TT & HĐ - 21/k
Top 5 Nghịch Lý Hại Não Nhất Mọi Thời Đại
PHẦN II: Nền tảng
" Triết học bắt đầu từ sự ngạc nhiên"
Arixtốt
“Chúng
ta có thể mường tượng thế giới của thực tại như là một dòng nước ngầm;
thế giới hiện tượng thì ở bề mặt; bên dưới nó chúng ta không nhìn thấy
được. Các sự kiện ở tận đáy của dòng nước gây ra bọt và những xoáy nước ở
bề mặt. Đó là những chuyển động bức xạ và năng lượng của cuộc sống
chung của chúng ta, nó tác động tới các giác quan và do đó, kích thích
trí óc chúng ta; ở bên dưới, dòng nước ngầm vẫn chảy”
(Sir James Jeans.)
“Triết
học chân chính chỉ là triết học truyền đạt chính xác nhất tiếng nói của
bản thân thế giới và được viết dưới những sự chỉ dẫn của thế giới”
(Ph.Bêcơn)
“Tất cả mọi khoa học cần thiết hơn triết học, nhưng không một khoa học nào tốt hơn nó”
(Arixtốt)
CHƯƠNG X: THÁI CỰC
"Có những chân lý tầm thường và có những chân lý lớn lao. Đối lập với chân lý tầm thường là hoàn toàn sai lầm. Đối lập với chân lý lớn lao cũng là chân lý."
Niels Bohr
Xã hội tồn tại nhờ niềm tin, và phát triển nhờ khoa học.
Henri Frederic Amiel
"Không có khoa học vì
khoa học, không có nghệ thuật vì nghệ thuật. Khoa học nghệ thuật tồn tại
để phục vụ xã hội, để làm con người hạnh phúc hơn, cao thượng hớn, có
kiến thức phong phú hơn và có nhiều tiện nghi vật chất hơn trong đời
sống... ".
Khuyết danh
“Nếu
như ngay từ xa xưa vận mệnh khoa học nằm trong tay những người có bộ
óc chính xác và chặt chẽ như tôi từng gặp ở một số nhà toán học hiện
đại mà tôi rất trọng vọng, thì có lẽ khoa học đã chẳng thể tiến lên
phía trước.”
L. Mandelstam
“Toán học là khoa học chính xác. Nhưng cũng vì thế nó cằn cỗi”.
F. Hegel
“Toán
học không phải là một quyển sách chỉ gói gọn giữa các tờ bìa mà người
ta chỉ cần kiên nhẫn đọc hết nội dung, toán học cũng không phải là một
vùng mỏ quý mà người ta chỉ cần có thời gian để khai thác; toán học
cũng không phải là một cánh đồng sẽ bị bạc màu vì những vụ thu hoạch;
toán học cũng không phải là lục địa hay đại dương mà ta có thể vẽ
chúng lại được. Toán học không có những giới hạn như không gian mà
trong đó nó cảm thấy quá chật chội cho những khát vọng của nó; khả năng
của toán học là vô hạn như bầu trời đầy các vì sao; ta không thể giới
hạn toán học trong những quy tắc hay định nghĩa vì nó cũng giống như
cuộc sống luôn luôn tiến hóa”.
Cayley
“Toán
học chỉ cho ta những phương pháp hoặc những con đường dẫn tới chân
lý. Toán học làm cho những chân lý ấy khuất nhất trở thành minh bạch và
phơi bày chúng ra trước ánh sáng. Một mặt toán học làm giàu sự hiểu
biết của chúng ta, mặt khác nó làm cho suy nghĩ của chúng ta thêm sâu
sắc”.
Sylvester
"Toán
học như con chiến mã quí độc nhất vô nhị đưa ta qua những cuộc chiến
ác liệt để giành những thành quả khoa học oai hùng hơn bao giờ hết!
Nhưng nó cũng là con ngựa bất kham đưa ta lạc vào Bát quái trận đồ của
sự giả tưởng quá đà."
Ba Đá
(Tiếp theo)
***
Sự
tương phản ảo - thực hoàn toàn qua gốc O (nghĩa là theo cách biểu diễn
âm - dương) là sau khi tổng hợp tương phản, sẽ đưa ra kết quả là 0.
Chúng ta đã từng nói như thế phải không nhỉ?
Nếu
đã nói như thế thì tại sao chúng ta còn nói sự tổng hợp tương phản của
hai lực lượng ảo thực là không bao giờ bằng 0 được vì tồn tại vẫn còn
đó?
Sở
dĩ nói “lung tung” và có vẻ tâm thần như vậy là vì mối tương phản ảo
thực có tính hai mặt: tuyệt đối và tương đối. Khi chúng ta quan niệm cực
đoan hóa Vũ Trụ thì Vũ Trụ là có biên, nghĩa là có trong Vũ Trụ và
ngoài Vũ Trụ. Khi quan sát Vũ Trụ từ bên ngoài, chúng ta sẽ thấy sự
tuyệt đối của mối tương phản ảo - thực và khi sự tổng hợp tương phản xảy
ra, sẽ có một kết quả là O: Vũ trụ biến mất tiêu! Cái O ấy chính là
khoảng mà trước đây Vũ Trụ đã chiếm chỗ, giờ đây đã thành bộ phận của
thế giới “ngoài Vũ Trụ”.
Như
chúng ta đã “qui định” cho Vũ Trụ là hữu hạn nhưng vô biên, nên sẽ
chẳng có cái gọi là bên ngoài Vũ Trụ được, do đó dù là thực sự tồn tại
mối tương phản ảo - thực tuyệt đối thì cũng không bao giờ xảy ra sự tổng
hợp tương phản để tạo ra kết quả là ngoài Tồn Tại, cũng có nghĩa là tạo
ra Hư Vô được.
Ngày
xưa, do không phân biệt được giữa tồn tại nền tảng và hiện thực, người
ta đã cho rằng nếu không hiện hữu (đồng nghĩa với tồn tại!) thì chỉ có
thể là hư vô. Chúng ta thấy rằng đó là một quan niệm đúng nếu đặt nó
trong qui ước và hiểu rằng sự đúng ở đây chỉ là tương đối. Quan niệm
tương đối ấy tương tự với quan niệm tuyệt đối: không Tồn Tại thì cũng
chính là Hư Vô. Rõ ràng là hai quan niệm đó có vẻ giống nhau nhưng hoàn
toàn khác nhau về bản chất. Hơn nữa phát biểu về quan niệm gọi là tuyệt
đối nêu trên là chưa đầy đủ. Sự phát biểu hoàn chỉnh phải là: không Tồn
Tại thì cũng chính là Hư Vô, nhưng Hư Vô thì vẫn là Tồn Tại, rốt cục thì
cũng chẳng Tồn Tại mà cũng chẳng Hư Vô, chỉ vỏn vẹn là Vốn Dĩ Thế!
Khi
cho rằng không hiện hữu là hư vô và chỉ có thế thôi, toán học đã đi đến
quan niệm cực đoan về thực tại và tương tự như đứng ngoài Vũ Trụ để
quan sát Vũ Trụ, đã tuyệt đối hóa hiện hữu và hư vô để rồi nhìn thấy một
cách cực đoan, phiến diện mối tương phản ảo - thực cũng như sự tổng hợp
tương phản của nó. Khi toán học hô: “trừ bảy” thì -7 hiện hữu; khi hô:
“cộng bảy” thì +7 hiện hữu. Đó là hai hiện hữu mà một là “thật thà” một
là “giả dối”. Khi toán học hô tiếp: “tổng hợp” thì ngay lập tức hai hiện
hữu đó biến mất và chỉ còn lại hư vô. Để biết được “đó” là hư vô thì
lại phải ký hiệu, cho nên toán học không còn cách nào khác lại phải cho
xuất hiện số 0 - một hiện hữu được gọi là “hư vô” (!!!). Và toán học hồn
nhiên viết:
(-7) + (+7) = 0
Giả
sử có một bàn cân như mô tả ở hình 39. Chúng ta đặt lên mỗi đĩa cân một
quả cân nặng 10 kg. Như vậy hai quả cân đó nằm ở những vị trí tương
phản nhau qua trục trung tâm của bàn cân. Toán học lý giải thế nào về
hiện tượng này? Vì hai quả cân là tương phản nhau (về vị trí) nên toán
học cho rằng đó là hai hiện hữu (tồn tại) quan hệ với nhau qua trục cân
một cách tương phản, nếu quả này được gọi là “dương” thì quả kia phải
gọi là “âm”. Từ đó toán học cho rằng:
- Tổng của hai quả cân là:
10kg + 10 kg = 20 kg
- Vì cân ở trạng thái cân bằng (kim chỉ số 0) nên:
(+10 kg) + (-10 kg) = 0 kg
Nếu hiểu theo chúng ta thì:
Nhìn ở góc độ thực thể, hệ thống hay một khối thống nhất, thì cách mô tả nào gần với hiện thực hơn?
Hình 39: Bàn cân
Ảo - thực là trường hợp riêng của tương phản nói chung. Thí dụ trên dù sao cũng chưa làm sáng tỏ hoàn toàn được mối quan hệ ấy.
Chúng
ta nêu thí dụ khác: sự soi gương. “Cái tôi” trong gương có phải là “cái
tôi ngoài đời” không? Dứt khoát là không! Thế thì nó là cái gì của cái
tôi ngoài đời khi nó phụ thuộc hoàn toàn vào sự hiện hữu trước gương của
cái tôi ngoài đời? Nó là hình ảnh phản chiếu của cái tôi ngoài đời, là
sự tạo dựng của nhiều lực lượng, nhiều yếu tố mà trong đó, cái tôi ngoài
đời đóng vai trò quyết định. Hình ảnh ấy không phải là sự phản chiếu
hoàn toàn cái tôi ngoài đời mà chỉ là một phần (bề ngoài) nào đó của cái
tôi ngoài đời (không linh hồn, không tư duy). Nó cùng với toàn bộ không
gian trong gương, giống hệt cả về hình dáng lẫn hành vi của một bộ phận
được chiếu lên gương của cái tôi và không gian ngoài gương, chỉ có điều
là trái ngược (không phải là tất cả!) và có tính độc lập tách biệt
tương đối đối với thế giới ngoài gương.
Cái
thế giới được phản chiếu ra từ trong gương ấy có mang tính lực lượng
không? Trước hết, chúng ta cho rằng nó hiện hữu vì chúng ta thấy nó một
cách trực giác. Hiện hữu là sự thể hiện của tồn tại mà tồn tại thì phải
mang tính lực lượng. Mặt khác, sự phản chiếu là kết quả của tác động và
phản ứng của hai hay nhiều lực lượng đối với nhau. Không có lực lượng là
cái gương, cái tôi và không gian bên ngoài gương thì không có thế giới
trong gương. Cụ thể là không có một lực lượng gương “cưu mang” thì thế
giới trong gương không xuất hiện được. Do đó cần phải cho rằng thế giới
trong gương là có tính lực lượng. Nghĩa là phải đi đến khẳng định: thế
giới trong gương là một hiện thực, là sự thể hiện ra trước quan sát của
những tồn tại cũng như sự vận động chuyển hóa giữa chúng mà quan sát
không nhận diện được và gọi là nền tảng.
Tuy
nhiên cái thế giới khách quan trong gương (mang tính chủ quan của
gương) lại có một đời sống phù du, bấp bênh, không bền. Nó mất đi thì
thế giới khách quan ngoài gương vẫn còn đó nhưng khi thế giới ngoài
gương mất đi (không hiện hữu trước gương nữa!) thì nó không thể nào “còn
đó” được. Sự hiện hữu của cái tôi trong gương hoàn toàn phụ thuộc vào
cái tôi ngoài gương!
Chúng
ta gọi hiện tượng nói trên là sự tương phản ảo - thực. Thế giới của cái
tôi ngoài gương được lựa chọn là thực, cho nên thế giới trong gương
được gọi là ảo. Như vậy khi cái tôi thực đứng trước gương sẽ tạo nên
thêm một cái tôi ảo. Nếu tổng hợp hai cái tôi tương phản nhau ấy thì
chắc rằng toán học sẽ cho ra kết quả là hư vô:
(+cái tôi) + (-cái tôi) = 0,
và xét ở góc độ lực lượng thì có thể toán học cho rằng:
Cái tôi + cái tôi = 2 cái tôi
Hai cái tôi ấy cũng là hai cái tôi thực!
Còn
quan niệm của chúng ta thì sao? Đối với chúng ta thì cái tôi trong
gương không phải là cái tôi ngoài gương mà chỉ là sự phản chiếu một bộ
phận nhất định, một phần bên ngoài nào đó của cái tôi ngoài gương. Dù
vậy, cũng có thể qui ước một phần cái tôi là cái tôi. Cho nên chúng ta
cũng có mối tương phản cái tôi ảo và cái tôi thực và kết quả tổng hợp
tương phản là:
Hai cái tôi ấy, chẳng thể khác, cũng là hai cái tôi thực.
Thế
là toán học và chúng ta đều là hai nhà ảo thuật “tài giỏi” như nhau vì
đều có thể từ một cái tôi thực làm ra thêm một cái tôi ảo để rồi a lê…
hấp, làm xuất hiện hai cái tôi một cách đồng thời không biết là thực hay
ảo.
Tồn
Tại là duy nhất và tồn tại cũng duy nhất với chính nó, do đó mà sự biểu
hiện của tồn tại cũng duy nhất. Không thể từ một tồn tại lại biểu hiện
đồng thời ra hai hiện hữu trước một quan sát được (lưu ý rằng một hiện
hữu thì đồng thời có thể làm xuất hiện cùng lúc hai hay nhiều hiện hữu
và được coi như là những hình ảnh khác nhau của nó, trong mối liên hệ
với các hiện hữu khác nhưng đó thực ra cũng chỉ là tương đối, nằm trong
sự qui ước). Nguyên lý Tự Nhiên nhìn trò ảo thuật ấy, lắc đầu ngao ngán!
Để
không làm cho nguyên lý Tự Nhiên buồn phiền, cần phải phân trần rằng đó
chỉ là… trò ảo thuật cho vui thiên hạ thôi chứ thực ra hai cái tôi ấy
xuất hiện không đồng thời, hơn nữa chúng là thực mà cũng là ảo, vừa cả
hai mà cũng không phải cả hai, tùy ở mức độ nhận thức và sự qui ước.
Nhờ
có ánh sáng tác động vào cái tôi thực; cái tôi thực phản ứng tạo nên
ánh sáng phản xạ từ nó tác động lên hệ quan sát ngoài nó và lên gương.
Gương bị tác động nên cũng phản ứng tạo nên ánh sáng phản xạ tác động
lên hệ quan sát. Nhờ thế mà hệ quan sát có được hai hình ảnh từ cái tôi
thực, một là trực tiếp từ cái tôi thực, một là gián tiếp từ gương gọi là
cái tôi ảo. Dù thực hay ảo thì cũng chỉ là hình ảnh của cái tôi thực
cho nên lúc này muốn qui ước thế nào cũng được. Hơn nữa muốn quan sát
được hai hình ảnh được cho là cái tôi thực và cái tôi ảo, thì sự tác
động của ánh sáng từ hai “nguồn phản xạ” lên hệ quan sát phải có tính
lần lượt về thời gian, cái này rồi mới đến cái kia, nếu không, sự đồng
thời sẽ gây nên hiện tượng nhiễu loạn (tổng hợp tương phản?) và như thế
sẽ thấy một cái gì đó “lộn xộn, loang lổ”, không ảo mà cũng chẳng thực,
tạm gọi là “cái tôi vớ vẩn”.
Như
vậy hoặc chỉ thấy một cái tôi (hoặc ảo hoặc thực) trong một đơn vị thời
gian, với lực lượng (nền tảng) là bằng một cái tôi và vì ngay lúc đó
không nằm trong mối tương phản nào cả nên cái tôi đó cũng là thực; hoặc
thấy một cái gì đó không phải tôi ảo và cũng không phải tôi thực (nhưng
cũng không hẳn như thế!) có lực lượng (nền tảng) bằng hai cái tôi, đó là
một hiện hữu mới trên nền tảng lực lượng mới (gồm tổng hợp của hai
luồng ánh sáng phản chiếu tới!) được đặt tên là “cái tôi vớ vẩn”, và dù
có cái tên xấu như thế nhưng nó vẫn là hiện thực, vẫn là sự khó chối cãi
được.
Tuy
nhiên, nếu chỉ quan tâm đến hiện hữu và cho rằng thế giới của cái tôi
ngoài gương là một hiện thực thì vì gương là một hiện hữu nằm trong hiện
thực ấy nên thế giới trong gương không thể ngoài hiện thực được, nó
cũng được coi là một bộ phận của hiện thực và mang tính ảo. Với quan
niệm và qui ước như thế, sự mô tả toán học và của chúng ta đều đúng, với
lưu ý rằng hai cái tôi hiện hữu đó thực chất đều chỉ là hình ảnh một
phần bề ngoài nào đó của cái tôi trước một hệ quan sát từ ngoài cái tôi
thực. (Hai hiện hữu ấy là thực vì đều có một nền tảng tồn tại thực sự).
Dù sao, chúng ta cũng nhấn mạnh rằng trong trường hợp này, “cái tôi” chỉ
là tên gọi của hai hiện hữu chứ không phải là cái tôi của hệ quan sát.
Đối với hệ quan sát, chúng là những cái phi tôi (không phải tôi). Cuối
cùng, khi hệ quan sát chính là mắt của cái tôi thực thì dù có nhìn thấy
cùng một lúc hai hay vô vàn cái gọi là tôi thì chúng cũng chỉ là những
hình ảnh khác nhau, những sự phản ánh khác nhau về một hiện hữu (nếu chỉ
quan tâm đến hiện hữu) hoặc sâu sắc hơn, chúng là những biểu hiện của
mối quan hệ phụ thuộc lẫn nhau của các sự vật - hiện tượng không hoàn
toàn giống nhau, và sâu sắc hơn nữa, chúng chính là kết quả được tạo
dựng bởi sự vận động, chuyển hóa lẫn nhau, đan xen nhau của những tồn
tại ở tầng nền tảng (tầng mà quan sát chưa nhận thức được!)…
Thật
là điên đầu bởi sự quá rối rắm! Nhưng biết làm sao khi trình độ giải
bày của bộ não chúng ta bị giới hạn, đã cố hết sức nhưng cũng chỉ đạt
được đến thế. Rất mong có những bộ não đồng cảm được, tài giỏi hơn bội
phần, điều chỉnh sửa lại và diễn đạt mạch lạc, xác đáng hơn!...
Khi
đưa ra thí dụ “Sự soi gương”, mục đích của chúng ta là muốn lột tả ra
cái chân tướng đích thực của sự tương phản tuyệt đối ảo - thực. Sự tương
phản qua gương thật sự đã dạy cho chúng ta nhiều điều bổ ích, đã giúp
chúng ta hình dung ra phần nào mối tương phản tuyệt đối ảo - thực và có
lẽ bản thân “sự soi gương” đã là một hiện tượng rất gần với hiện tượng
tương phản ảo - thực tuyệt đối mà chúng ta đã “thấy” trong… hoang tưởng.
Nhưng hoang tưởng là ở trong thực tại nên cũng là một bộ phận (dù là nhỏ nhoi) của thực tại. Vì vậy mà sự tương phản ảo - thực tuyệt đối cũng mang tính thực tại; là hình ảnh của một hiện tượng có thực. Để xác định được sự tương phản nào là tương phản ảo - thực tuyệt đối, chúng ta cần thiết phải đưa ra những tiêu chí để đánh giá, hay còn gọi là những đặc tính của nó. Theo chúng ta thì đặc tính của sự tương phản ảo - thực tuyệt đối là: kết quả tổng hợp tương phản của nó sẽ là một Hư Vô (hư vô tuyệt đối).
Khi
toán học viết (+7-7=0); với số 0 là ám chỉ Hư Vô và chỉ viết có thế
thôi, thì toán học đã mô tả sự tổng hợp tương phản của ảo - thực tuyệt
đối.
Nhờ
qui ước, chúng ta có thể thấy được sự tổng hợp tương phản của ảo - thực
tuyệt đối trong thực tại. Nhưng ngoài qui ước, không bao giờ có thể xảy
ra sự tổng hợp tuyệt đối ấy trong Vũ Trụ, vì Tồn Tại không thể bị triệt
tiêu để nhường chỗ cho Hư Vô được.
Như
đã nói, nếu có bên ngoài Vũ Trụ thì sự quan sát từ đó mới thấy được Vũ
Trụ là một tương phản ảo - thực tuyệt đối (nhưng muốn thấy được như thế
thì sự tổng hợp tương phản của Vũ Trụ phải biết chờ đợi!).
Lúc đó, gọi lực lượng của Vũ Trụ là
,
phân định thành lưỡng nghi ảo - thực là:
(Chẳng
còn tí Vũ Trụ nào cả, một khối Hư Vô không phân định được với thế giới
ngoài Vũ Trụ làm cho cái thế giới ấy cũng chẳng khác gì Hư Vô).
Nhưng
giả sử cũng sự tổng hợp ấy nhưng quan sát từ trong Vũ Trụ thì có thấy
Hư Vô không? Nhớ rằng quan sát chỉ có thể ở một trong hai thế giới ảo -
thực (và vì lúc nào quan sát cũng lựa chọn mình là sự thực nên thế giới
của nó cũng phải là thực, điều đó tương tự như chọn hư vô hay tồn tại
tùy ý, nhưng nếu chọn hư vô thì cũng vẫn là tồn tại!). Không bao giờ có
thể thấy Hư Vô được!
Trong trường hợp này, toán học khó mà diễn tả được!
Chúng ta sẽ thử áp dụng cách của mình để diễn tả cả hai trường hợp xem thế nào.
Khi
quan sát từ ngoài Vũ Trụ, vì là hệ lưỡng nghi ảo - thực tuyệt đối nên
bản chất của hai lực lượng phân định lưỡng nghi cũng tương phản tuyệt
đối, nghĩa là gồm
và
; do đó sự tổng hợp tương phản sẽ là:
Vì
là duy nhất nên
cũng chính là
, do đó:
Khi
quan sát từ trong Vũ Trụ, hai lực lượng tương phản của Vũ Trụ đều có
bản chất duy nhất là Tồn Tại (ảo hay thực thì rốt cuộc vẫn là thực!); do
đó chúng như nhau (tương tự như hai quả cân trong trường hợp bàn cân).
Vậy thì sự tổng hợp tương phản của Vũ Trụ bây giờ là:
(Muốn giở trò gì thì giở, Vũ Trụ vẫn vốn dĩ thế!).
Nhớ lại biểu thức
Chúng ta thấy rằng trong sự tổng hợp tuyệt đối ảo thực của Vũ Trụ nhìn
từ bên trong (nghĩa là không nhìn thấy sự tuyệt đối theo định nghĩa mà
chỉ thấy tương đối cái tuyệt đối!), a biểu thị là “một nửa
”.
Suy
tư triết học (hay suy nghĩ quẩn quanh?) đã đưa chúng ta đến một ý tưởng
quá ư là lạ lùng: nội tại hạt KG cũng là một Vũ Trụ y hệt như Vũ Trụ
của chúng ta nhưng nếu “so” với Vũ Trụ của chúng ta thì nó mang tính ảo.
Một con người là vô cùng nhỏ nhoi trong Vũ Trụ nhưng bản thân lại hàm
chứa vô vàn cái Vũ Trụ như thế. Điều đó liệu có ai tin nổi không?
Nếu
chúng ta gọi Vũ Trụ đang trình hiện trước chúng ta là Vũ Trụ thực thì
nội tại của hạt KG được gọi là Vũ Trụ ảo. Nếu suy tư triết học là đúng
thì sự tổng hợp tương phản tuyệt đối giữa hai lực lượng ảo - thực ấy
phải có kết quả là
(vì chúng ta nhìn từ bên trong!).
Thử xem! Khi Vũ Trụ của chúng ta là
thì nội tại hạt KG là
. Kết quả của sự tổng hợp tương phản tuyệt đối nhìn từ bên trong sẽ là:
Thế nào? Suy tư triết học lộ nguyên hình là một suy nghĩ rối loạn thần kinh rồi nhé! Thật tội nghiệp cho một giấc mơ!
Có gì đâu, đem 2
đó chia cho 2 sẽ còn
!
Ối giời ơi! Thật là chán chường cho sự ngụy biện!
Vui thế thôi chứ 2
đó mà nói lên được điều gì? Đồng ý rằng kết quả 2
là sai, nhưng cái sai đó không phải tại suy tư triết học mà là tại… sự bộp chộp.
Nội tại hạt KG không thể ngoài Vũ Trụ được do đó khi lực lượng
phân định thành ảo thực tuyệt đối thì nội tại của hạt KG phải là
; do đó sự tổng hợp tương phản giữa hai lực lượng Vũ Trụ sẽ là:
Đúng chưa? Chưa đúng! Làm sao có thể quan niệm được lực lượng Vũ Trụ đang là
, chỉ vì nội tại của một hạt KG mà phải bị bớt đi còn
?
Được rồi, còn một cách nữa! Lực lượng Vũ Trụ là
,
lực lượng hạt KG là 1. Khi Vũ trụ và hạt KG nằm trong mối tương phản ảo
- thực thì vì không thể có sự tham gia của “lực lượng ngoại lai” nào và
cũng không thể mất đi đâu được chút lực lượng Vũ Trụ nào nên chỉ có thể
mô tả mối tương phản ảo thực ấy là:
Nếu kết quả tổng hợp tương phản này là
thì hết cãi chứ gì? Nào, chúng ta xem:
Lúc này
đứng “một mình ên” nên cũng là
. Hai lực lượng 2 và
chỉ có thể thuộc về
nên chúng bằng nhau. Vậy:
Rõ ràng nội tại của hạt KG là ảo của Vũ Trụ
, nó bằng
!
Theo cái nghĩa này thì có thể viết biểu thức
Không thích làm thế thì làm thế này:
Có thể ví hạt KG như một tấm gương soi nhỏ xíu mà nếu nhìn vào đó, chúng ta sẽ thấy cả một Vũ Trụ
lung
linh, ảo huyền nhưng không thể bước vào trong đó được vì đã có chúng ta
“thứ hai” ở đó. Hai “cái chúng ta” ấy không bao giờ có thể ở chung một
thế giới được. Nếu chúng ta ở ngoài cố tình bước vào thì đồng thời chúng
ta cũng đang bước ra để rồi đến một giới hạn, hai chúng ta sẽ chuyển
hóa thành nhau: ảo thành thực và thực thành ảo, đàng trước thành đàng
sau và đàng sau thành đàng trước, tiếp tục đi và có nghĩa là trở về nơi
đã xuất phát. Giả sử đến nơi xuất phát rồi mà chúng ta cứ tiếp tục đi
như thế thì chúng ta đến đâu, về phía vô cùng lớn chăng? Không, về phía
vô cùng xa! Muốn đến vô cùng nhỏ, chúng ta phải hóa vô cùng nhỏ và ngược
lại, muốn đến vô cùng lớn chúng ta cũng phải hóa dần thành vô cùng lớn.
Số bước chân nhiều vô kể hay số đếm khổng lồ, nếu không phải là sự tích
tụ đồng thời trong một đơn vị thời gian thì cũng… tầm thường thôi!...
(Còn tiếp)
----------------------------------------------------------------
----------------------------------------------------------------
Nhận xét
Đăng nhận xét