"Chủ nghĩa anh hùng theo mệnh lệnh, bạo lực phi lý và tất cả những điều
vô nghĩa nhân danh lòng ái quốc - tôi mới căm ghét chúng làm sao!" -Albert Einstein
"Dân ta phải biết sử ta, cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam. Sử ta dạy
cho ta những chuyện vẻ vang của tổ tiên ta. Dân ta là con Rồng cháu
Tiên, có nhiều người tài giỏi đánh Bắc dẹp Nam, yên dân trị nước, tiếng
để muôn đời. Sử ta dạy cho ta bài học này: Lúc nào dân ta đoàn kết muôn
người như một thì nước ta độc lập, tự do. Trái lại lúc nào dân ta không
đoàn kết thì bị nước ngoài xâm lấn"
Hồ Chí Minh
"Lòng yêu nước và sự đoàn kết của nhân dân là một lực lượng vô cùng to
lớn, không ai thắng nổi. Nhờ lực lượng ấy mà tổ tiên ta đã đánh thắng
quân Nguyên, quân Minh, đã giữ vững quyền tự do, tự chủ. Nhờ lực lượng
ấy mà chúng ta làm cách mạng thành công giành được độc lập. Nhờ lực
lượng ấy mà sức kháng chiến của ta càng ngày càng mạnh. Nhờ lực lượng ấy
mà quân và dân ta quyết chịu đựng muôn nỗi khó khăn, thiếu thốn, đói
khổ, tang tóc, quyết một lòng đánh tan quân giặc cướp nước."
Hồ Chí Minh
“Chiến
tranh có thể kéo dài 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa. Hà Nội,
Hải Phòng, và một số thành phố, xí nghiệp có thể bị tàn phá, song nhân
dân Việt Nam quyết không sợ! Không có gì quí hơn độc lập, tự do! Đến
ngày thắng lợi, nhân dân ta sẽ xây dựng lại đất nước ta đàng hoàng hơn,
to đẹp hơn!” Hồ Chí Minh
"Thà làm dân một nước độc lập còn hơn làm vua một nước nô lệ" Phạm Khắc Hòe
(Tiếp theo) *** VNCH xuất sinh từ gian lận:
Cuộc
trưng cầu dân ý ngày 23 tháng 10 năm 1955 gián tiếp đem đến sự cáo
chung Quốc gia Việt Nam. Ngày 26 tháng 10 năm 1955, Tổng thống Ngô Đình
Diệm ký quyết định ban hành bản Lâm thời Hiến pháp số 1, sự kiện này
được coi là quốc khánh của Việt Nam Cộng hòa.
Ngô Đình Diệm sinh ngày 3 tháng 1 năm 1901 tại làng Đại Phong, huyện Lệ
Thủy, Quảng Bình trong một gia đình quan lại có truyền thống theo đạo
Công giáo lâu đời ở Việt Nam. Vào thế kỷ 17, các nhà truyền giáo Bồ Đào
Nha đã cải đạo cho dòng họ ông, nên tên thánh của ông là Gioan Baotixita
(João Batista). Cha ông là Ngô Đình Khả và mẹ ông là Phạm Thị
Thân, quê quán ở làng Đại Phong xã Phong Thủy huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng
Bình. Ngô Đình Khả từng làm võ quan từ triều Đồng Khánh, theo Nguyễn Thân
một người hợp tác với chính phủ Liên bang Đông Dương (thuộc Pháp) đàn
áp các phong trào chống Pháp như nhóm Văn Thân của ngự sử Phan Đình
Phùng ở Nghệ An và Hà Tĩnh. Ông Khả từng làm tới Thượng thư triều đình
nhà Nguyễn kiêm Phụ đạo Đại thần và cũng là cố vấn của vua Thành Thái.
Là
người mộ đạo, Ngô Đình Khả dẫn gia đình ông đi lễ mỗi buổi sáng. Năm
1907,
thấy chính quyền bảo hộ Pháp phế bỏ và đày vua Thành Thái sang Phi
Châu, ông Ngô Đình Khả xin từ quan về quê làm ruộng để tỏ sự bất mãn. Có
thuyết khác cho rằng, vì ông Khả không chịu ký vào đơn yêu cầu Thành
Thái thoái vị, nên bị chính quyền bảo hộ Pháp cách chức. Dù đã từ quan
nhưng ông Ngô Đình Khả vẫn đủ sức để chu cấp cho các con ông ăn học. Lúc nhỏ, Ngô Đình Diệm ngoài giúp cha làm ruộng còn cùng người anh
Ngô Đình Thục vào học ở trường dòng Pellerin Huế. Cảm thấy cuộc sống ở
trường dòng quá khắt khe, ông đã bỏ trường dòng. Năm 1913, lúc 12
tuổi, Ngô Đình Diệm thi vào trường Collège Quốc học, học chương trình
tổng hợp bằng tiếng Việt và tiếng Pháp. Trưởng giáo (tức hiệu trưởng)
trường là Ngô Đình Khả, cha ông.
Theo Moyar, cá tính độc lập quá mức của Ngô Đình Diệm không thích hợp
với các khuôn phép trong nhà thờ. Ngoài ra, Ngô Đình Diệm còn thừa
hưởng từ cha tinh thần chống thực dân Pháp xâm lược.Tốt nghiệp trung học
với thành tích học tập xuất sắc ở trường Collège Quốc học, Ngô Đình
Diệm được trao học bổng đi học ở Paris. Nhưng ông đã từ chối. Năm 1918,
ông nhập học Trường Hậu bổ (trường Hành chính công và Luật) ở Hà Nội,
một trường danh tiếng của Pháp đào tạo công chức người Việt. Trong lúc
học ở trường Hậu bổ, Ngô Đình Diệm yêu con gái của thầy dạy
học và đây là mối tình duy nhất trong cuộc đời ông. Sau khi người con
gái đó quyết định vào Nữ tu viện, Ngô Đình Diệm sống độc thân suốt phần
đời còn lại. Theo Nhân Hưng, mối tình đầu của Ngô Đình Diệm là với tiểu
thư Trang Đài, con gái út của quan Thượng thư họ Nguyễn ở An Cựu, Huế. Sau
khi tốt nghiệp trường Hậu bổ với vị trí đứng nhất lớp vào năm 1921, Ngô
Đình Diệm nối bước anh cả Ngô Đình Khôi (lúc này đang làm việc trong Bộ
Binh
triều đình Huế) vào quan trường. Bắt đầu bằng chức quan thấp nhất, Ngô
Đình Diệm từng bước được thăng chức. Nơi làm việc đầu tiên của ông là
thư viện hoàng gia ở Huế. Trong cùng năm, ông làm tri huyện Hương Trà,
Thừa Thiên. Năm 1926, Ngô Đình Diệm làm tri phủ Hải Lăng, Quảng Trị, sau đó làm quản đạo phủ Ninh Thuận.
Xác chết của Ngô Đình Diệm ở phía sau APC, đã bị xử tử trên đường đến trụ sở quân đội
Trong
suốt thời gian làm quan, Ngô Đình Diệm có tiếng là người mẫn
cán, công chính, là nhà lãnh đạo Công giáo và là người theo chủ nghĩa
dân tộc. Ngoài ra, chủ nghĩa dân tộc Công giáo ở Việt Nam từ thập niên
1920 đến thập niên 1930 cũng tạo điều kiện cho sự thăng tiến trong quan
trường của Ngô Đình Diệm. Sự thăng tiến nhanh chóng của Ngô Đình Diệm
một phần nhờ vào mối quan hệ thân thiết với Thượng thư Bộ Lại Nguyễn Hữu
Bài
(anh trai ông, Ngô Đình Khôi, là con rể của ông Nguyễn Hữu Bài). Nguyễn
Hữu Bài (1863–1935) là một người Công giáo ủng hộ việc bản địa hóa Nhà
thờ Việt Nam và tăng quyền lực hành chính cho chế độ quân chủ.
Nguyễn Hữu Bài được người Pháp đánh giá cao, trở thành người bảo trợ
cho Ngô Đình Diệm do mối quan hệ chặt chẽ về gia đình cũng như tôn giáo. Năm
1929, Ngô Đình Diệm được bổ nhiệm tỉnh trưởng tỉnh Bình Thuận. Làm quan
ở Bình Thuận ông có tiếng về đạo đức làm việc. Vào các năm 1930 và
1931, Ngô Đình Diệm đã giúp người Pháp đàn áp cuộc nổi dậy đầu tiên của
nông dân do những người cộng sản tổ chức.
Theo Fall, Ngô Đình Diệm vùi dập cách mạng vì ông không ủng hộ cách
mạng. Ông cho rằng cách mạng không thể quét sạch người Pháp, nhưng có
thể sẽ đe dọa quyền cai trị của quan lại. Ngày 8 tháng 4, năm
1933, Bảo Đại (1913-1997) đã ban hành một đạo dụ cải tổ nội các, quyết
định tự mình chấp chính và sắc phong thêm 5 thượng thư mới xuất thân từ
giới học giả và hành chính là Phạm Quỳnh, Thái Văn Toản, Hồ Đắc Khải,
Ngô Đình Diệm và Bùi Bằng Đoàn nhằm thay thế các thượng thư già yếu hoặc
kém năng lực như Nguyễn Hữu Bài, Tôn Thất Đàn, Phạm Liệu, Võ Liêm,
Vương Tứ Đại. Ngô Đình Diệm nhận lời Bảo Đại làm Thượng thư Bộ Lại (Bộ
Nội vụ ngày nay) theo lobby của Nguyễn Hữu Bài. Ông là vị thượng thư trẻ
tuổi nhất trong triều đình nhà Nguyễn lúc bấy giờ.Thời gian này ông
được bầu làm Tổng thư ký đứng đầu ủy ban cải cách
hành chính. Ông đề xướng hai điểm cần tu chính với chính quyền bảo hộ
Pháp: một là thống nhất Trung và Bắc Kỳ theo Hòa ước Giáp Thân 1884, hai
là cho Viện Nhân dân Đại biểu Trung Kỳ được quyền tự do thảo luận các
vấn đề kể cả chính trị. Việc thống nhất chủ yếu để buộc chính quyền Bảo
hộ Pháp bãi bỏ khâm sứ Trung Kỳ và thống sứ Bắc Kỳ và thu về thành một
viện tổng trú sứ (résident général)
ở Huế mà thôi. Việc thứ hai là để canh tân lối cai trị cũ. Vì các đề
xướng không được chấp nhận, ông từ chức Thượng thư Bộ Lại ngày 12 tháng 7 năm 1933, chỉ sau 3 tháng nhậm chức.
Ngô Đình Diệm lên án Hoàng đế Bảo Đại "chẳng là gì mà chỉ là công cụ
trong tay người Pháp", và đã vứt bỏ các huân chương, chức tước được Bảo
Đại trao. Sau đó người Pháp đã dọa bắt và lưu đày Ngô Đình Diệm.
Ngô Đình Diệm (áo dài)
Tháng 9 năm 1933, Thượng thư Bộ lại Ngô Đình Diệm từ chức (Theo một tài liệu khác thì ông từ chức ngày12 tháng 7năm1933).
Tháng 12.1933 cụ Phan Bội Châu cho đăng bài thơ Vô đề (5) trên báo
Tiếng Dân, sau đó cụ xác nhận là làm để tặng Ngô Đình Diệm với “cái lòng
khen”; nhưng khi biết Ngô Đình Diệm muốn trở lại làm quan thì cụ Phan
cho rằng, “cái quan niệm của tôi đối với ông ấy từ trước đều vứt đi”:
Ai biết trời Nam hãy có người, Sịch nghe tưởng ngỡ sấm bên tai. Lông hồng coi nhẹ vàng muôn lượng, Ngôi quý xem dường dép nửa đôi. Phơi tỏ cùng trời gan đỏ chói, Nhá nhem thây kệ mắt đen thui. Ví chăng kịp lúc làm vai vế, Sau ngựa Châu xin quất ngọn roi.
Sau
khi từ chức Thượng thư Bộ Lại, Ngô Đình Diệm trở về làm một thường dân
sống ở Huế cùng gia đình ông, nhưng vẫn bị giám sát. Ông dành thời gian
cho việc đọc sách, thiền định, đi lễ nhà thờ, làm vườn, đi săn, và chụp
ảnh nghiệp dư.
Ngoài ra, ông đẩy mạnh các hoạt động dân tộc chủ nghĩa qua việc gặp gỡ
và giao lưu với các nhà lãnh đạo cách mạng Việt Nam, như Phan Bội Châu, một người bạn của ông. Phan Bội Châu là nhà hoạt động chống thực dân mà Ngô Đình Diệm kính trọng vì kiến thức Nho giáo uyên thâm của ông, và vì Phan Bội Châu lập luận rằng những lời dạy của Nho giáo có thể được áp dụng cho Việt Nam hiện đại.
Ngô Đình Diệm ngấm ngầm ủng hộ Hoàng thân Cường Để
đang sống lưu vong tại Nhật nhằm thực hiện một cuộc cách mạng lật đổ
chính quyền bảo hộ Pháp. Ông bị xem là quá khích giống như Nguyễn Hải
Thần, Nguyễn Tường Tam. Năm 1933, ông vào Sài Gòn cùng với Nguyễn Phan
Long, Lê Văn Kim,... tổ chức phong trào của trí thức Nam và Trung Kỳ vận
động chính giới Pháp tại Paris bãi nhiệm Toàn quyền Đông Dương Pierre
Pasquier.
Việc không thành, ông bị Pasquier trục xuất khỏi Huế và chỉ định cư trú
tại Quảng Bình. Tuy nhiên, sau cái chết của Pasquier năm 1934, viên
toàn quyền mới Eugene René Robin đã bãi bỏ chỉ định của Pasquier. Ông
vào Huế dạy tại trường Thiên Hựu (Providence) do anh ông là Ngô Đình
Thục làm Giám học.
Thời
kỳ 1942-1944, Ngô Đình Diệm tham gia thành lập và lãnh đạo tổ chức Đại
Việt Phục hưng Hội, dựa Nhật chống Pháp với thành phần nòng cốt là quan
lại, linh mục, cảnh sát, và lính khố xanh bản xứ tại Trung Kỳ. Tháng 7
năm 1944, mật thám Pháp phá vỡ tổ chức này và vây bắt Ngô Đình Diệm ở
tại phủ Cam. Trong thư gửi Toàn quyền Đông Dương, ông Thục kêu gọi Pháp
ân xá cho em mình:
"Nếu hoạt động của hai em tôi được
chứng tỏ là có hại cho quyền
lợi nước Pháp thì – với tư cách của một Giám mục, của một người An-nam,
và với tư cách là người con của một gia đình mà thân phụ tôi đã phục vụ
nước Pháp ngay từ khi Pháp mới đến An-nam, và đã nhiều lần đưa mạng sống
cho nước Pháp trong các cuộc hành quân mà cha tôi cầm đầu, dưới quyền
Nguyễn Thân, chống lại các kẻ nổi loạn do Phan Đình Phùng chỉ huy, tại
Nghệ An và Hà Tĩnh – tôi, tự đáy lòng, không chấp nhận
...Có thể tôi lầm, tuy nhiên, thưa Đô Đốc, tôi xin thú thực là
không tin – cho đến khi được chứng minh ngược lại – rằng các em tôi đã
phản lại truyền thống của gia đình chúng tôi đến như thế, một gia đình
đã tự mình gắn liền với nước Pháp từ lúc ban đầu, trong khi ông cha của
những quan lại bây giờ hầu hết đều chống lại Pháp và chỉ quyết định
thiên về Pháp khi thấy có lợi... Tôi nêu ra điều nầy khi xét thấy rằng
thân phụ tôi là Ngô Đình Khả
đã từng được vinh dự phục vụ nước Pháp dù sinh mạng bị hiểm nguy, và
khi xét đến quá trình lâu dài của các em tôi, một quá trình được hình
thành bằng lòng tận tụy vô bờ của các em tôi đối với nước Pháp, mà không
sợ phải hy sinh mạng sống của mình cho nước Pháp".
Nhờ
sự giúp đỡ của hiến binh Nhật,
ông thoát nạn và về trú tại lãnh sự Nhật ở Huế. Sau vài ngày, người
Nhật đưa Ngô Đình Diệm vào Đà Nẵng rồi dùng máy bay quân sự chở thẳng
vào Sài Gòn trú tại trụ sở hiến binh của Nhật. Ông cũng được Việt Nam
Phục quốc Đồng minh Hội do hoàng thân Cường Để ủy nhiệm công việc vận
động nhân sự ở Trung Kỳ để chống Pháp.
Thượng Thư Bộ Lại Ngô Đình Diệm (thứ hai từ phải).Hình bên: Tổng Thống Diệm ôm hôn tướng Dương Văn Minh, theo cácnguồnthì sau này chính tướng Minh ra lệnh hạ sát anh em Tổng Thống trong cuộc đảo chánh 1963 vì tư thù.
Tại Sài Gòn, ông đã tham gia thành lập Ủy ban Kiến quốc với mục tiêu phò
tá hoàng thân Cường Để. Tuy nhiên Nhật không ủng hộ Cường Để về nước
làm vua mà ủng hộ Bảo Đại lập chính quyền thân Nhật với quốc hiệu mới là
Đế quốc Việt Nam. Bảo Đại đã từng mời ông làm thủ tướng trong chính
quyền mới nhưng không thành mà thay vào đó là Trần Trọng Kim.Sau khi Bảo
Đại thoái vị ngày 25 tháng 8 năm 1945, Mặt trận Việt Minh giành chính
quyền, Ngô Đình Diệm cùng với một số người thân trong gia đình bị Việt
Minh bắt ở Tuy Hoà, Phú Yên ngoại trừ Ngô Đình Nhu và Ngô Đình Cẩn.
Anh cả Ngô Đình Diệm là Ngô Đình Khôi cùng con trai mình là Ngô Đình
Huân trên đường bị du kích giải ra Hà Nội thì bị lực lượng áp tải này xử
bắn do nghi ngờ ông định chống lại lực lượng Việt Minh. Nguyên do là
trong Cách mạng tháng 8 năm 1945, Ngô Đình Khôi khuyên hoàng đế Bảo Đại
đừng thoái vị vì ông đã tích trữ được một số vũ khí, lại có thêm Ngô
Đình Huân giữ vai trò liên lạc giữa triều đình Huế và Đế quốc Nhật Bản,
nên có người tố cáo cha con ông Khôi có âm mưu cấu kết với Nhật chống
lại Việt Minh.
Thời điểm đó, một đơn vị biệt kích Pháp nhảy dù xuống miền Tây Thừa
Thiên và bị Việt Minh bắt, nhóm này có nhiệm vụ liên lạc với các quan
lại bản xứ để lập lại chủ quyền của Pháp ở Đông Dương. Ngô Đình Diệm bị
giải ra Hà Nội. Sau đó Ngô Đình Nhu cũng bị Việt Minh bắt giam rồi được
thả. Theo phim tài liệu Sứ mệnh đặc biệt của Đài Truyền hình Việt
Nam nói về chuyến công tác phía nam của ông Hoàng Quốc Việt trong Cách
mạng Tháng Tám, thì ông Hoàng Quốc Việt (sau khi nghe ông Hải, Bí thư
Ban cán sự Đảng tỉnh Quảng Ngãi
báo cáo đã bắt được Ngô Đình Diệm) đã thả ông Diệm theo chỉ thị của Hồ
Chí Minh rằng các nhân sĩ trí thức phải được thả ra, và đưa ông Diệm ra
Hà Nội gặp Hồ Chí Minh. Ông Ngô Đình Diệm được giao làm cố vấn cho Vĩnh
Thụy, là cố vấn tối cao của Chính phủ.
Gia đình trị họ ngô: Dòng họ Ngô Đình: (hình năm 1963, từ trái sang) Cố vấn
Ngô Đình Nhu, Tổng thống Ngô Đình Diệm, Tổng Giám mục Ngô Đình Thục,
em gái tổng thống Diệm, bà mẹ (ngồi), bà Trần Lệ Xuân, ông Ngô Đình
Cẩn. Hàng con cháu: Trác, Quỳnh, Lệ Quyên, Lệ Thủy
Tổng thống Ngô Đình Diệm đọc bản tuyên bố thành lập nước Việt Nam Cộng hòa, ngày 26 tháng 10 năm 1955 (sân Dinh Độc Lập).
Ngô Đình Diệm bị giam giữ tại tỉnh miền núi Tuyên Quang nhưng được trả tự do theo lệnh ân xá vào năm 1946.
Theo tài liệu của Mỹ, tại Hà Nội, Ngô Đình Diệm gặp Hồ Chí Minh. Ngô
Đình Diệm hỏi chủ tịch Hồ Chí Minh lý do giết anh của ông thì được Hồ
Chí Minh giải thích rằng đó một hành động tự phát của du kích địa phương
do đất nước đang rơi vào tình trạng hỗn loạn.
Sau đó, cũng theo tài liệu của Mỹ, Hồ Chí Minh mời Ngô Đình Diệm giữ
chức thủ tướng vì cho rằng ông có tài lãnh đạo. Ngô Đình Diệm trả lời
rằng ông chỉ đồng ý lời mời đó với điều kiện ông được Việt Minh thông
báo về tất cả mọi hành động và biết riêng mọi quyết định của họ. Chủ
tịch Hồ Chí Minh từ chối yêu cầu này, và do đó Ngô Đình Diệm từ chối hợp
tác với Hồ Chí Minh.Sau khi được Việt Minh phóng thích, Ngô Đình Diệm duy trì các mối liên
lạc với một số lãnh đạo Việt Minh với hy vọng có thể thuyết phục họ bỏ
Hồ Chí Minh và quay sang ủng hộ ông. Những cuộc trao đổi này khơi dậy
những quan tâm đáng kể trong hàng ngũ lãnh đạo Việt Minh ở Nam Bộ trong
năm 1947-1948. Nhiều quan chức Việt Minh ngưỡng mộ Ngô Đình Diệm và Ngô
Ðình Thục, thậm chí còn có tin đồn Ngô Đình Diệm đã lôi kéo được tướng
Nguyễn Bình, chỉ huy quân sự cao nhất của Việt Minh ở Nam Bộ, đào ngũ
(về sau tin đồn này được xác định là không đúng). Ông cũng tìm cách liên
minh với các lãnh đạo các đảng phái quốc gia. Giữa năm 1947, ông liên
minh với Nguyễn Tôn Hoàn, một lãnh đạo Công giáo ở Nam Bộ và là thành viên sáng lập Ðại Việt Quốc dân Ðảng. Tháng
2 năm 1948, Ngô Đình Diệm và các lãnh đạo phe quốc gia gặp nhau
tại Sài Gòn để thảo ra một kế hoạch đàm phán với Pháp về vấn đề độc lập
của Việt Nam. Năm 1948, khi cựu hoàng Bảo Đại sống lưu vong ở Hồng Kông
đang điều đình với Pháp để ký hiệp định Pháp-Việt, Ngô Đình Diệm sang
Hồng Kông thuyết phục Bảo Đại kiên định trong "vấn đề độc lập dân tộc".
Ông cũng vận động các quan chức Pháp nhượng bộ thêm về phạm vi chủ quyền
của Việt Nam. Sau đó khi Bảo Đại ký hiệp định với Pháp ở Hạ Long
cho Việt Nam một nền độc lập hạn chế, Ngô Đình Diệm tỏ ra thất vọng.
Ông từ chối lời mời làm Thủ tướng Quốc gia Việt Nam của Bảo Đại với lý
do "không tin người Pháp, càng không tin vào nền độc lập nửa vời mà Pháp vẽ ra", và quay về Huế sống với Ngô Đình Cẩn và có thời gian Ngô Đình Diệm lên sống với vợ chồng Ngô Đình Nhu ở Đà Lạt.
Miller
thấy rằng những tài liệu giải mật của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ chỉ nói lên
được một hiểu biết mơ hồ về Diệm cho đến tháng 5/1954. Theo Miller, Bảo
Đại quyết định chọn Diệm vào chức vụ Thủ tướng là bởi ông hoàng này công
nhận rằng Diệm “là một người tốt nhất cho công việc, bởi
vì sự không khoan nhượng và sự cuồng tín của mình, ông ấy có đủ năng lực
để chống lại chủ nghĩa cộng sản… Ông ấy thực sự là một người rất thích
hợp với hoàn cảnh hiện tại”.
Diệm đã chứng minh lời của quốc
trưởng nhận xét về năng lực của mình là không sai. Trong thời kỳ hậu
hiệp định Geneva, phớt lờ chiến lược hòa giải và cải tổ của Hoa Kỳ, Diệm
đã trấn áp và dẹp tan những đối thủ chính trị của Diệm mà không có bất
kỳ một sự thỏa hiệp nào để kiểm soát thành công quân đội quốc gia, giành
lấy quyền lực từ những viên tướng thân Pháp, thực hiện chương trình
kiến quốc của ông.
Những kiến giải của Miller về thời kỳ này
không những đưa ra một sự hiểu biết mới về Diệm, mà còn thách thức các
nhà sử học nhận thức lại lịch sử quan hệ Mỹ-Diệm ngay từ buổi đầu.
Nội các Ngô Đình Diệm ra mắt quốc dân ngày 26 tháng 10 năm 1955.
Sự bất đồng tư tưởng này đã khuấy đục liên minh Mỹ-Diệm
trong quá trình triển khai một trong những chương trình kiến quốc quan
trọng nhất: phát triển kinh tế xã hội ở nông thôn, với mấu chốt của vấn
đề là giải quyết tình trạng dư thừa dân số bằng cách di dân. Trên bình diện quốc gia, Diệm khởi động chương trình tự
cung tự cấp như là một đặc trưng trong viễn kiến của Diệm về phát triển
cộng đồng để phát động sự tham gia tự giác và đóng góp của toàn dân vào
những mục tiêu công ích của nhà nước. Kế hoạch dinh điền của Diệm không tránh khỏi sự phàn nàn từ phía Mỹ. Miller đã phân tích rất sâu sắc sự khác biệt của hai
trường phái kiến quốc của Mỹ sau thế chiến thứ II bao gồm chủ nghĩa tân
thời cao cấp, nhấn mạnh đến tầm quan trọng của khoa học và kỹ thuật, và
chủ nghĩa tân thời bậc thấp chú trọng vào các chương trình phát triển ở
phạm vi hẹp mang tính địa phương. Cả hai trường phái này đều
không phù hợp với hoàn cảnh Việt Nam, bởi vì Hoa Kỳ không thể Tây hóa
lối sống và điều kiện kinh tế xã hội của người Việt. Do
vậy, dù đồng ý với quan điểm của Hoa Kỳ là cần cung cấp nguyên liệu sản
xuất cho dân tái định cư, nhưng Diệm bảo lưu quan điểm của mình, rằng
việc cung cấp tư liệu sản xuất không quan trọng bằng nghĩa vụ và bổn
phận tự lập của cộng đồng. Do đó ông sẵn sàng tiếp tục thực hiện
kế hoạch mà không cần sự trợ giúp của Mỹ. Mối bất hòa về chương trình
dinh điền, phát triển nông nghiệp, xây dựng nông thôn đã đẩy Washington
và Saigon vào một tình trạng tồi tệ mới.
Biểu ngữ và cổng chào tại một khu tái định cư của đồng bào miền Bắc, 1959.
Ấp chiến lược Hòa Lạc B.
Ấp chiến lược Thanh Trì.
Lễ khánh thành Trung tâm tu nghiệp công chức tại tỉnh Vĩnh Bình (nay đổi tên là Trà Vinh), 1963
Lễ khởi công xây dựng trường Trung học Bán công Phạn ngữ tại tỉnh Vĩnh Bình, 1963.
Chiến lược gìn giữ an ninh nội địa tập trung vào công
cuộc chống nổi dậy ở vùng nông thôn nhằm ngăn chặn sự thâm nhập của cộng
sản luôn là mối bận tâm của chính quyền Diệm. Miller chứng minh rằng không phải mọi hoạt động quân sự
của Diệm đều do Mỹ điều khiển hoàn toàn, thậm chí còn xảy ra những bất
đồng trong nội bộ Mỹ.
Về xây dựng lực lượng, ví dụ, phái bộ cố
vấn của đại học Michigan (MSUG) muốn phát triển Lực lượng Bảo an như là
một lực lượng cảnh sát dân sự, trong khi đó các cố vấn quân sự Mỹ (MAAG)
lại muốn lực lượng này là một mô hình bán quân sự hoạt động như một đội
quân phụ trợ.
Còn với Diệm, Bảo an là một lực lượng lai ghép,
kết hợp quyền lực của cảnh sát như quyền giám sát, giam cầm, và phản
gián với năng lực quân sự.
Chỉ trích các giải pháp của cố vấn Mỹ
không phù hợp với quan điểm của mình, cũng như hoàn cảnh an ninh của
miền Nam Việt Nam, Diệm tiếp tục củng cố và phát triển lực lượng Bảo an
như một nhân tố chính trong cuộc chiến chống lại chiến tranh du kích. Là
một cựu quan chức có nhiều trải nghiệm về cách trị dân, hơn ai hết,
Diệm hiểu rằng: để cai quản vùng nông thôn cần kết hợp các giải pháp
chính trị, quân sự, xã hội và kinh tế Ngược lại, Diệm không bao giờ có quan điểm Dân chủ là một
sự cạnh tranh mang tính đa nguyên giữa các đối thủ, đảng phái, và tư
tưởng.
Thay vì vậy, Diệm cho rằng nền móng dân chủ của ấp chiến
lược là huy động sức mạnh toàn thể dân chúng tham gia vào cuộc chiến
chống lại kẻ thù của chế độ.
Miller không thể không thừa nhận
rằng dù có nhiều khiếm khuyết và bất cập, nhưng Ấp Chiến Lược là một
chương trình thành công, tạo nên một bước ngoặt đáng ghi nhận trong cuộc
chiến chống lại Cộng sản ở miền Nam, mang lại hy vọng cho một chiến
thắng chung cuộc. Trận Ấp Bắc vào tháng 1/1963 vẫn không dập tắt sự lạc
quan của Diệm, vì vậy họ Ngô đã ra lệnh cho Phủ Đặc Ủy Công Dân Vụ chuẩn
bị kế hoạch Bắc tiến, chiếm lại miền Bắc Việt Nam. Và cuối cùng,
Diệm muốn Mỹ viện trợ vũ khí và các nguyên vật liệu khác nhưng không
chấp nhận sự việc các cố vấn Mỹ can thiệp vào nội bộ miền Nam Việt Nam.
Thống tướng Lê Văn Tỵ đọc lời chúc mừng Tổng thống Ngô Đình Diệm dịp kỷ niệm 7 năm ngày chấp chính, 1 tháng 7 năm 1961.
Từ
năm 1961, Quân lực Việt Nam Cộng hòa phải liên tục tăng cường lực lượng
nhằm đối phó với các hoạt động khủng bố của Mặt trận Dân tộc Giải phóng
miền Nam (thành lập cuối năm 1960 tại chiến khu Tây Ninh).
Đêm
29/4, chính quyền thành phố ra công điện hoả tốc yêu cầu đóng cửa dịch
vụ quán bar, karaoke, vũ trường, game để phòng Covid-19. Hà Nội tiếp tục
yêu ...
TTO
- Chiều tối nay 29-4, Bộ trưởng Bộ Y tế Nguyễn Thanh Long và đoàn công
tác của Bộ Y tế đã đến thôn Quan Nhân, xã Đạo Lý, huyện Lý Nhân, Hà Nam,
...
Đang
lưu thông trên đường thì bất ngờ một chiếc xe cẩu thi công lưới điện
vướng vào làm cổng chào bị sập, đè bẹp ca-bin. Hậu quả, tài xế tử vong,
phụ xế bị ...
(NLĐO)
– Cảnh sát bang Uttar Pradesh (Ấn Độ) thuật lại câu chuyện người đàn
ông lớn tuổi ở chở thi thể vợ trên xe đạp hàng giờ liền để tìm nơi hỏa
táng khi ...
Chiều
29-4, ngoài 39 ca mắc Covid-19 là người được cách ly sau khi nhập cảnh,
Bộ Y tế xác nhận Việt Nam phát hiện thêm 6 ca mắc do lây nhiễm trong
nước ...
(Dân
trí) - Về vụ việc Malaysia bắt giữ 4 tàu cá cùng ngư dân Việt, Đại sứ
quán Việt Nam ở nước sở tại đã yêu cầu cung cấp bằng chứng liên quan cáo
buộc đá.
Hành
vi của bị can kỹ sư Nhật Bản Takao Inami cùng các đồng phạm khác trong
vụ án đã gây thiệt hại và phải chịu trách nhiệm với số tiền hơn 567 tỉ
đồng tại ...
"Chủ nghĩa anh hùng theo mệnh lệnh, bạo lực phi lý và tất cả những điều
vô nghĩa nhân danh lòng ái quốc - tôi mới căm ghét chúng làm sao!" -Albert Einstein
"Dân ta phải biết sử ta, cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam. Sử ta dạy
cho ta những chuyện vẻ vang của tổ tiên ta. Dân ta là con Rồng cháu
Tiên, có nhiều người tài giỏi đánh Bắc dẹp Nam, yên dân trị nước, tiếng
để muôn đời. Sử ta dạy cho ta bài học này: Lúc nào dân ta đoàn kết muôn
người như một thì nước ta độc lập, tự do. Trái lại lúc nào dân ta không
đoàn kết thì bị nước ngoài xâm lấn"
Hồ Chí Minh
"Lòng yêu nước và sự đoàn kết của nhân dân là một lực lượng vô cùng to
lớn, không ai thắng nổi. Nhờ lực lượng ấy mà tổ tiên ta đã đánh thắng
quân Nguyên, quân Minh, đã giữ vững quyền tự do, tự chủ. Nhờ lực lượng
ấy mà chúng ta làm cách mạng thành công giành được độc lập. Nhờ lực
lượng ấy mà sức kháng chiến của ta càng ngày càng mạnh. Nhờ lực lượng ấy
mà quân và dân ta quyết chịu đựng muôn nỗi khó khăn, thiếu thốn, đói
khổ, tang tóc, quyết một lòng đánh tan quân giặc cướp nước."
Hồ Chí Minh
“Chiến
tranh có thể kéo dài 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa. Hà Nội,
Hải Phòng, và một số thành phố, xí nghiệp có thể bị tàn phá, song nhân
dân Việt Nam quyết không sợ! Không có gì quí hơn độc lập, tự do! Đến
ngày thắng lợi, nhân dân ta sẽ xây dựng lại đất nước ta đàng hoàng hơn,
to đẹp hơn!” Hồ Chí Minh
"Thà làm dân một nước độc lập còn hơn làm vua một nước nô lệ" Phạm Khắc Hòe
(Tiếp theo)
Hội nghị Đông Dương ở Genève, 1954 Để phù
hợp với “nguyện vọng” của Mỹ, Pháp đã vực dậy ông vua cuối cùng của
triều Nguyễn và “đã chết” là Bảo Đại làm con bài. Sợ Bảo Đại, kẻ nhu
nhược, bốc đồng và trác táng có thể quan hệ bí mật với chính phủ Hồ Chí
Minh, Pháp đưa ra phương án giải tán “nước Nam Kỳ tự trị” để thành lập
một chính quyền Việt Nam “tự trị” do Pháp đỡ đầu về quốc phòng và ngoại
giao (thực chất thì cũng như chính sách bảo hộ hồi thế kỷ XIX). Vài
“chính khách” Việt Nam do Pháp nặn ra, kéo đến Hồng Công thuyết phục Bảo
Đại và ngày 7-12-1947, tại Vịnh Hạ Long, ký thỏa thuận với Pháp. Theo
đó Pháp “cho” Việt Nam độc lập nhưng kiểm soát quân đội, tài chính và
ngoại giao. Ngày 8-3-1949, Bảo Đại ký thỏa ước của thỏa thuận vịnh Hạ
Long: Pháp “giữ hộ” Việt Nam vấn đề quốc phòng, tài chính, ngoại giao.
Năm 1946, ngày 25-5, Tại Sài Gòn, Chủ tịch Hội đồng Tư vấn Nam Kỳ là luật sư Béziat gửi cho Cao Ủy Pháp
một bức thư chính thức xin thành lập
một chính phủ lâm thời của nước Cọng Hòa Nam Kỳ. Ngày 27-5, Cao ủy Pháp
trả lời tạm thời chấp thuận việc thành lập chính phủ đó. Tuy nhiên
cũng lưu ý rằng “Nam Kỳ là một mãnh đất thuộc di sản Quốc gia Pháp” cho nên cần phải được Quốc hội Pháp thông qua (Hsltr/Quốc gia Pháp).
*( Nam Kỳ là đất bị quân Pháp đánh chiếm
rồi bắt vua Tự Đức phải bán cho họ vào năm 1874 với giá do họ ấn định.
Từ đó nước Việt Nam có hai nước là nước An Nam của nhà Nguyễn và nước
Nam Kỳ của Pháp. Tháng 3 năm 1945 Nhật chiếm Nam Kỳ của Pháp rồi tháng 6
năm 1945 giao lại cho Bảo Đại, nhập trở lại nước Việt Nam. Giờ đây
Pháp thành lập nước Nam Kỳ tự trị để tách ra Nam Kỳ khỏi Việt Nam như
trước.
Năm
1950, sau khi đánh bật được tập đoàn cờ bạc Ma Cao, thế lực của Bảo Đại
đã hoàn toàn độc chiếm trung tâm cờ bạc Đại Thế Giới ở Sài Gòn.
Năm
1950, Truman chủ trương không chỉ “giữ chân” cộng sản ở Châu Âu mà còn
phải tích cực ngăn chặn cộng sản ở Châu Á. Ngay lập tức, Dean Rush thông
báo: “Các tài nguyên của Mỹ phải được triển khai để ngăn Cộng sản chiếm
Đông Dương và Đông nam Á”. Đến đây, Mỹ đã tỏ ra quyết tâm giữ Đông
Dương hơn cả Pháp.
(Nhưng
tại sao đế quốc Mỹ nói riêng và cả thế giới tư bản nói chung lại căm
ghét, lo lắng và chống cộng điên cuồng như vậy? Nguyên nhân là, những
người theo chủ nghĩa Cộng sản cho rằng muốn xây dựng một xã hội tươi
đẹp, không còn cảnh người bóc lột người thì phải làm cuộc cách mạng vô
sản và mục tiêu của cuộc cách mạng ấy là đập tan chính quyền tư sản, xóa
bỏ triệt để chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất. Mục tiêu đó của cuộc
cách mạng vô sản rõ ràng là cực đoan, duy ý chí và mù quáng bởi vì chỉ
có thể cố gắng cải tạo mặt trái xấu xa của nhân tính, cái tàn dư tàn
bạo, độc ác của xã hội phong kiến, chứ không thể tiêu diệt được một
phương thức kinh tế - xã hội xuất hiện một cách tự nhiên theo trình độ
của tiến trình xã hội phù hợp với đạo lý. Hay có thể nói, trong thời đại
ngày nay, hành động xóa bỏ nền sản xuất tư bản là trái đạo lý tự nhiên. Loài
người tồn tại được là vừa nhờ có những con người độc lập, tự do, vừa chịu sự ràng buộc. Độc lập, tự
do tương đối là điều kiện cho con người tồn tại và phát triển. Dù là nô lệ đi chăng nữa thì
cũng không thể mất hết độc lập, tự do nếu còn tồn tại. Độc lập, tự do
làm xuất hiện ý chí sáng tạo ở mỗi con người và khi tư hữu (về tư liệu sản xuất)
vẫn còn là quyền lợi thì không thể xóa bỏ được ý chí tư hữu.
Tiếp
theo, nguyên nhân để cách mạng vô sản đề ra cái mục tiêu ấy của nó
chính là quan niệm thiếu biện chứng của học thuyết Mác về sự phân tầng
xã hội dưới luận đề “Giai cấp và đấu tranh giai cấp”. Sự phân
tầng xã
hội là hiện tượng có thực và nó luôn vận động, chuyển hóa, biến đổi theo
điều kiện, hoàn cảnh cũng luôn biến đổi trong từng thời gian, từng giai
đoạn vận động xã hội. Chúng ta quan niệm rằng chỉ khi hai tầng lớp dân
cư xã
hội do có hiện tượng bóc lột mà phát sinh mâu thuẫn gay gắt, đối kháng
nhau về mưu cầu sống còn thì lúc đó mới được gọi là phân tầng
giai cấp và như thế trong xã hội, nếu xuất hiện giai cấp thì chỉ có thể
là hai giai cấp thống trị và giai cấp bị trị, mà biểu hiện phổ biến để phân biệt
giữa hai giai cấp ấy là hữu sản - vô sản, là giàu - nghèo, tạm thời có
quyền lực - không có quyền lực… Vậy thì bản thân những biểu hiện tương
phản hữu sản - vô sản, giàu - nghèo chưa hẳn là thực sự phân tầng giai
cấp.
Theo
Mác thì: “Sự tồn tại của các giai cấp chỉ gắn liền với những giai đoạn
phát triển lịch sử nhất định của sản xuất”. Đó là câu nói theo ý kiến
chúng ta là vừa đúng vừa không đúng và nếu bỏ “của sản xuất” đi thì đúng
hơn.
Theo
Lê Nin định nghĩa thì đấu tranh giai cấp là “Cuộc đấu tranh của quần
chúng bị tước hết quyền, bị áp bức và lao động, chống bọn có đặc quyền,
đặc lợi, bọn áp bức và bọn ăn bám, cuộc đấu tranh của những công nhân
làm thuê hay những người vô sản chống những người hữu sản hay giai cấp
tư sản”. Định nghĩa như vậy là chưa rõ ràng và dễ gây ngộ nhận. Cách
định nghĩa sau đây trong giáo trình “Triết học Mác - Lê Nin” (NXB Chính
trị quốc gia, Hà Nội, năm 2004) là đúng hơn:
“Thực
chất của đấu tranh giai cấp là cuộc đấu tranh giải quyết mâu thuẫn về
mặt lợi ích giữa quần chúng bị áp bức, vô sản đi làm thuê chống lại giai
cấp thống trị, chống lại bọn đặc quyền đặc lợi, những kẻ đi áp bức bóc
lột”.
Theo
chúng ta, cách mạng vô sản là cuộc đi đòi lại quyền lợi chính đáng của
quần chúng đã bị giai cấp thống trị chiếm đoạt một cách không chính
đáng, xóa bỏ chính quyền đã trở nên phản động, tàn bạo để xây dựng một
chính quyền mới do dân và vì dân.
Karl Marx, triết gia cho rằng đấu tranh giai cấp là động lực phát triển xã hội. Sau khi Đảng Cộng sản Việt Nam được thành lập, cao trào cách mạng
1930 – 1931 mà tiêu biểu là phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh bùng lên mạnh
mẽ. Đây là cuộc tổng diễn tập đầu tiên của Đảng và giai cấp công nhân,
nhân dân lao động chuẩn bị cho cuộc Tổng khởi nghĩa Cách mạng Tháng Tám
năm 1945. HẬU QUẢ CỦA ĐẤU TRANH GIAI CẤP:
Địa chủ phải quỳ xuống đất, bị trói 2 tay
ra sau lưng nghe kể tội. Sau khi nghe kể tội sẽ bị xử bắn công
khai.Bà Cát Hạnh Long, một ân nhân của “cách mạng” thời kỳ kháng chiến chống Pháp.FB Nguyễn Thông: “Bắn một người đã góp cho cách mạng gần 1.000 lượng
vàng, đã cưu mang chính mình và hàng nghìn đồng chí mình khi khó khăn,
người có 2 con trai thì cả hai con lúc ấy đang là sĩ quan cấp trung
đoàn, bắn xong biết sai nhưng không hề công khai xin lỗi, bồi thường
danh dự và vật chấtĐấu tố
Đấu tố "Hình ảnh về cải cách ruộng đất do nhiếp ảnh gia Liên Xô Dmitri Baltermants (1912-1990) chụp năm 1955 tại Việt Nam"
“Tám trăm triệu người, không đấu đá là không được” – Mao Trạch Đông
Cải cách ruộng đất năm 1953 ở Trung Quốc. (Ảnh: internet)
nh những công dân hạng hai.
Phú nông và địa chủ bị chôn sống trong cải cách ruộng đất. (Ảnh: internet)
Sau khi xác định các thành phần xong, thì bắt đầu đấu tố…
Một
công dân Bắc Kinh, người sau này được biết đến như là Người hùng xe
tăng (Tank man), đang đứng trước những chiếc xe tăng trên Đại lộ Vĩnh An
vào ngày 5/6/1989, thời điểm diễn ra cuộc đàn áp trên Quảng trường
Thiên An Môn.
Cuối
cùng, cách hiểu máy móc, thiếu biện chứng về sự phân tầng xã hội của
chủ nghĩa Mác dẫn đến mục tiêu có phần cực đoan, thái quá của cách mạng
vô sản, là có nguyên nhân từ thực tại xã hội đương thời đó, có thể là
phù hợp với thời đại hình thành hình thái kinh tế - xã hội tư bản chủ
nghĩa, khi mà tích lũy tư bản là một quá trình chất chồng tội ác, tràn
ngập máu và nước mắt, khi mà mặt trái tàn bạo của nhân tính nổi trội đến
mức gắn liền thành như bản chất của chủ nghĩa tư bản.
Ngày
nay, loài người đã sáng tỏ được nhiều điều. Các chế độ xã hội, dù có
mang nhãn mác nào đi chăng nữa, dù hình thức có khác nhau thế nào chăng
nữa thì cũng không thể bài trừ nhau, do đó xử sự tốt nhất là thay cho
đối đầu, nên đối thoại và chung sống hòa bình, hướng sự xâu xé nhau
trong nội bộ giống loài ra “bên ngoài”: Đồng lòng đi cải biến tự nhiên
vì quyền lợi sống còn của chung loài người.
Đấu tranh giải phóng dân tộc khỏi sự xâm lăng,ách
đô hộ của thực dân - đế quốc và đấu tranh giai cấp của giai cấp bị trị
chống lại giai cấp thống trị là hai cuộc đấu tranh khác nhau nhưng tương
tự nhau. Xét trên khía cạnh phụng sự Đức Huyền Diệu, đảm bảo sự tồn tại
của loài người thì hai cuộc đấu tranh đó có mục đích như nhau và không
phải là đi tiêu diệt tư hữu.) *** Cuối
tháng 1-1950, khi thực dân Pháp hợp pháp hóa chính quyền Bảo Đại thì
lập tức ngày 7-2-1950, Mỹ liền công nhận chính phủ bù nhìn đó để nhằm
hợp thức hóa việc viện trợ quân sự cho bọn tay sai không qua tay Pháp.
Ngày 7-9-1951, “Hội nghị hợp tác kinh tế” giữa Mỹ và chính quyền bù nhìn
Việt Nam đã đi đến ký kết văn bản qui định việc Mỹ sẽ viện trợ kinh tế
và kỹ thuật cho Việt gian. Từ đó viện trợ Mỹ không ngừng tăng: nếu như
năm 1950 - 1951 Mỹ chi 13% cho tổng chi phí chiến tranh thì năm 1952 lên
38%, năm 1953 lên 45%; năm 1954 lên 80%. Viện trợ này thực chất cũng là
cho Pháp. Ngay từ 29-6-1950, 8 chiếc C-47 đã bắt đầu chở hàng viện trợ
đến Đông Dương và sau 4 năm, Mỹ đã viện trợ cho cuộc chiến tranh của
Pháp và tay sai trên dưới 3 tỷ đô la.
Máy bay C-119 của Mỹ đang thả lính dù Pháp tại trận Điện Biên Phủ năm 1954.
Trước
nguy cơ Pháp thất thủ ở Điện Biên Phủ dẫn đến thua trận trong cuộc
chiến tranh Đông Dương, tổng thống Mỹ lúc đó là Aixenhao đã xin quốc hội
Mỹ cho toàn quyền hành động, trong đó có việc sử dụng từ 1 đến 6 quả
bom nguyên tử, theo kế hoạch của Đalét.
Sự
cay cú và hoảng sợ trước nỗi ám ảnh cộng sản bành trướng đã làm cho
chính phủ tư sản Mỹ định giở trò côn đồ, độc ác. Sự dự tính dùng bom
nguyên tử chống lại một dân tộc nhỏ bé đi đòi quyền tự quyết của mình và
chưa từng hiềm khích trực tiếp đã bộc lộ ra cái nhân tính tàn bạo, tiểu
nhân của những nhà lãnh đạo chóp bu cái cường quốc được cho là số 1 thế
giới và tự nhận là tự do dân chủ nhất thế giới. Về vấn đề “răn đe”
nguyên tử này, đại tướng Võ Nguyên Giáp, nguyên tổng tư lệnh Quân đội
nhân dân Việt Nam, trong một lần trả lời phỏng vấn của nhà báo Cuba là
Angulo (đăng trên tạp chí Bôhêmia (Cuba) số tháng 1-6 năm 1984), đã thổ
lộ:
“Oasinhtơn
đề nghị cung cấp cho Pari bom nguyên tử chiến thuật để đánh vào quân
đội Việt Nam đang bao vây Điện Biên Phủ. Chúng tôi nhận được tin là hai
chính phủ đã bàn bạc khả năng dùng vũ khí nguyên tử chống lực lượng của
chúng tôi. Nhưng chúng tôi nhận thấy không có nhiều khả năng là loại vũ
khí đó được sử dụng. Một mặt, sau chiến tranh thế giới thứ hai, Mỹ rơi
vào thế phòng thủ và chỉ củng cố được những vị trí sẵn có. Mặt khác,
Quân đội nhân dân Việt Nam không kiểm soát các thành phố lớn, mà rải rác
trong một hậu phương bao la và các đơn vị tác chiến ở Điện Biên Phủ
ngày một tiến sát quân thù.
Con
bài vũ khí nguyên tử không dễ dàng, nhưng mặc dù vậy chúng tôi vẫn chỉ
thị cho các đơn vị của chúng tôi sẵn sàng chống lại sự nhiễm xạ bằng mọi
biện pháp sẵn có. Cho dù có dùng vũ khí này, họ (tức là Mỹ - Pháp) cũng
sẽ không đạt được gì hết”.
Thực
tế cho thấy dù thực dân Pháp tán thành nhưng cho đến cuối tháng 4-1954,
kế hoạch sử dụng bom nguyên tử - còn gọi là kế hoạch Vơtua (Vantour),
đã không được thực hiện.
Là
một thành viên tham gia Hội nghị Giơnevơ nhưng đế quốc Mỹ đã không chịu
ký vào bản tuyên ngôn chung vì đang ôm ấp những mưu đồ chống cộng điên
cuồng ở Đông Dương. Mỹ đã ngang nhiên lập ra khối Đông - Nam Á (SEATO),
đặt miền Nam - Việt Nam dưới sự bảo trợ của khối này, ráo riết hất cẳng
Pháp để trực tiếp can thiệp vào Đông Dương. Sau
khi Pháp thua trận Điện Biên Phủ và ký Hiệp định Geneve, Quốc gia Việt
Nam cùng Pháp tập kết về vùng phía Nam vĩ tuyến 17 của Việt Nam.
Phi cơ - "siêu pháo đài" B-29 (ảnh: olive-drab.com)
Ngày
10-8-1954, Mỹ điều đô đốc Xabin ra Hà Nội trực tiếp điều hành kế hoạch
tuyên truyền, cưỡng ép đồng bào di cư. Từ tháng 6-1954, Mỹ đã tổ chức
một cơ quan huấn luyện biệt kích, gián điệp núp dưới cái tên “Phái đoàn
quân sự Sài Gòn” (S.M.M), đóng trụ sở tại Hà Nội. Sự kiện nổ mìn phá sập
Chùa Một Cột ngày 10-9-1954 là có sự nhúng tay của tổ chức này. Theo kế hoạch, quân Pháp sẽ rút dần sau hai năm và Việt Nam sẽ tiến
hành tổng tuyển cử thống nhất đất nước. Tuy nhiên, báo cáo của CIA cho Tổng thống Mỹ Dwight Eisenhower thấy rằng khoảng 80% dân số Việt Nam sẽ bầu cho Hồ Chí Minh nếu cuộc tổng tuyển cử được thi hành.
Không thể chấp nhận việc Hồ Chí Minh sẽ thắng cử và lập chính phủ trên
toàn bộ lãnh thổ Việt Nam, Hoa Kỳ đã hậu thuẫn Quốc gia Việt Nam để cuộc
tuyển cử không thể diễn ra nhằm chia cắt Việt Nam vĩnh viễn thành 2
quốc gia. Hoa Kỳ muốn có một chính phủ chống Cộng tồn tại ở miền Nam
Việt Nam, bất kể chính phủ đó có tôn trọng dân chủ hay không. Năm 1954, đội bán quân sự của Mỹ do tướng Edward Lansdale (sĩ quan cao cấp của Tình báo Mỹ
và đã làm cố vấn cho Pháp tại Việt Nam từ 1953) đã huấn luyện các lực
lượng vũ trang của Quốc gia Việt Nam; xây dựng các cơ sở hạ tầng phục vụ
quân sự tại Philippines; bí mật đưa một lượng lớn vũ khí và thiết bị
quân sự vào Việt Nam; giúp đỡ phát triển các kế hoạch "bình định Việt Minh và các vùng chống đối".
Ngày 13-12-1954, Mỹ và Pháp ký kết văn kiện cho phép các cố vấn quân sự
Mỹ thay thế dần cho sĩ quan Pháp tham gia huấn luyện quân đội Quốc gia
Việt Nam
ở miền Nam Việt Nam. Tháng 1/1955, Mỹ chính thức viện trợ quân sự trực
tiếp cho Quốc gia Việt Nam.
Trong những năm 1954-1956, Mỹ đã bỏ ra 414 triệu đôla giúp trang bị cho
các lực lượng thường trực Quốc gia Việt Nam, gồm 170.000 quân và lực
lượng cảnh sát 75.000 quân; 80% ngân sách quân sự của Quốc gia Việt Nam
là do Mỹ viện trợ. Từ năm 1955 đến 1960, có tất cả 800 chuyến tàu chờ vũ
khí và phương tiện quân sự của Mỹ vào miền Nam Việt Nam. Số viện trợ
này giúp Quốc gia Việt Nam đủ sức duy trì bộ máy hành chính và quân đội
khi không còn viện trợ của Pháp. Quân đội Quốc gia Việt Nam dần thay thế
chiến thuật và vũ khí của Pháp bằng của Mỹ. Edward Lansdale và Ngô Đình Diệm Đến lúc này lại
xảy ra mâu thuẫn giữa Thủ tướng Ngô Đình Diệm với Quốc trưởng Bảo Đại
(nguyên là Hoàng đế nhà Nguyễn). Năm 1955, nhờ gian lận trong một cuộc
trưng cầu dân ý (mà các tài liệu ngày nay của chính phủ Việt Nam thường
gọi là "trò hề trưng cầu dân ý"), thủ tướng Ngô Đình Diệm đã phế truất
Quốc trưởng Bảo Đại, lên làm Tổng thống đầu tiên của chính phủ Việt Nam
Cộng hoà.
Sau đó, Quốc gia Việt Nam tổ chức bầu cử Quốc hội Lập hiến. Quốc hội
này ban hành Hiến pháp thành lập Việt Nam Cộng hòa trên cơ sở kế thừa
Quốc gia Việt Nam, thủ đô là thành phố Sài Gòn, ngày ban hành Hiến pháp
26 tháng 10 trở thành ngày Quốc khánh của Đệ Nhất Cộng hòa. Việt Nam
Cộng hòa theo thể chế chính trị đa đảng, kinh tế tư bản chủ nghĩa và
được Mỹ giúp đỡ, bảo vệ để chống lại Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Mặt
trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam tại miền Nam.
Bằng
việc đưa Ngô Đình Diệm từ Mỹ về thay thế ông vua Bảo Đại khét tiếng ăn
chơi và hoàn toàn ngớ ngẩn về chính trị, Đế quốc Mỹ đã chính thức chấm
dứt sự dính líu của Pháp ở Đông Dương. Đó cũng chính là sự “bàn giao
lịch sử” giữa chủ nghĩa thực dân cũ và chủ nghĩa thực dân mới trên đất
nước Việt Nam.