Mùa cá đồng ở lưu vực sông Mekong, Việt Nam là khoảng thời gian sống
động và thú vị. Bởi nguồn lợi tôm cá mang đến cho cư dân nơi này nhiều
vô số kể. Nào là đặt xà di, đặt trúm, câu, lưới lọp, lờ. . .Tuy cực mà
vui. Với chuyến tháp tùng đặt lọp và xà di bắt cá lóc và rô đồng đã giúp
tôi có một trải nghiệm thú vị.
Mời các bạn cùng xem video.
Nếu cảm thấy thú vị hãy nhấn đăng ký và chia sẻ để nhiều người cùng xem
và nhận những video mới.
Cảm ơn các bạn.
Người miền Tây ngóng lũ, chờ con nước trĩu nặng lòng người
30/07/2019 05:48 GMT+7
TTO - Về đi lũ ơi! Những ngày này đi dọc dòng
sông Mekong, chúng tôi nghe bao nỗi niềm nông dân. Ở ruộng đồng Lào,
Thái Lan hay hạ nguồn Việt Nam, chuyện con nước đều trĩu lòng người.
Sông
Mekon g chảy qua Vientiane, Lào kiệt nước. Ngoài thời tiết, các đập
thủy điện cũng góp phần làm kiệt nước ở hạ lưu - Ảnh K.S.
Cuối tháng 7 này, nông dân nào ven sông Mekong cũng ngước mắt lên nhìn trời, mong mây đen kéo về, mong trời đổ mưa xuống...
Kiệt nước ở thượng nguồn
Nước? Nông dân Lào ít khi quan tâm tới nước, vì họ chỉ có 7 triệu người trên gần 237.000km2 lãnh thổ, tức trung bình chỉ có khoảng 31 dân/km2 (trong khi Việt Nam hơn 300 người/km2).
Nhiều
năm ở đất nước không có biển này, ít khi nào tôi thấy nông dân Lào canh
tác 2 vụ lúa mỗi năm, chứ đừng nói 3 - 4 vụ suốt quanh năm như ở Việt
Nam. Dù canh tác rất ít, chủ yếu chỉ vào mùa mưa, nhưng gạo của họ làm
ra ăn không hết và rất ngon vì phần nhiều là lúa dài ngày 6 tháng.
Người
dân Lào hầu như chưa bao giờ phải quan tâm tới nước, do địa hình chằng
chịt sông lớn trong khi nhu cầu tưới tiêu lại ít. Tuy nhiên những năm
gần đây, tình hình đã khác.
Suốt hai tháng 6 và 7 này,
khi Thái Lan liên tiếp cảnh báo lượng nước sông Mekong sụt giảm kỷ lục
làm đồng ruộng họ khô cằn, tôi đã thấy người dân Lào lo lắng nhìn xuống
dòng sông của mình. Chính họ cũng đang sợ thiếu nước!
Mùa
mưa theo chu kỳ trời đất đã đến rồi, nhưng đồng ruộng Lào vẫn khô cằn.
Còn sông Mekong vẫn kiệt nước. Nhiều cánh đồng lẽ ra đã có màu lúa xanh
nhưng vẫn trơ trụi đất đai nứt nẻ.
Anh Khăm Muộn hay còn
gọi Ba Huy, người Lào gốc Việt sang sinh sống ở tỉnh lỵ Xayabury từ đời
ông nội vào những năm 1920, nhớ lại: "Khi tôi còn trẻ, tức khoảng năm
2000 trở về trước, người Lào hầu như còn chưa mấy ai nghe đến từ hạn hán. Các con sông chảy ngang dọc đất Lào quanh năm đầy ắp nước.
Ngoài
con sông Mekong liên quan đến Trung Quốc, Thái Lan, Việt Nam,
Campuchia, thật ra Lào còn rất nhiều con sông lớn khác như Sê Kông, Nậm
Ngừm, Nậm Khan, Nậm Tha, Sedone. Ruộng đồng không bao giờ hút cạn nổi
nước các dòng sông này...".
Khăm Muộn tâm sự ngày ấy
người Lào nghe nói hạn hán cũng giống như miền Tây Nam Bộ ở Việt Nam
trước đây nghe nói không có mùa nước nổi. Chuyện quá xa lạ. Nhưng giờ đó
là sự thật đang diễn ra từng ngày.
Em trai Khăm Muộn
sống ở thủ đô Vientiane và đang có thú vui chiều chiều đá bóng cùng bạn
bè dưới... lòng sông Mekong chảy qua địa phận này. Chuyện thật 100%!
Cầu Hữu Nghị từ Vientiane, Lào sang Thái Lan lẽ ra giờ này nước đã dâng cao nhưng vẫn trơ mố trụ cầu - Ảnh: K.S.
Nước
sông Mekong bị cạn kiệt giật xa khỏi bờ hàng trăm mét. Bến đò và bãi
đánh cá tấp nập trước đây giờ trở thành sân đá bóng trên cát. Cái cảnh
quá xa lạ khi trước đây Vientiane từng có những mùa nước tràn lên cả
đường phố, tức cao hơn mực nước cuối tháng 7 này phải trên 10m.
Nếu
như những năm gần đây người Lào làm nông nghiệp bắt đầu sợ thiếu nước,
thì hiện trạng này ở Thái Lan nặng nề hơn nhiều. Hầu như tuần nào tôi
cũng có việc kinh doanh phải từ Lào sang Thái Lan qua cây cầu Hữu Nghị. Cây cầu nối thủ đô Vientiane và tỉnh Nongkhai, Thái Lan bên bờ sông Mekong.
Tháng 7 này, những cuộc trò chuyện về việc cạn kiệt nguồn nước thiên nhiên ở Nongkhai có thể dẫn đến sự gay gắt khó lường.
"Tại
sao sông cạn, tại sao? Người ta nói rằng ít mưa là đúng, nhưng nước
trong các hồ thủy điện ở thượng nguồn vẫn đầy mà" - ông Khomsai Kaichan,
nông dân vừa làm vườn vừa sống bằng nghề khai thác cá sông, đã trao đổi
như chất vấn, dù người đối diện chẳng ai đủ tầm để trả lời rõ ràng.
Mấy
đời đánh cá sông Mekong, Khomsai tuổi đã gần 50 cũng đủ để khẳng định
mình tường tận con nước dòng sông liên quốc gia này. Ông kể gần đây hầu
như năm nào sản lượng cá đánh bắt của mình cũng sụt giảm.
Khi
Khomsai còn trẻ, tức khoảng 20 năm trước, mỗi ngày ông có thể đánh bắt
được hơn 100kg cá. Đó là những loài cá rất ngon mà bên Việt Nam gọi là
đặc sản như cá tra dầu, cá hô, cá lăng, còn cá thường và nhỏ đều được
ông thả lại dòng sông.
Nhưng nhiều mùa nước gần đây, ông
cố lắm cũng chỉ được khoảng mươi ký cá mỗi ngày, dù Khomsai có tiếng là
người giỏi nhất trong những người đánh cá giỏi ở Nongkhai.
"Hơn 1/10 lượng cá của tôi đã bị mất đi đâu?" - Khomsai hỏi tôi như hỏi chính mình.
Chưa thấy "tháng bảy nước nhảy lên bờ"
Ở
hạ nguồn Việt Nam, bao nông dân cũng đang ngày đêm ngóng con nước về.
Miền Tây Nam Bộ chằng chịt kênh rạch, nhưng hầu như tất cả đều phụ thuộc
vào mực nước sông Tiền, sông Hậu - đoạn cuối cùng của dòng Mekong trước
khi đổ ra biển.
Nguyên chủ tịch UBND tỉnh An Giang Nguyễn Minh Nhị, một người có thể nói rằng hiểu lũ
châu thổ này như lòng bàn tay, trầm tư: "Dân dã quê tui có câu "tháng 7
nước nhảy lên bờ". Nhưng đến giờ mực nước vẫn còn giật xa bờ sông thì
đáng lo quá, làm sao lên ruộng được.
Năm nay vựa lúa miền Tây mà không có lũ từ nước ngọt thượng nguồn đổ về thì căng lắm".
Ý
"căng" của cựu chủ tịch UBND tỉnh lúa Bảy Nhị này là nguồn nước lũ bao
năm làm "hàng rào" chống mặn xâm nhập các cánh đồng lúa nuôi sống người
dân miền Nam và xuất khẩu. Nếu lũ không có hoặc quá thấp, vấn đề mặn xâm
thực chẳng phải là viễn cảnh gì xa xôi, mà ngay trước mắt khi mùa nắng
tới.
"Các nhà khoa học nói về việc chuyển đổi cơ cấu cây
trồng, vật nuôi nhưng chủ yếu vẫn còn ở tương lai. Ngay bây giờ và ngày
mai, ngày mốt, người dân miệt thấp này vẫn trông con nước Mekong đổ về
cho đồng ruộng, cho con cá, con cua của mình" - ông Nhị nói.
Tâm
sự mong lũ, ông Bảy Nhị kể thời trẻ của mình nghe tiếng cá quẫy lội
trên đồng nước đã trở thành âm thanh quen thuộc như tiếng cơm sôi. Cá
nhiều tới mức người ăn không hết, chó mèo ăn không kịp, phơi khô cũng
không kịp, người ta đổ đống làm phân trồng cây là có thật.
Nguồn
cá chủ yếu đến từ sông Mekong. Chúng theo con lũ thượng nguồn chảy về,
rồi lên đồng ruộng nuôi sống người dân châu thổ lẫn góp phần làm sạch
ruộng đồng cho vụ lúa sau lũ. Nhưng nhiều năm gần đây, nguồn lợi trời
cho từ lũ đã lao dốc như xe không thắng.
"Đến tụi tui ở
ngay dưới này muốn tìm con cá khô đồng ăn còn quá khó" - ông Bảy Nhị tâm
sự giữa nơi từng là vựa cá khổng lồ của cả miền Nam...
Đến hẹn nhưng người dân huyện An Phú, An Giang vẫn chưa thấy lũ về - Ảnh: BỬU ĐẤU
Cùng
tâm trạng với ông Bảy Nhị, TS Dương Văn Ni (Đại học Cần Thơ) cũng đang
hết sức quan tâm đến mực nước sông Mekong. Một số dấu hiệu đã cho thấy
mùa lũ năm nay ở miền Tây có thể sẽ không được như các năm trước:
"Thường
thì giữa tháng 7 âm lịch sắp tới nước sẽ lên trắng các cánh đồng ở mạn
biên giới như An Giang, nhưng đến giờ mực nước vẫn còn quá thấp, rất khó
2 tuần nữa có nước để vô đồng được".
Là chuyên gia nghiên cứu sâu về hệ sinh thái Đồng bằng sông Cửu Long,
TS Ni tâm sự thêm lúc này người dân phải ngóng... áp thấp nhiệt đới hay
ảnh hưởng bão gây mưa nhiều ở vùng Hạ Lào mới có hi vọng lũ về:
"Phải
là vùng Hạ Lào, vì nếu mưa bão đổ xuống Trung Quốc hay Thượng Lào thì
nước cũng chưa chắc đã xuống được hạ nguồn Việt Nam. Bởi các thủy điện
của họ cần tích thêm nước sau nhiều tháng thiếu mưa. Đặc biệt là các
vùng nông nghiệp Thái Lan rộng lớn ven sông Mekong cũng sẽ tận dụng tối
đa nguồn nước quý như vàng".
Từng
khảo sát vùng này, TS Ni kể thêm mạn bắc Thái Lan trước đây ít dân, đất
hoang còn nhiều nên nhu cầu nước chưa tăng cao như bây giờ. Khi phát
triển nông nghiệp, họ đưa dân về đây mở mang ruộng đồng, đào hồ chứa
nước.
Nếu mưa thuận gió hòa thì không sao, ngược lại thì còn đâu nước để chảy xuống hạ nguồn.
Trong
khi đó gần Việt Nam, ai đến Biển Hồ mênh mông của Campuchia mùa này sẽ
dễ sốc với tình trạng nhiều nơi trơ đáy, nhà bè và thuyền cá phơi mình
trên cát. Tuy nhiên, với các nhà khoa học, điều đó không lạ.
Ngoài
lượng mưa ít, tình trạng phá rừng, khẩn hoang của Campuchia đã khiến
tốc độ bồi lắng của Biển Hồ ngày càng nhanh hơn. Và điều đáng lo là túi
nước khổng lồ này lại là nguồn quan trọng cho mùa lũ hạ nguồn Việt
Nam...
Xuôi Long An, Tiền Giang rồi về Bến Tre, Đồng
Tháp, An Giang... những ngày đợi lũ, đi đến đâu chúng tôi cũng nghe trăn
trở chuyện con nước lớn - ròng. Nhà khoa học lý giải theo tính toán
khoa học, nhưng nông dân thì bấm đốt ngón tay tính toán theo kinh nghiệm
truyền đời.
Sự thiệt hại trước mắt thì quá rõ ràng ở
những làng cá, những cánh đồng xả lũ. Nhưng cái đáng lo cũng không hề xa
xôi là chỉ vài tháng nữa khi gió đông về, nắng đổ lửa xuống ruộng đồng,
người dân sẽ làm gì để sống khi đất đai khô cằn, biển mặn tràn vào?
Về đi lũ ơi! Nghe như tiếng thở than, nghe như tiếng ước mong của nông dân châu thổ phương Nam...
Cạn kiệt dòng sông
Mùa
này đi dọc sông Mekong cả bên đất Thái Lan, Lào hay Việt Nam, Campuchia
đều cảm nhận rõ người dân đang mong con nước phù sa đổ về như thế nào.
Những
người bạn Thái Lan của tôi tâm tư rằng lẽ ra thời điểm cuối tháng 7
nước sông Mekong phải dâng lên cao hơn hẳn mố trụ chân cầu Hữu Nghị,
nhưng suốt nhiều ngày qua nó vẫn trơ lên mặt nước.
Khi truyền
thông quốc tế viết quá nhiều về tình cảnh dòng sông cạn nước, một số đập
trên thượng nguồn Trung Quốc và Lào mới tạm xả nhưng vẫn chưa được như
mong đợi.
Các "thủ phạm" gây thiếu nước
Thủy điện sông Nậm Khan ở Lào tích nước bên trong, nhưng sông ở ngoài lại cạn - Ảnh: QUỐC VIỆT
Theo
TS Dương Văn Ni, lượng mưa ít sẽ dẫn đến tình trạng nước mặn xâm thực
vùng bán đảo Cà Mau. Riêng vùng phía dưới như Bến Tre, Long An, Tiền
Giang lại trông chờ vào nước lũ đẩy mặn.
Lũ không về hoặc lũ thấp, chắc chắn tình trạng mặn xâm thực sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến mùa vụ và sinh hoạt của người dân.
Hiện có nhiều nguyên nhân dẫn đến mực nước sông Mekong quá thấp so với các năm bình thường.
Ngoài
lượng mưa trên lưu vực sông Mekong ít hơn so với trung bình nhiều năm,
còn có nguyên nhân lớn từ hệ thống thủy điện trên thượng nguồn Trung
Quốc và Lào tích nước. Sau việc trực tiếp gây thiếu nước, các thủy điện
này còn chặn dòng chảy phù sa làm mất nguồn tài nguyên quý giá và gây
sạt lún nghiêm trọng.
Ngoài ra, Việt Nam hiện đã ổn định diện tích
canh tác, nhưng cả Thái Lan lẫn Campuchia đều đang mở rộng nông nghiệp
dẫn đến tình trạng liên tục "khát" nước sông Mekong.
Ruộng đồng
của họ cần xả nước để bảo vệ cây trồng khi mưa nhiều nhưng lại tích nước
khi hạn hán, vì vậy sẽ làm hạn chồng hạn cho vùng hạ nguồn như Việt
Nam.
Lũ năm nay diễn biến phức tạp
Theo
Đài Khí tượng thủy văn khu vực Nam Bộ, mùa bão năm 2019 trên khu vực
Biển Đông đến muộn hơn so với trung bình nhiều năm (TBNN). Dự báo số
lượng bão và áp thấp nhiệt đới hoạt động khu vực Biển Đông và ảnh hưởng
trực tiếp đến đất liền có khả năng ít hơn so với TBNN.
Khoảng từ
cuối tháng 7 đến tháng 10-2019, tổng lượng dòng chảy trên các trạm
thượng nguồn Mekong ở mức thấp hơn so với TBNN 20 - 30%. Đỉnh lũ năm đầu
nguồn sông Cửu Long ở mức báo động 1 - báo động 2, thấp hơn đỉnh lũ
TBNN 0,2 - 0,4m.
Thời gian xuất hiện đỉnh lũ khả năng vào cuối
tháng 9, đầu tháng 10 và tháng 11, 12-2019, mực nước đầu nguồn sông Cửu
Long có xu thế giảm dần và ở mức thấp hơn TBNN.
TTO
- Ủy hội sông Mekong quốc tế (MRC) ngày 18-7 xác nhận mực nTHÁNG 7 ước
đầu mùa lũ, tháng 6-7 năm nay trên sông Mekong đang ở mức thấp nhất từng
được ghi nhận trong lịch sử.
QUỐC VIỆT - MẠNH DŨNG
Giải pháp cho xung đột nguồn nước trên dòng Mê Kông
Tính chất và mức độ ảnh hưởng của xung đột về sử dụng nguồn nước sông Mê Kông khiến người ta ví nó như một biển Đông thứ hai. Nhưng vấn đề là làm sao giải quyết những tranh chấp đó?
Cuối tháng 10 vừa rồi, đập thủy điện đầu tiên ở hạ lưu sông Mê Kông –
đập Xayaburi 1.285 megawatt – bắt đầu đi vào hoạt động thương mại tại
Lào, giữa lúc dân làng ở Thái Lan biểu tình phản đối.
Người biểu tình cho rằng đập Xayaburi và nhiều công trình khác đang
được thi công sẽ phá hủy sinh kế của họ trong tương lai, theo Reuters.
Đây là con đập đầu tiên trong số ít nhất là dự án thủy điện đang được
xây dựng hoặc dự kiến xây dựng ở hạ lưu sông Mê Kông tại Lào, theo hãng
tin Reuters.
Đập này khởi sự hoạt động vào lúc mà nhiều khu vực trên dòng sông Mê Kông bị khô nước dù đang ở cuối mùa mưa.
Sự kiện này càng cho thấy tầm quan trọng của việc giải quyết tranh chấp việc sử dụng nguồn nước trên sông Mê Kông.
Nếu tranh chấp ở Biển Đông là tranh chấp chủ quyền, thì nguồn nước
sông Mê Kông lại là cuộc đấu tranh về quyền sử dụng nguồn tài nguyên
nước xuyên biên giới. Lo ngại về sự gia tăng quyền lực của Trung Quốc
Ông Brian Eyler, Giám đốc chương trình Đông Nam Á, Trung tâm nghiên
cứu Stimson tại Washington D.C, Mỹ, và cũng là tác giả cuốn ‘The Last
Days of Mighty Mê Kông’ (tạm dịch là Những ngày cuối của dòng Mê Kông vĩ
đại), nhận xét với BBC News Tiếng Việt rằng:
“Tranh chấp nước sông Mê Kông có một số điểm tương đồng với tranh
chấp Biển Đông, nhưng những gì đang xảy ra ở sông Mê Kông hiện đang làm
tổn thương trực tiếp đến túi tiền và nồi cơm của người dân. Bởi vậy,
sông Mê Kông đã trở thành vấn đề an ninh kinh tế và lương thực quan
trọng với tất cả các nước hạ nguồn.”
Theo ông Brian, hiện nay, trên sông này, có hơn 100 đập thủy điện đã
hoàn thành và hoạt động trong lưu vực sông Mê Kông. Trong đó, Lào có 63,
Trung Quốc 11, Thái Lan 9, Việt Nam 16 và Campuchia 2.
“Các đập của Trung Quốc ở thượng nguồn sông Mê Kông giữ lại một lượng
nước khổng lồ. Trong mùa gió mùa, lượng nước từ các đập của Trung Quốc
chỉ chiếm nhỏ hơn 7% lượng nước trong toàn bộ hệ thống nên không tác
động nhiều.
“Nhưng trong mùa khô và thời kỳ hạn hán, nước từ các đập thượng nguồn
của Trung Quốc chiếm 40-50% lượng nước trong hệ thống Mê Kông. Vì vậy,
vào thời gian đó, việc các đập của Trung Quốc vận hành thế nào sẽ ảnh
hưởng rất lớn.
“Trung Quốc có thể dùng các đập này để giảm hạn hán ở hạ lưu nếu họ
muốn. Theo nghĩa này, Trung Quốc có một mức độ quyền lực nhất định với
các quốc gia hạ nguồn. Vì vậy, các nước ở hạ nguồn cần thỏa thuận với
Trung Quốc trong điều tiết các đập nhằm bảo đảm lượng nước tối thiểu
trong mùa khô và trong thời kỳ hạn hán.
“Điều không may là, Trung Quốc đã không dễ dàng đồng ý làm vậy và
trên thực tế, không quốc gia nào ở hạ lưu sông Mê Kông có những thỏa
thuận như vậy,” ông Brian nói. Giải cứu sông Mê Kông cách nào
Trong cuộc tranh chấp nguồn nước Mê Kông, phải thẳng thắn nhìn nhận
rằng, Việt Nam ở thế yếu hơn so với các nước khác do nằm ở cuối nguồn.
Nhưng cũng chính vì thế mà Việt Nam càng cần sử dụng các cơ chế hợp
tác khu vực và các cơ sở pháp lý quốc tế liên quan, như Công ước về nước
của Liên hợp quốc, Hiệp định Mê Kông… để đàm phán và bảo vệ quyền lợi
của mình.
Cơ chế hợp tác quốc tế có giá trị pháp lý duy nhất hiện nay cho việc
quản lý và sử dụng nguồn nước ở hạ lưu sông Me Kong là thông qua Ủy hội
sông Mê Kông Quốc tế.
Ông Trịnh Lê Nguyên, Giám đốc Trung tâm Con người và Thiên nhiên (PanNature),
phân tích với BBC News Tiếng Việt: “Dù về mặt chính thức các quốc gia
thành viên Ủy hội sông Mê Kông Quốc tế vẫn tuyên bố tinh thần hợp tác để
quản lý và sử dụng bền vững nguồn nước chung. Nhưng thực tế cho thấy,
các quốc gia thượng nguồn vẫn chủ trương tối đa hóa lợi ích về mình.”
Còn ông Brian thì cho rằng, các quốc gia hạ nguồn cần hợp tác với
nhau để xây dựng thỏa thuận với Trung Quốc nhằm bảo đảm có được lượng
nước tối thiểu trong mùa khô và trong thời kỳ hạn hán. Theo ông, Cơ chế
hợp tác Lancang – Mê Kông mà Trung Quốc đề xướng gần đây đã nói về việc
sử dụng các con đập để giảm hạn hán. Bởi vậy, đây có lẽ là thời điểm tốt
để thúc đẩy thương thảo cho một thỏa thuận như vậy.
Tuy nhiên, ông Brian cũng nhìn nhận rằng, các nước ở hạ nguồn cần tận
dụng sức mạnh của Ủy hội sông Mê Kông Quốc tế để kêu gọi sự phối hợp,
thay vì cho phép Cơ chế Hợp tác Lancang – Mê Kông vì cơ chế này sẽ đem
tới cho Trung Quốc quá nhiều quyền lực đối với thượng nguồn.
Trong khi đó, cũng theo ông Brian, ASEAN thực sự chưa bao giờ quan tâm đến các vấn đề của Mê Kông. Việt Nam có thể làm gì?
Mất quyền chủ động sử dụng nguồn nước Mê Kông sẽ có ảnh hưởng dài hạn
lên kinh tế – xã hội của Việt Nam. Hậu quả có thể không xảy ra ngay lập
tức, nhưng theo như các nghiên cứu ở quy mô lưu vực, nhiều tác động là
lâu dài và không thể đảo ngược.
Theo ông Trịnh Lê Nguyên, với viễn cảnh toàn bộ 11 đập dòng chính
phía hạ lưu có khả năng sẽ được xây dựng, Việt Nam sẽ phải thay đổi toàn
bộ định hướng phát triển đồng bằng sông Cửu Long để thích ứng.
“Ở vị thế quốc gia cuối nguồn, trong trường hợp này, Việt Nam không
có nhiều lựa chọn. Đồng bằng sông Cửu Long chắc chắn sẽ thay đổi, sẽ rất
khác so với khi con sông Mê Kông còn duy trì được dòng chảy tự nhiên
tương đối,” ông Nguyên nói.
Khi con đập đầu tiên ở phía hạ lưu là Xayaburi được xây dựng, phía
Việt Nam đã liên tục nêu các quan ngại về tác động của các công trình sử
dụng nước dòng chính lên phía cuối nguồn, đe dọa sự bền vững của cả khu
vực Đồng bằng Sông Cửu Long.
Liên minh Cứu sông Mê Kông (Save the Mê Kông Coalition – SMC) cũng
như Mạng lưới Sông ngòi Việt Nam đã có thông cáo phản hồi về việc Chính
phủ Lào đệ trình đề xuất đập Luang Prabang lên Ủy hội sông Mê Kông quốc
tế.
Dự án này do một liên danh ba bên, gồm PV Power, chính phủ Lào và một
nhà đầu tư của Thái Lan thực hiện. Trong đó, PV Power – công ty con của
Tập đoàn Dầu khí Việt Nam – đứng vai trò chính, theo ông Trịnh Lê
Nguyên.
Ông Nguyên nhận định rằng việc một doanh nghiệp Việt Nam tham gia xây
dựng con đập thứ năm trên dòng chính sông Me Kong ở phía hạ lưu có nguy
cơ làm yếu tiếng nói của Chính phủ Việt Nam trong các đàm phán về quản
lý và sử dụng nguồn nước con sông quốc tế này.
“Tập đoàn Dầu khí Việt Nam là doanh nghiệp nhà
nước. Do vậy, nếu PV Power vẫn tiếp tục triển khai dự án này có thể được
các bên hiểu là phía Việt Nam đã chính thức tham dự vào xây đập thủy
điện dòng chính. Điều đó đồng nghĩa với việc các dự án tiếp theo trong
chuỗi đập trong kế hoạch sẽ được xây dựng mà không còn vấp phải nhiều
phản đối,” ông Nguyên nói.
Ông Brian cũng chung nhận định khi cho rằng, làm điều đó chẳng khác nào Việt Nam tự bắn vào chân mình.
Ông nói: “Việc một công ty Việt Nam tìm cách xây dựng đập Luang
Prabang trên dòng chính sông Me Kong ở Lào, theo tôi, Việt Nam đang phạm
sai lầm lớn. Họ tự bắn vào chân mình bằng một kế hoạch có thể làm hỏng
một số kế hoạch cứu đồng bằng châu thổ sông Me Kong mà Hà Nội tìm cách
thực hiện trong năm tới.”
Tuy nhiên, ở khía cạnh khác, ông cho rằng, Việt Nam cần tăng cường hợp tác với Lào.
“Tôi nghĩ, Việt Nam nên tham gia vào cùng với Lào để mua thêm năng
lượng và giúp họ trong quá trình trở thành “Năng lượng của Đông Nam Á.”
Điều này nghe hơi trái, nhưng không có nghĩa là Việt Nam mua điện từ các
dự án thủy điện lớn ở Lào.
“Thay vào đó, Việt Nam có thể chia sẻ kinh nghiệm phát triển ngành
năng lượng tái tạo với Lào. Việt Nam cũng có thể đầu tư vào các đập được
bố trí ở các khu vực của sông Mê Kông ít ảnh hưởng hơn so với các đập
chính. Chẳng hạn, xây dựng một con đập trên một nhánh sông phía trên một
con đập hiện có sẽ ít ảnh hưởng đến hạ lưu.”
Còn ông Phạm Phan Long, Chủ tịch tổ chức phi chính phủ Viet Ecology
Foundation, ở Hoa Kỳ, nói với BBC News Tiếng Việt rằng, các nước Mê Kông
cần sớm có một cuộc cách mạng về chính sách năng lượng.
“Tôi đã thấy tiềm năng năng lượng mặt trời của ba nước đủ cho họ tự
giải thoát khỏi lời nguyền thủy điện Mê Kông và gọng kềm Trung Quốc.
“Lào có thể hủy bỏ cả ba dự án thủy điện Pak Lay-Pak Beng-Luang
Prabang thay bằng dự án năng lượng mặt trời nổi ngay trên hồ Nam Ngum.
Campuchia có thể bỏ hai dự án Sambor Stung Treng và có thể bỏ các dự án
nhiên liệu hóa thạch khác nếu thay chúng bằng dự án năng lượng mặt trời
trên hồ Tonle Sap.
“Và Việt Nam cũng có thể bỏ các nhà máy điện than trong quy hoạch
trên Đồng bằng sông Cửu Long thay bằng dư án tương tự trên hồ Trị An,”
ông Long nói.
Thủy điện Trung Quốc “siết nước”, hạ lưu sông Mêkông sẽ hạn nặng hơn
Lê Anh Tuấn
Chủ Nhật, 5/1/2020, 08:59
(TBKTSG) - Báo Bangkok Post xuất bản ngày
30-12-2019 đã loan tin tám tỉnh của Thái Lan nằm dọc sông Mêkông vừa
nhận được khuyến cáo từ chính quyền trung ương về việc Bộ Tài nguyên
nước Trung Quốc sẽ giảm lưu lượng xả của đập Cảnh Hồng từ 1.200-1.400
mét/giây xuống mức 800- 1.000 mét/giây từ ngày 1 đến 3-1-2020 và ngày
4-1 tiếp tục giảm xuống chỉ còn 504-800 mét/giây trước khi trở lại mức
bình thường. Việc tích nước của đập Cảnh Hồng diễn ra vào đúng thời điểm
hạn hán đang hoành hành ở khu vực hạ lưu Mêkông.
Nước sông Mêkông ngày 4-12-2019, đoạn qua tỉnh Nakhon Phanom, miền
Đông Bắc Thái Lan, đã biến thành màu xanh nước biển, các tàu cá đã neo
đậu ở các bãi cát ven sông bị lộ rõ do mực nước xuống rất thấp. Ảnh:
Chessadaporn Buasai - AP.
Việc tích nước và giảm xả nước xuống vùng hạ lưu sông Mêkông từ đập
thủy điện Jing Hong (Cảnh Hồng) đã từng diễn ra trong mùa khô năm 2016,
đúng vào thời kỳ khô hạn gay gắt, mực nước sông Mêkông hạ thấp kỷ lục
trong gần 100 năm nay. Cả 10 trong 13 tỉnh thành vùng đồng bằng sông Cửu
Long (ĐBSCL) phải ra công bố tình trạng thiên tai hạn hán, xâm nhập
mặn.
Năm nay, do tác động của hiện tượng El Nino, khô hạn trở lại vùng hạ
lưu sông Mêkông với mức độ nghiêm trọng hơn năm 2016. Nhiều số liệu cho
thấy mực nước ở các trạm đầu nguồn Việt Nam từ Thái Lan, Lào và
Campuchia đều thấp hơn nhiều năm khô hạn trước đó, ngay cả trong giai
đoạn cao điểm của mùa lũ năm 2019. Có thể mức độ khô hạn và xâm nhập mặn
mùa khô năm 2020 sẽ nặng nề hơn và nước mặn sẽ đến sớm và tràn sâu vào
nội đồng vùng ven biển và vùng giữa đồng bằng. Thiếu nước ngọt cho sinh
hoạt và canh tác chắc chắn sẽ xảy ra ở các tỉnh ven biển ĐBSCL.
Màu nước sông ở các tỉnh ven sông của Thái Lan hiện đã bất thường, biến
thành màu xanh nước biển, hiện tượng này người dân địa phương chưa từng
thấy. Hiện nay, lưu lượng dòng chảy rất thấp và trong nước không còn
mấy hàm lượng phù sa, nhiều nơi các bãi cát và cồn cát lộ rõ, dù mùa mưa
mới chấm dứt. Tại ĐBSCL, số liệu đo tại các tỉnh ven biển sớm ghi nhận
độ mặn 4 phần ngàn đã vào sâu hơn 50 ki lô mét. Tại thành phố Mỹ Tho
(Tiền Giang), độ mặn 2 phần ngàn đã lan đến sông Mỹ Tho. Lưu lượng dòng
chảy sông Mêkông qua trạm Tân Châu trên sông Tiền và trạm Châu Đốc trên
sông Hậu đã giảm mạnh, thấp hơn trung bình nhiều năm từ 20-45%.
Chuyện ứng phó với biến đổi khí hậu ngày càng khó khăn và tốn kém hơn
rất nhiều, khi có thêm một tác nhân từ các đập thủy điện thượng nguồn
như một tác động kép lên vùng đồng bằng. Với nguy cơ này, việc suy giảm
năng suất và sản lượng lúa, hoa màu và cây ăn trái vụ Đông Xuân năm 2020
là điều chắc chắn. Ngay bây giờ các tỉnh ĐBSCL phải khẩn trương tích
nước ngọt để ưu tiên sử dụng cho sinh hoạt ăn uống, cần ngưng ngay việc
gieo sạ, xuống giống các vùng canh tác lúa hiện nay. Các tỉnh cần chuẩn
bị các phương tiện chuyển nước sinh hoạt đến các vùng ven biển để cứu
khát. Về lâu dài, cần triển khai ngay việc xây dựng các hồ tích nước mà
từ mùa khô năm 2016 nhiều tỉnh đã đề xuất nhưng xây dựng quá chậm. Mặt
khác, trong tiến trình xây dựng quy hoạch tích hợp cho vùng ĐBSCL, cần
mạnh dạn thu hẹp diện tích canh tác lúa vào mùa khô, chuyển sang các
hình thức canh tác nông nghiệp và thủy sản ít tiêu thụ nước và đưa đất
trồng lúa vùng ven biển sang thành đất nuôi trồng thủy sản nước lợ và
nước mặn.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét