Thứ Sáu, 30 tháng 10, 2020

TT & HĐ - 21/l

                                          

                                      Bí ẩn của Trái Đất : TRỌNG LỰC | Khám phá vũ trụ

 

PHẦN II:     Nền tảng


" Triết học bắt đầu từ sự ngạc nhiên"
Arixtốt

“Chúng ta có thể mường tượng thế giới của thực tại như là một dòng nước ngầm; thế giới hiện tượng thì ở bề mặt; bên dưới nó chúng ta không nhìn thấy được. Các sự kiện ở tận đáy của dòng nước gây ra bọt và những xoáy nước ở bề mặt. Đó là những chuyển động bức xạ và năng lượng của cuộc sống chung của chúng ta, nó tác động tới các giác quan và do đó, kích thích trí óc chúng ta; ở bên dưới, dòng nước ngầm vẫn chảy”
(Sir James Jeans.)
 
“Triết học chân chính chỉ là triết học truyền đạt chính xác nhất tiếng nói của bản thân thế giới và được viết dưới những sự chỉ dẫn của thế giới” 
(Ph.Bêcơn)

“Tất cả mọi khoa học cần thiết hơn triết học, nhưng không một khoa học nào tốt hơn nó” 
(Arixtốt)

CHƯƠNG X: THÁI CỰC

"Có những chân lý tầm thường và có những chân lý lớn lao. Đối lập với chân lý tầm thường là hoàn toàn sai lầm. Đối lập với chân lý lớn lao cũng là chân lý." 

 Niels Bohr

Xã hội tồn tại nhờ niềm tin, và phát triển nhờ khoa học. 
 Henri Frederic Amiel

"Không có khoa học vì khoa học, không có nghệ thuật vì nghệ thuật. Khoa học nghệ thuật tồn tại để phục vụ xã hội, để làm con người hạnh phúc hơn, cao thượng hớn, có kiến thức phong phú hơn và có nhiều tiện nghi vật chất hơn trong đời sống... ".
Khuyết danh

“Nếu như ngay từ xa xưa vận mệnh khoa học nằm trong tay những người có bộ óc chính xác và chặt chẽ như tôi từng gặp ở một số nhà toán học hiện đại mà tôi rất trọng vọng, thì có lẽ khoa học đã chẳng thể tiến lên phía trước.”
L. Mandelstam
 
“Toán học là khoa học chính xác. Nhưng cũng vì thế nó cằn cỗi”.
F. Hegel
 
“Toán học không phải là một quyển sách chỉ gói gọn giữa các tờ bìa mà ng­ười ta chỉ cần kiên nhẫn đọc hết nội dung, toán học cũng không phải là một vùng mỏ quý mà ng­ười ta chỉ cần có thời gian để khai thác; toán học cũng không phải là một cánh đồng sẽ bị bạc màu vì những vụ thu hoạch; toán học cũng không phải là lục địa hay đại d­ương mà ta có thể vẽ chúng lại đ­ược. Toán học không có những giới hạn như­ không gian mà trong đó nó cảm thấy quá chật chội cho những khát vọng của nó; khả năng của toán học là vô hạn như­ bầu trời đầy các vì sao; ta không thể giới hạn toán học trong những quy tắc hay định nghĩa vì nó cũng giống như­ cuộc sống luôn luôn tiến hóa”.    
Cayley
 
“Toán học chỉ cho ta những ph­ương pháp hoặc những con đ­ường dẫn tới chân lý. Toán học làm cho những chân lý ấy khuất nhất trở thành minh bạch và phơi bày chúng ra tr­ước ánh sáng. Một mặt toán học làm giàu sự hiểu biết của chúng ta, mặt khác nó làm cho suy nghĩ của chúng ta thêm sâu  sắc”. 
  Sylvester
 
"Toán học như con chiến mã quí độc nhất vô nhị đưa ta qua những cuộc chiến ác liệt để giành những thành quả khoa học oai hùng hơn bao giờ hết! Nhưng nó cũng  là con ngựa bất kham đưa ta lạc vào Bát quái trận đồ của sự giả tưởng quá đà."
Ba Đá
 
 
 
 

(Tiếp theo)


***
Sự biểu diễn mối tương phản ảo - thực (cả tuyệt đối lẫn tương đối) và quá trình tổng hợp nó bằng số âm - dương kết hợp với ký hiệu “cộng” - “trừ” kể cũng rất hay vì đã nói lên được nhiều điều của tư tưởng. Tuy nhiên cách biểu diễn ấy lại gợi cho chúng ta cái cảm giác Vũ Trụ có vẻ rời rạc, chỉ là sự gắn kết giản đơn, siêu hình của các sự vật - hiện tượng, cũng như của các hạt KG.
Toán học bắt đầu chất phác từ sự đếm. Sự phong phú và “rất nhiều” về số lượng thể hiện trong thực tiễn đã làm cho quá trình đếm đơn điệu không thể thỏa mãn được, đòi hỏi phải có những phương thức đếm mới hiệu quả hơn. Từ đó mà hệ cơ số đếm ra đời. Con người không tùy tiện xây dựng nên số đếm để vui chơi, thờ cúng mà là do yêu cầu tất yếu của đời sống kiếm ăn. Lối sống bầy đàn rồi hình thức kiếm ăn cộng đồng đã nảy sinh những yêu cầu về sự tổng kết và phân phối, thêm và bớt, xác định những số lượng chưa biết (gọi là ẩn số). Sự phát triển của số đếm và những yêu cầu nêu trên đã là tiền đề cho những phép toán cộng, trừ ra đời và trở thành cơ sở hình thành nên mọi phép toán toán học. Các phép tính cộng và trừ tất yếu phải dẫn đến việc xuất hiện các số âm, số dương và số 0. Nhờ có sự xuất hiện số âm, số dương và số 0 mà toán học đã có một bước phát triển đột biến (hay còn gọi là cách mạng), đạt được những thành tựu to lớn và không còn chất phác nữa. Tuy đã đạt được những thành tựu vĩ đại nhưng do việc nhận thức chưa thấu triệt về thực tại mà quan niệm cũng như qui ước về số âm, số dương và số 0 vẫn còn những khuất tất, chưa thỏa mãn thực tại. Những khuất tất ấy còn tồn tại tiềm tàng đến ngày nay.
Khi nói đến phân định thì phải nhớ đến tương phản vì tương phản là đặc tính của phân định. Nhờ có tương phản mà có sự so sánh phân biệt được. Không phân biệt được thì cũng không thấy tương phản. Người phương Đông dùng khái niệm âm và dương để biểu hiện hai mặt, hai yếu tố, hai lực lượng… có tính đối nghịch nhau, tương tự (nhưng không hẳn tương tự) như khái niệm "mâu thuẫn" của người châu Âu. Tương phản có vẻ đối nghịch nhau nhưng không bài bác nhau, mà trái lại, là tiền đề tồn tại của nhau, chuyển hóa qua lại lẫn nhau, là hai mặt của một tồn tại thống nhất. Có lẽ không phải là tình cờ, ngẫu nhiên mà chính là tất yếu, định mệnh đã phó thác cho các ký hiệu “+”, “-” vừa đảm đương vai trò “thêm”, “bớt”, vừa biểu hiện tính “âm”, “dương” của các con số, và vì thế mà toán học trở nên hợp lý, đẹp đẽ một cách vừa dung dị, chắc nịch, quắc thước mà cũng vừa huyền ảo, mông lung và kỳ bí vô song.
Có thể dùng khái niệm âm - dương để chỉ sự tương phản nói chung và cũng có thể dùng nó để chỉ sự tương phản ảo - thực nói riêng. Có hai loại tương phản: tương phản thường và tương phản ảo - thực. Loại tương phản nào cũng có tương phản tổng hợp (hoặc tích hợp) hoàn toàn và không hoàn toàn. Nói đến tương phản thì phải nói đến gốc qui chiếu của sự tương phản. Gốc qui chiếu của tương phản âm - dương có thể mang tính âm, tính dương hoặc trung tính. Do đó mà có khái niệm tương phản hoàn toàn hay không hoàn toàn. Tương phản hoàn toàn là tương phản qua gốc O. Chú ý rằng tương phản là đặc tính khách quan của Tồn Tại được gọi là âm - dương nên đừng đặt cược hoàn toàn vào khái niệm âm - dương vì đó chỉ là nhãn mác qui ước, mà nhãn mác thì… (biết rồi, khổ lắm, nói mãi!).
Một cách trực quan thì trục số âm – dương (hình) 37/a là sự mô tả “tuyệt hảo” về hai thế giới tương phản ảo - thực tuyệt đối, tất cả các số âm và dương có lực lượng tương ứng đều tương phản hoàn toàn qua gốc O và bản thân hai thế giới ấy cũng tương phản hoàn toàn qua gốc O. Nói thế có nghĩa là nếu chúng ta có một số đếm bất kỳ là A; ở thế giới dương nó sẽ là (+A) và ở thế giới âm nó sẽ là (-A). (+A) và (-A) lập nên sự tương phản ảo - thực hoàn toàn. Sự tổng hợp tương phản của (+A) và (-A) sẽ có kết quả là số 0. Toán học biểu diễn điều tổng quát đó, như chúng ta đã trình bày là:
              (+A) + (-A) = 0
Nhưng đứng ở vị trí nào để có thể thiết lập biểu thức toán học đó? Chỉ có thể là đứng ở “cửa giữa” vì trục số đã phân định rạch ròi ra hai thế giới. Trong thế giới dương không thể xuất hiện số âm và ngược lại, trong thế giới âm không thể xuất hiện số dương. Chúng ta sẽ thấy điều khẳng định này rất rõ khi thay dấu + (sự thêm vào) bằng dấu – (sự bớt đi).
          (+A) – (-A) = +2A
Viết được như thế thì cũng viết được:
          (-A) – (+A) = -2A
Vì (+A) và (-A) đứng “một mình ên” nên:
          (+2A) = (-2A) = 2A
Một quá trình đầy mâu thuẫn! Nào phải thế đâu, đó chính là sự diễn giải làm bộc lộ ra chân lý! Một số (đếm) dương (hoặc âm) bị bớt đi một số (đếm) âm (hoặc dương) thì có nghĩa là bớt đi “cái sự bớt đi” và như thế là phải thêm vào một số dương (hoặc âm) tương ứng.
Như vậy, khi đứng ở “cửa giữa” và làm bài toán “bớt đi”, tùy thuộc vào vị trí của (+A) và (-A) mà chúng ta có lần lượt hai nghiệm là +2A và -2A. Đó là hai kết quả tương phản nhau và do đó, hai phép toán (nêu trên!) tạo dựng ra chúng cũng tương phản nhau. Vì tương phản nhau nên có thể đặt từng phép tính vào từng thế giới âm hoặc dương một cách tương ứng, cụ thể:
(+A) – (-A) vào thế giới dương: (+A) – (-A) = +A + (+A) = +2A
(-A) – (+A) vào thế giới âm     : (-A) – (+A) = (-A) + (-A) = -2A
Tuy nhiên, đứng ở cửa giữa thì không thể thấy được 2A ở trong hai thế giới ấy mà may ra chỉ có thể thấy ở thế giới “cửa giữa”, thế giới trung tính. Đã là trung tính thì cũng là thế giới của số 0. Thế là sự không có gì không phải là không có gì mà là thế giới thứ ba!
Phép toán: (+A) + (-A) = 0 đang rất hiển nhiên, dễ hiểu, không cần chứng minh và chẳng có gì phải bàn cãi bỗng trở nên mù mờ, huyền bí. Số 0, tưởng là “đồ bỏ đi” hóa ra là thứ “quí hóa quá”. Vậy 0 là bằng bao nhiêu?
Khi đưa về thế giới trung tính thì dấu tương phản sẽ mất đi, nghĩa là +A = -A = A. Cho nên:
               A + A = 2A ==> 0 = 2A
Thế nhưng trong thế giới trung tính (cửa giữa), đã có sự thêm thì cũng phải có sự bớt, hay phải có:
               A – A = 0
Số 0 này là số 0 gì? Hay lại có một thế giới thứ tư nữa?
Bây giờ, nếu chúng đứng ở thế giới dương (hoặc âm) thì sẽ thấy +2A (hoặc -2A) là 2A (vì đứng một mình ên!) và thế giới mà ta đang đứng trở thành trung tính. Nhìn sang thế giới cửa giữa, chúng ta có thấy được A + A = 2A không? Nếu thấy được như thế thì nó cũng thuộc thế giới mà chúng ta đang đứng, còn nếu không, nó phải thuộc về thế giới còn lại (trái dấu với thế giới này thì phải đồng dấu với thế giới kia!) và mất đi sự trung tính của nó. Như vậy, một thế giới đồng thời có thể là thế này, có thể là thế khác, giữa chúng từng đôi một vừa có thể phân biệt được, vừa không thể phân biệt được và cả ba thế giới đều trung tính …
Còn một vấn đề đáng quan tâm nữa về vị trí cửa giữa là nếu đứng ở đó quan sát hai thế giới âm và dương (mà trực quan hơn là nhìn trục số hình 37/a) thì sẽ như chúng ta đã trình bày, phải thấy điều này:
             
Và nếu chuyển sang thế giới thứ ba thì cả hai “bất đẳng thức” đó sẽ tương đương với:
              3 > 2 > 1 > 0
Vì nếu không như thế, sẽ mất đi tính tương phản hoàn toàn của trục số và đồng thời cũng mất luôn tính khách quan của trục số đối với “cửa giữa”.
Viết như thế sẽ suy ra hiện tượng:
            
là điều trái với quan niệm toán học: số 0 phải lớn hơn bất kỳ số âm nào, và cho rằng:
      
(số 0 là số nhỏ nhất của số dương. Vậy thì nhỏ hơn số 0 phải là số âm - số ảo của số dương)
Quan niệm như vậy vừa trái với quan sát của “cửa giữa” vừa xuất hiện nghịch lý:
             
Số lớn hơn số thì khi thêm vào cho nó  lại chỉ bằng ?
Và đặc biệt là sự đếm ở trong thế giới ấy xảy ra như thế nào?

Hay để dung hòa giữa cửa giữa với toán học, viết thế này:
            
(Nghĩa là là số âm lớn nhất của các số âm nhưng vẫn nhỏ hơn số 0!)? …
Nói chung là vẫn còn nhiều bí ẩn nữa để mà đặt câu hỏi. Nhưng thôi, thế cũng là đủ cho chúng ta thấy một khối mâu thuẫn tổ chảng như trái núi lù lù ở trước mặt rồi.
Để bảo toàn những phép tính (đúng đắn) đã nêu của toán học; để cho những quan niệm về Vũ Trụ của NTT không hoàn toàn vô tích sự đến nỗi vứt sọt rác và cũng để cho Vũ Trụ không bị “nát vụn” bởi cách nhìn siêu hình độc địa của con người, chúng ta phải làm một cuộc thỏa thuận là lồng ba thế giới nói trên vào nhau thành một Vũ Trụ duy nhất; vừa là tuyệt đối khách quan vừa là tương đối chủ quan, vừa là sự thể hiện của hai thế giới âm - dương bằng vạn vật - hiện tượng vận động, chuyển hóa, sinh ra và mất đi không ngừng, vừa là sự thể hiện của thế giới trung tính, đóng vai trò trung dung, nền tảng.
Làm như thế có nghĩa là trả Vũ Trụ về với trạng thái Tự Nhiên vốn dĩ của nó. Lúc đó khối núi mâu thuẫn cũng tự nhiên biến mất, để lộ ra viên ngọc bích sáng ngời chân lý mà Lão Tử đã tác tạo từ 2500 trước: “Đạo sinh ra một, một sinh ra hai, hai sinh ra ba, ba sinh vạn vật. Vạn vật đều cõng âm và ôm dương, điều hòa bằng khí trùng hư”; “Nhìn không thấy gọi là di, nghe không thấy gọi là hi, nắm không được gọi là vi. Ba cái đó (tức vô sắc, vô thanh, vô hình) truy cứu đến cùng cũng không biết gì được, chỉ thấy trộn lộn làm một thôi. Ở trên không sáng, ở dưới không tối, thâm viễn bất tuyệt, không thể gọi tên, nó lại trở về cõi vô vật, cho nên bảo là cái trạng không có hình trạng, cái tượng không có vật thể. Nó thấp thoáng, mập mờ. Đón nó thì không thấy đầu, theo nó thì không thấy đuôi”
Thực ra mà nói, nếu Vũ Trụ phân định thành ba thế giới riêng biệt: Thiên đường (dương), Địa ngục (âm) và Trần gian (trung tính) như đã giả định thì không thể từ thế giới nào đó nhìn thấy được hai thế giới kia vì thế giới nào cũng tự cho mình trung tính và nếu nhìn thấy một thế giới khác nó thì “cảm giác trung tính của nó không còn nữa; cảm giác “thực” của nó không còn nữa. Cũng vì thế mà ở mỗi thế giới cũng không thể xuất hiện số âm, số dương hay đồng thời cả hai số đó mà chỉ có thể tồn tại số đếm tự nhiên. Quá trình thêm hay bớt (số học) ở cả ba thế giới đều đồng nhất và đơn thuần chỉ là các phép toán cộng, trừ giữa các số tự nhiên. Khi gặp phải bài toán 2-3=? Thì các nhà toán học xuất sắc nhất ở cả ba thế giới đều bó tay vì nó vô nghiệm!
Khi Vũ Trụ là “ba trong một” thì ngoài số tự nhiên, việc tồn tại các số âm, số dương là điều hoàn toàn bình thường và hơn nữa, là một tất yếu. Đó là một thế giới “thực”, có đặc tính tương phản âm - dương, và vì dương được quan niệm như sống động, nổi trội, bày hiện nên nó mang tính “rất thực”, được coi như thực, dẫn đến coi số dương là tương đương, là đồng tính với số thực (ở đây, chúng ta gọi số tự nhiên là số thực). Trong thế giới này các phép toán cộng trừ được mở rộng, tạo đà cho toán học thăng hoa để trở thành một kim tự tháp sáng tạo, kỳ vĩ bậc nhất của trí tuệ loài người, nhưng đồng thời, sự sắc sảo, quắc thước đến phi thường của nó cũng làm cho nó trở nên siêu hình bậc nhất!
Đối với thế giới “ba trong một” thì sự biểu diễn tương phản ảo - thực bằng trục số 37/a cùng với những phỏng đoán suy ra từ nó đã giảm sức thuyết phục đi rất nhiều bởi sự khiên cưỡng.
Với quan niệm Vũ Trụ là hữu hạn nhưng vô biên; có trong mà cũng có ngoài, vừa là cả hai mà cũng không phải cả hai, thì Vũ Trụ có thể được tượng trưng như đường tròn ở hình 38/a. Một cách siêu hình, ở đây, chúng ta cho rằng tập hợp các hạt KG và hạt KG là đơn vị của số đếm thì Vũ Trụ gồm tổng số N các hạt KG được gọi là Vũ Trụ số đếm. Vậy, chúng ta coi đường tròn hình 38/a là Vũ Trụ các số đếm. Khi chúng ta bước đi thẳng đều, hoàn toàn tự nhiên (tuân theo định luật I Niutơn!) trong Vũ trụ thì có nghĩa là ta đang đi trên đường tròn ấy về một phía. Nếu mỗi bước đi là qua một hạt KG và chúng ta đếm thì khi đi hết vòng tròn, sẽ đếm được N hạt KG. Biết được điều này là vì chúng ta dùng bút tạo dựng ra Vũ Trụ và, như một gã khổng lồ, nhìn thấy toàn bộ từ bên ngoài! Còn nếu ở trong Vũ Trụ ấy? Chúng ta sẽ chẳng thấy gì cả ngoài cái bao la mịt mùng đến ghê người và những ngôi sao lưu lạc, cô đơn.
Chúng ta nói đi về một phía, vậy không gian Vũ Trụ có mấy phía, hay hỏi rõ hơn là mấy chiều? Người ta nói là có vô số chiều, và thực tại rõ ràng cũng cho ta cảm thấy được điều đó. Nhưng thực tại của chúng ta là thực tại ở tầng qui mô lớn. Chúng ta không thể áp đặt sự nhận biết đó cho tầng có kích cỡ hạt KG được vì chúng ta chưa có bất cứ kinh nghiệm nào ở đó cả. Đối với Vũ Trụ đường tròn hình 38/a, trực giác mách bảo rằng chúng ta đi trên một con đường “chật hẹp cùng cực” để chỉ “tiến” hoặc “lui” chứ không thể “tung hoành ngang dọc” được và nếu không thể xoay người được thì chỉ có thể có một chiều duy nhất là tiến lên. Rất có thể thực tại ở giới hạn là đúng như thế vì theo ý niệm về đơn vị của chúng ta thì đơn vị của số đếm chiều phải là 1.
Vì thế giới “ba trong một” cũng là thế giới tương phản ảo - thực nên đơn vị của chiều cũng phân định thành hai chiều ảo - thực (hay âm - dương). Đi theo chiều nào thì cũng là chiều thực mà trong phân định tương phản thì được lựa chọn là chiều dương và chiều còn lại là chiều âm (hay ảo). Nhưng nếu quan sát toàn bộ đường tròn thì chiều ở bất cứ điểm nào cũng phải khác toàn bộ các chiều của các điểm khác và vì Vũ Trụ có N điểm (hạt KG) nên nó cũng có N chiều.
Tại bất cứ điểm nào trên đường tròn đó cũng là điểm phân định ảo - thực một khi chúng ta qui ước nó là gốc O. Khi đã xác định gốc O qui ước và chúng ta ra đi từ đó để “đếm” hạt KG thì đi theo chiều nào trong hai chiều ảo - thực, chúng ta cũng coi là chiều dương và 1 là số đếm dương nhỏ nhất. Chiều ngược lại là chiều âm và  là số đếm âm nhỏ nhất. Chúng ta đi và số đếm lớn dần, sau một khoảng thời gian khá lâu nào đó, số đếm sẽ trở nên một số lớn “khủng khiếp”. Tuy nhiên dù số đếm có lớn mấy chăng nữa thì hạt KG ứng với số đếm ấy vẫn là hạt KG, chẳng to hơn chút nào. Điều đó cho thấy số đếm vô cùng lớn không có nghĩa là chúng ta đến với vô cùng lớn của Vũ Trụ. Lớn ở đây có nghĩa là nhiều và vô cùng lớn (ký hiệu là VCL) có nghĩa là nhiều vô kể. Không dễ dàng gì đi từ vô cùng bé (ký hiệu VCB) là hạt KG đến VCL là Vũ Trụ hoặc ngược lại! Thậm chí là bất khả! Cách nói đi từ VCB đến VCL hay ngược lại là cách nói không chính xác, gây ngộ nhận. Đi từ VCB đến VCL là “bỏ lại đằng sau” cái VCL để về VCB và ngược lại.
Xuất phát từ gốc O để đi đếm hạt KG, chúng ta sẽ phải đi đến vô cùng xa, tốn vô cùng lâu thời gian, với chặng đường vô cùng dài, và đếm được vô số hạt KG. Chính từ những kinh nghiệm đó mà chúng ta nhận thức được Vũ Trụ là VCL.Vậy muốn đếm được hết hạt KG, chúng ta phải đi đến tận cùng Vũ Trụ. Nếu không phải đếm hạt KG thì có con đường tắt (đường ngắn nhất) nào đến tận cùng Vũ Trụ sớm nhất không? Có thể đi vào phía trong đường tròn được không? Nếu ta đi “tạt ngang” qua phía trong đường tròn thì vì Vũ Trụ có trong cũng như là ngoài hoặc không phải trong cũng không phải ngoài nên cũng chính là đi trên đường tròn mà thôi. Đường tròn là độc đạo dẫn chúng ta đến tận cùng Vũ Trụ. Do đó để đến được tận cùng Vũ Trụ, chúng ta phải đồng thời đếm hết số lượng hạt KG. Lạ thay, khi đếm đến N hạt KG thì chúng ta đến điểm tận cùng Vũ Trụ và điểm đó chính là gốc O: đi xa có nghĩa là trở về! Điểm O là khởi đầu và cũng là kết thúc của cuộc hành trình đếm hạt KG. Vì điểm O là qui ước cho nên có thể chọn bất cứ điểm nào làm điểm gần nhất và đồng thời cũng xa nhất trong Vũ Trụ! Khi đã “bước ra” khỏi một điểm KG, vì chỉ có một chiều độc đạo thôi, nên muốn trở về điểm đó phải đi trên một con đường không xa mà cũng chẳng gần, nhưng trước cặp mắt trần tục thì đó là con đường xa nhất tuyệt đối.
Từ hình 38/a cho thấy, tại bất cứ điểm nào trên đường tròn cũng vừa là thực, vừa là ảo, hay nói chính xác hơn là tại mỗi hạt KG đều tồn tại mối tương phản ảo - thực tuyệt đối nhìn từ bên trong Vũ Trụ và khi xảy ra sự tổng hợp tương phản tại đó thì cho kết quả đúng bằng lực lượng Vũ Trụ (N): Chẳng hạn:
                
Ngoài ra, hình 38/a còn cho chúng ta thấy: đi từ 0 đến (hay cũng là ) thì cũng có nghĩa là đi từ đến 0 và ngược lại.
Từ quan niệm về thế giới “ba trong một”, chúng ta đã đi đến một khám phá bất ngờ, rất dễ gây ra sự nguyền rủa đời đời, nhưng cũng có thể là vinh quang bất diệt. Khám phá đó đã giải thích được vì sao mà trên Trái Đất này xảy ra đủ mọi thứ chuyện như thế, với biết bao nhiêu nỗi đời từ hạnh phúc vô biên đến đau khổ tột cùng như thế.
Khám phá đó là: Tạo Hóa đã tạo dựng ra ba thế giới cho Trái Đất là Thiên đường, Địa ngục, Trần gian và đã lồng chúng vào nhau. Trên cơ sở lấy thế giới Trần gian làm trung dung, nền tảng, và tuân theo nguyên tắc tổng hợp tương phản:
Thiên đường + Địa ngục = Trần gian
Vậy không cần đi đâu xa, ở ngay Trần gian thôi, chúng ta cũng có thể rơi vào Địa ngục hoặc lạc đến Thiên đàng.

Nhưng điều căn bản là để tránh né khỏi cuộc sống trong cảnh Địa Ngục và an hưởng hạnh phúc trong cõi Thiên Đàng, thì con người phải làm như thế nào? Đứa thì bảo phải đi ăn cướp, thằng thì bảo phải đi ăn trộm, gã thì cho là phải có một ông vua hiền, cha thì nói cứ để Đại chúng sống tự nhiên, ngài thì đòi dùng sức mạnh đi khai hóa văn minh, ông lại chủ trương nên bất bạo động, thoát tục, lão thì nói phải tăng cường rao giảng đức tin, người thì hô hào đấu tranh giai cấp, giành chính quyền về tay nhân dân… Thế rồi sao? Chẳng sao cả! Trần gian vẫn như thế, ỳ ạch vác “hai ông bạn” tương phản nhau trên lưng, lúc nào cũng chí chóe nhau gây đủ cả buồn khổ, lầm than lẫn lộn với vui sướng, phỡn phè; chính quyền nào thì cũng là con đẻ của nhân dân nhưng hầu hết chính quyền đều là những đứa con không hoàn hảo, thậm chí là hư đốn, bất hiếu, tưởng mình là cha thiên hạ!
Và nỗi trằn trọc vạch vẽ thành câu hỏi lớn trên trời xanh, muôn đời vẫn còn đó, chưa được giải đáp!...
(Còn tiếp)
------------------------------------------------------------------
            


Xem tiếp...

MUÔN MẶT ĐỜI THƯỜNG I/906

(ĐC sưu tầm trên NET)

 
Bản tin 113 Online cập nhật hôm nay | Tin tức 24h mới nhất ngày 29/10/2020 | ANTV
 
Thời Sự Quốc Tế Mới Nhất Sáng Ngày 30 Tháng 10 Năm 2020
 
Tin tức | Chào buổi sáng ngày 30/10 | Tin tức mới nhất hôm nay
 
Chiếc Khăn Tay - Cẩm Ly

 



 

Quảng Nam: Cứu được 33 người trong vụ sạt lở ở xã Trà Leng | VTC Now

VTC NOW

Tìm thấy 11 thi thể trong vụ sạt lở đất vùi lấp 53 người Quảng Nam | VTC16

KÊNH VTC16
Charles Darwin cũng thực hành ...

 

Xem tiếp...

Thứ Năm, 29 tháng 10, 2020

TT & HĐ - 21/k

                                           

                                             Top 5 Nghịch Lý Hại Não Nhất Mọi Thời Đại

 

PHẦN II:     Nền tảng


" Triết học bắt đầu từ sự ngạc nhiên"
Arixtốt

“Chúng ta có thể mường tượng thế giới của thực tại như là một dòng nước ngầm; thế giới hiện tượng thì ở bề mặt; bên dưới nó chúng ta không nhìn thấy được. Các sự kiện ở tận đáy của dòng nước gây ra bọt và những xoáy nước ở bề mặt. Đó là những chuyển động bức xạ và năng lượng của cuộc sống chung của chúng ta, nó tác động tới các giác quan và do đó, kích thích trí óc chúng ta; ở bên dưới, dòng nước ngầm vẫn chảy”
(Sir James Jeans.)
 
“Triết học chân chính chỉ là triết học truyền đạt chính xác nhất tiếng nói của bản thân thế giới và được viết dưới những sự chỉ dẫn của thế giới” 
(Ph.Bêcơn)

“Tất cả mọi khoa học cần thiết hơn triết học, nhưng không một khoa học nào tốt hơn nó” 
(Arixtốt)

CHƯƠNG X: THÁI CỰC

"Có những chân lý tầm thường và có những chân lý lớn lao. Đối lập với chân lý tầm thường là hoàn toàn sai lầm. Đối lập với chân lý lớn lao cũng là chân lý." 

 Niels Bohr

Xã hội tồn tại nhờ niềm tin, và phát triển nhờ khoa học. 
 Henri Frederic Amiel

"Không có khoa học vì khoa học, không có nghệ thuật vì nghệ thuật. Khoa học nghệ thuật tồn tại để phục vụ xã hội, để làm con người hạnh phúc hơn, cao thượng hớn, có kiến thức phong phú hơn và có nhiều tiện nghi vật chất hơn trong đời sống... ".
Khuyết danh

“Nếu như ngay từ xa xưa vận mệnh khoa học nằm trong tay những người có bộ óc chính xác và chặt chẽ như tôi từng gặp ở một số nhà toán học hiện đại mà tôi rất trọng vọng, thì có lẽ khoa học đã chẳng thể tiến lên phía trước.”
L. Mandelstam
 
“Toán học là khoa học chính xác. Nhưng cũng vì thế nó cằn cỗi”.
F. Hegel
 
“Toán học không phải là một quyển sách chỉ gói gọn giữa các tờ bìa mà ng­ười ta chỉ cần kiên nhẫn đọc hết nội dung, toán học cũng không phải là một vùng mỏ quý mà ng­ười ta chỉ cần có thời gian để khai thác; toán học cũng không phải là một cánh đồng sẽ bị bạc màu vì những vụ thu hoạch; toán học cũng không phải là lục địa hay đại d­ương mà ta có thể vẽ chúng lại đ­ược. Toán học không có những giới hạn như­ không gian mà trong đó nó cảm thấy quá chật chội cho những khát vọng của nó; khả năng của toán học là vô hạn như­ bầu trời đầy các vì sao; ta không thể giới hạn toán học trong những quy tắc hay định nghĩa vì nó cũng giống như­ cuộc sống luôn luôn tiến hóa”.    
Cayley
 
“Toán học chỉ cho ta những ph­ương pháp hoặc những con đ­ường dẫn tới chân lý. Toán học làm cho những chân lý ấy khuất nhất trở thành minh bạch và phơi bày chúng ra tr­ước ánh sáng. Một mặt toán học làm giàu sự hiểu biết của chúng ta, mặt khác nó làm cho suy nghĩ của chúng ta thêm sâu  sắc”. 
  Sylvester
 
"Toán học như con chiến mã quí độc nhất vô nhị đưa ta qua những cuộc chiến ác liệt để giành những thành quả khoa học oai hùng hơn bao giờ hết! Nhưng nó cũng  là con ngựa bất kham đưa ta lạc vào Bát quái trận đồ của sự giả tưởng quá đà."
Ba Đá
 
 
 
 

(Tiếp theo)


***
Sự tương phản ảo - thực hoàn toàn qua gốc O (nghĩa là theo cách biểu diễn âm - dương) là sau khi tổng hợp tương phản, sẽ đưa ra kết quả là 0. Chúng ta đã từng nói như thế phải không nhỉ?
Nếu đã nói như thế thì tại sao chúng ta còn nói sự tổng hợp tương phản của hai lực lượng ảo thực là không bao giờ bằng 0 được vì tồn tại vẫn còn đó?
Sở dĩ nói “lung tung” và có vẻ tâm thần như vậy là vì mối tương phản ảo thực có tính hai mặt: tuyệt đối và tương đối. Khi chúng ta quan niệm cực đoan hóa Vũ Trụ thì Vũ Trụ là có biên, nghĩa là có trong Vũ Trụ và ngoài Vũ Trụ. Khi quan sát Vũ Trụ từ bên ngoài, chúng ta sẽ thấy sự tuyệt đối của mối tương phản ảo - thực và khi sự tổng hợp tương phản xảy ra, sẽ có một kết quả là O: Vũ trụ biến mất tiêu! Cái O ấy chính là khoảng mà trước đây Vũ Trụ đã chiếm chỗ, giờ đây đã thành bộ phận của thế giới “ngoài Vũ Trụ”.
Như chúng ta đã “qui định” cho Vũ Trụ là hữu hạn nhưng vô biên, nên sẽ chẳng có cái gọi là bên ngoài Vũ Trụ được, do đó dù là thực sự tồn tại mối tương phản ảo - thực tuyệt đối thì cũng không bao giờ xảy ra sự tổng hợp tương phản để tạo ra kết quả là ngoài Tồn Tại, cũng có nghĩa là tạo ra Hư Vô được.
Ngày xưa, do không phân biệt được giữa tồn tại nền tảng và hiện thực, người ta đã cho rằng nếu không hiện hữu (đồng nghĩa với tồn tại!) thì chỉ có thể là hư vô. Chúng ta thấy rằng đó là một quan niệm đúng nếu đặt nó trong qui ước và hiểu rằng sự đúng ở đây chỉ là tương đối. Quan niệm tương đối ấy tương tự với quan niệm tuyệt đối: không Tồn Tại thì cũng chính là Hư Vô. Rõ ràng là hai quan niệm đó có vẻ giống nhau nhưng hoàn toàn khác nhau về bản chất. Hơn nữa phát biểu về quan niệm gọi là tuyệt đối nêu trên là chưa đầy đủ. Sự phát biểu hoàn chỉnh phải là: không Tồn Tại thì cũng chính là Hư Vô, nhưng Hư Vô thì vẫn là Tồn Tại, rốt cục thì cũng chẳng Tồn Tại mà cũng chẳng Hư Vô, chỉ vỏn vẹn là Vốn Dĩ Thế!
Khi cho rằng không hiện hữu là hư vô và chỉ có thế thôi, toán học đã đi đến quan niệm cực đoan về thực tại và tương tự như đứng ngoài Vũ Trụ để quan sát Vũ Trụ, đã tuyệt đối hóa hiện hữu và hư vô để rồi nhìn thấy một cách cực đoan, phiến diện mối tương phản ảo - thực cũng như sự tổng hợp tương phản của nó. Khi toán học hô: “trừ bảy” thì -7 hiện hữu; khi hô: “cộng bảy” thì +7 hiện hữu. Đó là hai hiện hữu mà một là “thật thà” một là “giả dối”. Khi toán học hô tiếp: “tổng hợp” thì ngay lập tức hai hiện hữu đó biến mất và chỉ còn lại hư vô. Để biết được “đó” là hư vô thì lại phải ký hiệu, cho nên toán học không còn cách nào khác lại phải cho xuất hiện số 0 - một hiện hữu được gọi là “hư vô” (!!!). Và toán học hồn nhiên viết:
(-7) + (+7) = 0
Giả sử có một bàn cân như mô tả ở hình 39. Chúng ta đặt lên mỗi đĩa cân một quả cân nặng 10 kg. Như vậy hai quả cân đó nằm ở những vị trí tương phản nhau qua trục trung tâm của bàn cân. Toán học lý giải thế nào về hiện tượng này? Vì hai quả cân là tương phản nhau (về vị trí) nên toán học cho rằng đó là hai hiện hữu (tồn tại) quan hệ với nhau qua trục cân một cách tương phản, nếu quả này được gọi là “dương” thì quả kia phải gọi là “âm”. Từ đó toán học cho rằng:
-         Tổng của hai quả cân là:
10kg + 10 kg = 20 kg
-         Vì cân ở trạng thái cân bằng (kim chỉ số 0) nên:
(+10 kg) + (-10 kg) = 0 kg
Nếu hiểu theo chúng ta thì:
Nhìn ở góc độ thực thể, hệ thống hay một khối thống nhất, thì cách mô tả nào gần với hiện thực hơn?
Hình 39: Bàn cân
Ảo - thực là trường hợp riêng của tương phản nói chung. Thí dụ trên dù sao cũng chưa làm sáng tỏ hoàn toàn được mối quan hệ ấy.
Chúng ta nêu thí dụ khác: sự soi gương. “Cái tôi” trong gương có phải là “cái tôi ngoài đời” không? Dứt khoát là không! Thế thì nó là cái gì của cái tôi ngoài đời khi nó phụ thuộc hoàn toàn vào sự hiện hữu trước gương của cái tôi ngoài đời? Nó là hình ảnh phản chiếu của cái tôi ngoài đời, là sự tạo dựng của nhiều lực lượng, nhiều yếu tố mà trong đó, cái tôi ngoài đời đóng vai trò quyết định. Hình ảnh ấy không phải là sự phản chiếu hoàn toàn cái tôi ngoài đời mà chỉ là một phần (bề ngoài) nào đó của cái tôi ngoài đời (không linh hồn, không tư duy). Nó cùng với toàn bộ không gian trong gương, giống hệt cả về hình dáng lẫn hành vi của một bộ phận được chiếu lên gương của cái tôi và không gian ngoài gương, chỉ có điều là trái ngược (không phải là tất cả!) và có tính độc lập tách biệt tương đối đối với thế giới ngoài gương.
Cái thế giới được phản chiếu ra từ trong gương ấy có mang tính lực lượng không? Trước hết, chúng ta cho rằng nó hiện hữu vì chúng ta thấy nó một cách trực giác. Hiện hữu là sự thể hiện của tồn tại mà tồn tại thì phải mang tính lực lượng. Mặt khác, sự phản chiếu là kết quả của tác động và phản ứng của hai hay nhiều lực lượng đối với nhau. Không có lực lượng là cái gương, cái tôi và không gian bên ngoài gương thì không có thế giới trong gương. Cụ thể là không có một lực lượng gương “cưu mang” thì thế giới trong gương không xuất hiện được. Do đó cần phải cho rằng thế giới trong gương là có tính lực lượng. Nghĩa là phải đi đến khẳng định: thế giới trong gương là một hiện thực, là sự thể hiện ra trước quan sát của những tồn tại cũng như sự vận động chuyển hóa giữa chúng mà quan sát không nhận diện được và gọi là nền tảng.
Tuy nhiên cái thế giới khách quan trong gương (mang tính chủ quan của gương) lại có một đời sống phù du, bấp bênh, không bền. Nó mất đi thì thế giới khách quan ngoài gương vẫn còn đó nhưng khi thế giới ngoài gương mất đi (không hiện hữu trước gương nữa!) thì nó không thể nào “còn đó” được. Sự hiện hữu của cái tôi trong gương hoàn toàn phụ thuộc vào cái tôi ngoài gương!
Chúng ta gọi hiện tượng nói trên là sự tương phản ảo - thực. Thế giới của cái tôi ngoài gương được lựa chọn là thực, cho nên thế giới trong gương được gọi là ảo. Như vậy khi cái tôi thực đứng trước gương sẽ tạo nên thêm một cái tôi ảo. Nếu tổng hợp hai cái tôi tương phản nhau ấy thì chắc rằng toán học sẽ cho ra kết quả là hư vô:
(+cái tôi) + (-cái tôi) = 0,
và xét ở góc độ lực lượng thì có thể toán học cho rằng:
Cái tôi + cái tôi = 2 cái tôi
Hai cái tôi ấy cũng là hai cái tôi thực!
Còn quan niệm của chúng ta thì sao? Đối với chúng ta thì cái tôi trong gương không phải là cái tôi ngoài gương mà chỉ là sự phản chiếu một bộ phận nhất định, một phần bên ngoài nào đó của cái tôi ngoài gương. Dù vậy, cũng có thể qui ước một phần cái tôi là cái tôi. Cho nên chúng ta cũng có mối tương phản cái tôi ảo và cái tôi thực và kết quả tổng hợp tương phản là:
Hai cái tôi ấy, chẳng thể khác, cũng là hai cái tôi thực.
Thế là toán học và chúng ta đều là hai nhà ảo thuật “tài giỏi” như nhau vì đều có thể từ một cái tôi thực làm ra thêm một cái tôi ảo để rồi a lê… hấp, làm xuất hiện hai cái tôi một cách đồng thời không biết là thực hay ảo.
Tồn Tại là duy nhất và tồn tại cũng duy nhất với chính nó, do đó mà sự biểu hiện của tồn tại cũng duy nhất. Không thể từ một tồn tại lại biểu hiện đồng thời ra hai hiện hữu trước một quan sát được (lưu ý rằng một hiện hữu thì đồng thời có thể làm xuất hiện cùng lúc hai hay nhiều hiện hữu và được coi như là những hình ảnh khác nhau của nó, trong mối liên hệ với các hiện hữu khác nhưng đó thực ra cũng chỉ là tương đối, nằm trong sự qui ước). Nguyên lý Tự Nhiên nhìn trò ảo thuật ấy, lắc đầu ngao ngán!
Để không làm cho nguyên lý Tự Nhiên buồn phiền, cần phải phân trần rằng đó chỉ là… trò ảo thuật cho vui thiên hạ thôi chứ thực ra hai cái tôi ấy xuất hiện không đồng thời, hơn nữa chúng là thực mà cũng là ảo, vừa cả hai mà cũng không phải cả hai, tùy ở mức độ nhận thức và sự qui ước.
Nhờ có ánh sáng tác động vào cái tôi thực; cái tôi thực phản ứng tạo nên ánh sáng phản xạ từ nó tác động lên hệ quan sát ngoài nó và lên gương. Gương bị tác động nên cũng phản ứng tạo nên ánh sáng phản xạ tác động lên hệ quan sát. Nhờ thế mà hệ quan sát có được hai hình ảnh từ cái tôi thực, một là trực tiếp từ cái tôi thực, một là gián tiếp từ gương gọi là cái tôi ảo. Dù thực hay ảo thì cũng chỉ là hình ảnh của cái tôi thực cho nên lúc này muốn qui ước thế nào cũng được. Hơn nữa muốn quan sát được hai hình ảnh được cho là cái tôi thực và cái tôi ảo, thì sự tác động của ánh sáng từ hai “nguồn phản xạ” lên hệ quan sát phải có tính lần lượt về thời gian, cái này rồi mới đến cái kia, nếu không, sự đồng thời sẽ gây nên hiện tượng nhiễu loạn (tổng hợp tương phản?) và như thế sẽ thấy một cái gì đó “lộn xộn, loang lổ”, không ảo mà cũng chẳng thực, tạm gọi là “cái tôi vớ vẩn”.
Như vậy hoặc chỉ thấy một cái tôi (hoặc ảo hoặc thực) trong một đơn vị thời gian, với lực lượng (nền tảng) là bằng một cái tôi và vì ngay lúc đó không nằm trong mối tương phản nào cả nên cái tôi đó cũng là thực; hoặc thấy một cái gì đó không phải tôi ảo và cũng không phải tôi thực (nhưng cũng không hẳn như thế!) có lực lượng (nền tảng) bằng hai cái tôi, đó là một hiện hữu mới trên nền tảng lực lượng mới (gồm tổng hợp của hai luồng ánh sáng phản chiếu tới!) được đặt tên là “cái tôi vớ vẩn”, và dù có cái tên xấu như thế nhưng nó vẫn là hiện thực, vẫn là sự khó chối cãi được.
Tuy nhiên, nếu chỉ quan tâm đến hiện hữu và cho rằng thế giới của cái tôi ngoài gương là một hiện thực thì vì gương là một hiện hữu nằm trong hiện thực ấy nên thế giới trong gương không thể ngoài hiện thực được, nó cũng được coi là một bộ phận của hiện thực và mang tính ảo. Với quan niệm và qui ước như thế, sự mô tả toán học và của chúng ta đều đúng, với lưu ý rằng hai cái tôi hiện hữu đó thực chất đều chỉ là hình ảnh một phần bề ngoài nào đó của cái tôi trước một hệ quan sát từ ngoài cái tôi thực. (Hai hiện hữu ấy là thực vì đều có một nền tảng tồn tại thực sự). Dù sao, chúng ta cũng nhấn mạnh rằng trong trường hợp này, “cái tôi” chỉ là tên gọi của hai hiện hữu chứ không phải là cái tôi của hệ quan sát. Đối với hệ quan sát, chúng là những cái phi tôi (không phải tôi). Cuối cùng, khi hệ quan sát chính là mắt của cái tôi thực thì dù có nhìn thấy cùng một lúc hai hay vô vàn cái gọi là tôi thì chúng cũng chỉ là những hình ảnh khác nhau, những sự phản ánh khác nhau về một hiện hữu (nếu chỉ quan tâm đến hiện hữu) hoặc sâu sắc hơn, chúng là những biểu hiện của mối quan hệ phụ thuộc lẫn nhau của các sự vật - hiện tượng không hoàn toàn giống nhau, và sâu sắc hơn nữa, chúng chính là kết quả được tạo dựng bởi sự vận động, chuyển hóa lẫn nhau, đan xen nhau của những tồn tại ở tầng nền tảng (tầng mà quan sát chưa nhận thức được!)…
Thật là điên đầu bởi sự quá rối rắm! Nhưng biết làm sao khi trình độ giải bày của bộ não chúng ta bị giới hạn, đã cố hết sức nhưng cũng chỉ đạt được đến thế. Rất mong có những bộ não đồng cảm được, tài giỏi hơn bội phần, điều chỉnh sửa lại và diễn đạt mạch lạc, xác đáng hơn!...
Khi đưa ra thí dụ “Sự soi gương”, mục đích của chúng ta là muốn lột tả ra cái chân tướng đích thực của sự tương phản tuyệt đối ảo - thực. Sự tương phản qua gương thật sự đã dạy cho chúng ta nhiều điều bổ ích, đã giúp chúng ta hình dung ra phần nào mối tương phản tuyệt đối ảo - thực và có lẽ bản thân “sự soi gương” đã là một hiện tượng rất gần với hiện tượng tương phản ảo - thực tuyệt đối mà chúng ta đã “thấy” trong… hoang tưởng.

Nhưng hoang tưởng là ở trong thực tại nên cũng là một bộ phận (dù là nhỏ nhoi) của thực tại. Vì vậy mà sự tương phản ảo - thực tuyệt đối cũng mang tính thực tại; là hình ảnh của một hiện tượng có thực. Để xác định được sự tương phản nào là tương phản ảo - thực tuyệt đối, chúng ta cần thiết phải đưa ra những tiêu chí để đánh giá, hay còn gọi là những đặc tính của nó. Theo chúng ta thì đặc tính của sự tương phản ảo - thực tuyệt đối là: kết quả tổng hợp tương phản của nó sẽ là một Hư Vô (hư vô tuyệt đối).
Khi toán học viết (+7-7=0); với số 0 là ám chỉ Hư Vô và chỉ viết có thế thôi, thì toán học đã mô tả sự tổng hợp tương phản của ảo - thực tuyệt đối.
Nhờ qui ước, chúng ta có thể thấy được sự tổng hợp tương phản của ảo - thực tuyệt đối trong thực tại. Nhưng ngoài qui ước, không bao giờ có thể xảy ra sự tổng hợp tuyệt đối ấy trong Vũ Trụ, vì Tồn Tại không thể bị triệt tiêu để nhường chỗ cho Hư Vô được.
Như đã nói, nếu có bên ngoài Vũ Trụ thì sự quan sát từ đó mới thấy được Vũ Trụ là một tương phản ảo - thực tuyệt đối (nhưng muốn thấy được như thế thì sự tổng hợp tương phản của Vũ Trụ phải biết chờ đợi!).
Lúc đó, gọi lực lượng của Vũ Trụ là phân định thành lưỡng nghi ảo - thực là:
(Chẳng còn tí Vũ Trụ nào cả, một khối Hư Vô không phân định được với thế giới ngoài Vũ Trụ làm cho cái thế giới ấy cũng chẳng khác gì Hư Vô).
Nhưng giả sử cũng sự tổng hợp ấy nhưng quan sát từ trong Vũ Trụ thì có thấy Hư Vô không? Nhớ rằng quan sát chỉ có thể ở một trong hai thế giới ảo - thực (và vì lúc nào quan sát cũng lựa chọn mình là sự thực nên thế giới của nó cũng phải là thực, điều đó tương tự như chọn hư vô hay tồn tại tùy ý, nhưng nếu chọn hư vô thì cũng vẫn là tồn tại!). Không bao giờ có thể thấy Hư Vô được!
Trong trường hợp này, toán học khó mà diễn tả được!
Chúng ta sẽ thử áp dụng cách của mình để diễn tả cả hai trường hợp xem thế nào.
Khi quan sát từ ngoài Vũ Trụ, vì là hệ lưỡng nghi ảo - thực tuyệt đối nên bản chất của hai lực lượng phân định lưỡng nghi cũng tương phản tuyệt đối, nghĩa là gồm ; do đó sự tổng hợp tương phản sẽ là:
Vì  là duy nhất nên cũng chính là , do đó:
Khi quan sát từ trong Vũ Trụ, hai lực lượng tương phản của Vũ Trụ đều có bản chất duy nhất là Tồn Tại (ảo hay thực thì rốt cuộc vẫn là thực!); do đó chúng như nhau (tương tự như hai quả cân trong trường hợp bàn cân). Vậy thì sự tổng hợp tương phản của Vũ Trụ bây giờ là:
(Muốn giở trò gì thì giở, Vũ Trụ vẫn vốn dĩ thế!).
Nhớ lại biểu thức Chúng ta thấy rằng trong sự tổng hợp tuyệt đối ảo thực của Vũ Trụ nhìn từ bên trong (nghĩa là không nhìn thấy sự tuyệt đối theo định nghĩa mà chỉ thấy tương đối cái tuyệt đối!), a biểu thị là “một nửa ”.
Suy tư triết học (hay suy nghĩ quẩn quanh?) đã đưa chúng ta đến một ý tưởng quá ư là lạ lùng: nội tại hạt KG cũng là một Vũ Trụ y hệt như Vũ Trụ của chúng ta nhưng nếu “so” với Vũ Trụ của chúng ta thì nó mang tính ảo. Một con người là vô cùng nhỏ nhoi trong Vũ Trụ nhưng bản thân lại hàm chứa vô vàn cái Vũ Trụ như thế. Điều đó liệu có ai tin nổi không?
Nếu chúng ta gọi Vũ Trụ đang trình hiện trước chúng ta là Vũ Trụ thực thì nội tại của hạt KG được gọi là Vũ Trụ ảo. Nếu suy tư triết học là đúng thì sự tổng hợp tương phản tuyệt đối giữa hai lực lượng ảo - thực ấy phải có kết quả là (vì chúng ta nhìn từ bên trong!).
Thử xem! Khi Vũ Trụ của chúng ta là thì nội tại hạt KG là . Kết quả của sự tổng hợp tương phản tuyệt đối nhìn từ bên trong sẽ là:
                    
Thế nào? Suy tư triết học lộ nguyên hình là một suy nghĩ rối loạn thần kinh rồi nhé! Thật tội nghiệp cho một giấc mơ!
Có gì đâu, đem 2 đó chia cho 2 sẽ còn !
Ối giời ơi! Thật là chán chường cho sự ngụy biện!
Vui thế thôi chứ 2 đó mà nói lên được điều gì? Đồng ý rằng kết quả 2 là sai, nhưng cái sai đó không phải tại suy tư triết học mà là tại… sự bộp chộp.
Nội tại hạt KG không thể ngoài Vũ Trụ được do đó khi lực lượng phân định thành ảo thực tuyệt đối thì nội tại của hạt KG phải là ; do đó sự tổng hợp tương phản giữa hai lực lượng Vũ Trụ sẽ là:
Đúng chưa? Chưa đúng! Làm sao có thể quan niệm được lực lượng Vũ Trụ đang là , chỉ vì nội tại của một hạt KG mà phải bị bớt đi còn ?
Được rồi, còn một cách nữa! Lực lượng Vũ Trụ là , lực lượng hạt KG là 1. Khi Vũ trụ và hạt KG nằm trong mối tương phản ảo - thực thì vì không thể có sự tham gia của “lực lượng ngoại lai” nào và cũng không thể mất đi đâu được chút lực lượng Vũ Trụ nào nên chỉ có thể mô tả mối tương phản ảo thực ấy là:
Nếu kết quả tổng hợp tương phản này là thì hết cãi chứ gì? Nào, chúng ta xem:
Lúc này  đứng “một mình ên” nên cũng là . Hai lực lượng 2 và chỉ có thể thuộc về nên chúng bằng nhau. Vậy:
Rõ ràng nội tại của hạt KG là ảo của Vũ Trụ , nó bằng !
Theo cái nghĩa này thì có thể viết biểu thức
             
Không thích làm thế thì làm thế này:
Có thể ví hạt KG như một tấm gương soi nhỏ xíu mà nếu nhìn vào đó, chúng ta sẽ thấy cả một Vũ Trụ lung linh, ảo huyền nhưng không thể bước vào trong đó được vì đã có chúng ta “thứ hai” ở đó. Hai “cái chúng ta” ấy không bao giờ có thể ở chung một thế giới được. Nếu chúng ta ở ngoài cố tình bước vào thì đồng thời chúng ta cũng đang bước ra để rồi đến một giới hạn, hai chúng ta sẽ chuyển hóa thành nhau: ảo thành thực và thực thành ảo, đàng trước thành đàng sau và đàng sau thành đàng trước, tiếp tục đi và có nghĩa là trở về nơi đã xuất phát. Giả sử đến nơi xuất phát rồi mà chúng ta cứ tiếp tục đi như thế thì chúng ta đến đâu, về phía vô cùng lớn chăng? Không, về phía vô cùng xa! Muốn đến vô cùng nhỏ, chúng ta phải hóa vô cùng nhỏ và ngược lại, muốn đến vô cùng lớn chúng ta cũng phải hóa dần thành vô cùng lớn. Số bước chân nhiều vô kể hay số đếm khổng lồ, nếu không phải là sự tích tụ đồng thời trong một đơn vị thời gian thì cũng… tầm thường thôi!...
(Còn tiếp)
----------------------------------------------------------------



Xem tiếp...