV tại miền Đông Nam phần. Nhiều thông tin và tài liệu cho thấy CQ đang chuẩn bị và có kế hoạch tấn công Phước Long. Nguồn tin này cũng được bộ tư lệnh Quân đoàn 3 và bộ chỉ huy Tiểu khu Phước Long nắm vững, đồng thời cập nhật hóa thường xuyên, mỗi lần đều có những tín hiệu về sự chuyển biến rõ rệt của địch. Do đó, bộ Tổng Tham Mưu và bộ Tư lệnh Quân đoàn đã không có sự bất ngờ khi được báo cáo về vụ tấn công của CQ vào Phước Long, diễn ra vào 13/12/1974.
Theo tài liệu của Phòng 3 Bộ Tổng Tham Mưu, diễn tiến
trận chiến được ghi nhận như sau: Ngày 13 tháng 12/1974, Cộng quân mở
cuộc tấn công vào quận lỵ Đôn Luân nhưng đã bị tiểu đoàn Địa Phương Quân
với sự yểm trợ của Không quân đã đánh bật CQ khỏi trận chiến. Qua đêm
hôm sau, ngày 14/12/1974, Cộng quân mở trận đánh chớp nhoáng tương tự
vào quận lỵ Đức Phong và Bố Đức. Cả hai vị trí này bị tràn ngập nhanh
chóng vì lực lượng yểm trợ không tiếp cứu kịp. Dêm kế tiếp, ngày 15
tháng 12/1974, một trung đội pháo binh diện địa của tiểu khu Phước Long
bị Cộng quân tấn công, 2 khẩu 105 ly bị mất vào tay địch quân.
Từ ngày 17/12/1974 đến cuối tháng 12/1974, Cộng quân
gia tăng áp lực quanh tỉnh lỵ Phước Long. Phi trường bị pháo kích liên
tục gây khó khăn cho việc tiếp tế bằng không vận. Đêm 30 tháng 12/1974.
Cộng quân huy động sư đoàn 7 chính quy CSBV và sư đoàn 3 tân lập thuộc
bộ chỉ huy Miền, 1 trung đoàn thiết giáp và 1 trung đoàn pháo binh tấn
công vào Phước Bình. Cộng quân tiến sát đến hàng rào phòng thủ của các
đơn vị. Trận đánh kéo dài suốt đêm và qua chiều hôm sau mới tạm lắng.
Quân trú phòng gồm 1 tiểu đoàn bộ binh và lực lượng Địa phương quân của
chi khu Phước Bình phải rút lui lập phòng tuyến mới quanh phi trường.
Trận tấn công của CQ vào tỉnh lỵ Phước Long bắt đầu
vào 7 giờ sáng ngày 1/1/1975 khi một thành phần Cộng quân có xe tăng yểm
trợ tiến vào phía nam tỉnh lỵ Phước Long, nhưng khi đến chân đồi gần
tỉnh lỵ thì bị khựng lại trước sự chống trả quyết liệt của quân trú
phòng. Cùng vào thời gian này, Cộng quân đã bao vây khu vực núi Bà Rá
bất chấp các đợt không pháo và xạ kích của Không quân VNCH bắn chận tối
đa. Sau khi chiếm được núi Bà Rá, Cộng quân cho thiết lập ngay đài quan
sát pháo binh và sử dụng súng 130 ly bắn ngay vào trung tâm tỉnh lỵ. 8
khẩu 105 ly và 4 khẩu 155 ly đặt trong tiểu khu Phước Long bị trúng đạn
Cộng quân. Trong suốt ngày 2 tháng 1/1975, lực lượng trú phòng chiến đấu
quyết liệt và gây tổn thất nặng cho Cộng quân, 15 xe tăng của địch quân
bị bắn cháy. Đến 18 giờ cùng ngày thì trạm liên lạc đặt trên đỉnh núi
Bà Rá bị Cộng quân chiếm do đó sự liên lạc viễn thông với thị xã bị mất
hẳn.
* Tướng Dư Quốc Đống và cuộc họp quyết định số phận Phước Long
Cũng trong ngày 2/1/1975, một cuộc họp khẩn cấp do Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu chủ tọa được tổ chức tại Dinh Độc Lập. Theo lời kể của đại tướng Cao Văn Viên ghi lại trong hồi ký, thì thành phần tham dự cuộc họp có: Phó Tổng Thống Trần Văn Hương, Thủ Tướng Trần Thiện Khiêm, đại tướng Cao Văn Viên; trung tướng Đặng Văn Quang, phụ tá quân sự Tổng thống; trung tướng Trần Văn Minh, tư lệnh Không quân; trung tướng Đồng Văn Khuyên, tham mưu trưởng bộ Tổng Tham Mưu và trung tướng Dư Quốc Đống. Đề tài được nêu ra trong cuộc họp là nên tăng cường lực lượng để giữ Phước Long hay không. Nếu phải tiếp cứu Phước Long thì phải điều động thêm bao nhiêu quân và phải yểm trợ như thế nào.
Cũng trong ngày 2/1/1975, một cuộc họp khẩn cấp do Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu chủ tọa được tổ chức tại Dinh Độc Lập. Theo lời kể của đại tướng Cao Văn Viên ghi lại trong hồi ký, thì thành phần tham dự cuộc họp có: Phó Tổng Thống Trần Văn Hương, Thủ Tướng Trần Thiện Khiêm, đại tướng Cao Văn Viên; trung tướng Đặng Văn Quang, phụ tá quân sự Tổng thống; trung tướng Trần Văn Minh, tư lệnh Không quân; trung tướng Đồng Văn Khuyên, tham mưu trưởng bộ Tổng Tham Mưu và trung tướng Dư Quốc Đống. Đề tài được nêu ra trong cuộc họp là nên tăng cường lực lượng để giữ Phước Long hay không. Nếu phải tiếp cứu Phước Long thì phải điều động thêm bao nhiêu quân và phải yểm trợ như thế nào.
Đại tướng Cao Văn Viên kể lại rằng: tại cuộc họp, với
chức danh là tư lệnh Quân đoàn 3 & Quân khu 3, trung tướng Đống
nhận định rằng Quân đoàn 3 cần ít nhất 1 Sư đoàn Bộ binh hay 1 Sư đoàn
Nhảy Dù để giải vây cho Phước Long. Kế hoạch của tướng Đống là mở cuộc
hành quân tiếp cứu bằng trực thăng vận để đưa sư đoàn tiếp ứng này vào
tỉnh lỵ Phước Long từ hướng phía tây và phải được sự yểm trợ tối đa bằng
không quân chiến thuật và tiếp vận đạn dược. Sau đó trung tướng Đống
xin Tổng thống Thiệu cho từ chức vì ông cho rằng ông không có khả năng
thay đổi tình hình tại Quân khu 3 sau ba tháng giữ chức vụ này.
Trung tướng Dư Quốc Đống được Tổng thống VNCH cử giữ
chức tư lệnh Quân đoàn 3/Quân khu 3 từ tháng 10/1974, thay thế trung
tướng Phạm Quốc Thuần được hoán nhiệm chức vụ để giữ chức chỉ huy trưởng
Trường Hạ Sĩ quan Nha Trang mà tướng Đống đảm nhiệm từ năm 1973. Trước
1973, từ năm 1964 đến năm 1972, tướng Đống là tư lệnh binh chủng Nhảy Dù
(binh chủng này đã phát triển từ cấp lữ đoàn thành lên cấp Sư đoàn vào 1
tháng 12/1965). Theo các thông báo về thăng thưởng và bổ nhiệm các sĩ
quan cao cấp được Bộ Quốc phòng VNCH phổ biến trên các bản tin của Thông
tấn xã VN và các nhật báo, trung tá Dư Quốc Đống được mang cấp đại tá
vào giữa tháng 9/1964 ngay sau khi được cử giữ chức Quyền tư lệnh Lữ
đoàn Nhảy Dù thay thế thiếu tướng Cao Văn Viên được bổ nhiệm vào chức vụ
cao hơn. Tháng 11/1964, ông được đặc cách thăng chuẩn tướng, chính thức
giữ chức tư lệnh binh chủng Nhảy Dù vào ngày 19/12/1964. Ngày Quân Lực
19/6/1966, ông được thăng thiếu tướng, và đến giữa năm 1970, được thăng
trung tướng.
Trở lại với cuộc họp tại Dinh Độc Lập, sau lời trình
bày của tư lệnh Quân đoàn 3, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu bác bỏ lời xin
từ chức của tướng Đống và lo lắng hơn nữa về kế hoạch tăng cường lực
lượng để giữ Phước Long. Kế hoạch này được xem xét rất kỹ lưỡng nhưng
cuối cùng bị bãi bỏ vì bộ Tổng Tham Mưu không còn đơn vị tổng trừ bị
trong tay. Cuối cùng việc giải vây cho Phước Long được bộ Tổng Tham Mưu
giao cho bộ tư lịnh Quân đoàn 3 trực tiếp đảm trách với lực lượng và khả
năng sẵn có trong tay. Quân đoàn 3 được tăng cường Liên đoàn 81 Biệt
Cách Dù với nhiệm vụ là lực lượng xung kích. Trong khi trung tướng Đống
và bộ Tư lệnh Quân đoàn 3 tiến hành kế hoạch hành quân giải cứu Phước
Long, thì tại tỉnh lỵ, vào ngày 3 tháng 1/1975, Cộng quân tăng cường áp
lực quanh vòng đai phòng thủ ở phía nam. Tuyến phòng ngự của quân đội
VNCH tại Phước Long chỉ còn thu hẹp ở chợ, khu hành chánh tỉnh và phi
trường dành cho L19. Tất cả các đạn bác của quân trú phòng đều bị hư
hại, không còn tác xạ được do hơn 2 ngàn trái pháo của Cộng quân đã rót
vào khu tòa hành chánh và bộ chỉ huy tiểu khu. Hơn 20 tấn đạn dược được
tiếp tế thả dù ngay phía bắc tiểu khu nhưng vì Cộng quân pháo kích liên
tục nên việc thu hồi số đạn tiếp tế này vô cùng khó khăn. Ngày 4 tháng
1/1975, Cộng quân gia tăng các đợt pháo kích vào bộ chỉ huy Tiểu khu.
Trung tá tiểu khu phó bị tử thương ngay tại chỗ. Trung tá chi khu trưởng
Phước Bình bị thương nặng. Cùng lúc đó, xe tăng của CQ xuất hiện từ 2
hướng Tây và Nam thị xã. Liên lạc giữa bộ chỉ huy Tiểu khu và Quân đoàn 3
bị đứt quãng nhiều lần và sau khi trung tâm hành quân bị phá hủy thì hệ
thống liên lạc viễn liên chỉ còn 1 tần số vô tuyến.
Ngày 5 tháng 1/1975, vào lúc 8 giờ sáng, Không quân
VNCH thực hiện 60 phi vụ chiến thuật để yểm trợ cho cho kế hoạch hình
thành một bãi đáp trực thăng tại phía đông tỉnh lỵ để Liên đoàn 81 Biệt
kích Dù đổ bộ. 9 giờ sáng ngày 5 tháng 1/1975, một đại đội Biệt kích Dù
đầu tiên đổ bộ an toàn. Ngay sau khi đổ bộ xong, thì lực lượng tiếp ứng
và Tiểu khu bắt đầu liên lạc với nhau được ngay. Đến 11 giờ phi cơ chuẩn
bị cho cuộc đổ bộ thứ hai và bộ chỉ huy dự trù sẽ trực thăng vận xuống
phía Bắc khu Hành chánh tỉnh. Khi hoàn tất cuộc đổ bộ vào lúc 3 giờ
chiều cùng ngày, hơn 250 quân sĩ Biệt Kích Dù bị lọt vào ổ phục kích của
pháo binh Cộng quân. Rất may chỉ có khoảng 2 tiểu đội bị tổn thất.
Nhiều trực thăng bị trúng đạn nhưng phi hành đoàn đã cố gắng thoát ra
khỏi vùng hỏa lực phòng không của CQ. Tuy nhiên vì địch pháo dữ dội nên
Không quân không thể tải thương được như đã dự trù. Trong thế cài răng
lược, xe tăng CQ phá vỡ vị trí phòng ngự của Địa phương quân tại kho
Tiếp vận và từ đó tấn công vào thị xã. Đặc công địch tùng thiết liền trở
lui đặt chướng ngại vật để chận đường trong khi chiến xa của CQ vẫn
tiến về dinh tỉnh trưởng, bây giờ là bộ chỉ huy hành quân Tiểu khu và bộ
chỉ huy đơn vị tăng viện vừa mới đến. CQ bị đẩy lùi khi các chiến binh
Biệt Cách Dù bắt đầu phản công để tái chiếm từng vị trí một, đặc biệt là
kho Tiếp vận. Mặc dù chiến binh Biệt Cách Dù chiến đấu vô cùng dũng
cảm, nhưng do áp lực CQ quá nặng, nên không chiếm lại được các vị trí
trọng yếu. Lúc ấy Biệt Cách Dù bị thiệt hại gần nửa quân số.
Trận chiến trở nên kịch liệt hơn khi chiến xa địch
kéo đến tăng cường, chiến binh Biệt Cách Dù sử dụng loại vũ khí phóng
hỏa tiễn M 72 và đại bác không giật để bắn trả. Đến cuối ngày hôm đó, bộ
chỉ huy Biệt Cách Dù báo cáo cho bộ Tư lệnh Quân đoàn 3 về tình hình
trận chiến. Tình hình vô cùng nguy kịch không giống như những gì Tiểu
khu đã báo cáo trước đó. Tuyến phòng thủ của Địa phương quân bị vỡ khi
chiến xa địch kéo đến. Thấy vậy, sĩ quan chỉ huy Biệt Cách Dù quyết định
lập hàng rào quanh dinh tỉnh trưởng và tòa hành chánh. Suốt đêm đó hơn
1,000 trái đại bác của địch rót vào khu vực này và khu vực chợ. Qua 9
giờ sáng ngày 6/1, bộ binh CQ có xe tăng yểm trợ lại mở trận tấn công
tiếp. Giao tranh kéo dài suốt ngày. Đến 23 giờ liên lạc với bộ chỉ huy
Tiểu khu bị mất nhưng Biệt cách Dù vẫn còn giữ vững vị trí. Đến 12 giờ
đêm, lực lượng Biệt Cách Dù lặng lẽ phân tán mỏng ra khỏi thị xã.
Sau khi Phước Long thất thủ, trung tướng Dư Quốc Đông
xin từ chức và được Tổng thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu chấp thuận. Tổng
thống đã cử trung tướng Nguyễn Văn Toàn, chỉ huy trưởng binh chủng Thiết
giáp QL.VNCH, cựu tư lệnh Quân
đoàn 2/Quân khu 2 (từ tháng 5/1972 đến tháng 10/1974), thay thế tướng
Đống trong chức vụ tư lệnh Quân đoàn 3/Quân khu 3.
(Biên soạn dựa theo tài liệu của Phòng 3/Bộ Tổng Tham
Mưu được phổ biến trong tập chiến sử VN do Trung tâm Quân sử Lục quân
Hoa Kỳ phát hành, hồi ký của đại tướng Cao Văn Viên, một số bài viết
trong KBC, tài liệu riêng của VB).
Bại tướng Dư Quốc Đống
Tháng Tư 10, 2011
QĐND – Trong cuộc hành quân Lam Sơn 719
của Mỹ-Quân đội Sài Gòn, ngoài lực lượng chính là Quân đoàn l-Quân khu
l, giới chóp bu Sài Gòn còn tăng cường hai lực lượng được xem là “thiện
chiến” nhất trong quân lực Việt Nam cộng hòa là Sư đoàn Thủy quân Lục
chiến và Sư đoàn dù. Tư lệnh Sư đoàn dù lúc đó là Trung tướng Dư Quốc
Đống.
Dư Quốc Đống sinh năm 1932 tại tỉnh Rạch
Giá. Y cầm súng theo thực dân Pháp từ khi còn rất trẻ. Tốt nghiệp Trường
Sĩ quan Đà Lạt năm 1952, Đống được điều về Tiểu đoàn 4 Vệ binh Sơn cước
đóng tại Plei-cu. Một năm sau, y tình nguyện xin về Tiểu đoàn 1 nhảy
dù.
Con đường làm tay sai hết Pháp đến Mỹ của
Dư Quốc Đống chủ yếu trong lực lượng “mũ nồi đỏ” khét tiếng gian ác từng
gây nhiều tội ác đối với đồng bào ta. Từ năm 1953 đến cuối năm 1972,
Đống lần lượt leo qua các chức Đại đội trưởng, Tiểu đoàn phó, Tiểu đoàn
trưởng, Tư lệnh Lữ đoàn… đến Trung tướng, Tư lệnh Sư đoàn dù. Dư Quốc
Đống từng tham gia chiến dịch tảo thanh lực lượng Bình Xuyên năm 1955,
từng nhiều lần đụng độ với Quân Giải phóng trong trận Ia Đrăng, Tết Mậu
Thân 1968, Đồi 1416 ở Đắc Tô, cuộc tiến quân sang Cam-pu-chia… và cuộc
hành quân Lam Sơn 719 năm 1971.
Như vậy, cuộc đời binh nghiệp làm tay sai
cho ngoại bang của Đống chủ yếu ở Sư đoàn dù, lực lượng “con cưng” của
chính quyền Sài Gòn, được trang bị hiện đại, được quan thầy Mỹ tuyển
chọn nhân sự và đào tạo bài bản, kỹ lưỡng. Vì có “thâm niên” nhất trong
lực lượng, lại có vóc dáng cao lớn, thêm tính cách biết giữ chữ tín theo
kiểu giang hồ nên y được cấp dưới vì nể. Nói một cách công bằng, Dư
Quốc Đống được Pháp và Mỹ đào tạo cơ bản về chiến thuật của lực lượng
dù, có kinh nghiệm trong hành quân tác chiến càn quét và đối phó với lực
lượng Quân Giải phóng. Nhưng tại cuộc hành quân Lam Sơn 719, Sư đoàn dù
do y chỉ huy đã bị Quân Giải phóng quần cho tơi tả.
Trong “Lệnh hành quân Lam Sơn 719” của Sư
đoàn dù ký ngày 3-2-1971, Dư Quốc Đống ra lệnh cho thuộc cấp: “Nỗ lực
chính trong cuộc hành quân hỗn hợp không lực theo trục DO, nhằm cắt đứt
hệ thống tiếp vận của Công sản Bắc Việt, tìm diệt địch và phá hủy tối đa
các quân dụng kho tàng của chúng trong căn cứ 604”. Hướng hành quân
cũng được Đống chỉ rõ: “Xuất phát từ căn cứ Hàm Nghi, hành quân bộ theo
dọc Đường 548 (Đường 9) và trực thăng vận xuất nhập các khu vực mục tiêu
A Lưới, A Sầu, thiết lập các căn cứ hành quân và căn cứ hỏa lực, tổ
chức hành quân tuần thám, lùng diệt địch, phá hủy các kho tàng trong khu
vực trách nhiệm”.
Cuộc hành hành quân của Sư đoàn dù cũng được Đống chia làm 4 giai đoạn:
Giai đoạn l (Từ ngày 30-1 đến 7-2 năm
1971): Di chuyển toàn bộ sư đoàn nhảy dù và các đơn vị tăng phái đến
phối trí xung quanh khu vực căn cứ Hàm Nghi.
Giai đoạn 2 (từ 8-2 đến 14-2): Sử dụng
chiến đoàn đặc nhiệm làm nỗ lực chính, xuất phát từ Tà Bạt, tiến quân
dọc theo Đường 548 (Đường 9) về phía tây, giao tiếp và hỗ trợ cho 1 tiểu
đoàn nhảy dù trực thăng vận chiếm mục tiêu A Lưới (Bản Đông) và thiết
lập căn cứ hỏa lực tại đây. Đồng thời Lữ đoàn 3 nhảy dù được trực thăng
vận cấp tiểu đoàn chiếm các khu vực cao điểm 30-31 (điểm cao 450-543)
phía bắc Đường 9 và thiết lập các căn cứ hỏa lực để hỗ trợ mặt Bắc cho
cánh quân cơ giới, chiến đoàn đặc nhiệm.
Giai đoạn 3: Củng cố các căn cứ hành quân
và căn cứ hỏa lực tổ chức hành quân lục soát, tiêu diệt lực lượng địch,
khám phá và tiêu hủy tới mức tối đa các quân dụng cũng như kho tàng của
địch trong phạm vi trách nhiệm.
Giai đoạn 4: Đoạn lệnh hành quân sẽ ban
hành sau (sau này thành cuộc tháo chạy vội vã của Sư đoàn dù cũng như
toàn bộ lực lượng địch tham chiến).
Tổ chức biên chế của Sư đoàn dù lúc này
rất mạnh, gồm 9 tiểu đoàn thuộc 3 lữ đoàn dù, 1 tiểu đoàn pháo binh, 1
tiểu đoàn công binh… đó là chưa kể các lực lượng của Quân đoàn 1 tăng
cường cho Đống gồm Lữ đoàn 1 thiết kỵ, Tiểu đoàn 44 pháo binh (155mm) và
tiểu đoàn 101 công binh chiến đấu.
Nhưng, cuộc hành quân hoang tưởng Lam Sơn
719 do quan thầy Mỹ sắp đặt bị thất bại thảm hại. Toàn bộ lực lượng của
cái gọi là Cuộc hành quân Lam Sơn 719 trong đó có Sư đoàn dù của Dư Quốc
Đống đã lọt vào trong thế trận giăng sẵn của quân và dân ta. Thất bại
của chúng là điều không tránh khỏi.
Sáng 9-2-1971, 2 đại đội của chiến đoàn
đặc nhiệm dù tại chốt 351 cầu Cha Kỳ bị Quân Giải phóng tiêu diệt. Cùng
ngày, Tiểu đoàn dù 2 bị tập kích ở Xê Nam.
Từ ngày 11 đến ngày 13-2, Trung đoàn 64
thuộc Sư đoàn 320 Quân đội nhân dân Việt Nam liên tiếp tiến công khu vực
điểm cao 456 và Đồi Không Tên, diệt 3 đại đội của Tiểu đoàn 3 và Tiểu
đoàn dù 6 (Lữ đoàn dù 3) chốt giữ căn cứ 31 (điểm cao 543), cách Bản
Đông 7km về phía bắc.
Trưa 25-2, bằng trận tiến công hiệp đồng
binh chủng, Trung đoàn 64 đã làm chủ căn cứ 31, tiêu diệt Tiểu đoàn 3
dù, bắt sống Đại tá Nguyễn Văn Thọ, Lữ đoàn trưởng Lữ đoàn 3 dù và toàn
bộ ban tham mưu lữ đoàn.
Ngày 12 đến ngày 17-3, Quân Giải phóng đại
phá Bản Đông do 1 lữ đoàn dù và 2 thiết đoàn quân đội Sài Gòn chốt giữ.
Lữ đoàn dù 3 bị xóa sổ.
Ngày 18-3, do bị thất bại nặng nề, quân
đội Sài Gòn rút khỏi Bản Đông. Cuộc rút quân trở thành một thảm bại hỗn
loạn. Binh sĩ vứt bỏ vũ khí chạy cắt rừng hòng thoát thân nhưng cuối
cùng trúng vào các ổ phục kích của Quân Giải phóng.
Cuộc hành quân Lam Sơn 719 là cuộc hành
quân lớn nhất của Liên quân Mỹ-ngụy trong cuộc chiến tranh Việt Nam.
Nhưng, khi viết về cuộc đời cầm súng làm tay sai cho hết Pháp và Mỹ của
Dư Quốc Đống, đám đàn em của y và thậm chí người cháu gọi Đống bằng cậu
ruột là Trần Thái Văn hiện sống ở Ca-li-phoóc-ni-a (Mỹ) không một lời
nhắc đến cuộc hành quân này. Đây là một trong những thất bại nặng nề
nhất trong 26 năm khoác áo lính của Dư Quốc Đống mà thuộc hạ cũng như y
muốn quên đi. Cũng có vài kẻ thân tín của y cho rằng, việc đặt Dư Quốc
Đống và Lê Nguyên Khang, Trung tướng Tư lệnh Sư đoàn Thủy quân Lục chiến
dưới quyền của Trung tướng Hoàng Xuân Lãm, Tư lệnh Quân đoàn 1 – Vùng 1
chiến thuật là một sai lầm của Tổng thống Thiệu, vì hai viên tướng vốn
ngổ ngáo lại quen được chiều chuộng rất coi thường Lãm. Bằng chứng là
mặc dù toàn bộ Sư đoàn Thủy quân Lục chiến tham gia cuộc hành quân,
nhưng Lê Nguyên Khang giao cho cấp phó chỉ huy, còn mình thì nằm chơi ở
Sài Gòn… Sau này, mâu thuẫn giữa Đống và Lãm được bộc lộ trong kế hoạch
phòng thủ Bản Đông. Chuyện đó có chăng cũng chỉ là một nguyên nhân nhỏ
để bào chữa cho thất bại cay đắng của Đống và Sư đoàn Dù của y.
Trong hồi ký “Sư đoàn nhảy dù Việt Nam và
cuộc hành quân Lam Sơn 719” của Trung tướng hồi hưu Giêm B.Vốt-tơ (James
B.Vaught), nguyên Cố vấn trưởng Sư đoàn dù trong cuộc hành quân này
cũng rất ít khi nhắc đến Đống. Sau khi ba hoa rằng mặc dù bị đối phương
bao vây quyết liệt, nhưng cuối cùng nhờ tài cố vấn của mình, Sư đoàn dù
đã “triệt thoái có quy củ khỏi đất Lào thành công”, Vốt-tơ chỉ nhắc Đống
một chút, nguyên văn như sau: “Tướng Đống trong buổi họp tham mưu đã
nói với toàn bộ các đơn vị trưởng trong Sư đoàn dù rằng, từ nay tôi được
phép đề nghị các quyết định hành quân chiến thuật cần thiết và mọi
người phải tuyệt đối thi hành. Và kể từ ngày đó tướng Đống không bao giờ
phản đối bất cứ một đề nghị nào của tôi đưa ra…”.
Không biết Vốt-tơ khen hay… chửi Đống, xem vị tướng này như là bù nhìn dưới quyền điều hành của các cố vấn Mỹ.
Cuối năm 1972, Dư Quốc Đống rời chức Sư
đoàn trưởng Sư đoàn dù để thay Ngô Du làm Trưởng đoàn thương thuyết của
Quân đội Sài Gòn trong Ủy ban liên hợp Quân sự bốn bên.
Tháng 11-1974, Dư Quốc Đống được Tổng
thống Thiệu cử giữ chức Tư lệnh Quân đoàn 3-Quân khu 3 bao gồm Sài Gòn
và các tỉnh phụ cận. Sau đó 3 tháng, y phải từ chức khi để mất Phước
Long vào tay Quân Giải phóng. Ngày 29-4-1975, khi chế độ Sài Gòn trong
cơn hấp hối, Đống cùng gia đình vội vã rời khỏi Việt Nam sang tiếp tục
sinh sống những ngày tàn cuối đời ở Mỹ. Ngày 22-4-2008, Dư Quốc Đống
chết ở một Viện dưỡng lão ở Ca-li-phóoc-ni-a.
Khôi Nguyên (Theo báo chí nước ngoài)
Tướng VNCH TÔN THẤT ĐÍNH – Chuyên Gia Trở Mặt Và Cuộc Sống Ly Hương Sa Cơ Lỡ Vận Trên Đất MỸ
Tr.Tướng Tôn Thất Đính
Tôn Thất Đính (1926-2013), nguyên là một
cựu tướng lĩnh Bộ binh của Quân lực Việt Nam Cộng hòa. Ông xuất thân từ
trường Võ bị do Chính phủ Quốc gia Việt Nam mở ra ở miền Trung Việt
Nam, được sự cố vấn và hỗ trợ huấn luyện của Quân đội Pháp. Ông cũng là
một Nghị sĩ giữ chức vụ cao trong Quốc hội Việt Nam Cộng hòa. Là một
trong số ít các sĩ quan được ưu ái và thăng cấp tướng trong thời kỳ Đệ
nhất Cộng hòa. Tuy nhiên, ông lại là một trong những nhân vật chủ chốt
trong cuộc Đảo chính Việt Nam Cộng hòa 1963 và có liên quan đến cái chết
của Ngô Đình Diệm, Tổng thống đầu tiên của Việt Nam Cộng hòa, và người
em ruột là Cố vấn Ngô Đình Nhu.
Thân thế
Ông có biệt danh là Ba Đính, [1] sinh ngày 20 tháng 11 năm 1926 Huế, Thừa Thiên trong một gia đình Tôn thất nhà Nguyễn. Cha mất sớm, ông được người anh cả là ông Tôn Thất Đĩnh đưa lên Đà Lạt nuôi dưỡng. Do truyền thống gia đình và nhờ sự giáo dục nghiêm khắc của người anh, dù có bản tính hiếu động nhưng ông vẫn có được một nền tảng giáo dục khá tốt thời bấy giờ. Năm 1944, ông tốt nghiệp Trung học chương trình Pháp tại Đà Lạt với bằng Tú tài bán phần (Part I). Sau đó, ông trúng tuyển kỳ thi ngạch Thông phán tại Đà Lạt, tùng sự tại Tòa Công sứ Đà Lạt.
ham gia kháng chiến
Thân thế
Ông có biệt danh là Ba Đính, [1] sinh ngày 20 tháng 11 năm 1926 Huế, Thừa Thiên trong một gia đình Tôn thất nhà Nguyễn. Cha mất sớm, ông được người anh cả là ông Tôn Thất Đĩnh đưa lên Đà Lạt nuôi dưỡng. Do truyền thống gia đình và nhờ sự giáo dục nghiêm khắc của người anh, dù có bản tính hiếu động nhưng ông vẫn có được một nền tảng giáo dục khá tốt thời bấy giờ. Năm 1944, ông tốt nghiệp Trung học chương trình Pháp tại Đà Lạt với bằng Tú tài bán phần (Part I). Sau đó, ông trúng tuyển kỳ thi ngạch Thông phán tại Đà Lạt, tùng sự tại Tòa Công sứ Đà Lạt.
ham gia kháng chiến
Năm 1945, Việt Minh giành chính quyền từ
tay người Nhật Bản. Với sự nhiệt tình ái quốc của tuổi trẻ, khi người
Pháp tái chiếm Bán đảo Đông Dương, ông hưởng ứng phong trào học sinh yêu
nước trong cao trào kháng Pháp bấy giờ, tham gia Lực lượng Quân sự của
Việt Minh chống Pháp, làm Ủy viên Chính trị một Trung đội trong Tiểu
đoàn Vệ quốc Quân Việt Minh tại Đà Lạt [2]. Ông cùng đơn vị mình tham
gia chiến đấu chống lại Liên quân Anh–Pháp–Nhật tại mặt trận Đà Lạt –
Đơn Dương. Cùng chiến đấu tại đây có một Tiểu đoàn trưởng Việt Minh tên
là Đỗ Mậu, người về sau đóng vai trò quan trọng cuộc đời binh nghiệp của
ông sau này. [3]
Tuy nhiên do sự yếu kém trong tổ chức
kháng chiến cũng như sức mạnh hỏa lực của đối phương, mặt trận nhanh
chóng tan vỡ, đơn vị ông cũng tan rã hoàn toàn. Ông bỏ trốn về Đà Lạt,
ẩn náu trong nhà người anh. Để tránh bị bắt bớ giam cầm, ông xin làm Thư
ký cho Ty Cảnh sát Pháp. Nhưng đầu năm 1948, ông bị phát hiện từng tham
gia Việt Minh chống Pháp nên bị Chính quyền Pháp bắt giam. Nhờ sự bảo
lãnh của người anh trai, bấy giờ đang là một chuyên viên đang làm việc
tại Viện Pasteur Đà Lạt, ông được thả tự do với cam kết không được tham
gia các hoạt động chống Pháp.
Binh nghiệp
Binh nghiệp
Trong một chuyến về thăm gia đình tại Huế,
ông gặp được một người quen cũ là Đỗ Mậu, bấy giờ đang làm Trưởng phòng
3 Bộ Tham mưu Việt binh Đoàn tại Huế, một Lực lượng Quân sự bổ sung
(forces supplétives) của quân đội Pháp. Do sự giới thiệu của ông Mậu,
ông gia nhập Việt binh Đoàn. Sau khóa đào tạo Hạ sĩ quan tại Mang Cá
(Huế), ông được phân bổ về làm Thư ký ở phòng Bí thư Bộ Tham mưu với cấp
bậc Trung sĩ.[3]
Quân đội Liên hiệp Pháp
Quân đội Liên hiệp Pháp
Tháng 10 năm 1948, một khóa huấn luyện
ngắn hạn để đào tạo cấp tốc một số sĩ quan Việt Nam bổ sung cho Quân đội
Liên hiệp Pháp được mở tại Đập Đá, Huế. [4] Với học lực Tú tài Pháp,
ông được cử theo học khóa 1 Bảo Đại, [5] khai giảng ngày 1 tháng 10 năm
1948. Ngày 1 tháng 6 năm 1949 mãn khóa tốt nghiệp với cấp bậc Thiếu úy
hiện dịch. [6] Ra trường, ông được chuyển đến trường Hạ sĩ quan An Cựu,
Huế làm Huấn luyện viên. Giữa năm 1950, ông được chọn sang Pháp du học ở
trường Kỵ binh Saumur (École de cavalerie de Saumur). [7]
Quân đội Quốc gia Việt Nam
Quân đội Quốc gia Việt Nam
Đầu năm 1951, mãn khóa học về nước, ông
được cử làm Đại đội trưởng Đại đội Ngự lâm quân đồn trú tại Thành Nội
Huế. Năm 1952, ông được thăng cấp Trung úy và được chỉ định làm Tiểu
đoàn trưởng Tiểu đoàn 12 Việt Nam (12e BVN) kiêm Phân khu trưởng Phân
khu Hòa Luật, Quảng Bình.
Bấy giờ, ông được đánh giá là “người can
trường, say mê chiến trận, lập được nhiều chiến công nên được tướng
Nguyễn Văn Hinh thương mến và được thăng cấp mau lẹ” [3].
Đầu năm 1953, ông được thăng cấp Đại úy
chuyển ra Bắc giữ chức vụ Tham mưu trưởng Liên đoàn Lưu động số 2 đồn
trú ở Ninh Giang, Hải Dương. Tháng 7 cùng năm, ông được thăng cấp Thiếu
tá giữ chức vụ Trưởng Phân chi khu Thái Bình kiêm Tiểu đoàn trưởng Tiểu
đoàn 22 Việt Nam (22e Bataillon du Vietnam – 22e BVN). Tháng 4 năm 1954,
ông được thăng cấp Trung tá Tư lệnh Liên đoàn Lưu động số 31 Bộ binh
tại Hải Dương. [8] Sau đó, ông được cử theo học khóa Chỉ huy Liên đoàn
Chiến thuật cao cấp tại Trung tâm Nghiên cứu Quân sự Hà Nội. Mãn khóa
học, ông được cử giữ chức vụ Tư lệnh Liên đoàn Lưu động số 32 Bộ binh
Việt Nam.
Sau hiệp định Genève, ông cùng đơn vị di
chuyển vào Nam, đóng quân tại Phân khu Duyên hải Nha Trang, liên tiếp
chỉ huy đơn vị hành quân tiếp thu Bình Định, Quảng Ngãi, sau khi Lực
lượng Việt Minh rút đi tập kết. Đầu tháng 8 năm 1954, được sự giới thiệu
của Trung tá Đỗ Mậu ông bí mật gia nhập Đảng Cần Lao Nhân vị và trở
thành một thành viên tích cực ủng hộ Thủ tướng Ngô Đình Diệm giành được
quyền lực, được cử làm Ủy viên Quân ủy Trung ương. Ngày 1 tháng 2 năm
1955, ông được thăng cấp Đại tá tại nhiệm. Cùng thời điểm này Liên đoàn
32 chiến thuật được tổ chức thành Sư đoàn 32 Bộ binh tại Đà Nẵng và ông
làm Tư lệnh Sư đoàn.[9]
Quân đội Việt Nam Cộng hòa
Quân đội Việt Nam Cộng hòa
-Vị tướng trẻ của nền Đệ Nhất Cộng hòa
Sau khi Thủ tướng Diệm tuyên bố thành lập
Việt Nam Cộng hòa và trở thành Tổng thống đầu tiên, ông trở thành một sĩ
quan trẻ được trọng dụng. Ngày 22 tháng 11 năm 1956, ông được cử đi du
học khóa Chỉ huy và Tham mưu tại Học viện quân sự Fort Leavenworth, Tiểu
bang Kansas, Hoa Kỳ sau khi bàn giao Sư đoàn Dã chiến số 2 (Sư đoàn 32)
lại cho Trung tá Đặng Văn Sơn. Tháng 5 năm 1957, sau khi du học ở Mỹ
về, ông được bổ nhiệm chức vụ Tư lệnh Sư đoàn Dã chiến số 1. Cùng năm
đó, ông được cử đi du học ngắn hạn khóa Chỉ huy Hành quân hỗn hợp Binh
chủng ở trường Cao đẳng Chiến tranh tại Okinawa, Nhật Bản. Đầu tháng 8
năm 1958, ông được thăng cấp Thiếu tướng (khi mới 32 tuổi) và được bổ
nhiệm chức vụ Tư lệnh Quân đoàn II & Vùng 2 Chiến thuật, sau khi bàn
giao Sư đoàn Dã chiến số 1 lại cho Đại tá Nguyễn Văn Chuân
Người hùng Đảo chính 1963
Người hùng Đảo chính 1963
-Vinh quang ngắn ngủi
Dù có được sự sủng ái của Tổng thống Diệm,
ông vẫn bị Cố vấn Nhu đánh giá là một người bốc đồng, tự cao tự đại và
huênh hoang, thích rượu chè và tiệc tùng, những yếu tố rất nguy hiểm cho
một tướng lĩnh cầm quân. Bên cạnh đó, ông cũng dính vào một số cáo buộc
về việc bao che cho người anh trai Tôn Thất Đĩnh độc quyền khai thác gỗ
ở Cao nguyên Trung phần cũng như việc đưa người em Tôn Thất Đình làm sĩ
quan văn phòng để không phải tham gia chiến đấu. Mặc dù vậy, ông vẫn
được xem là không có tham vọng chính trị và đứng đầu sổ về lòng trung
thành với Tổng thống Diệm. Sau vụ Binh biến năm 1962 do 2 phi công Phạm
Phú Quốc và Nguyễn Văn Cử lái 2 chiếc máy bay khu trục Skyraider ném bom
Dinh Độc lập. Ngày 7 tháng 2 năm 1962, ông được bổ nhiệm làm Tư lệnh
Quân đoàn III & Vùng 3 Chiến thuật. Đến ngày 21 tháng 8 năm 1963,
kiêm Tổng trấn Đô thành Sài Gòn, giám sát khu vực xung quanh Đô thành.
Với vai trò đó, ông trở thành một yếu tố quan trọng trong sự thành công
hay thất bại của bất kỳ cuộc đảo chính nào.
Cuối năm 1963, các sĩ quan cao cấp, vốn bị
thất sủng, đã thuyết phục ông kiến nghị Tổng thống Diệm trao cho ông
một chức vụ trong Nội các, dù biết rằng Tổng thống Diệm cực lực phản
đối. Bất mãn khi bị Tổng thống Diệm khước từ, ông chấp nhận tham gia
nhóm các sĩ quan dự định đảo chính.
Không nắm được những biến chuyển này, khi
Tổng thống Diệm và em trai là cố vấn Ngô Đình Nhu biết được có một âm
mưu đảo chính, đã lên kế hoạch một cuộc đảo chính giả nhằm bẫy đối thủ.
Trong kế hoạch này, ông được giao đóng vai trò quan trọng cốt yếu. Hai
anh em ông Diệm và Nhu đều không ngờ rằng, toàn bộ kế hoạch phản đảo
chính đều bị tướng Đính thông tin cho nhóm đảo chính. Qua đó, nhóm đảo
chính đã kịp thời bố trí các đơn vị trung thành với chế độ ở xa bên
ngoài Sài Gòn và điều các lực lượng nổi dậy về gần Đô thành.
Ngày 1 tháng 11 năm 1963, cuộc Đảo chính
nổ ra. Ông Diệm và Nhu bị lật đổ và bị hành quyết sau khi nhận ra một
cách muộn màng sự phản bội của ông. Ngày 2 tháng 11, ông được thăng cấp
Trung tướng và được cử vào chức vụ Đệ Nhị Phó Chủ tịch Hội đồng Quân
nhân Cách mạng kiêm Tổng trưởng An ninh trong Nội các của Chính phủ Thủ
tướng Nguyễn Ngọc Thơ.
Ngày 30 tháng 1 năm 1964, do mâu thuẫn
quyền lợi, tướng Nguyễn Khánh từ Pleiku đã lén về Sài Gòn tiến hành trót
lọt “Cuộc Chỉnh lý”. Ngày 5 tháng 2, ông bị tướng Khánh buộc bàn giao
chức vụ Tư lệnh Quân đoàn III lại cho Trung tướng Trần Thiện Khiêm
(nguyên Tham mưu trưởng Bộ Tổng Tham mưu). Ngày 14 tháng 2, ông cùng các
tướng Trần Văn Đôn, Lê Văn Kim, Mai Hữu Xuân và Nguyễn Văn Vỹ (mới trở
về từ Pháp) bị buộc tội có xu hướng “Trung lập”, bị bắt và quản thúc,
loại khỏi Chính quyền Quân sự. Ông bị biệt giam tại Pleiku trong một
thời gian, sau đó bị đưa về quản thúc tại Đà Lạt. Thời điểm này ở Cao
nguyên Trung phần xảy ra cuộc bạo loạn do lực lượng Fulro của người một
nhóm người sắc tộc ở các tỉnh Darlac, Pleiku và Kontum khuấy động đòi tự
trị. Ngày 14 tháng 11 ông được tướng Khánh triệu ra làm Tư lệnh Quân
đoàn II kiêm Chỉ huy trưởng Bộ chỉ huy Hành quân dẹp loạn Fulro. Sau khi
dẹp loạn thành công, ông bị quản thúc tiếp tại Vũng Tàu Đến cuối tháng
12, ông mới được tướng Khánh cử giữ chức vụ Tổng thanh tra Quân lực kiêm
Tổng cục trưởng Tổng cục Quân huấn (những chức vụ chẳng có mấy quyền
lực).
Ngày 9 tháng 4 năm 1966, thời điểm vụ Biến
động Phật giáo miền Trung xảy ra ở Huế, ông được cử giữ chức vụ Tư lệnh
Quân đoàn I & Vùng I Chiến thuật thay thế Thiếu tướng Nguyễn Văn
Chuân. Nhưng vì ông cũng bất lực trước tình hình như 2 Tư lệnh tiền
nhiệm là các tướng Nguyễn Chánh Thi, Chuân và có xu hướng ngả theo nhóm
Phật tử cầm đầu vụ Biến động nên ông bị triệu hồi về Sài Gòn, thay thế
ông là Thiếu tướng Huỳnh Văn Cao. Giữa tháng 7 cùng năm, ông bị buộc
phải giải ngũ khi mới 38 tuổi.
Sự nghiệp chính trị
Sự nghiệp chính trị
Trở về đời sống dân sự một thời gian, Đầu
năm 1967, ông ra ứng cử vào Thượng viện trong Quốc hội và đắc cử Nghị sĩ
trong Liên danh Hoa Sen, được cử làm Chủ nhiệm Nhật báo Công Luận.
Tháng 1 năm 1970, ông được bầu làm Chủ tịch Ủy ban Quốc phòng Thượng
viện kiêm Chủ tịch Hội Chủ báo Việt Nam thay thế Nghị sĩ Trung tướng
Trần Văn Đôn mãn nhiệm. Tiếp đến, ông làm Trưởng Khối Xã hội Dân chủ.
Năm 1973, ông tái tranh cử và đắc cử Thượng Nghị sĩ nhiệm kỳ 1973-1979.
1975
Cuộc sống lưu vong
1975
Cuộc sống lưu vong
Ngày 30 tháng 4, ông cùng gia đình di tản
khỏi Việt Nam. Sau đó sang Hoa Kỳ định cư, lúc đầu ở Tiểu bang Virginia.
Sau chuyển về Garden Grove, rồi Westminster, thuộc Tiểu bang California
và sống ở đây đến cuối đời.
Ngày 21 tháng 11 năm 2013, ông từ trần tại Santa Ana, California, Hoa Kỳ. Hưởng thọ 87 tuổi.
Tang lễ được cử hành trọng thể tại Nam California theo nghi thức của quân đội.—————————
Bài phỏng vấn cựu Trung Tướng Tôn Thất Đính |
Tác Giả: Đoàn Trọng | ||||
Tướng Đính: "Về ông Thiệu, tôi có thể nói ông là một người mưu lược. Ông cũng là vị sĩ quan đồng khóa với tôi, khóa I sĩ quan Đập Đá Huế. Tôi nghĩ cho tới giây phút ông ra đi về cõi khác, ông vẫn chưa có câu trả lời về cái chết của những thường dân vô tội do quyết Cựu Trung Tướng Tôn Thất Đính, nhân vật đã từng đảm nhiệm nhiều chức vụ quan trọng trong chính quyền miền Nam trước 1975. Năm 1963, trong cương vị Tổng trấn Saigòn-Gia Định kiêm chỉ huy quân đoàn III, tướng Đính đã đóng vai trò quyết định cho sự thành công của cuộc đảo chánh lật đổ chế độ Tổng Thống Diệm. Sau đảo chánh, ông được vinh thăng trung tướng, giữ chức tổng trưởng bộ An Ninh, rồi nắm giữ tư lệnh quân đoàn I. Cuối cùng, ông đắc cử thượng nghị sĩ quốc hội cho đến lúc bỏ nước ra đi ngày 30 tháng 4 năm 1975. Nhân dịp tháng tư đen vừa qua, chúng tôi đã có buổi tiếp xúc và được ông chia sẻ một số sự kiện lịch sử miền Nam trước khi xảy ra biến cố đau thương này. Dưới đây, chúng tôi ghi lại cuộc tiếp xúc cùng cựu Trung tướng Tôn Thất Đính như sau: Việt Herald (VH): Kính chào Trung Tướng, nhân lễ Phật Đản 2555 tổ chức tại chùa Điều Ngự, là một tướng lãnh cao cấp, đồng thời một nhân vật chính trị từng tham gia nội các ở các chức vụ phó thủ tướng, bộ trưởng và cuối cùng là thượng nghị sĩ tại quốc hội VNCH trước năm 1975, ông cảm nhận có sự khác biệt về ngày lễ hôm nay so với những năm tháng còn ở quê nhà không? Trung Tướng Tôn Thất Đính: Lẽ dĩ nhiên theo dòng thời gian, những ngày lễ được tổ chức có phần khác nhau. Năm nay, trong tinh thần ngày đại lễ Đản sinh đức Phật này, tôi ghi nhận thấy có phần náo nhiệt hơn, và ngày càng cho thấy tinh thần đoàn kết, gắn bó giữa đồng bào phật tử được thể hiện tốt hơn. Những đố kỵ, chia rẽ, càng lúc càng bị đẩy lùi vào quá khứ. Tôi cũng hiểu rõ thêm Phật giáo hải ngoại đoàn kết hơn Phật giáo trong nước lúc này. VH: Ngược dòng thời gian, nói về cuộc đảo chánh năm 1963, trung tướng nghĩ thế nào trước dư luận cho rằng ông đã đóng vai trò then chốt trong việc chấm dứt chế độ Tổng Thống Diệm trên sân khấu chính trường để dành lại tự do tín ngưỡng cho Phật Giáo? TT Tôn Thất Đính: Nếu nói về mình, chắc không dám. Tuy nhiên, cho đến bây giờ và mãi mãi, tôi vẫn tự hào đã cứu được Phật giáo qua cơn pháp nạn thời đó.Tôi đã cân nhắc và nhận rõ điều này trước khi tham gia đảo chánh. Cũng nên hiểu và thành thật nhìn nhận là trong thời điểm ấy, Tổng Thống Diệm đã dành cho tôi nhiều ân huệ cũng như sự tin tưởng, trọng dụng tôi hơn hẳn nhưng viên chức tướng lãnh của chế độ thời đó. VH: Trung tướng vừa nói “Chính ông đã cứu Phật giáo qua cơn pháp nạn,” vậy ông có thể trình bày cụ thể sự việc “Cứu” như thế nào không? TT Tôn Thất Đính: Nếu ai còn nhớ rõ hiện tình Saigòn vào thời điểm 1963, hẳn đều biết đến một Thiếu Tướng Tôn Thất Đính, ngoài việc đảm nhiệm phần hành chỉ huy quân đoàn III, tôi còn được Tổng Thống Diệm tin tưởng trao thêm chức vụ Tổng trấn Saigon-Gia Định. Mọi hoạt động quân sự trong địa bàn này đều trực thuộc dưới quyền điều động của tôi, điển hình như việc đưa lực lượng đặc biệt của Đại Tá Lê Quang Tung ra khỏi thủ đô Saigon là do sự chấp thuận cuối cùng của tôi. Đến nay, dư luận vẫn nhận rõ “Chỉ có tôi mới giúp đưa cuộc đảo chánh loại bỏ chế độ gia đình trị của Tổng thống Diệm đến thành công và đồng thời, cứu Phật Giáo qua cơn pháp nạn.” VH: Ông vừa xác nhận “chính trung tướng Tôn Thất Đính đã đóng vai trò quan trọng việc đảo chánh năm 1963.” Vậy, ông có thể từ chối mình cũng đã đóng vai trò quan trọng trong việc “mưu sát” anh em cố Tổng Thống Diệm không? TT Tôn Thất Đính: Tôi nhìn nhận về mặt tinh thần, tôi có phần trách nhiệm. Nếu không có đảo chánh, làm sao đưa đến cái chết của 2 anh em ông Diệm? Thế nhưng thật sự, trước lúc xảy ra biến cố này, tôi hoàn toàn không được cho biết. Ông Diệm đã vi phạm đến tự do tín ngưỡng của Phật giáo, là điều khó có thể chấp nhận được trong một quốc gia chủ trương tự do, dân chủ. Nhưng dầu thế nào, vẫn không nên quên chính ông Diệm là người đã có công khai sáng nền cộng hòa đầu tiên cho Việt Nam. VH: Thiết nghĩ trong vai trò lãnh đạo đảo chánh, bắt buộc ông phải tiên liệu được sự kiện mưu sát anh em ông Diệm, có khả năng xảy ra rất nhiều. Nếu đặt lương tâm của vị tướng lãnh chỉ huy chiến dịch đảo chánh trước lịch sử thì với khả năng, quyền hạn của mình trong tay, ông có thể ngăn chận vụ “mưu sát” này không? Hay là ông không muốn ngăn chận? TT Tôn Thất Đính: Tôi nhìn nhận “Có đủ khả năng ngăn chận” nhưng thật không ngờ, người chủ trương việc này lại là người cầm đầu cuộc đảo chánh. Nhân vật trực tiếp thi hành phần vụ sát hại anh em tổng thống lại chính là sĩ quan tùy viên của tướng Dương Văn Minh, người cầm đầu cuộc đảo chánh. Tôi dù cũng nắm giữ vị trí then chốt nhưng trong thực tế, chỉ cầm quân đánh thành Cộng Hòa, dinh Độc Lập, nên thú thật lúc dầu sôi lửa bỏng, không có thời giờ suy nghiệm ra chuyện này. Khi biết thì chuyện đã rồi, chúng ta hãy để lịch sử phán xét. Là tướng lãnh chỉ huy, tôi chịu trách nhiệm cả về thành công cũng như thất bại và cả những rủi ro ngoài lượng định. VH: 48 năm sau cuộc đảo chánh Tổng Thống Diệm, ngày nay hồi tưởng lại, trung tướng có khi nào nhớ đã nhận tiền của tòa đại sứ Mỹ tài trợ cho các tướng lãnh tham gia đảo chánh không? TT Tôn Thất Đính: Thật là quá oan ức. Đấy là luận điệu của những người nhiều ác ý. Cá nhân tôi chưa hề nhận bất cứ số tiền nào đến từ phía người Mỹ. VH: Nếu ông không nhận, liệu có những người khác đã nhận không? TT Tôn Thất Đính: Tôi không rõ, cũng không biết chuyện người khác.Tuy nhiên, người Mỹ họ không thiển cận để làm những việc bất hợp pháp như thế đâu. Phía người Mỹ đã thúc đẩy chúng tôi đảo chánh vì chính họ cũng chán ngán chế độ ông Diệm. Cho nên, nói trao tiền thì tôi không thấy. Điều mà sau này chúng tôi nhìn nhận đã có phần thiếu trách nhiệm là không đưa được đảo chánh đi đến thành công có ý nghĩa hay đem lại thành quả vững chắc. Việc miền Nam mất vào tay cộng sản cũng là do không đảm đương đúng trách nhiệm mà đồng bào giao phó cho Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng, trong đó có tôi. Việc các tướng lãnh giành giật nhau, chia quyền, gây phân hóa quân đội là một trong những nguyên tố đưa đến sự thất bại ngày nay. VH: Nhìn về những tướng lãnh ngày trước, trung tướng nghĩ gì về đại tướng Nguyễn Khánh? TT Tôn Thất Đính: Ông Khánh được người Mỹ tín cẩn nhưng đã đi hơi quá. Ông ta không xứng đáng là quốc trưởng lãnh đạo quốc gia lúc đó. VH: Về việc ra đi không trở lại Việt Nam của cố trung tướng Nguyễn Chánh Thi vào giữa thập niên 60, trung tướng nghĩ thế nào? TT Tôn Thất Đính: Với tánh khí của tướng Thi, tôi nghĩ trước sau gì rồi cũng đến ngày ông phải ra đi như vậy thôi. Đối với tôi, tướng Nguyễn Chánh Thi có tính cách võ biền nhiều hơn. Ngay cả cuộc đảo chánh năm 1963, trên thực tế ông không phải là người chủ trương mà là một người khác. VH: Thưa ông, là một thượng nghị sĩ của nền đệ nhị Cộng Hòa, ông có đánh giá nào về cố tổng thống Nguyễn Văn Thiệu? TT Tôn Thất Đính: Về ông Thiệu, tôi có thể nói ông là một người mưu lược. Ông cũng là vị sĩ quan đồng khóa với tôi, khóa I sĩ quan Đập Đá Huế. Tôi nghĩ cho tới giây phút ông ra đi về cõi khác, ông vẫn chưa có câu trả lời về cái chết của những thường dân vô tội do quyết định của ông bỏ rơi Huế, Đà Nẵng cũng như cuộc tháo chạy từ cao nguyên. Lẽ dĩ nhiên chúng ta nhìn nhận ông là người thực sự chống Cộng nhưng bên cạnh đó, ông vẫn là người phải gánh trách nhiệm trước quốc dân đồng bào. VH: Nếu tóm gọn đánh giá của ông vẫn trong vị thế là một thượng nghị sĩ của chế độ cho đến những ngày cuối cùng, ông có nghĩ Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu là vị tổng thống xứng đáng của VNCH không? TT Tôn Thất Đính: Trên cương vị một tướng lãnh, trước sau tôi nhìn nhận ông Thiệu có tinh thần chống cộng. Tuy nhiên, trên bình diện nguyên thủ quốc gia, là tổng thống Việt Nam Cộng Hòa, cho phép tôi được được nói “Ông Thiệu không xứng đáng là tổng thống VNCH.” VH: Vẫn với tư cách một thượng nghị sĩ VNCH, trung tướng có nhận trách nhiệm đã ít nhiều đưa đến sự ra đi gần như trốn chạy khỏi Việt Nam của người Việt trong và sau biến cố 1975 không? TT Tôn Thất Đính: Dù muốn dù không, xa hoặc gần, trực tiếp hay gián tiếp, các tướng lãnh và dân cử như tôi đều có trách nhiệm trong việc đổ vỡ gây nên cuộc trốn chạy này. Vị tổng tư lệnh quân đội luôn luôn vẫn là người chịu trách nhiệm. Trong quá khứ, tôi đã từng là tướng tổng trấn, tư lệnh vùng I, II, III, dù tự hào về thành tích chỉ huy của mình nhưng vẫn không khỏi đau buồn và thấy như có phần nào trách nhiệm của người lưu vong hôm nay. VH: Còn đối với cựu tổng thống Trần Văn Hương? TT Tôn Thất Đính: Tổng Thống Hương là vị lãnh đạo yêu nước thật tình. Nhưng không may cho vận mạng nước ta, khiến ông đã không cân nhắc chín chắn khi bàn giao lại chức vụ tổng thống cho tướng Dương Văn Minh. Dù sao, giữa cảnh dầu sôi lửa bỏng, ông đã không đắn đo mà can đảm nhận nhiệm vụ lèo lái quốc dân. Lẽ dĩ nhiên, chuyện đời không ai biết điều gì tốt hoặc xấu sẽ xảy đến. Tuy nhiên, nhìn kỹ lại những gì đau đớn nhất đã xảy đến cho quân dân miền nam sau cuộc đầu hàng ngày 30 tháng 4, thấy người chết quá nhiều, trên biển cả, trong rừng sâu. Những hình thái hành hạ độc ác tàn bạo nhất đã được cộng sản áp đặt cho những quân nhân VNCH, ngay cả người dân vô tội cũng bị vạ lây. Vậy, việc đầu hàng có mang lại được gì khá hơn không? Khi đưa vấn đề bàn giao ra quốc hội, chúng tôi đã chống đối nhưng cuối cùng, nhóm đa số vẫn thắng thế. Pháp chế dân chủ là vậy. VH: Việt Herald cám ơn trung tướng đã dành cho chúng tôi buổi phỏng vấn. Trước khi chấm dứt, câu hỏi cuối muốn được đặt ra với trung tướng là về Đại Tướng Dương Văn Minh, người chỉ huy cuộc đảo chánh năm 63, trong đó có cả ông tham dự. TT Tôn Thất Đính: Trước khi tướng Big Minh ra đi, tôi có ghé thăm ông. Theo nhận xét của tôi, bản thân tướng Minh không có lập trường rõ ràng mà chỉ nghe theo ý kiến người bên cạnh. Tướng lãnh cầm quân không cho phép đầu hàng. Nhưng dù sao ông cũng đã ra người thiên cổ, tôi không muốn nói nhiều. VH: Nhưng theo trung tướng, lịch sử sẽ đánh giá thế nào nếu sự thật bị cố tình giấu giếm? Khi nhận lời tham dự kế hoạch đảo chánh năm 1963, ông có nghĩ Đại tướng Dương Văn Minh xứng đáng là người lãnh đạo cuộc chính biến lớn lao này không? TT Tôn Thất Đính: Tôi xin lỗi một lần nữa để trả lời là “Không.” Đoàn Trọng Vietherald 05/25/2011
Tướng VNCH ĐỖ KẾ GIAI tư lệnh BĐQ QLVNCH trong ngày chế độ Việt Nam Cộng Hòa sụp đổ
T.T.Đỗ Kế Giai
Đỗ Kế Giai (1929-2016), nguyên là một
tướng lĩnh gốc Nhảy dù của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, cấp bậc Thiếu
tướng. Ông xuất thân từ những khóa đầu tiên ở trường Võ bị Quốc gia Việt
Nam trong giai đoạn Quân đội Liên hiệp Pháp. Sau này, ông được chuyển
sang lĩnh vực Tham mưu và Chỉ huy các đơn vị Bộ binh. Sau cùng, ông đảm
nhiệm chức vụ Chỉ huy trưởng Binh chủng Biệt động quân.
Tiểu sử & Binh nghiệp
Ông sinh vào tháng 6 năm 1929, trong một
gia đình điền chủ tại Bến Tre, miền Tây Nam phần Việt Nam. Năm 1949, ông
tốt nghiệp Trung chương trình Pháp với văn bằng Tú tài bán phần (Part
I).
Quân đội Liên hiệp Pháp
Tháng 6 năm 1951, thi hành lệnh động viên,
ông nhập ngũ vào Quân đội Liên hiệp Pháp, mang số quân: 49/118.249.
Theo học khóa 5 Hoàng Diệu tại trường Võ bị Liên quân Đà Lạt,[2] khai
giảng ngày 1 tháng 7 năm 1951. Ngày 24 tháng 4 năm 1952, mãn khóa tốt
nghiệp với cấp bậc Thiếu úy hiện dịch.
Quân đội Quốc gia Việt Nam sau khi ra trường, ông được chọn phục vụ trong Tiểu đoàn 3 Nhảy dù đồn trú tại Hà Nội. Sau đó chuyển biên chế sang Quân đội Quốc gia. Cuối tháng 7 năm 1954, sau Hiệp định Genėve (ngày 20 tháng 7), ông được thăng cấp Trung úy và cùng đơn vị di chuyển vào Nam đồn trú tại Nha Trang. Quân đội Việt Nam Cộng hòa
Cuối tháng 10 năm 1955, sau khi chuyển
sang phục vụ cơ cấu mới là Quân đội Việt Nam Cộng hòa, ông được thăng
cấp Đại úy và được cử làm Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 6 Nhảy dù thay thế
Đại úy Nguyễn Văn Viên. Tháng 10 năm 1959, ông được thăng cấp Thiếu tá
tại nhiệm.
Trung tuần tháng 11 năm 1960, ông chuyển
sang làm Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 5 Nhảy dù thay thế Thiếu tá Ngô Xuân
Soạn.[3] Tháng giêng năm 1962, ông được cử làm Chiến đoàn trưởng Chiến
đoàn 2 Nhảy dù vừa được thành lập.
Đầu năm 1964, ông được cử đi du học lớp
Chỉ huy Tham mưu cao cấp tại Học viện Chỉ huy và Tham mưu Fort
Leavenworth, Tiểu bang Kansas, Hoa Kỳ trong thời gian 6 tháng. Đến đầu
năm 1965, ông được thăng cấp Trung tá và bàn giao Chiến đoàn 2 Nhảy Dù
lại cho Thiếu tá Ngô Xuân Nghị.[4] Sau đó, ông được chuyển đi làm Tham
mưu trưởng Sư đoàn 25 Bộ binh do Đại tá Nguyễn Thanh Sằng làm Tư lệnh.
Tháng 9 năm 1966, ông được thăng cấp Đại
tá và được bổ nhiệm làm Tư lệnh Sư đoàn 10 Bộ binh[5] thay thế Thiếu
tướng Lữ Lan đi làm Chỉ huy trưởng trường Đại học Quân sự tại Đà Lạt.
Ngày quốc khánh Đệ Nhị Cộng hòa 1 tháng 11 năm 1967, ông được thăng cấp
Chuẩn tướng tại nhiệm. Ngày 20 tháng 8 năm 1969, ông nhận lệnh bàn giao
Sư đoàn 18 lại cho Chuẩn tướng Lâm Quang Thơ.[6] Sau đó, ông được điều
động về phục vụ tại Bộ Tổng tham mưu.
Tháng 8 năm 1972, ông được bổ nhiệm làm
Chỉ huy trưởng Binh chủng Biệt động quân.[7] Ngày 1 tháng 4 năm 1974,
ông được thăng cấp Thiếu tướng tại nhiệm.
1975
Vào những ngày cuối của tháng 4, ông thừa
lệnh Tổng thống Trần Văn Hương, được sự ủy nhiệm của Bộ Quốc phòng và Bộ
Tổng Tham mưu, đứng ra thành lập các Sư đoàn Biệt động quân gồm Sư đoàn
101 và 106, bước đầu đã hình thành nhưng quá trễ vì lực lượng của đối
phương đã tiến vào sát Sài Gòn.
Sau ngày 30 tháng 4, ông bị chính quyền
mới bắt đi tù và bị lưu đày suốt 17 năm, mãi cho đến ngày 5 tháng 5 năm
1992 ông mới được trả tự do.[8]
Ngày 26 tháng 10 năm 1993, ông được xuất
cảnh theo chương trình “Ra đi có trật tự” diện H.O do Chính phủ Hoa Kỳ
bảo lãnh. Sau đó, ông đoàn tụ cùng gia đình tại Garland, Tiểu bang
Texas, Hoa Kỳ
Ngày 21 tháng 2 năm 2016, ông từ trần tại nơi định cư. Hưởng thọ 87 tuổi.
Tướng VNCH TRẦN VĂN ĐÔN Tiết Lộ Bí Mật Về Tướng Lãnh Sài Gòn Khi Trả Lời Phỏng Vấn Sau Năm 1975
Tướng Trần Văn Đôn của chế độ Sài Gòn: Chuyên gia trở cờ08:30 31/03/2008Người đã một lần phản chủ thì rất có thể sẽ phản chủ thêm nhiều lần khác nữa. Trần Văn Đôn chính là một người như thế.
Kỳ nhông đặc biệt Gia tộc Trần Văn Đôn là đại điền chủ ở Nam Bộ. Cha của ông ta sang Pháp học y khoa và Trần Văn Đôn đã được sinh ra tại Cauderan, Bordeaux ngày 19/8/1917. Trong gia tộc mang quốc tịch và thấm nhuần sâu sắc tư tưởng thờ Pháp này, Trần Văn Đôn là người con út. Lớn lên, ông ta được gia đình cho sang Pháp để du học. Năm 1939, Trần Văn Đôn tốt nghiệp Trường Thương mại cao cấp Hautes Etudes Commerciales (HEC) ở Paris. Tiếp đó, ông ta gia nhập quân đội Pháp khi chiến tranh thế giới thứ hai bắt đầu và theo học Trường Quân sự đặc biệt Saint Cyr (École spéciale militaire de Saint-Cyr). Rồi Trần Văn Đôn trở lại Việt Nam, cầm súng cho Pháp chống lại cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân ta. Ông ta từng là sĩ quan tình báo. Tới năm 1955, Trần Văn Đôn đã đeo quân hàm đại tá. Cùng với Dương Văn Minh (lúc đó cũng mới là đại tá), Trần Văn Đôn đã phò tá Ngô Đình Diệm trong những nỗ lực thâu tóm quyền lực ở miền Nam với sự hậu thuẫn của Mỹ. Sau khi góp tay dẹp những lực lượng chống đối Ngô Đình Diệm, cả Trần Văn Đôn và Dương Văn Minh đã được đeo quân hàm tướng của chế độ Sài Gòn. Năm 1956, tướng Trần Văn Đôn còn được giao cho chức Tổng Tham mưu trưởng của quân đội Sài Gòn. Để có thể ngồi trên vị trí cũng vào loại chóp bu này, Trần Văn Đôn đã công khai bày trò đốt quốc tịch Pháp của mình, không ngại mang tiếng ăn cháo đái bát. Tổng thống Ngô Đình Diệm đã rất hài lòng với sự trở cờ đó của Trần Văn Đôn. Tuy nhiên, cho tới cuối đời, Trần Văn Đôn vẫn bị dư luận Sài Gòn coi là một anh Tây con, ăn chơi đàng điếm. "Dấu ấn của quỷ" gắn lên trán ông ta từ thời trẻ đã không bao giờ mờ phai. Người đã một lần phản chủ thì rất có thể sẽ phản chủ thêm nhiều lần khác nữa. Trần Văn Đôn chính là một người như thế. Ông ta cùng với Dương Văn Minh và Tôn Thất Đính chính là những nhân vật trụ cột trong âm mưu đảo chính năm 1963 hạ bệ Ngô Đình Diệm với sự hậu thuẫn của các điệp viên CIA. Cùng chung tay vào cuộc chính biến khá đẫm máu này còn có những viên tướng Sài Gòn như Mai Hữu Xuân, Lê Kim Xuân (người anh em đồng hao với Trần Văn Đôn) và cả Đỗ Mậu… Tuy nhiên, khác với nhiều đồng sự từng cùng dính líu với vụ đảo chính năm 1963 (họ thường là bị đẩy ra ngoài cuộc rất nhanh chóng và phải tìm nơi dung thân ở hải ngoại), tướng Trần Văn Đôn đã đổi màu như kỳ nhông rất kịp thời và không bao giờ bị mất phần béo bở. Và ông ta đã trụ được trong bộ máy chính quyền Sài Gòn cho tới khi chế độ này sụp đổ tháng 4/1975, khi ông ta buộc phải vội vã bỏ tổ quốc cứu mạng sống cá nhân trên một chiếc trực thăng của Mỹ. Trong nội các cuối cùng của chế độ Sài Gòn, Trần Văn Đôn từng được giữ ghế Phó Thủ tướng và Bộ trưởng Quốc phòng. Dấu tích ô danh Nguyễn Văn Ngân, phụ tá tin cẩn một thời của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, khi được yêu cầu nói lên sự đánh giá của mình đối với các tướng lĩnh của chế độ Sài Gòn, đã chua chát và gay gắt nói: "Hầu hết các tướng lĩnh đều thoát thai từ một môi trường xấu, nguyên phục vụ trong những đội quân phụ thuộc của quân đội viễn chinh Pháp, là những đội quân thiếu truyền thống. Họ không có lý tưởng chính trị và cũng không có lương tâm trách nhiệm của một người lính chuyên nghiệp. Vì không thể tiến thân bằng con đường học vấn nên họ đã phải vào quân đội để kiếm sống. Do sự bành trướng của quân đội nên họ được thăng cấp rất nhanh nhưng thiếu kinh nghiệm chiến trường, không biết hoặc không cần biết tới nghệ thuật lãnh đạo, chỉ huy. Đa số đều tham nhũng, nuôi dưỡng tình trạng lính ma, lính kiểng, đã làm băng hoại cả một quân đội...". Trần Văn Đôn cũng là một trong những viên tướng như thế. Ông ta từng chịu nhiều ân huệ của chế độ Ngô Đình Diệm. Khi tướng Lê Văn Tỵ bị ung thư phổi phải sang Mỹ chữa trị, Trần Văn Đôn, lúc đó là Tư lệnh Lục quân, đã được Ngô Đình Diệm cho giữ chức Quyền Tổng Tham mưu trưởng thay ông này từ ngày 27/7/1963. Tuy nhiên, chỉ vài tháng sau đó, khi gió đã đổi chiều, ông ta không ngại tham gia những hoạt động chống lại anh em Ngô Đình Diệm - Ngô Đình Nhu, mặc dù trong thâm tâm, ông ta có thể chưa chắc đã muốn cho hai người này phải chết bất đắc kỳ tử như đã xảy ra. Vụ đảo chính bắt đầu từ ngày 1/11/1963. Vào lúc 13h30’ ngày hôm đó, một số sĩ quan cao cấp của chế độ Sài Gòn được mời tới tham dự một cuộc họp tại một sở chỉ huy ở gần sân bay Tân Sơn Nhất. Tại đây, tướng Trần Văn Đôn đã thông báo về việc cái gọi là Hội đồng cách mạng quân sự đã lên nắm quyền. Mọi thành viên tham gia cuộc họp đều tỏ ra phấn khởi, duy chỉ có viên Đại tá Lê Quang Tung, Tư lệnh Lực lượng đặc biệt, người rất thân cận và trung thành với gia tộc Ngô Đình và vì thế, đã bị đại sứ Mỹ ở Sài Gòn lúc đó là Henry Cabot Lodge ra lệnh cho những viên tướng lãnh đạo đảo chính cho tên vào danh sách cần bị thủ tiêu, đã không đứng dậy vỗ tay hoan hô thông báo này. Lập tức đại tá Tung bị bắt giữ và bị Nguyễn Văn Nhung (khi đó là đại úy) đưa sang một căn phòng khác ở trong sở chỉ huy này, Mặc dầu thất thế nhưng Tung vẫn hét to được một câu: "Hãy nhớ ai đã gắn sao cho tụi bay!". Đêm hôm đó, Nguyễn Văn Nhung chở đại tá Tung và người em của ông ta là Thiếu tá Lê Quang Triệu đến một nơi bên ngoài doanh trại và bắn chết cả hai. Sáng hôm sau, Ngô Đình Diệm và Ngô Đình Nhu chạy thoát khỏi Dinh Độc Lập qua một đường hầm bí mật và trốn ở một ngôi nhà tại Chợ Lớn. Trần Văn Đôn bằng các mối quan hệ riêng đã liên lạc được với anh em Ngô Đình Diệm - Ngô Đình Nhu, hứa sẽ bảo toàn mạng sống cho họ và để họ đi ra nước ngoài một cách an toàn nếu họ thuận tình trao quyền một cách yên ả cho những viên tướng làm đảo chính. Tuy nhiên, mọi sự lại không diễn ra theo hướng này. Viên đại uý Nguyễn Văn Nhung đã dẫn một toán sỹ quan cùng lính tráng đến nơi trú ẩn của anh em Ngô Đình Diệm - Ngô Đình Nhu tại Nhà thờ St. Francis được xây thời Pháp và bắt giữ họ. Một đoàn xe gồm một xe bọc thép M-113 và 4 chiếc xe Jeep cùng nhiều binh lính do tướng Mai Hữu Xuân cầm đầu đã tức tốc tới nơi anh em Ngô Đình Diệm - Ngô Đình Nhu đang bị bắt giữ. Đại uý Nguyễn Văn Nhung và Thiếu tá Dương Hữu Nghĩa ngồi chung với anh em Ngô Đình Diệm trong chiếc xe bọc thép quay lại Sài Gòn. Khi đoàn xe dừng lại tại một điểm giao cắt với đường sắt thì thấy, anh em họ Ngô đã bị giết chết trước đó. Theo hồi ký của Trần Văn Đôn, thì một cuộc điều tra do ông ta ra lệnh tiến hành đã xác định rằng chính Dương Hữu Nghĩa đã bắn anh em họ Ngô bằng một phát đạn súng bán tự động, còn Nguyễn Văn Nhung đã bắn hàng loạt đạn khắp thân thể hai anh em Ngô Đình Diệm - Ngô Đình Nhu. Nguyễn Văn Nhung cũng là người đã đâm nhiều nhát dao vào thân thể hai anh em họ Ngô (sau "chiến tích" này, Nguyễn Văn Nhung được thăng lên cấp thiếu tá nhưng rồi y cũng bị thủ tiêu bởi một phát súng bắn vào sau gáy). Theo lời Trần Văn Đôn kể lại sau này, ông ta cùng nhiều sỹ quan khác đã kinh ngạc khi thấy xác hai anh em Ngô Đình Diệm - Ngô Đình Nhu tại sở chỉ huy của lực lượng đảo chính. Trần Văn Đôn tức tốc gặp Dương Văn Minh trong văn phòng của ông này và to tiếng về cái chết của hai anh em họ Ngô. Trong lúc họ đang cãi nhau, Mai Hữu Xuân đi vào phòng, đứng nghiêm trước Dương Văn Minh và báo cáo: "Mission accomplie" (nhiệm vụ đã hoàn thành)! Tướng Trần Văn Đôn về sau đã tốn khá nhiều công sức để thanh minh về trách nhiệm của ông ta đối với cái chết thê thảm của anh em họ Ngô. Trần Văn Đôn cũng tiết lộ rằng CIA đã chi cho các viên tướng chủ trì đảo chính 42 nghìn USD để họ hạ sát anh em Ngô Đình Diệm - Ngô Đình Nhu. Còn theo thông tin của ông Nguyễn Văn Ngân, trong cuộc đảo chính tháng 11/1963, CIA cũng đã sử dụng Trần Văn Đôn, mặc dù không tin con người tráo trở này chỉ vì lý do đơn giản là lúc đó, Trần Văn Đôn đang giữ chức vụ quyền Tổng tham mưu trưởng thay tướng Lê Văn Tỵ đang đi Mỹ trị ung thư (không có được sự đồng ý của nhân vật này khó có thể điều hành được các đơn vị quân đội một cách suôn sẻ). Và các quan thầy Mỹ cũng đã loại Trần Văn Đôn khỏi vị trí quan trọng trên trong vụ chỉnh lý ngày 30/1/1964. Tuy nhiên, với sự khéo léo của một kẻ hoạt đầu, sau đó Trần Văn Đôn đã lấy lòng được Nguyễn Văn Thiệu và được viên Tổng thống này trọng dụng cho tới khi chính ông ta cũng phải ê chề bỏ nước ra đi vì thất thế. Sau này ở hải ngoại, trong các bài trả lời phỏng vấn với báo chí và trong các tập hồi ký của mình, Trần Văn Đôn đã không tiếc lời phê phán Nguyễn Văn Thiệu cũng như các chiến hữu cũ, đổ cho họ phần lớn trách nhiệm về những chuyện xấu xa và đổ vỡ của chế độ Sài Gòn Văn Thư
Tướng VNCH Trần Văn Đôn Và Chuyện Tình 1 Đêm Với Đệ Nhất Phu Nhân Madam Nhu Trần Lệ Xuân
|
Trần Lệ Xuân chuyện chưa kể về quý bà Rồng Lộn!Bài viết sau đây của gã mồm lông Đạo sỹ Chăn gà, nhận thấy uy lực quả là thâm hậu nên mang về đây cho cô bác đọc chơi. Tựa bài và hình minh họa đã được biên tập lại cho sát nội dung. XÉT VỀ NGOẠI HÌNH Trần Lệ Xuân thừa hưởng nét đẹp quý phái từ mẹ, quận chúa Thân Thị Nam Trân, người được cho là có nhan sắc tuyệt mỹ đến độ người Pháp đã đặt cho bà biệt danh “Viên ngọc trai Á châu”. Có thể ở thời kỳ đó, vẻ đẹp của Trần Lệ Xuân – nhất là khi nó đồng hành cùng địa vị xã hội của bà này – là một chuẩn mực của xã hội nhưng nếu so với bây giờ thì nhan sắc ấy cùng chiều cao hạn chế & vòng một khiêm tốn cũng chỉ là “bình thường thôi”! Điều làm cho Trần Lệ Xuân thường được nhắc đến mỗi khi người ta bàn về nhan sắc Sài Gòn trước 1975 là vì sự nổi bật của bà này trong lĩnh vực thời trang. Một bà “Đệ nhất phu nhân” chói lòa trong nữ trang đắt tiền và áo váy gợi cảm, ở trên tột đỉnh thượng lưu giữa lúc tuyệt đại đa số người dân còn đang lầm than trong cảnh chiến tranh trường kỳ thì đương nhiên là nổi bật và chả có gì có thể nổi bật hơn. Nó có khác gì việc tôi cưỡi con Harley thần thánh lượn lờ giữa bạt ngàn bang chúng Cái bang, bố bảo thiên hạ cũng không dám không trầm trồ! XÉT VỀ TÀI NĂNG Trần Lệ Xuân được đánh giá là thông minh, sắc sảo nhất trong số 3 chị em của gia đình quý tộc này, lại được theo học tại các trường danh giá nhất đất nước bấy giờ nên khi mới 16 tuổi, bằng con mắt tinh đời, nàng đã quyết định trao thân gửi phận cho Ngô Đình Nhu, một trí thức tây học gần gấp đôi tuổi vì biết đây chính là cơ hội của đời mình. Tuy nhiên, không có tài liệu nào cho thấy sự thông minh của bà Nhu được thể hiện trong việc kinh bang tế thế cho tương xứng với vị trí của mình. Điều người ta nhớ nhất về đóng góp của bà “đệ nhất phu nhân” chỉ là sự cách tân bộ áo dài truyền thống bằng cách khoét cổ áo cho thêm phần mát mẻ, vốn là để tiếp sức cho tài năng lớn nhất của mình: “đong trai”. Chuyện bà Nhu hoang dâm thì cả thế giới đều biết nhưng lạ kỳ là bà vẫn bình an và nhởn nhơ trong một gia đình quyền lực nổi tiếng hà khắc và gia giáo kiểu Đông – Tây kết hợp. Có lẽ vì từ ông anh tổng thống trở xuống đều hiểu rằng sự hoang dâm đó là tài năng kiệt xuất của bà & thực sự thì ngôi vị của gia đình họ Ngô cũng hưởng lợi từ điều đó. Tháng 9/1954, tướng Nguyễn Văn Hinh, viên tướng Việt quyền lực nhất bấy giờ của cái gọi là “Quốc gia Việt Nam” bao vây dinh Norodom đòi lật đổ thủ tướng Diệm. Chính nàng dâu của họ Ngô đã “một mình một bướm”, xông vào tổng hành dinh của tướng Hinh để bắt tướng này “xụi súng”. Sau này, Hinh tâm sự với mấy viên tá cấp dưới: “Ngay từ lần đầu gặp gỡ, moa đã thấy em duyên dáng, dễ thương, nhạy cảm, có ma lực thu hút phái nam. Ngồi nói chuyện với moa, chân cẳng em thay đổi hoài. Đàn bà như vậy ghê lắm. Mấy con đầm cũng vậy. Thằng chồng mà thiếu bản lĩnh thế nào cũng bị nó cho mọc sừng”. “Tài năng” của bà Nhu “phủ sóng” thì vô cùng tận, từ vua Bảo Đại cho đến thứ dân, từ tướng tá võ biền cho đến nghệ sĩ hào hoa, từ gián điệp đến phóng viên,… tóm lại là với bất cứ ai khiến bà nổi hứng hoặc có thể lợi dụng được để củng cố vị thế cho gia đình họ Ngô. Sự “cống hiến” của nàng dâu họ Trần cho họ Ngô đâu chỉ là những rên siết trên giường mà đôi khi còn suýt phải đánh đổi bằng tính mạng. Chẳng hạn như có lần bà vợ của tướng Trần Văn Đôn đạp cửa phòng nơi tướng Đôn & Nhu phu nhân đang hành lạc, giương súng nhắm bắn “con bướm xinh, con bướm đa tình” của bà Nhu ai dè lại bắn chệch lên vai. Suýt chút nữa thì thế gian mất đi một kỳ quan về bướm! Trần Lệ Xuân và chồng Ngô Đình Nhu Có một điều mỉa mai là tên thánh của Trần Lệ Xuân là Lucy, theo tên nữ thánh Lucia, người đã chọn giữ mình đồng trinh thay vì lấy một kẻ ngoại giáo, nhưng Xuân lại chọn con đường ngược lại: muốn giữ cho mình tất cả trừ “con bướm” được tung bay muôn nơi! Tài năng của “cái mồm dọc” của bà Nhu giúp đỡ cho ngôi vị của họ Ngô nhiều bao nhiêu thì cái mồm ngang của bà lại phá hoại bấy nhiêu. Nếu như những cuộc khẩu chiến trên nghị trường, những phát ngôn bạt mạng trên báo chí chỉ dừng lại ở mức xì-căng-đan và làm trò cười cho nhân dân lầm than có cái mà chọc ngoáy nhà Ngô tổng thống thì những phát ngôn ngông cuồng, hung hăng, cay nghiệt và ngu xuẩn (về chính trị) trong sự kiện đàn áp Phật giáo năm 1963 chính là góp phần đẩy chế độ nhà Ngô xuống mồ. Chính Kennedy sau này đã giải thích việc Hoa Kỳ đưa ra quyết định loại bỏ gia đình họ Ngô có một phần không nhỏ là vì những hành vi khiến tình hình thêm rối loạn của Trần Lệ Xuân. Kennedy nói về Trần Lệ Xuân như sau: “Con chó cái chết tiệt đó (That goddamn bitch), nó phải chịu trách nhiệm… Con chó cái đó đã bị tắc mũi, nó không ngửi thấy mùi gì cả, và làm rối tung tất cả mọi chuyện lên!”. Chẳng biết Diệm – Nhu khi nằm trong xe 113 có hối hận vì đã không bắt bà Xuân khép mồm dọc được mà cũng chẳng thể bịt nổi mồm ngang của bà ấy? “Tài năng” & “danh tiếng” của bà Nhu nổi tiếng toàn cầu đến mức báo chí phương tây đặt cho bà cái “hỗn danh” là Dragon Lady mà báo chí Việt sau này dịch ra thành một “mỹ danh” là Phu nhân Rồng, Quý bà rồng (như cuốn sách Finding the Dragon Lady: The Mystery of Vietnam’s Madame Nhu được dịch thành “Madam Nhu – Trần Lệ Xuân – Quyền lực bà Rồng”). Nên nhớ, Rồng ở phương Tây (dragon) là một loại quái vật, khác hoàn toàn với Rồng ở phương Đông là linh vật biểu tượng cho quyền lực hoàng gia. Trong ngôn ngữ phương Tây, “dragon lady” có tính cách miệt thị, thường dùng để ám chỉ một khuôn mẫu phụ nữ Á Châu nguy hiểm và dâm đãng, mạnh mẽ, hống hách, ngang ngược và đam mê quyền lực. Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ bấy giờ là McNamara, đã khẳng định điều đó như sau: “Giống như hầu hết những người Mỹ đến đất nước này, và theo tôi, cả nhiều người Việt nữa, tôi thấy bà Nhu là một người sáng sủa, mạnh mẽ và xinh đẹp, nhưng cũng độc ác và mưu mô – một mụ phù thủy thực sự”. Chính vì vậy, “Dragon lady” Trần Lệ Xuân dịch ra tiếng Việt phù hợp nhất phải là “Bà chằn”, là “Cọp cái”,… còn nếu muốn bám sát chữ “rồng” trong nguyên mẫu thì chỉ có “Rồng lộn” là chính xác chứ chẳng thể là một “Long nữ” như cách dịch “bốc thơm” của truyền thông Việt! (NY51- 24/10/1963) BÀ NHU PHÁT BIỂU, NGƯỜI MỸ PHẢN ỨNG—Khán thính giả Mỹ đã nghe và xem Bà Ngô Đình Nhu cố gắng thuyết phục họ rằng cách của bà hứa hẹn chiến thắng được Chủ nghĩa CS tại Nam VN. Cuộc viếng thăm [nước Mỹ] của bà đã làm dấy lên những phản ứng khác nhau, trong số đó là ý kiến của những người biểu tình chặn đường mang các tấm bảng này tại Washington (AP Wirephoto) “No Nhus is good news” = không có ông bà Nhu thì tốt hơn cho mọi người – câu này nhại thành ngữ quen thuộc của Mỹ “No news is good news” = không có tin gì tức là tin tốt (mọi chuyện đều bình yên). “Why are our son dying for Madame Nhu?” =Tại sao các con trai chúng tôi lại phải chết vì Bà Nhu? XÉT VỀ NHÂN PHẨM Sự dâm loạn của Trần Lệ Xuân là mảnh ghép hoàn hảo để tạo nên một hình ảnh gia tộc bạo chúa họ Ngô như một bức tranh phản ánh hiện thực xã hội thời tao loạn: đầy rẫy bạo lực, lừa lọc, nghiện ngập và đĩ điếm. Nếu như sự lăng loàn của Xuân là nguyên nhân gây bất hòa trong đại gia đình Ngô tổng thống thì sự ngông cuồng, lộng quyền và tàn ác của Xuân trong vụ đàn áp Phật giáo cũng là dấu chấm hết cho tình cảm với cha mẹ ruột của mình. Để phản đối vụ đàn áp, ông bà nhạc của Nhu là Trần Văn Chương (đại sứ tại Mỹ) và Thân Thị Nam Trân (một quan sát viên của chế độ Diệm tại Liên Hiệp Quốc) đã từ chức. Khi Diệm – Nhu còn đang bối rối thì Trần Lệ Xuân đề nghị giải pháp xuyên tạc sự thật bằng cách “sửa sai” hai chữ “từ chức” thành “bãi chức”, để đối phó với cha mẹ mình. Trước sự ngỗ ngược của con gái, ông bà Trần Văn Chương đã tuyên bố từ con và tiếp tục lên tiếng công kích Diệm – Nhu, nghiêm khắc phê phán Trần Lệ Xuân vô lễ, mất tư cách và mất nhân tính. Để đáp trả, Nhu phát biểu trên báo chí: “Tôi sẽ cắt đầu lão ta. Tôi sẽ treo lão ta ở giữa quảng trường và để lão ấy treo lủng lẳng ở đó. Vợ tôi (Trần Lệ Xuân) sẽ thắt nút treo cổ vì cô ấy tự hào là người Việt Nam và cô ấy là một người yêu nước”! Thật là một gia đình hạnh phúc! Với “đạo hạnh” như thế, người ta bảo Trần Lệ Xuân đã chịu quả báo khi liên tiếp sau đó phải chứng kiến những thảm họa trong gia đình: Chồng và anh em thì bị giết trong đảo chính, con gái yêu nhất Lệ Thủy (nhìn rất giống Trần Lệ Xuân) thì chết vì tai nạn xe khi mới 27 tuổi, bố mẹ ruột thì bị chính em trai Trần Văn Khiêm giết chết; bản thân thì vơ vét được tài sản khổng lồ hàng tỷ USD nhưng khi lưu vong thì lại chẳng còn gì, phải kiếm tiền bằng cách trả lời phỏng vấn báo giới. Trần Lệ Xuân tưởng như là may mắn khi không bị lính đảo chính giết chết hoặc bị đám đông cuồng nộ treo cổ vào ngày 1/11/1963 định mệnh vì khi đó bà cùng con gái Lệ Thủy đang “công cán” tại Mỹ, nhưng phải chăng số phận bắt bà ta phải sống để chứng kiến sự sụp đổ bi thảm của gia đình mình? Los Angeles, 02/11 Bà Nhu tố Mỹ đảo chính Ngô Đình Nhu trong buổi họp báo tại Beverly Hills hôm nay rằng bà ta tố Mỹ đã để quân đội đảo chính lật đổ chế độ cầm quyền của gia đình bà tại Miền nam Việt Nam. Bà ta cũng đổ lỗi cho mỹ về bất kỳ thứ gì đã xảy ra cho chồng và ba đứa con. \
Cái Đẹp của VTV
Với một hình tượng Trần Lệ
Xuân như thế lại nghiễm nhiên trở thành một biểu tượng “vẻ đẹp Việt”
trong con mắt của VTV, dẫu bỏ qua yếu tố chính trị, phải chăng tiêu chí
về Đẹp của VTV có khác người quá chăng? Nhưng ngẫm kỹ thì thấy, chả phải
là trong xã hội kim tiền thời nay, có thiếu gì kẻ tiến thân bằng con
đường như Trần Lệ Xuân đâu, đặc biệt là trong giới báo chí truyền thông
và showbiz? Chả phải nhan sắc bấy lâu
nay đã trở thành món hàng mua bán đại trà trên các “hội chợ sắc đẹp” núp
bóng “Cuộc thi sắc đẹp” ngày càng nở rộ? Chả phải các cô gái “ngành”
cũng vẫn nghiễm nhiên “chiếm sóng” nhà đài & tung tăng trên mặt báo
đó thôi? Ngay tại VTV, mới đây cũng có một “bà rồng”, người làm cái
phóng sự “eo ơi” ở Syria, phải giã từ sự nghiệp đang lên như diều gặp
gió hay sao? Giữa môi trường văn hóa như vậy, (nói về văn hóa, hình như
VTV cũng có cô BTV gì đó bị “bệnh tâm thần” nhưng vẫn thường xuyên làm
các chương trình về văn hóa của đài), nên có lẽ các cán bộ nhà đài có
cái nhìn lệch lạc về “Vẻ đẹp Việt” cũng là điều dễ hiểu!
Mà nếu đưa yếu tố chính trị vào, biết đâu đó, nhà đài muốn “dựng”
hình ảnh Trần Lệ Xuân dậy, qua đó gián tiếp lôi nhà Ngô ra, để cho bàn
dân thiên hạ có cái mà đàm tiếu, chửi rủa?! Kẻ làm việc xấu đã chết đi
rồi thì phần thưởng lớn nhất cho họ và con cháu họ là bị người đời lãng
quên, chứ như VTV nói riêng và truyền thông Việt nói chung, lâu lâu lại
lôi họ dậy để “xức dầu thơm”, có khác gì để làm bia cho miệng đời tiếp
tục phỉ nhổ!?
Thâm vậy thì thâm quá, nhà đài ơi!
|
Nhận xét
Đăng nhận xét