TT & HĐ - 21/f
Siêu không gian : Chúng ta đến từ đâu? | Khám phá vũ trụ (Thuyết Minh)
PHẦN II: Nền tảng
" Triết học bắt đầu từ sự ngạc nhiên"
Arixtốt
“Chúng
ta có thể mường tượng thế giới của thực tại như là một dòng nước ngầm;
thế giới hiện tượng thì ở bề mặt; bên dưới nó chúng ta không nhìn thấy
được. Các sự kiện ở tận đáy của dòng nước gây ra bọt và những xoáy nước ở
bề mặt. Đó là những chuyển động bức xạ và năng lượng của cuộc sống
chung của chúng ta, nó tác động tới các giác quan và do đó, kích thích
trí óc chúng ta; ở bên dưới, dòng nước ngầm vẫn chảy”
(Sir James Jeans.)
“Triết
học chân chính chỉ là triết học truyền đạt chính xác nhất tiếng nói của
bản thân thế giới và được viết dưới những sự chỉ dẫn của thế giới”
(Ph.Bêcơn)
“Tất cả mọi khoa học cần thiết hơn triết học, nhưng không một khoa học nào tốt hơn nó”
(Arixtốt)
CHƯƠNG X: THÁI CỰC
"Có những chân lý tầm thường và có những chân lý lớn lao. Đối lập với chân lý tầm thường là hoàn toàn sai lầm. Đối lập với chân lý lớn lao cũng là chân lý."
Niels Bohr
Xã hội tồn tại nhờ niềm tin, và phát triển nhờ khoa học.
Henri Frederic Amiel
"Không có khoa học vì
khoa học, không có nghệ thuật vì nghệ thuật. Khoa học nghệ thuật tồn tại
để phục vụ xã hội, để làm con người hạnh phúc hơn, cao thượng hớn, có
kiến thức phong phú hơn và có nhiều tiện nghi vật chất hơn trong đời
sống... ".
Khuyết danh
“Nếu
như ngay từ xa xưa vận mệnh khoa học nằm trong tay những người có bộ
óc chính xác và chặt chẽ như tôi từng gặp ở một số nhà toán học hiện
đại mà tôi rất trọng vọng, thì có lẽ khoa học đã chẳng thể tiến lên
phía trước.”
L. Mandelstam
“Toán học là khoa học chính xác. Nhưng cũng vì thế nó cằn cỗi”.
F. Hegel
“Toán
học không phải là một quyển sách chỉ gói gọn giữa các tờ bìa mà người
ta chỉ cần kiên nhẫn đọc hết nội dung, toán học cũng không phải là một
vùng mỏ quý mà người ta chỉ cần có thời gian để khai thác; toán học
cũng không phải là một cánh đồng sẽ bị bạc màu vì những vụ thu hoạch;
toán học cũng không phải là lục địa hay đại dương mà ta có thể vẽ
chúng lại được. Toán học không có những giới hạn như không gian mà
trong đó nó cảm thấy quá chật chội cho những khát vọng của nó; khả năng
của toán học là vô hạn như bầu trời đầy các vì sao; ta không thể giới
hạn toán học trong những quy tắc hay định nghĩa vì nó cũng giống như
cuộc sống luôn luôn tiến hóa”.
Cayley
“Toán
học chỉ cho ta những phương pháp hoặc những con đường dẫn tới chân
lý. Toán học làm cho những chân lý ấy khuất nhất trở thành minh bạch và
phơi bày chúng ra trước ánh sáng. Một mặt toán học làm giàu sự hiểu
biết của chúng ta, mặt khác nó làm cho suy nghĩ của chúng ta thêm sâu
sắc”.
Sylvester
"Toán
học như con chiến mã quí độc nhất vô nhị đưa ta qua những cuộc chiến
ác liệt để giành những thành quả khoa học oai hùng hơn bao giờ hết!
Nhưng nó cũng là con ngựa bất kham đưa ta lạc vào Bát quái trận đồ của
sự giả tưởng quá đà."
Ba Đá
(Tiếp theo)
***
Vô
Cực có tồn tại hay không? Dù chúng ta mô tả có thể là không chính xác
về Nó nhưng tin chắc chắn rằng Nó thực sự tồn tại một cách khách quan.
Vô Cực là một linh hồn mà khi linh hồn đó biểu hiện ra thì không phải là
bóng ma mà chính là Thái Cực. Đối với đức tin đã được hun đúc từ nhiều
phương chiều trong suốt cuộc hành trình vừa qua thì câu hỏi vừa nêu trở
nên ngớ ngẩn. Chúng ta khẳng định lần cuối: Vô Cực là tồn tại và là gốc
của mọi tồn tại. Nếu Vô Cực là linh hồn của Thái Cực thì Thái Cực là thể
xác của Vô Cực. Con người được sinh ra ở tầng qui mô mà nếu so với tầng
cuối cùng của sự nhỏ ấy là quá thô kệch, cho nên con người vĩnh viễn
không bao giờ có thể quan sát trực tiếp được Thái Cực một cách riêng lẻ.
Tuy thế, vì con người biết suy nghĩ, biết tư duy nhận thức nên khi đã
hiểu được nguyên lý Tự Nhiên, sẽ thấy được Nó dưới dạng một “sơ đồ
nguyên lý” trong suy tưởng. Cái “sơ đồ nguyên lý” ấy, như chúng ta đã
nói, dù là không bao giờ chính xác được, nhưng như thế không có nghĩa là
hoàn toàn sai. Nếu con người nhận thức đúng đắn được nguyên lý Tư Nhiên
thì rồi trước sau gì cũng thấy được Thái Cực, một cách đúng đắn về
nguyên tắc. Và còn cần điều gì hơn thế nữa?
Bây
giờ, chúng ta sẽ tiến hành một cuộc “khảo cứu” có thể là đạt được kỷ
lục guiness về sự rẻ tiền nhất. Chi phí của công trình này đúng thật là
không tốn bao nhiêu: chút ít sức lực để động não và một khoảng thời gian
(khoảng thời gian này, trong chuỗi ngày vô tích sự của chúng ta là
không đáng kể và nếu đem so với quĩ thời gian được cho là vô tận của Vũ
Trụ thì lại càng không đáng kể chút nào; vả lại, nếu không “xài”, thời
gian vẫn cứ trôi đi một cách phung phí mà thôi!). Chúng ta tạm đặt cho
công trình “khoa học” hầu như không cần kinh phí này một cái tên đầy
chất thơ ca, là “Khối tình trinh trắng”, và chúng ta bắt đầu:
Chúng
ta ngồi trong một căn phòng (hay gọi là xó nhà cũng được!) và nhìn ra
một cửa sổ. Cái ô cửa sổ ấy cũng là khả năng duy nhất để chúng ta quan
sát thế giới bên ngoài mà thôi. Ở bên ngoài, đối diện với ô cửa sổ, cách
một khoảng nhất định nào đó (gần thôi), người ta đặt một mặt phẳng
trắng tinh, không chút tỳ vết. Vì mặt phẳng ấy lớn hơn ô cửa sổ rất
nhiều nên chúng ta không nhìn thấy các mép hạn định của nó (vì đã bị khung của ô
cửa sổ giới hạn). Chúng ta có thể thấy gì qua ô cửa sổ lúc ấy? Rõ ràng
là chỉ thấy một mặt phẳng trắng tinh của tờ giấy. Điều đó hoàn toàn
đúng, nhưng cũng… hoàn toàn sai. Qua nhận thức được tích lũy từ trước
(nghĩa là qua kinh nghiệm và kiến thức của quá khứ, đã được học hỏi)
chúng ta mới trả lời được như thế và nếu chưa qua một chút xíu nhận thức
nào hoặc tự nhiên quên bẵng mọi thứ đi thì chúng ta chỉ có nước “ú, ớ”,
thậm chí là hoàn toàn im lặng vì ngay cả câu hỏi, chúng ta cũng chẳng
biết nó là cái gì, y hệt như đứa trẻ mới lọt lòng mẹ vậy!
Thôi,
dù sao chúng ta cũng đã lớn khôn và đã thấy ngoài ô cửa sổ là mặt phẳng
trắng tinh của tờ giấy. Nhưng tại sao chúng ta biết được đó là tờ giấy
khi chỉ nhìn thấy một mặt phẳng trắng tinh bị giới hạn bởi khung của ô
cửa sổ? Tại có một ai đó mách bảo, còn nếu không, chỉ có thể là do chúng
ta phán đoán nhờ kinh nghiệm (và lần này, chúng ta đã đoán trúng, nhưng
lần khác phải coi chừng vì cái mặt phẳng trắng tinh ấy rất có thể là
một bức tường!).
Tương
tự như thế, việc chúng ta biết đó là một mặt phẳng trắng tinh (thực ra
là một phần, một khoảng đúng bằng sự giới hạn của ô cửa sổ thôi) cũng là
nhờ vào việc chúng ta đã lớn khôn, đã từng học hỏi, chiêm nghiệm, đã
từng biết thế nào là phẳng, thế nào là trắng tinh. Và chúng ta có quyền
tự hào vì đã trả lời trúng phóc!.
Tiếp
tục, thế chúng ta nhìn thấy gì ở cái mặt phẳng trắng tinh ấy? Chẳng
nhìn thấy cái gì cả ngoài một màu trắng tinh, đúng không nào? Thường thì
chúng ta quên luôn cái màu trắng tinh ấy và trả lời là chẳng thấy gì.
Trong quan sát, con người ta thường bỏ qua, không chú ý đến những cái
được cho là hiển nhiên, ai cũng thấy, ai cũng biết. Những cái đó trở nên
“lặn đi”, bị tầm thường hóa, không đáng để bận tâm nữa và khi quan sát
chúng, người ta mặc nhiên coi như không thấy gì. Con người ta sẽ không
sống được nếu không có dưỡng khí nhưng hầu như quên bẵng nó trong đời
sống thường nhật. Chính thiên nhiên đã làm cho con người mất (gần hết)
cảm giác trước không khí, vì ở đâu mà không có không khí và việc hít thở
là một đương nhiên, cần phải biết mùi của nó để làm gì. Đối với nước
cũng xảy ra tình hình tương tự, nhưng vì nước “hiếm” hơn không khí nên
dù sao đối với nước lã, con người cũng có được một vị để phân biệt với
các vị khác, đó là vị “lạt nhách”. Khi một sếp hỏi: “Có quan sát thấy gì
không?”, chắc rằng chẳng người lính nào lại trả lời đại loại như thế
này: “Báo cáo sếp, trên có trời, dưới có đất, ở giữa có vài quả núi,
ngoài ra không có gì nữa ạ!”.
Oái
oăm là ở chỗ: những cái không ai đoái hoài tới, không ai nhìn thấy lại
thường là những cái nền tảng. Nhìn lên bầu trời đêm, khi không thấy một
ngôi sao nào, chúng ta coi như không thấy gì. Nhưng thực ra là chúng ta
vẫn thấy có một màu đen kịt. Cái màu đen kịt đó chính là cái nền, cái
phông, cái nôi làm hiện hữu và dung chứa các vì sao. Chỉ vì nó đã bị tầm
thường hóa, bị cho là không có gì đáng kể nên chúng ta đã quên nó,
không nhìn thấy nó.
Giả
sử bên cạnh chúng ta có một người bạn và trước câu trả lời như trên của
chúng ta, rất có thể anh ta sẽ cãi lại: “Không nhìn thấy gì là thế nào?
Đó là tờ giấy trắng khổng lồ hay ít ra là một khoảng của tờ giấy
trắng!...”. Bản thân chúng ta và có lẽ không ít người vẫn thường thấy
một cách “nhanh nhẩu đoảng” như vậy, thấy cái mà mình đã phán đoán, đã suy ra từ kinh nghiệm, đã
biết chứ không phải cái thực sự đang nhìn thấy, đang hiện hữu.
Chính
xác là trên cái mặt phẳng trắng tinh ấy chẳng thấy bất cứ một tỳ vết,
một cái gì khác ngoài màu trắng tinh cả, không có gì khác thường cả và
do đó, so với màu trắng tinh, chúng ta đã không nhìn thấy bất cứ cái gì
trên đó cả. Nhưng lý trí mách bảo chúng ta rằng mặt phẳng trắng tinh ấy
là sự biểu hiện của một tờ giấy, là mặt hiện hữu của tờ giấy. Vậy thì
trong mặt phẳng ấy phải có một cái gì đó chứ không thể là không có gì.
Không có gì, ngoài nghĩa là không có gì ngoài mặt phẳng trắng tinh, còn
có nghĩa rằng trong, hay thuộc về mặt phẳng ấy xuất hiện hư vô. Hư vô có
nghĩa là không hiện hữu và cũng có thể là không cả tồn tại nhưng không
phải là không Tồn Tại. Nếu trong mặt phẳng tờ giấy xuất hiện một hư vô
thì đó chỉ có thể là một lỗ thủng hoặc tệ hơn, hoàn toàn không có cái
mặt phẳng ấy. Nếu cho rằng lỗ thủng là một hư vô trong mặt phẳng trắng
tinh thì trước mắt chúng ta vẫn cứ là một hiện hữu vì chúng ta phân biệt
được nó với mặt phẳng và như vậy là “thấy” nó. Nhưng thực sự là chúng
ta đã nhìn đến mỏi mắt, không thấy gì cả và cũng chẳng thấy nó. Chắc
chắn là phải có cái gì đó nhưng vô hình trước mắt chúng ta chứ không
phải Hư Vô. Và tổng thể những cái gì đó ấy đã làm nên tờ giấy, nền tảng
của mặt phẳng trắng tinh.
Chúng
ta lấy kéo cắt đôi một tờ giấy rồi tiếp tục cắt đôi hai nửa tờ giấy mới
cắt, cứ tiếp tục như thế và có được rất nhiều mẩu giấy nhỏ bé. Chúng ta
tưởng tượng rằng mình có phép thuật cao siêu, hô biến một cái là các
mẩu giấy đó sắp xếp trở lại thành một tờ giấy như cũ. Sự kiện này dẫn
đến nhận định: tờ giấy là gồm rất nhiều mẩu giấy hợp thành. Giả sử rằng
các mẩu giấy đó là nhỏ nhất, nhỏ đến mức là nếu có phân chia được chúng
ra thì những phần phân chia ấy vẫn còn thấy như mẩu giấy chứ không phải là một
mẩu gì đó không phải giấy, (một phân tử hữu cơ nào đó chẳng hạn). Nếu
có đem ghép trở lại những mẩu giấy đó thì chúng ta sẽ tạo ra
không phải tờ giấy ban đầu mà là một “tờ” hay “khối” gì đó khác cũng gọi là giấy.
Chúng ta gọi những mẩu giấy nhỏ nhất ấy là phần tử giấy và cho rằng tờ
giấy mà chúng ta đang khảo sát là do vô vàn những phần tử giấy hợp thành
và có sự “lắp ghép” từ vô vàn những hiện hữu mặt trắng tinh mà chúng ta
có tờ giấy với mặt phẳng trắng tinh. Vì các phần tử giấy cũng như các
đường nối ghép nhỏ và mảnh đến độ vượt ra ngoài giới hạn phân tích của
mắt nên chúng ta đã không quan sát thấy chúng và chỉ thấy một mặt phẳng
trắng tinh không tì vết. Phần tử giấy chính là đơn vị làm nên tờ giấy và
vì nó vô hình trước chúng ta nên có thể gọi nó là vô cực. Thực ra chúng
ta không thấy tờ giấy mà chỉ thấy phần hiện hữu của nó là mặt phẳng
trắng tinh nên nó chính là tồn tại, nền tảng và mặt phẳng trắng tinh là
sự thể hiện của cái tồn tại nền tảng ấy. Khi cái Vô Cực được quan sát
nhận diện, nói về nó, bàn luận về vận động nội tại của nó thì nó được
coi là một Thái Cực. Nói Vô Cực mà Thái Cực là vì vậy!
Đó
là cuộc thí nghiệm thứ nhất có tính cách như “vỡ lòng”, mở đầu, “nhập
môn”. Trên cơ sở đã rút được kinh nghiệm từ việc thực hành thí nghiệm ấy
và vốn liếng kiến thức sơ học về không gian Ơclít (cũng đã rơi rớt
nhiều rồi!), chúng ta sẽ tiến hành một cuộc thực nghiệm to tát và siêu
đẳng hơn nhiều. Biết đâu chừng nhờ lần “thị sát” này - không phải qua ô
cửa sổ nữa mà qua cửa Hang Huyền Tẫn (Vũ Trụ), chúng ta lại chẳng nhặt nhạnh được
vài mệnh đề “phổ quát và tiên thiên”. Còn nếu không, hãy nghe B. Paxcan
(Blaise Pascal) nói: “Nếu sai thì… chết là hết chuyện. Còn nếu đúng thì
sẽ được hưởng phước đời đời.”
Đã
là bợm nhậu thì khỏi nói, uống với bất cứ ai, ở bất cứ đâu, trong bất
kỳ lúc nào (thậm chí là trong cơn hấp hối!) cũng đều thấy ngon, thấy
“đã” cả. Chúng ta suýt nữa thì thành bợm nhậu “chuyên nghiệp” rồi! Trong
cái xui có cái may. Bê tha quá nên xui xẻo bị tăng huyết áp. Nhờ có
tăng huyết áp và vì sợ chết sớm, nên may quá chúng ta “đào ngũ” được
khỏi “đội quân lê dương” ấy. Đến nay, đôi khi (hơi nhiều lần) cũng xé rào bê
bết một cái, nhưng nói chung đã trở thành “dân nhậu” bình thường. (Bỏ
thì chắc là không thể được rồi! Đời buồn lắm!).
Đã
là dân nhậu lâu năm (hay có thể gọi là bợm nhậu nghiệp dư) thì phải
biết nhậu như thế nào là tuyệt nhất chứ? Đúng thế đấy! Nhưng cũng tùy
từng người và tùy vào những cảnh ngộ khác nhau. Đối với riêng chúng ta
thì sợ nhất là nhậu với vua (chưa uống đã say vì lúc nào cũng sợ buột
miệng phạm húy là bay đầu như chơi, vì vua nổi tiếng là có tính khí thất
thường!). Buồn nhất là uống rượu đám ma (bao nhiêu kỷ niệm với người đã
khuất kéo về, sự xót xa dày vò trước cuộc phân ly sinh tử, tiếc thương
cho người, cám cảnh đời mình). Ghét nhất và cũng oải nhất là đi nhậu đám
cưới (giá cả thì đắt kinh khủng mà chờ đợi thì mỏi mòn; khi “có lệnh”
cho ăn nhậu thì ôi thôi vừa bị bắt tọng, nhai, nuốt, ngấu nghiến cho
nhanh, vừa bị bắt tu ừng ực liên tục “một trăm phần trăm”, để rồi bụng
đầy ứ hự mà thần kinh chưa kịp báo no, say, đã bị đám bồi bàn thoăn
thoắt dọn dẹp, tống cổ ra khỏi nhà hàng). Thoải mái và bình thản nhất là
nhậu đám giỗ vì là dịp chung vui với người đã khuất, ghé về. Tuy cũng
phải chờ đợi như đám cưới nhưng trong khi chờ đợi còn nhấm nháp được
trà, thuốc; còn hàn huyên được đôi ba câu chuyện và bù lại cho sự chờ
đợi là đồ ăn thức uống vừa ngon, vừa rẻ (thậm chí là không tốn tiền!),
vừa nhiều và thời gian nhậu thì tha hồ mà… “đòng đưa ví dầu”. Tệ hại
nhất là uống rượu với mụ vợ vừa gàn vừa cứng đầu, dẫu rượu có ngon như
“thiên tửu” (rượu trời) đi nữa thì bỗng chốc cũng thành ra đắng nghét.
Mới nhậu thì vẫn còn là đấng trượng phu ngời ngời nhưng sau vài ba
“chung” rồi thì, ôi thôi nát bét, trở thành một thằng trẻ con hèn mọn,
yếu đuối và vô tích sự. Nhậu nhẹt với bạn bè là vui vẻ nhất trong mọi
cuộc nhậu (“tửu phùng tri kỷ thiên bôi thiểu” - uống rượu với bạn hiền
thì ngàn chén là còn ít mà lại!). Cuộc nhậu mê mệt nhất mà sung sướng
nhất, lênh đênh phiêu bồng thi vị nhất là nhậu với “cung tần, mỹ nữ”
(nếu để vợ biết được thì sẽ thành cuộc nhậu “tan tành” nhất!). Tuy chi
phí nặng hơn nhiều so với đi nhậu ở đám cưới nhưng được cái là “lạc
thú”, cứ như ở đâu đó trong cõi thần tiên phiêu bồng ấy! Cuối cùng, cuộc nhậu được
cho là huyền diệu, thiên thai nhất, mãn nguyện nhất, có lẽ phải là cuộc
nhậu tổng hợp đủ các yếu tố: giỗ, bạn hiền, mỹ nữ và … không có mặt vợ.
Nhưng vui sướng càng nhiều thì càng nhiều buồn khổ. Sự đời vẫn thế! Cho
nên muốn đĩnh đạc, an nhiên, nhẹ lòng đề huề, có mực có chừng thì làm dân nhậu thôi chứ đừng nên làm bợm !......
Đang
trong cuộc thực nghiệm to tát và quan trọng mà nói về nhậu nhẹt, bù khú
thì thật "xà bác" quá! Thử hỏi kết quả đạt được từ cuộc thị sát, khảo cứu
của một gã mà đầu lúc nào cũng nghĩ đến rượu, gái thì có mang tính khoa
học, có đủ sức thuyết phục và đáng tin không?
Vâng,
thật là đáng trách! Xin thứ lỗi cho sự hoang tưởng lạc lõng vừa rồi của
chúng ta! Nhưng cũng mong thấu hiểu cho: chúng ta cũng là những con
người có một nỗi thèm khát thường tình luôn túc trực.
Kể
ra thì cũng kỳ quặc, đang chuyện nọ lại xọ chuyện kia. Chúng ta ngẫm
nghĩ “thế là thế nào?” và sực nghĩ ra: “À, thì ra thế!”. Thực nghiệm của
chúng ta là phải quan sát qua cửa Cốc Thần Huyền Tẫn, nghĩa là phải
ngỏng cổ lên nhìn vào bầu trời đêm, và lúc đó chúng ta vẫn thường hay
nhâm nhi. Chính vì vậy mà chúng ta nhớ đến nhậu nhẹt. Một lần nữa xin
thứ lỗi!
Nhâm
nhi thực ra cũng là uống rượu nhưng không phải là nhậu nhẹt. Nhâm nhi
thi vị hơn nhiều! Chúng ta vẫn thường vừa nhâm nhi một mình vừa nhìn
ngắm sao trăng trên bầu trời và hoang tưởng trong những đêm khuya vắng,
bốn bề tĩnh mịch. Nhiều người sẽ cho rằng chỉ có tâm hồn bị khốn khổ
hoặc “hâm” mới độc tửu (uống rượu một mình) giữa khuya cô quạnh. Theo
chúng ta thì không hẳn như thế. Tất nhiên là phải có nỗi niềm nào đó,
nhưng độc tửu giữa khuya đối với chúng ta, thường là một mê hoặc khác
thường gây nên cái thú đặc biệt. Bao nhiêu khuya rồi chúng ta đã ngồi
như thế để đắm đuối ngắm cái vẻ đẹp phi thường của trăng lúc xanh xao
hao gầy cũng như khi nở nang vằng vặc; để chiêm ngưỡng ngàn sao lấp
lánh, long lanh hoặc cái mông lung lặng lẽ và sâu thẳm đến gai người
cũng như cái nổi cuộn vần vũ, gầm gào, chớp lóa của sự chuyển hóa giữa
các lực lượng khổng lồ trong thiên nhiên, để cùng với sự quan chiêm ấy
là những suy ngẫm về ý nghĩa của hữu hạn và vô hạn, của khoảnh khắc và
vĩnh hằng, của “Một cõi đi về” kiểu Trịnh Công Sơn, của nỗi day dứt ngây
ngô mà uyên áo kiểu Bùi Giáng: “Em về mấy thế kỷ sau, nhìn trăng còn
thấy nguyên màu ấy không?”. Những lúc đó lòng chúng ta cứ lâng lâng dìu
dặt như gió, cứ dạt dào lai láng như mưa, man mác buồn, man mác vui, man
mác nuối tiếc, man mác băng khuâng, khi hồn vía trôi dạt vô định về
những kỷ niệm đâu đó trong dĩ vãng xa vời. Nhưng cũng có nhiều lần độc
tửu như thế mà tâm hồn chúng ta bỗng trở nên ồn ào, sôi nổi, liến thoắng
đến kỳ lạ; chất vấn, tranh biện một cách hết sức hùng hồn và đáo để với
Thinh Không huyền bí, với Tự Nhiên Tồn Tại. Nhờ thế mà chúng ta đã ngộ
ra được nhiều điều ngộ nghĩnh của Tạo Hóa. Hình như muốn đạt được thành
quả nào đấy thì trong nghiên cứu khoa học cần phải tỉnh táo và nghiêm
túc, nhưng trong tư duy triết học lại nên say sưa và tếu táo một chút
chăng? Phải chăng những cái tầm thường nhất lại thường đóng vai trò nền
tảng và những điều giản dị nhất thường lại là những chân lý? Phải chăng
cái tối giản vừa là nguồn gốc vừa là đích phải trở về của mọi cái phức
tạp? Đúng không rằng: ra đi cũng đồng thời là trở về?Sau những lần uống rượu một mình như thế, lòng chúng ta rung động, cảm tác nên vài bài thơ sau:
1- UỐNG RƯỢU MỘT MÌNH
Mình ta với rượu canh khuya
Bàn thừa thãi ghế, bạn bè thì không
Vợ con cách mặt xa lòng
Người tình thuở cũ truy phong lâu rồi!
Đắng cay uống với sầu đời
Dưới sao lấp lánh, giữa trời đen xanh
Bên con chó mực trung thành
Trong thì thào gió tự tình ngàn phương...
Say mèm nghiêng ngả Thái Dương
Vịn vào Vũ Trụ, quay cuồng Tự Nhiên
Đất về bồng bế ta lên
Ầu ơ thương lắm chênh vênh cuộc tàn!...
THẦM THÌ
Đêm say, uống rượu, quên đèn
Nâng ly quá hớp, ngó lên bầu trời
Hằng hà lay láy nơi nơi
Ngàn sao ơi có nỗi đời như ta:
Cứ buồn, cứ nhớ thiết tha
Lặng thinh pho tượng nhưng mà tình si?!...
***
Trăm năm khắc khoải thầm thì
Muôn năm có cảm thông gì hay không?!
TỰ TRÀO
Ngẩng mặt ngó Trời, Trời ngó đâu?Chắc là giận lắm kẻ điếc, liều
Dựng đứng, đặt điều không biết thẹn
Lại còn nhăn nhở: "thích tào lao!"...
Cũng tại Trời bày cảnh đìu hiu
Một hồn, một xác, một buồn thiu
Giải khuây quá chén thành tao loạn
Quàng xiên, khoác lác, vẽ vời điêu
Quen hơi ngất ngưởng tít cheo leo
Xuống làm chi nữa, dưới chán phèo
Cứ đeo, may phước nên rồng rắn
Bằng không, giun dế thỏa lộn lèo!
BẠN VONG NIÊN
Đã vặn lưng thụ cổ
Vẫn quanh năm nở hoa
Mùa nối mùa trĩu quả...
Bà kết tình từ gió
Và kết nghĩa từ sương
Nên dưới trời sương gió
Mãi xum xuê phi thường?
Hằng đêm sâu tịnh lặng
Bà ru hồn tôi say
Trong mê tỉnh thoáng đàn dơi bay liệng
Ngỡ én về múa vũ điệu xuân lai...
Chịu ơn bà Long Nhãn
Dung dưỡng một đời này!
TRÒ CHUYỆN VỚI CHÓ
vừa có thể sống như một con vật đi tìm khoái lạc,
vừa phải sống như một linh hồn có đủ lý trí".
S. Freud
LẨM NHẨM
Nhân gian quạnh quẽ vô tình
Còn mày là bóng với hình là tao
Hình ngồi lẩm nhẩm chiêm bao
Bóng nằm nghe ngóng đắm vào mông lung...
Chúng mình có có không không
Trong vòng sinh tử, ngoài vòng hợp tan
Có mày thèm khúc xương tàn
Có tao rượu lạt ước tràn cung mây
Không mày bởi tịch vãng lai
Không tao bởi chẳng một ai mong chờ!...
Bóng hình lẩn quẩn, lơ mơ
Trăng lu hiu hắt, lờ mờ cảnh khuya...
Sực cười tủm tỉm ngô nghê:
Tao say là bóng, mày mê mới hình?

HỎI THẲNG
Ê! Tomy ơi!
Chúng mình cùng là giống đực
Dục tình một giuộc cả thôi!
Cùng sống bên nhau, chung một xó gầm trời
Sao mày ngoan lành mà tao hư đốn thế?
Mùa động đực mày sục sôi một mẻ
Để rồi thôi chẳng thêm chút mơ màng
Mặc kệ đời, những hạnh phúc vinh quang...
Còn tao thì đầy phè khát vọng
Mùa nối mùa lòng cứ miên man động
Ngoay ngoắt thèm thuồng, chưa từng biết thờ ơ
Giả dối cười vang lấp liếm những mưu mờ
Nhăng cuội vịt vờ giấu che tình nhục dục...
Ê! Tomy ơi!
Chúng mình quây quần, uống chung nguồn nước
Mà tốt-xấu, mày-tao như trời-vực mới buồn...cười
Hỏi thật nhé,
bồ tèo:
Mày có thích làm người?
Ô! Sao mày lè lưỡi
Lại còn nghếch đầu, hểnh mũi...
Hả?...Muốn nói gì...
Ý là sao, Tomy?...
A!...Ha, ha...ha!...
Tao hiểu rồi hỡi ông bạn khôn ngoan:
Vi cẩu dị, vi nhân nan!*
Chú thích: *Làm người thì khó, làm chó thì dễ
Thôi, giải tỏa được nỗi niềm trắc ẩn rồi, chúng ta bắt đầu cuộc thực nghiệm!
Giả
sử trong một lần độc tửu canh khuya như thế, chúng ta nhìn vào bầu trời
không trăng không sao và cũng không gợn mây nào. Chúng ta thấy gì? Thấy
một màu đen kịt của… tầng mây cao không bị gợn. Nếu không bị cái gì đó
che khuất thì chúng ta đã phải thấy sao, và sự che khuất là do cái gì
nếu không phải là mây? Nếu thế, chúng ta khoanh vùng lại để có một
khoảng nào đó không có sao và cũng không có mây. Kinh nghiệm mách bảo
rằng dù không thấy gì thì vẫn có những thiên thể ở đó và chúng đang vận
động sôi nổi. Chúng ta không thấy thì… kệ chúng ta!
A!
Phải rồi! Nhờ đã lớn khôn nên chúng ta có thể nhắm mắt lại và tưởng
tượng ra một khối không gian trước mặt. Vì đặc tính của không gian là
cho ánh sáng đi qua nên chúng ta sẽ thấy nó có màu đen kịt, ngoài ra
không còn thấy gì nữa cả. Theo nguyên tắc, vì không thể tưởng tượng được
bất cứ điều gì ngoài Tồn Tại cả nên khối không gian đó phải là một cái
gì đó thuộc Tồn Tại và như thế dù là trong tưởng tượng, nó cũng phải là
sự hợp thành của những cái gì đó nhỏ hơn nó, chúng ta sẽ tưởng tượng được ra
những cái cuối cùng được cho là không có nội tại hoặc có nội tại ảo,
đóng vai trò là những đơn vị cuối cùng làm nên khối không gian đó. Vì có
kinh nghiệm từ lần thực nghiệm thứ nhất nên chúng ta khẳng định những
đơn vị nhỏ nhất làm nên khối không gian chính là những phần tử không
gian hay như chúng ta vẫn gọi là hạt KG.
Tương
tự như trường hợp tờ giấy trắng tinh, vì chúng ta chỉ nhìn thấy một
khối không gian thuần nhất và không thể phân biệt được nên không nhìn
thấy gì trong nó cả (chúng ta sẽ không nhìn thấy gì trong một khối nước
thuần khiết cả, ngoài… nước!), do đó mà các hạt KG chính là những Vô
Cực. Một khi chúng ta xác định được các Vô Cực, dù là trong tưởng tượng,
chúng sẽ trở thành Thái Cực trước chúng ta. Điều quan trọng là chúng ta
có thể xác định được chúng không, hay nói cách khác, chúng ta có thể
nhận thức được về chúng không, một khi chúng ta không có khả năng thấy
chúng bằng bất cứ cách nào? Hoàn toàn có thể! (Ở đây, cần nhấn mạnh rằng
ngay cả trong thực tại, chúng ta luôn nhìn thấy sự biểu hiện của chúng,
một lực lượng của chúng nhưng chỉ không thể nhìn thấy chúng, phân biệt
được chúng một cách riêng lẻ, từng cá thể được!)
Chúng
ta qui ước rằng khối không gian đó là bộ phận của không gian Ơclít, có
tính tuyến tính (thực ra với bộ não bảo thủ và kém cỏi, khó mà hình dung
được một không gian nào khác gọi là phi Ơclít! Phải chăng các không gian phi Ơclít trong toán học là những suy tưởng quá lố, ảo tưởng, phi thực của con người? Tuy nhiên, nếu không gian Ơclít là thực tại duy nhất, thì phải hình dung rằng có thể phân
chia được bằng một con dao (chắc rằng không phải là con dao thái thịt
mua ở chợ rồi!)).
Đó
là con dao đặc biệt và rất sắc, sắc nhất trong mọi con dao. Có thể hình
dung nó như con dao lade dùng trong phẫu thuật y học nhưng sắc hơn rất
nhiều. Tuy nhiên, sắc đến mấy thì sắc, bề dày của lưỡi dao không thể
“mỏng” hơn bề dày của hạt KG được. Cho nên lưỡi dao đó trông như một
khoảng mặt phẳng không gian, có độ dày bằng độ dày của hạt KG để có thể
dùng “xẻ thịt” một cách triệt để khối không gian ra thành những phân tử
nhỏ nhất. (Điều giả định này sẽ dẫn đến những hậu quả gây cười sặc sụa.
Chẳng hạn: sự gắn kết các hạt KG tạo thành phần không gian thực nghiệm
sẽ tạo ra những điểm tiếp xúc, những đường phân chia giữa chúng phải
nhỏ, mỏng hơn kích thước hạt KG, nghĩa là tồn tại những “điểm” nhỏ hơn
cả hạt KG, do đó phải chọn lại điểm mới là hạt KG, nếu không, phải cho
rằng các điểm ấy có kích thước là bằng với kích thước hạt KG và cũng
chính là hạt KG, để rồi cũng lại xuất hiện ra các điểm nhỏ hơn hạt KG.
Có lẽ phải quan niệm các hạt KG liên kết kiểu đan lồng vào nhau để tạo
ra hiện tượng vừa phân biệt được vừa không phân biệt được, ở khía cạnh
này là phân biệt được, ở khía cạnh kia là không phân biệt được và do đó
không thể dùng bất cứ “con dao” nào phân chia dứt khoát một cách cơ học
khối không gian ra thành những phần tử nhỏ nhất được. Ở đây, một cách
siêu hình, chúng ta hình dung “cưỡng bức” có thể phân chia được dù tuyệt
đối là không thể cắt chia được không gian…). Sau khi xẻ thịt xong, nếu
các vết cắt được đánh dấu màu tương phản (màu đen) với màu của các phần
đã bị cắt chia (màu trắng), thì một mặt phẳng nào đấy của khối không
gian đã bị cắt chia sẽ tương tự với mặt carô ở hình 36, nghĩa là có các
phần ô vuông nhỏ, bằng nhau, xen kẽ trắng đen (với màu trắng là ô chỉ
thị hạt KG còn màu đen là ô chỉ thị vết tích của nó).
Khi
chúng ta thực hiện việc chia cắt thì cũng có nghĩa là chúng ta tiến
hành phân khối không gian đó, và các hạt KG chuyển biến từ Vô Cực sang
Thái Cực.
Hình 36: Cắt chia không gian (tượng trưng bằng mặt phẳng)
Nội
dung cơ bản của lần thực nghiệm thứ hai (mà chúng ta mào đầu là to tát
lắm!) vỏn vẹn chỉ có thế. Và có lẽ cũng chỉ cần thế để một lần nữa chúng
ta lại khẳng định sự tồn tại cuả hạt KG.
Nếu
chúng ta đã có khả năng hình dung ra được một không gian Ơclít thì chắc
chắn là nó tồn tại và thậm chí là hiện hữu trong thế giới khách quan
(chúng ta nhớ lại: thế giới khách quan của con người luôn mang đậm tính
chủ quan của con người!), và không thể hình dung một không gian như thế
lại được xây dựng nên từ Hư Vô. Chúng ta không quan niệm được một không
gian bên ngoài Tồn Tại. Dù hạt KG có thể là cực kỳ nhỏ thì cũng không
vượt qua được tận cùng của sự nhỏ, không thể nhỏ vô tận được. Vô tận của
sự nhỏ chỉ có khả năng là Hư Vô. Mà Hư Vô được xác định, được phân biệt
thì phải là Có, Tồn Tại, nghĩa là muốn dán bất cứ nhãn mác nào cho Cái
Vốn Dĩ Thế cũng được nhưng cứ vẫn là Vốn Dĩ Thế, vẫn là Có, là Tự Nhiên
Tồn Tại. Không gian là một lực lượng hiển nhiên, con người cảm giác được
nó dễ dàng một cách giản đơn, trực quan nhất dù có thể chưa nhận thức
được đúng đắn và xác đáng nó!
Nếu
hạt KG là tồn tại thì khối KG cũng tồn tại và vì khối KG tồn tại được
là nhờ sự tích hợp của các hạt KG cho nên một đặc tính tất yếu của khối
KG là có cấu trúc mạng. Tuy nhiên không nên hiểu một cách cực đoan, siêu
hình tuyệt đối về cấu trúc này cũng như không nên coi hạt KG chỉ là
hạt, có hình dáng cố định, rõ ràng nào đó. Tính nước đôi của Tự Nhiên
Tồn Tại đã làm cho tất cả trở nên “ỡm ờ”, nhòe đi. Chính vì thế mà Vũ
Trụ hiện ra trước quan sát và nhận thức với dáng vẻ vừa rõ ràng minh
xác, vừa mông lung huyền bí và trở nên lung linh, tuyệt vời.
Ở
tận cùng nhỏ đã có giới hạn rồi thì ở tận cùng lớn có cần phải giới hạn
không? Thật khó hình dung được sự giới hạn ở vô cùng lớn. Tuy nhiên nếu
nguyên lý tương phản là chân lý thì vì mối quan hệ lớn - nhỏ là tương
phản mà “nhỏ” đã bị giới hạn thì “lớn” cũng phải chịu chung số phận là
có giới hạn. Mặt khác nếu nguyên lý bảo toàn không gian là tuyệt đối (là
nền tảng của mọi định luật bảo toàn khối lượng, bảo toàn điện tích… )
thì để đảm bảo được cái ý nghĩa ấy, ở vô cùng lớn là phải có giới hạn.
Đúng
là rất khó hình dung sự giới hạn ở phía tận cùng lớn, nhưng việc hình
dung sự vô hạn của nó cũng không dễ dàng chút nào. Hữu hạn hay vô hạn về
chiều kích không gian đều dẫn đến một hình dung duy nhất là Vũ Trụ có
tâm. Nếu sự có tâm làm cho Vũ Trụ hữu hạn trở thành không duy nhất và bị
bao vây bởi cái gì đó không phải Tồn Tại thì đồng thời cũng làm cho Vũ
Trụ vô hạn trở nên tĩnh tại tuyệt đối hoặc sự vận động chuyển hóa của nó
phải theo một chiều duy nhất là từ trung tâm (trương nở) ra phía vô
cùng xa. Chịu! Không hiểu nổi! Nếu Vũ Trụ thuộc một trong hai trường hợp
ấy thì… chẳng còn gì để suy ngẫm nữa. Tự Nhiên Tồn Tại phải là Tất Cả,
Vũ Trụ phải đồng thời thể hiện được sự Tất Cả ấy, phải đầy đủ đồng thời
cũng thiếu thốn, phải “ỡm ờ” nước đôi. Nghĩa là phải hình dung ra một Vũ
Trụ vừa là thế này, vừa là thế kia, vừa cả hai mà cũng không phải cả
hai; là vô hạn mà cũng hữu hạn, là Vĩ Đại mà cũng Vi Tiểu, đi thì cũng
là về, có duy nhất tâm mà vô vàn tâm, bất cứ đâu cũng là tâm Vũ Trụ và
đồng thời không phải là tâm của nó ..v..v… Vũ Trụ là vô hạn nhưng hữu
biên đồng thời cũng hữu hạn nhưng vô biên và chẳng phải như thế! Tuy
nhiên, nền tảng của mọi biểu hiện ấy lại chỉ là Một, là Vốn Dĩ Thế, là
tồn tại tuyệt đối, là Tồn Tại theo một nguyên lý duy nhất, nguyên lý nền
tảng của mọi nguyên lý - nguyên lý Tự Nhiên. Cuối cùng chỉ có thể tạm
gọi là Tự Nhiên Tồn Tại, vô thủy vô chung mà cũng là tạo dựng: Do đó mà
sự vận động và chuyển hóa của Vũ Trụ, dù ở trong bất cứ sự thể hiện nào
của nó, dù trước quan sát và nhận thức trông có vẻ tương phản, trái
ngược cách mấy đi chăng nữa thì cũng là sự “thừa hành răm rắp”, phục
tùng tuyệt đối một nguyên lý tối thượng và duy nhất - nguyên lý Tư
Nhiên. Cũng vì lẽ đó mà để cho sự nhận thức được dễ dàng hơn, giảm thiểu
những rối rắm, đỡ đi những hoang mang, mất phương hướng gây ra bởi sự
thể hiện đa chiều, đa tính một cách đồng thời của một Vũ Trụ hết sức đa
tình và đỏng đảnh, chúng ta chỉ cần quan sát và cố gắng nhận thức đúng
đắn Vũ Trụ trong một mặt biểu hiện của nó, và chúng ta chọn mặt biểu
hiện đó là: Vũ trụ hữu hạn nhưng vô biên.
Để
thể hiện được ra như thế, Vũ Trụ phải như thế nào? Hay hỏi cụ thể hơn:
không gian Vũ Trụ phải được hình dung như thế nào và có những đặc tính
gì?
(Còn tiếp)
-----------------------------------------------------------------
-----------------------------------------------------------------
Nhận xét
Đăng nhận xét