TT&HĐ III - 31/x
Trận đánh Waterloo
CHƯƠNG X (XXXI): TỘI ÁC
“Với việc thiết lập bạo lực và giết nhau trong loài của mình, con người tự đặt nó xuống dưới con thú”
André Bourguignon
"Lòng
yêu nước là tình yêu kiên định, tuyệt đối với quốc gia, không phải là
sẵn sàng phụng sự nó mà không phê phán, hay ủng hộ những yêu sách không
chính đáng, mà là thẳng thắn đánh giá những tội lỗi, thói xấu của nó
và sám hối cho chúng."
Aleksandr Solzhenitsyn
"Kẻ phạm vào tội lỗi là con người; đau buồn về nó là thánh nhân; kiêu hãnh về nó là ác quỷ."
"Thế giới phải chìm đắm trong đau khổ không phải vì tội ác của những kẻ xấu, mà là vì sự im lặng của những người tốt"
Napoleon Bonaparte.
"Luôn
nhớ rằng mình sẽ phải chết là cách tốt nhất mà tôi biết để tránh sa vào
suy nghĩ mình có cái gì để mất. Khi bạn chẳng còn gì, không có lý
do nào để bạn không đi theo chính trái tim mình" - Steve Jobs
(Tiếp theo)
Napôlêông
Bônapác là một người có thiên tài nhiều mặt. Một trong những thiên tài
ấy là “thấy” được những con người có biệt tài về mặt này hay mặt khác và
biết dung nạp, đặt họ vào đúng vị trí để họ có thể phát huy được hết
tài năng phục vụ cho Đế chế. Một trong những lĩnh vực mà Napôlêông hết
sức quan tâm và ra sức củng cố vì hiểu được tầm quan trọng cực kỳ của nó
chính là công tác tình báo - gián điệp trong đối nội cũng như đối
ngoại. Dưới thời ông, hàng loạt cơ quan mật ra đời, hoạt động độc lập
nhau, có khi nhằm giám sát nhau và chỉ trực thuộc Hoàng đế; chẳng hạn
như: Cục tình báo Bộ quan hệ đối ngoại, cơ quan tình báo của Hiến binh
ưu tú, cơ quan tình báo quân sự… Điều hành những cơ quan đó là những
nhân vật ưu tú về tài năng như: Savary, Desmarest, Talleyrand,
Landrieux, Fouché … Trong số đó, nổi bật lên trên hết là Fouché.
Phusê
(Joseph Fouché) giữ chức Bộ trưởng cảnh sát. Ông là một thiên tài trong
nghề của mình, nhất là trong công tác mật vụ, phản gián. Napôlêông
thoát được mọi mưu phản trong nước là nhờ vào sự mẫn cán và tài ba của
Phusê. Phusê đã dùng tiền bạc và mánh khóe mà mua chuộc được hoàng hậu
đa tình Joséphine và bí thư của Hoàng đế là Bourienne. Nhờ hai “điệp
viên tại chỗ” này mà ông nắm được các báo cáo của những cơ quan mật khác
và có thể chỉ ra ngay những kẻ theo dõi ông theo lệnh của vị Hoàng đế
đa nghi. Vì thế mà Phusê nắm chắc tình hình có khi hơn cả Hoàng đế và
người ta phải thừa nhận ông là người hùng thứ nhì của nước Pháp sau
Napôlêông.
Joseph Fouché (1759-1820)
Joseph Fouché (1759-1820)
Ngay
từ buổi bình minh của sự nghiệp lâu dài và đẫm máu của mình, khi mới
chỉ là một tướng trẻ, Bônapác chỉ huy chiến dịch nước Ý mà ông đề xướng
và Viện Đốc Chính (cơ quan hành pháp cao nhất của chính quyền Pháp lúc
đó) cho rằng không mấy quan trọng về mặt chiến lược, Napôlêông đã thấy
ngay công tác tình báo kiểu manh mún, mỗi tư lệnh đơn vị tham gia chiến
dịch trên đều có vài điệp viên, là thiếu hiệu quả, cần phải thay thế
bằng một cơ quan tình báo chính trị - quân sự tập trung đủ mạnh để có
thể thu thập thông tin có giá trị hơn một cách đồng bộ. Ông đã chọn đại
tá kỵ binh tên là Langdriơ (Landrieux) thực hiện việc này. Sự lựa chọn
này thật không chê vào đâu được. Langdriơ đã trở thành người “cái gì
cũng biết, cái gì cũng làm được”. Mạng lưới gián điệp của ông này giăng
ra trong một khu vực rất rộng lớn, điệp viên có mặt ở khắp nơi: Rôma,
Turinô, Florenxia, Vơnidơ, Napôli, Viên, Pari, cả trong Viện Đốc Chính,
trong quân đội đối phương, trong chính đội quân của Bônapac. Langdriơ có
thể tiêu diệt từ trứng nước bất kỳ cuộc mưu phản, bạo loạn nào; có thể
làm cho cả một thành phố bỗng dưng nổi dậy… Có thể là do phản ứng lại
việc tàn sát tại Vêrône trong dịp lễ Phục sinh và với lý do Đốc Chính
nhận được một số báo cáo giả mà ông bị thuyên chuyển về nước. Nhưng
Bônapác vẫn giữ lại và sử dụng cái cơ quan tình báo mà Langdriơ đã lập
ra. Nhờ có nó mà Bônapác chiếm được đảo Manta không mất một viên đạn.
Ở
Bộ Tổng tham mưu có phòng tình báo do tướng Savary chỉ huy. Năm 1810,
Savary thay Fusê làm Bộ trưởng cảnh sát nhưng vẫn kiêm nhiệm chức Cục
trưởng cơ quan tình báo quân sự và như vậy, trở thành thủ trưởng chính
của tất cả các cơ quan tình báo Pháp. Để thấy Savary là người tài năng
đến đâu, chỉ cần nhìn vào sự nghiệp tóm tắt của ông: là sĩ quan mật vụ
dưới chế độ Đốc Chính và Tổng Tài của cuộc cách mạng Pháp; năm 1800 là
Tư lệnh hiến binh; năm 1803 được phong cấp tướng; năm 1807 được phong
Công Tước; 1810 là Bộ trưởng cảnh sát và Cục trưởng Cục tình báo quân
sự; trung thành tuyệt đối với Napôlêông, muốn theo Napôlêông đi đày ra
đảo Thánh Bà Hêlen nhưng bị người Anh bắt giam; năm 1816 vượt ngục trốn
sang Cận Đông, rồi về Pháp; năm 1831 tái ngũ, được cử làm Tư lệnh quân
đội Pháp ở Châu Phi.
Sinh ra | 26 tháng 4 năm 1774 Marcq |
---|---|
Chết | 2 tháng 6 năm 1833 (59 tuổi) |
Savary
không có cái thiên tài của Fusê nên trong việc bảo vệ nội bộ đã để xảy
ra một sự kiện nghiêm trọng. Số là Malet, lính ngự lâm quân, theo cách
mạng, năm 1804 lên cấp tướng, bị đuổi khỏi chức vụ rồi bị tống giam vì
lập ra tổ chức bí mật bất hợp pháp mang tên là “Anh em xanh”. Bị giam
nhưng vẫn ngầm tổ chức được cuộc đảo chính vào đêm 20-10-1812. Lúc đó
Napôlêông đã đem quân đi đánh nước Nga xa xôi, 14 ngày liền không có tin
tức gì về ông. Malet tung tin hoàng đế đã chết và lôi kéo được hai
trung đoàn, bắt Savary đang ngủ, chiếm Bộ Nội Vụ và Cục Cảnh Sát rồi đưa
hai người theo y lên nắm hai cơ quan này. Nhưng tướng Aullin, Tư lệnh
sư đoàn 1 không theo quân phiến loạn, liền bị Malet rút súng bắn chết.
Các sĩ quan của Aullin bèn xông vào tước súng và bắt giữ luôn tên này.
Mất kẻ cầm đầu, cuộc bạo loạn thất bại. Malet và mười hai đồng bọn bị xử
bắn, còn Savary thì bị chế nhạo. Tuy nhiên, khi trở về, Napôlêông vẫn
quyết định cho Savary giữ chức vụ cũ. Công bằng mà nói với những thành
tích khác và nhất là việc tuyển mộ được Sumâytơ (Charles Louis
Schulmeister), Savary đã làm được nhiều việc đắc lực cho Hoàng đế, vẫn
là thủ trưởng đầy năng lực của cơ quan tình báo quân sự Pháp.
Sumâytơ
là một con người có những cá tính xung khắc nhau đến kỳ lạ. Là người
đặc biệt có tài trong nghề tình báo và được các nhà phân tích thừa nhận
là một trong những điệp viên vĩ đại nhất qua mọi thời đại. Ông sinh năm
1770 tại một vùng hẻo lánh bên hữu ngạn sông Ranh. Cha ông là mục sư. Vì
thèm khát danh vọng, ông thường tự khoe mình là dòng dõi của một gia
tộc cao quí ở Hunggari. Ông được giáo dục rất cẩn thận và kết hôn với
con gái một kỹ sư. Năm 1788, ông mở một tiệm nhỏ buôn bán gia vị và
thuốc lá tại Strasbourg. Dần dà, tiệm nhỏ đó chỉ còn như một cái mác
ngụy trang của một trùm buôn lậu trên sông Ranh. Năm 1799, Savary hành
quân trong xứ Rhénanie và biết đến ông. Năm sau Sumâytơ được Savary
tuyển dụng và bốn năm sau thì thực thụ vào nghề tình báo.
Sumâytơ
đã phụng sự hết sức nhiệt thành cho Hoàng đế và nước Pháp Đế chế bằng
những chuyến công tác đầy khó khăn nguy hiểm tại Áo, Đức, Hà Lan, Anh và
Ailen.
Là
một người rất nóng tính, trong chuyến công tác tại Strabourg theo lệnh
của Savary để điều tra những âm mưu chia cắt nước Pháp, Sumâytơ đã rút
súng bắn luôn hai thủ lĩnh mưu phản. Ông là người vô cùng xảo quyệt
nhưng chỉ với mục đích vì nước Pháp, muốn làm cho nước Pháp của ông
quang vinh. Không bao giờ ông phản phúc, mặc dù ở thời đại ông, sự phản
bội là một hiện tượng phổ biến (chúng ta nhớ lại Tanlâyrăng, Mácmông,
Murat, Morô…). Nhiều người cho rằng ông không có tình cảm, nhưng trong
thực tế thì ông có nhiều con nuôi và bao giờ cũng tỏ ra đại lượng với
không chỉ bạn bè mà cả những người không phải là bạn bè…
Sumâytơ
được trả lương như ông hoàng nhưng cũng có những thu nhập không chính
đáng. Savary và ông, thông qua một tay sai tên là Bernard thu tiền hồ
các sòng bạc rồi hai người chia nhau, hàng năm lên tới 9 triệu quan. Nhờ
thế mà Sumâytơ có thời trở nên rất giàu có. Ông có hai lâu đài, trong
đó có một cái tên là Meinau. Meinau được người ta ca tụng: một lâu đài
sang trọng với 2 hécta vườn theo kiểu Anh và có 162 hécta rừng bao quanh
tuyệt đẹp. Chỉ lâu đài đó thôi, đã là một núi vàng rồi. Ông chỉ còn ước
ao đến một tấm huân chương bắc đầu bội tinh. Ấy vậy mà không hiểu sao,
Napôlêông đã từ chối việc khen thưởng đó bằng lời tuyên bố bất ngờ và có
phần khinh mạn: “Người ta thưởng gián điệp bằng vàng chứ không khen
bằng huân chương”.
Charles Louis Schulmeister
Charles Louis Schulmeister
sinh | Neufreistett |
---|---|
mất | (82 tuổi) Strasbourg |
Có
lẽ chiến công lớn lao nhất của Sumâytơ trong toàn bộ sự nghiệp tình báo
của ông là đã đạo diễn làm nên trận thắng của quân Pháp tại Ulm vào năm
1805, mở đường tiến tới Viên - thủ đô nước Áo.
Khi
chân ướt, chân ráo tới Viên, Sumâytơ diễn lại vở cũ thời xưa của mình:
xuất thân trong một gia đình quí tộc cao quí Hunggari, di cư sang Pháp,
nhưng phải trốn khỏi đó vì ai cũng biết ông thân với dòng họ Habsbourg.
Tướng Mark kết thân với ông và tiến cử ông vào triều đình Áo. Khi chiến
tranh nổ ra, tướng Mark dùng ông làm cố vấn tình báo cho mình. Trên
cương vị này Sumâytơ tuyển mộ và cộng tác chặt chẽ với chỉ huy quân báo
Áo là đại úy Word. Sumâytơ đã cố gắng làm cho tướng Mark tin rằng quân
lính Pháp đã chán ngấy chiến tranh và sẵn sàng nổi dậy chống Napôlêông,
rằng nhiều phần tử đang âm mưu phản loạn ở nước Pháp đã viết thư cho
ông, và để chứng minh, ông đã đưa trình cho tướng Mark những tờ báo kích
động bạo loạn được in và lưu truyền bí mật trong nước Pháp - mà thực ra
là do Savary chế tác, làm cho vị tướng này mê tít. Khi tướng Mark đưa
bốn vạn quân tinh nhuệ nhất của Áo đến Souabe, chờ hội quân với đạo quân
Nga do tướng Cutudốp chỉ huy để lúc đó mới cùng tiến đánh đạo quân Pháp
do thống chế Ney chỉ huy, thì quân Pháp đột nhiên rút lui (theo âm mưu
sắp đặt trước của Sumâytơ). Sumâytơ ru ngủ Mark rằng quân Pháp rút chạy
là do binh lính chống đối, không chịu chiến đấu, và đây chính là thời cơ
có một không hai đánh tan quân Pháp. Mark bèn thay đổi quyết định,
không chờ hội với quân Nga nữa mà tổ chức tiến quân truy đuổi đạo quân
của Ney. Quân Pháp rút từ từ đến Ulm thì quân Áo bắt kịp. Nhưng đến đây
đạo quân của Ney đột nhiên dừng lại, không những không hoảng loạn mà tỏ
rõ quyết tâm nghênh chiến. Đã thế hai bên sườn quân Áo còn xuất hiện hai
đạo quân Pháp do hai tướng Soult và Dupont chỉ huy, cùng lúc đó đạo
quân kỵ binh Pháp của tướng Murát cũng đã có mặt sau lưng quân Áo. Lâm
vào thế hoàn toàn tuyệt vọng, tướng Mark đầu hàng ngày 19-10.
Tại
Viên, người ta vẫn chưa hay biết về sự thảm bại ở Ulm. Sumâytơ đã tung
ra những tin tốt lành của đạo quân trên thực tế đã không còn tồn tại,
khiến cho ông được giới thiệu lên quần thần của vua Áo cũng như vua Nga.
Thậm chí khi tin thất bại về đến Viên và Mark đã bị nhà vua bắt giam mà
Sumâytơ vẫn còn lừa gạt và giữ được tín nhiệm một thời gian nữa. Đến
khi Sumâytơ lâm vào tình thế nguy hiểm, sắp bị bắt thì cũng là lúc tướng
Murát kéo quân vào Viên (ngày 13-11). Lúc này Sumâytơ mới lộ nguyên
hình là sĩ quan Pháp và được Napôlêông giao trọng trách Tổng ủy viên
cảnh sát thành Viên một thời gian ngắn. Nhưng chỉ trong thời gian ngắn
đó thôi ông cũng đã kịp đưa hàng loạt sách mang tư tưởng tiến bộ của các
nhà văn nổi tiếng Pháp như Vônte (Voltaire), Điđơrô (Didorot)… vào thủ
đô của nước Áo phong kiến cổ hủ.
Là một thống chế của Napoléon I.
Lannes nổi tiếng là một vị chỉ huy dũng cảm và tài năng, ông được coi
là một trong những thống chế thân cận nhất của Napoléon. Khi Lannes
chết, vị hoàng đế đã nói: "Ta phát hiện ra Lannes khi ông ấy chỉ là một kẻ tầm thường, ta mất Lannes khi ông ấy đã là một người vĩ đại" ("Je l'avais pris pygmée, je l'ai perdu géant").
Lanơ (Jean Lannes) | |
---|---|
Tiểu sử | |
Sinh | Lectoure, Pháp |
Mất | Lobau, Áo (trong Trận Aspern-Essling) |
Năm
1809, Sumâytơ được giữ chức Tổng ủy viên các lực lượng tác chiến của
Hoàng gia. Đây là đỉnh cao nhất về danh vọng trong sự nghiệp của ông.
Năm
1814, khi quân châu Âu Liên minh tràn vào nước Pháp, quân Áo đã không
quên mối thù cũ, đốt phá cả hai lâu đài của Sumâytơ. Ông đã không quỵ
lụy để lấy lòng kẻ chiến thắng như nhiều nhân vật cao cấp khác. Trong sự
kiện “Một trăm ngày”, khi Napôlêông từ đảo Elbe trở lại nắm quyền,
Sumâytơ đến Pari và tức khắc bị cơ quan phản gián của Phổ bắt giữ. Sau
khi chấm hết thời đại Napôlêông ở Oatéclô, ông mới được thả với khoản
tiền chuộc phải chịu khá lớn.
Khi
Lui XVIII lên ngôi, Sumâytơ đã khôn khéo tránh được sự trả thù của ông
vua này. Ra khỏi đời sống chính trị, ông cho tu sửa lại hai lâu đài, gả
con gái rất linh đình và làm phúc khá tốn kém. Ông quay về nghề kinh
doanh nhưng thua lỗ, phải bán cả hai lâu đài rồi mua một ngôi nhà nhỏ ở
quê hương Strasbourg. Cuối đời, Sumâytơ sống an bình, rất đúng mực, được
mọi người xung quanh tôn trọng. Để thanh minh trước những dư luận không
tốt về quá khứ của mình, ông cũng viết hồi ký và cho xuất bản. Sumâytơ
mất năm 1853, thọ 83 tuổi.
…
Ông là một trong 18 vị thống chế được thụ phong đầu tiên của Napoléon. Ney có biệt danh là Le Rougeaud ("tướng mặt đỏ") và được Napoléon cũng như các binh sĩ dưới quyền gọi là le Brave des Braves ("người dũng cảm nhất trong số những người dũng cảm").
Là một thống chế của Hoàng đế Napoléon I, được mệnh danh là Chim đại bàng đầu hói và được coi là một trong những tướng lĩnh xuất sắc nhất trong lịch sử quân sự Pháp. Trong các trận đánh Austerlitz đến Borodino, Davout đều đóng vai trò quyết định trong quân đội của Napoleon. Trận phòng thủ Hamburg của ông giữa các năm 1813 - 1814 được coi là một kiệt tác. Davout được xem là một vị thống soái quả cảm, thông minh và giỏi binh thư.
Nổi tiếng là một thống chế tài năng trên chiến trường và luôn cực kì
nghiêm khắc trong quân ngũ, đối phương thường gọi Davout là "Thống chế
thép" (The Iron Marshal). Trong khi binh tướng dưới quyền luôn
tuân phục, e sợ và kính nể ông, lực lượng của ông là đội quân được chăm
lo chu đáo nhất, có kỷ cương tốt nhất trong Đại quân của Hoàng đế Napoléon I.
Là một thống chế của Napoléon I.
Masséna được nhiều nhà sử học coi là một trong những chỉ huy bộ binh
xuất sắc nhất trong lịch sử quân sự Pháp, chính Napoléon đã nhận xét ông
là chỉ huy xuất sắc nhất của quân đội Đế chế Pháp. Nhờ thành tích trên
chiến trường, Masséna có biệt danh là "đứa con yêu quý của chiến thắng" (l'Enfant chéri de la Victoire).
(Còn tiếp)
----------------------------------------------------------------------------
Nây (Michel Ney) | |
---|---|
Tiểu sử | |
Sinh | Sarre, Đức |
Mất | Paris, Pháp |
Binh nghiệp | |
Phục vụ | Pháp |
Năm tại ngũ | 1787-1815 |
Cấp bậc | Thống chế Pháp |
Davu (Louis Nicolas Davout) | |
---|---|
Tiểu sử | |
Sinh | Annoux, Pháp |
Mất | Savigny-sur-Orge, Pháp |
Binh nghiệp | |
Phục vụ | Pháp |
Năm tại ngũ | 1788-1815 |
Cấp bậc | Thống chế Pháp |
André Masséna | |
---|---|
Tiểu sử | |
Sinh | Nice, Pháp |
Mất | Pháp |
Binh nghiệp | |
Phục vụ | Pháp |
Năm tại ngũ | 1775-1815 |
Cấp bậc | Thống chế Pháp |
(Còn tiếp)
----------------------------------------------------------------------------
Nhận xét
Đăng nhận xét