Thứ Năm, 29 tháng 10, 2020

TT & HĐ - 21/k

                                           

                                             Top 5 Nghịch Lý Hại Não Nhất Mọi Thời Đại

 

PHẦN II:     Nền tảng


" Triết học bắt đầu từ sự ngạc nhiên"
Arixtốt

“Chúng ta có thể mường tượng thế giới của thực tại như là một dòng nước ngầm; thế giới hiện tượng thì ở bề mặt; bên dưới nó chúng ta không nhìn thấy được. Các sự kiện ở tận đáy của dòng nước gây ra bọt và những xoáy nước ở bề mặt. Đó là những chuyển động bức xạ và năng lượng của cuộc sống chung của chúng ta, nó tác động tới các giác quan và do đó, kích thích trí óc chúng ta; ở bên dưới, dòng nước ngầm vẫn chảy”
(Sir James Jeans.)
 
“Triết học chân chính chỉ là triết học truyền đạt chính xác nhất tiếng nói của bản thân thế giới và được viết dưới những sự chỉ dẫn của thế giới” 
(Ph.Bêcơn)

“Tất cả mọi khoa học cần thiết hơn triết học, nhưng không một khoa học nào tốt hơn nó” 
(Arixtốt)

CHƯƠNG X: THÁI CỰC

"Có những chân lý tầm thường và có những chân lý lớn lao. Đối lập với chân lý tầm thường là hoàn toàn sai lầm. Đối lập với chân lý lớn lao cũng là chân lý." 

 Niels Bohr

Xã hội tồn tại nhờ niềm tin, và phát triển nhờ khoa học. 
 Henri Frederic Amiel

"Không có khoa học vì khoa học, không có nghệ thuật vì nghệ thuật. Khoa học nghệ thuật tồn tại để phục vụ xã hội, để làm con người hạnh phúc hơn, cao thượng hớn, có kiến thức phong phú hơn và có nhiều tiện nghi vật chất hơn trong đời sống... ".
Khuyết danh

“Nếu như ngay từ xa xưa vận mệnh khoa học nằm trong tay những người có bộ óc chính xác và chặt chẽ như tôi từng gặp ở một số nhà toán học hiện đại mà tôi rất trọng vọng, thì có lẽ khoa học đã chẳng thể tiến lên phía trước.”
L. Mandelstam
 
“Toán học là khoa học chính xác. Nhưng cũng vì thế nó cằn cỗi”.
F. Hegel
 
“Toán học không phải là một quyển sách chỉ gói gọn giữa các tờ bìa mà ng­ười ta chỉ cần kiên nhẫn đọc hết nội dung, toán học cũng không phải là một vùng mỏ quý mà ng­ười ta chỉ cần có thời gian để khai thác; toán học cũng không phải là một cánh đồng sẽ bị bạc màu vì những vụ thu hoạch; toán học cũng không phải là lục địa hay đại d­ương mà ta có thể vẽ chúng lại đ­ược. Toán học không có những giới hạn như­ không gian mà trong đó nó cảm thấy quá chật chội cho những khát vọng của nó; khả năng của toán học là vô hạn như­ bầu trời đầy các vì sao; ta không thể giới hạn toán học trong những quy tắc hay định nghĩa vì nó cũng giống như­ cuộc sống luôn luôn tiến hóa”.    
Cayley
 
“Toán học chỉ cho ta những ph­ương pháp hoặc những con đ­ường dẫn tới chân lý. Toán học làm cho những chân lý ấy khuất nhất trở thành minh bạch và phơi bày chúng ra tr­ước ánh sáng. Một mặt toán học làm giàu sự hiểu biết của chúng ta, mặt khác nó làm cho suy nghĩ của chúng ta thêm sâu  sắc”. 
  Sylvester
 
"Toán học như con chiến mã quí độc nhất vô nhị đưa ta qua những cuộc chiến ác liệt để giành những thành quả khoa học oai hùng hơn bao giờ hết! Nhưng nó cũng  là con ngựa bất kham đưa ta lạc vào Bát quái trận đồ của sự giả tưởng quá đà."
Ba Đá
 
 
 
 

(Tiếp theo)


***
Sự tương phản ảo - thực hoàn toàn qua gốc O (nghĩa là theo cách biểu diễn âm - dương) là sau khi tổng hợp tương phản, sẽ đưa ra kết quả là 0. Chúng ta đã từng nói như thế phải không nhỉ?
Nếu đã nói như thế thì tại sao chúng ta còn nói sự tổng hợp tương phản của hai lực lượng ảo thực là không bao giờ bằng 0 được vì tồn tại vẫn còn đó?
Sở dĩ nói “lung tung” và có vẻ tâm thần như vậy là vì mối tương phản ảo thực có tính hai mặt: tuyệt đối và tương đối. Khi chúng ta quan niệm cực đoan hóa Vũ Trụ thì Vũ Trụ là có biên, nghĩa là có trong Vũ Trụ và ngoài Vũ Trụ. Khi quan sát Vũ Trụ từ bên ngoài, chúng ta sẽ thấy sự tuyệt đối của mối tương phản ảo - thực và khi sự tổng hợp tương phản xảy ra, sẽ có một kết quả là O: Vũ trụ biến mất tiêu! Cái O ấy chính là khoảng mà trước đây Vũ Trụ đã chiếm chỗ, giờ đây đã thành bộ phận của thế giới “ngoài Vũ Trụ”.
Như chúng ta đã “qui định” cho Vũ Trụ là hữu hạn nhưng vô biên, nên sẽ chẳng có cái gọi là bên ngoài Vũ Trụ được, do đó dù là thực sự tồn tại mối tương phản ảo - thực tuyệt đối thì cũng không bao giờ xảy ra sự tổng hợp tương phản để tạo ra kết quả là ngoài Tồn Tại, cũng có nghĩa là tạo ra Hư Vô được.
Ngày xưa, do không phân biệt được giữa tồn tại nền tảng và hiện thực, người ta đã cho rằng nếu không hiện hữu (đồng nghĩa với tồn tại!) thì chỉ có thể là hư vô. Chúng ta thấy rằng đó là một quan niệm đúng nếu đặt nó trong qui ước và hiểu rằng sự đúng ở đây chỉ là tương đối. Quan niệm tương đối ấy tương tự với quan niệm tuyệt đối: không Tồn Tại thì cũng chính là Hư Vô. Rõ ràng là hai quan niệm đó có vẻ giống nhau nhưng hoàn toàn khác nhau về bản chất. Hơn nữa phát biểu về quan niệm gọi là tuyệt đối nêu trên là chưa đầy đủ. Sự phát biểu hoàn chỉnh phải là: không Tồn Tại thì cũng chính là Hư Vô, nhưng Hư Vô thì vẫn là Tồn Tại, rốt cục thì cũng chẳng Tồn Tại mà cũng chẳng Hư Vô, chỉ vỏn vẹn là Vốn Dĩ Thế!
Khi cho rằng không hiện hữu là hư vô và chỉ có thế thôi, toán học đã đi đến quan niệm cực đoan về thực tại và tương tự như đứng ngoài Vũ Trụ để quan sát Vũ Trụ, đã tuyệt đối hóa hiện hữu và hư vô để rồi nhìn thấy một cách cực đoan, phiến diện mối tương phản ảo - thực cũng như sự tổng hợp tương phản của nó. Khi toán học hô: “trừ bảy” thì -7 hiện hữu; khi hô: “cộng bảy” thì +7 hiện hữu. Đó là hai hiện hữu mà một là “thật thà” một là “giả dối”. Khi toán học hô tiếp: “tổng hợp” thì ngay lập tức hai hiện hữu đó biến mất và chỉ còn lại hư vô. Để biết được “đó” là hư vô thì lại phải ký hiệu, cho nên toán học không còn cách nào khác lại phải cho xuất hiện số 0 - một hiện hữu được gọi là “hư vô” (!!!). Và toán học hồn nhiên viết:
(-7) + (+7) = 0
Giả sử có một bàn cân như mô tả ở hình 39. Chúng ta đặt lên mỗi đĩa cân một quả cân nặng 10 kg. Như vậy hai quả cân đó nằm ở những vị trí tương phản nhau qua trục trung tâm của bàn cân. Toán học lý giải thế nào về hiện tượng này? Vì hai quả cân là tương phản nhau (về vị trí) nên toán học cho rằng đó là hai hiện hữu (tồn tại) quan hệ với nhau qua trục cân một cách tương phản, nếu quả này được gọi là “dương” thì quả kia phải gọi là “âm”. Từ đó toán học cho rằng:
-         Tổng của hai quả cân là:
10kg + 10 kg = 20 kg
-         Vì cân ở trạng thái cân bằng (kim chỉ số 0) nên:
(+10 kg) + (-10 kg) = 0 kg
Nếu hiểu theo chúng ta thì:
Nhìn ở góc độ thực thể, hệ thống hay một khối thống nhất, thì cách mô tả nào gần với hiện thực hơn?
Hình 39: Bàn cân
Ảo - thực là trường hợp riêng của tương phản nói chung. Thí dụ trên dù sao cũng chưa làm sáng tỏ hoàn toàn được mối quan hệ ấy.
Chúng ta nêu thí dụ khác: sự soi gương. “Cái tôi” trong gương có phải là “cái tôi ngoài đời” không? Dứt khoát là không! Thế thì nó là cái gì của cái tôi ngoài đời khi nó phụ thuộc hoàn toàn vào sự hiện hữu trước gương của cái tôi ngoài đời? Nó là hình ảnh phản chiếu của cái tôi ngoài đời, là sự tạo dựng của nhiều lực lượng, nhiều yếu tố mà trong đó, cái tôi ngoài đời đóng vai trò quyết định. Hình ảnh ấy không phải là sự phản chiếu hoàn toàn cái tôi ngoài đời mà chỉ là một phần (bề ngoài) nào đó của cái tôi ngoài đời (không linh hồn, không tư duy). Nó cùng với toàn bộ không gian trong gương, giống hệt cả về hình dáng lẫn hành vi của một bộ phận được chiếu lên gương của cái tôi và không gian ngoài gương, chỉ có điều là trái ngược (không phải là tất cả!) và có tính độc lập tách biệt tương đối đối với thế giới ngoài gương.
Cái thế giới được phản chiếu ra từ trong gương ấy có mang tính lực lượng không? Trước hết, chúng ta cho rằng nó hiện hữu vì chúng ta thấy nó một cách trực giác. Hiện hữu là sự thể hiện của tồn tại mà tồn tại thì phải mang tính lực lượng. Mặt khác, sự phản chiếu là kết quả của tác động và phản ứng của hai hay nhiều lực lượng đối với nhau. Không có lực lượng là cái gương, cái tôi và không gian bên ngoài gương thì không có thế giới trong gương. Cụ thể là không có một lực lượng gương “cưu mang” thì thế giới trong gương không xuất hiện được. Do đó cần phải cho rằng thế giới trong gương là có tính lực lượng. Nghĩa là phải đi đến khẳng định: thế giới trong gương là một hiện thực, là sự thể hiện ra trước quan sát của những tồn tại cũng như sự vận động chuyển hóa giữa chúng mà quan sát không nhận diện được và gọi là nền tảng.
Tuy nhiên cái thế giới khách quan trong gương (mang tính chủ quan của gương) lại có một đời sống phù du, bấp bênh, không bền. Nó mất đi thì thế giới khách quan ngoài gương vẫn còn đó nhưng khi thế giới ngoài gương mất đi (không hiện hữu trước gương nữa!) thì nó không thể nào “còn đó” được. Sự hiện hữu của cái tôi trong gương hoàn toàn phụ thuộc vào cái tôi ngoài gương!
Chúng ta gọi hiện tượng nói trên là sự tương phản ảo - thực. Thế giới của cái tôi ngoài gương được lựa chọn là thực, cho nên thế giới trong gương được gọi là ảo. Như vậy khi cái tôi thực đứng trước gương sẽ tạo nên thêm một cái tôi ảo. Nếu tổng hợp hai cái tôi tương phản nhau ấy thì chắc rằng toán học sẽ cho ra kết quả là hư vô:
(+cái tôi) + (-cái tôi) = 0,
và xét ở góc độ lực lượng thì có thể toán học cho rằng:
Cái tôi + cái tôi = 2 cái tôi
Hai cái tôi ấy cũng là hai cái tôi thực!
Còn quan niệm của chúng ta thì sao? Đối với chúng ta thì cái tôi trong gương không phải là cái tôi ngoài gương mà chỉ là sự phản chiếu một bộ phận nhất định, một phần bên ngoài nào đó của cái tôi ngoài gương. Dù vậy, cũng có thể qui ước một phần cái tôi là cái tôi. Cho nên chúng ta cũng có mối tương phản cái tôi ảo và cái tôi thực và kết quả tổng hợp tương phản là:
Hai cái tôi ấy, chẳng thể khác, cũng là hai cái tôi thực.
Thế là toán học và chúng ta đều là hai nhà ảo thuật “tài giỏi” như nhau vì đều có thể từ một cái tôi thực làm ra thêm một cái tôi ảo để rồi a lê… hấp, làm xuất hiện hai cái tôi một cách đồng thời không biết là thực hay ảo.
Tồn Tại là duy nhất và tồn tại cũng duy nhất với chính nó, do đó mà sự biểu hiện của tồn tại cũng duy nhất. Không thể từ một tồn tại lại biểu hiện đồng thời ra hai hiện hữu trước một quan sát được (lưu ý rằng một hiện hữu thì đồng thời có thể làm xuất hiện cùng lúc hai hay nhiều hiện hữu và được coi như là những hình ảnh khác nhau của nó, trong mối liên hệ với các hiện hữu khác nhưng đó thực ra cũng chỉ là tương đối, nằm trong sự qui ước). Nguyên lý Tự Nhiên nhìn trò ảo thuật ấy, lắc đầu ngao ngán!
Để không làm cho nguyên lý Tự Nhiên buồn phiền, cần phải phân trần rằng đó chỉ là… trò ảo thuật cho vui thiên hạ thôi chứ thực ra hai cái tôi ấy xuất hiện không đồng thời, hơn nữa chúng là thực mà cũng là ảo, vừa cả hai mà cũng không phải cả hai, tùy ở mức độ nhận thức và sự qui ước.
Nhờ có ánh sáng tác động vào cái tôi thực; cái tôi thực phản ứng tạo nên ánh sáng phản xạ từ nó tác động lên hệ quan sát ngoài nó và lên gương. Gương bị tác động nên cũng phản ứng tạo nên ánh sáng phản xạ tác động lên hệ quan sát. Nhờ thế mà hệ quan sát có được hai hình ảnh từ cái tôi thực, một là trực tiếp từ cái tôi thực, một là gián tiếp từ gương gọi là cái tôi ảo. Dù thực hay ảo thì cũng chỉ là hình ảnh của cái tôi thực cho nên lúc này muốn qui ước thế nào cũng được. Hơn nữa muốn quan sát được hai hình ảnh được cho là cái tôi thực và cái tôi ảo, thì sự tác động của ánh sáng từ hai “nguồn phản xạ” lên hệ quan sát phải có tính lần lượt về thời gian, cái này rồi mới đến cái kia, nếu không, sự đồng thời sẽ gây nên hiện tượng nhiễu loạn (tổng hợp tương phản?) và như thế sẽ thấy một cái gì đó “lộn xộn, loang lổ”, không ảo mà cũng chẳng thực, tạm gọi là “cái tôi vớ vẩn”.
Như vậy hoặc chỉ thấy một cái tôi (hoặc ảo hoặc thực) trong một đơn vị thời gian, với lực lượng (nền tảng) là bằng một cái tôi và vì ngay lúc đó không nằm trong mối tương phản nào cả nên cái tôi đó cũng là thực; hoặc thấy một cái gì đó không phải tôi ảo và cũng không phải tôi thực (nhưng cũng không hẳn như thế!) có lực lượng (nền tảng) bằng hai cái tôi, đó là một hiện hữu mới trên nền tảng lực lượng mới (gồm tổng hợp của hai luồng ánh sáng phản chiếu tới!) được đặt tên là “cái tôi vớ vẩn”, và dù có cái tên xấu như thế nhưng nó vẫn là hiện thực, vẫn là sự khó chối cãi được.
Tuy nhiên, nếu chỉ quan tâm đến hiện hữu và cho rằng thế giới của cái tôi ngoài gương là một hiện thực thì vì gương là một hiện hữu nằm trong hiện thực ấy nên thế giới trong gương không thể ngoài hiện thực được, nó cũng được coi là một bộ phận của hiện thực và mang tính ảo. Với quan niệm và qui ước như thế, sự mô tả toán học và của chúng ta đều đúng, với lưu ý rằng hai cái tôi hiện hữu đó thực chất đều chỉ là hình ảnh một phần bề ngoài nào đó của cái tôi trước một hệ quan sát từ ngoài cái tôi thực. (Hai hiện hữu ấy là thực vì đều có một nền tảng tồn tại thực sự). Dù sao, chúng ta cũng nhấn mạnh rằng trong trường hợp này, “cái tôi” chỉ là tên gọi của hai hiện hữu chứ không phải là cái tôi của hệ quan sát. Đối với hệ quan sát, chúng là những cái phi tôi (không phải tôi). Cuối cùng, khi hệ quan sát chính là mắt của cái tôi thực thì dù có nhìn thấy cùng một lúc hai hay vô vàn cái gọi là tôi thì chúng cũng chỉ là những hình ảnh khác nhau, những sự phản ánh khác nhau về một hiện hữu (nếu chỉ quan tâm đến hiện hữu) hoặc sâu sắc hơn, chúng là những biểu hiện của mối quan hệ phụ thuộc lẫn nhau của các sự vật - hiện tượng không hoàn toàn giống nhau, và sâu sắc hơn nữa, chúng chính là kết quả được tạo dựng bởi sự vận động, chuyển hóa lẫn nhau, đan xen nhau của những tồn tại ở tầng nền tảng (tầng mà quan sát chưa nhận thức được!)…
Thật là điên đầu bởi sự quá rối rắm! Nhưng biết làm sao khi trình độ giải bày của bộ não chúng ta bị giới hạn, đã cố hết sức nhưng cũng chỉ đạt được đến thế. Rất mong có những bộ não đồng cảm được, tài giỏi hơn bội phần, điều chỉnh sửa lại và diễn đạt mạch lạc, xác đáng hơn!...
Khi đưa ra thí dụ “Sự soi gương”, mục đích của chúng ta là muốn lột tả ra cái chân tướng đích thực của sự tương phản tuyệt đối ảo - thực. Sự tương phản qua gương thật sự đã dạy cho chúng ta nhiều điều bổ ích, đã giúp chúng ta hình dung ra phần nào mối tương phản tuyệt đối ảo - thực và có lẽ bản thân “sự soi gương” đã là một hiện tượng rất gần với hiện tượng tương phản ảo - thực tuyệt đối mà chúng ta đã “thấy” trong… hoang tưởng.

Nhưng hoang tưởng là ở trong thực tại nên cũng là một bộ phận (dù là nhỏ nhoi) của thực tại. Vì vậy mà sự tương phản ảo - thực tuyệt đối cũng mang tính thực tại; là hình ảnh của một hiện tượng có thực. Để xác định được sự tương phản nào là tương phản ảo - thực tuyệt đối, chúng ta cần thiết phải đưa ra những tiêu chí để đánh giá, hay còn gọi là những đặc tính của nó. Theo chúng ta thì đặc tính của sự tương phản ảo - thực tuyệt đối là: kết quả tổng hợp tương phản của nó sẽ là một Hư Vô (hư vô tuyệt đối).
Khi toán học viết (+7-7=0); với số 0 là ám chỉ Hư Vô và chỉ viết có thế thôi, thì toán học đã mô tả sự tổng hợp tương phản của ảo - thực tuyệt đối.
Nhờ qui ước, chúng ta có thể thấy được sự tổng hợp tương phản của ảo - thực tuyệt đối trong thực tại. Nhưng ngoài qui ước, không bao giờ có thể xảy ra sự tổng hợp tuyệt đối ấy trong Vũ Trụ, vì Tồn Tại không thể bị triệt tiêu để nhường chỗ cho Hư Vô được.
Như đã nói, nếu có bên ngoài Vũ Trụ thì sự quan sát từ đó mới thấy được Vũ Trụ là một tương phản ảo - thực tuyệt đối (nhưng muốn thấy được như thế thì sự tổng hợp tương phản của Vũ Trụ phải biết chờ đợi!).
Lúc đó, gọi lực lượng của Vũ Trụ là phân định thành lưỡng nghi ảo - thực là:
(Chẳng còn tí Vũ Trụ nào cả, một khối Hư Vô không phân định được với thế giới ngoài Vũ Trụ làm cho cái thế giới ấy cũng chẳng khác gì Hư Vô).
Nhưng giả sử cũng sự tổng hợp ấy nhưng quan sát từ trong Vũ Trụ thì có thấy Hư Vô không? Nhớ rằng quan sát chỉ có thể ở một trong hai thế giới ảo - thực (và vì lúc nào quan sát cũng lựa chọn mình là sự thực nên thế giới của nó cũng phải là thực, điều đó tương tự như chọn hư vô hay tồn tại tùy ý, nhưng nếu chọn hư vô thì cũng vẫn là tồn tại!). Không bao giờ có thể thấy Hư Vô được!
Trong trường hợp này, toán học khó mà diễn tả được!
Chúng ta sẽ thử áp dụng cách của mình để diễn tả cả hai trường hợp xem thế nào.
Khi quan sát từ ngoài Vũ Trụ, vì là hệ lưỡng nghi ảo - thực tuyệt đối nên bản chất của hai lực lượng phân định lưỡng nghi cũng tương phản tuyệt đối, nghĩa là gồm ; do đó sự tổng hợp tương phản sẽ là:
Vì  là duy nhất nên cũng chính là , do đó:
Khi quan sát từ trong Vũ Trụ, hai lực lượng tương phản của Vũ Trụ đều có bản chất duy nhất là Tồn Tại (ảo hay thực thì rốt cuộc vẫn là thực!); do đó chúng như nhau (tương tự như hai quả cân trong trường hợp bàn cân). Vậy thì sự tổng hợp tương phản của Vũ Trụ bây giờ là:
(Muốn giở trò gì thì giở, Vũ Trụ vẫn vốn dĩ thế!).
Nhớ lại biểu thức Chúng ta thấy rằng trong sự tổng hợp tuyệt đối ảo thực của Vũ Trụ nhìn từ bên trong (nghĩa là không nhìn thấy sự tuyệt đối theo định nghĩa mà chỉ thấy tương đối cái tuyệt đối!), a biểu thị là “một nửa ”.
Suy tư triết học (hay suy nghĩ quẩn quanh?) đã đưa chúng ta đến một ý tưởng quá ư là lạ lùng: nội tại hạt KG cũng là một Vũ Trụ y hệt như Vũ Trụ của chúng ta nhưng nếu “so” với Vũ Trụ của chúng ta thì nó mang tính ảo. Một con người là vô cùng nhỏ nhoi trong Vũ Trụ nhưng bản thân lại hàm chứa vô vàn cái Vũ Trụ như thế. Điều đó liệu có ai tin nổi không?
Nếu chúng ta gọi Vũ Trụ đang trình hiện trước chúng ta là Vũ Trụ thực thì nội tại của hạt KG được gọi là Vũ Trụ ảo. Nếu suy tư triết học là đúng thì sự tổng hợp tương phản tuyệt đối giữa hai lực lượng ảo - thực ấy phải có kết quả là (vì chúng ta nhìn từ bên trong!).
Thử xem! Khi Vũ Trụ của chúng ta là thì nội tại hạt KG là . Kết quả của sự tổng hợp tương phản tuyệt đối nhìn từ bên trong sẽ là:
                    
Thế nào? Suy tư triết học lộ nguyên hình là một suy nghĩ rối loạn thần kinh rồi nhé! Thật tội nghiệp cho một giấc mơ!
Có gì đâu, đem 2 đó chia cho 2 sẽ còn !
Ối giời ơi! Thật là chán chường cho sự ngụy biện!
Vui thế thôi chứ 2 đó mà nói lên được điều gì? Đồng ý rằng kết quả 2 là sai, nhưng cái sai đó không phải tại suy tư triết học mà là tại… sự bộp chộp.
Nội tại hạt KG không thể ngoài Vũ Trụ được do đó khi lực lượng phân định thành ảo thực tuyệt đối thì nội tại của hạt KG phải là ; do đó sự tổng hợp tương phản giữa hai lực lượng Vũ Trụ sẽ là:
Đúng chưa? Chưa đúng! Làm sao có thể quan niệm được lực lượng Vũ Trụ đang là , chỉ vì nội tại của một hạt KG mà phải bị bớt đi còn ?
Được rồi, còn một cách nữa! Lực lượng Vũ Trụ là , lực lượng hạt KG là 1. Khi Vũ trụ và hạt KG nằm trong mối tương phản ảo - thực thì vì không thể có sự tham gia của “lực lượng ngoại lai” nào và cũng không thể mất đi đâu được chút lực lượng Vũ Trụ nào nên chỉ có thể mô tả mối tương phản ảo thực ấy là:
Nếu kết quả tổng hợp tương phản này là thì hết cãi chứ gì? Nào, chúng ta xem:
Lúc này  đứng “một mình ên” nên cũng là . Hai lực lượng 2 và chỉ có thể thuộc về nên chúng bằng nhau. Vậy:
Rõ ràng nội tại của hạt KG là ảo của Vũ Trụ , nó bằng !
Theo cái nghĩa này thì có thể viết biểu thức
             
Không thích làm thế thì làm thế này:
Có thể ví hạt KG như một tấm gương soi nhỏ xíu mà nếu nhìn vào đó, chúng ta sẽ thấy cả một Vũ Trụ lung linh, ảo huyền nhưng không thể bước vào trong đó được vì đã có chúng ta “thứ hai” ở đó. Hai “cái chúng ta” ấy không bao giờ có thể ở chung một thế giới được. Nếu chúng ta ở ngoài cố tình bước vào thì đồng thời chúng ta cũng đang bước ra để rồi đến một giới hạn, hai chúng ta sẽ chuyển hóa thành nhau: ảo thành thực và thực thành ảo, đàng trước thành đàng sau và đàng sau thành đàng trước, tiếp tục đi và có nghĩa là trở về nơi đã xuất phát. Giả sử đến nơi xuất phát rồi mà chúng ta cứ tiếp tục đi như thế thì chúng ta đến đâu, về phía vô cùng lớn chăng? Không, về phía vô cùng xa! Muốn đến vô cùng nhỏ, chúng ta phải hóa vô cùng nhỏ và ngược lại, muốn đến vô cùng lớn chúng ta cũng phải hóa dần thành vô cùng lớn. Số bước chân nhiều vô kể hay số đếm khổng lồ, nếu không phải là sự tích tụ đồng thời trong một đơn vị thời gian thì cũng… tầm thường thôi!...
(Còn tiếp)
----------------------------------------------------------------



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét