Đừng chê Cõi Trần nhơ Đừng khen Cõi Trần đẹp Cõi Trần là thản nhiên Chỉ con người nhơ, đẹp! Cõi Trần không eo hẹp Cũng không thỏa mênh mông Cứ hữu tình bày tỏ Chuyện vô thường vô vi. Đời đến rồi đời đi Ai đi rồi còn đến? Thương tiếc hay thờ ơ? Cõi Trần chẳng mong chờ!... Cõi Trần mải âu lo Xoay bốn mùa hối hả Giữ tươi cành xanh lá Vỗ về cho dòng trôi! Cõi Trần theo Mặt Trời Tung tăng gieo sắc nắng Cho linh thiêng đắc thắng Sống chết hòa bên nhau. Cõi Trần chẳng biết đâu Trước điên cuồng tàn phá Đất trời tan nát cả Kệ đi đâu về đâu!
Ôi, Cõi Trần hỉ xả Lặng lẽ với dãi dầu Cưu mang và che chở Giữa Vũ Trụ bể dâu!
Cõi Trần ơi, thương quá Vui mang nặng đẻ đau Như mẹ ta vô cầu!...
Thói đời, Thành phố buồn, Thương hận, Xin làm người xa lạ, Mười
năm yêu em, Áo em chưa mặc một lần, Trong tầm mắt đời, Giọng ca dĩ vãng,
Đêm buồn tỉnh lẻ
Chế Linh là một người Việt gốc Chăm (tên thật Chà Len (Jamlen), tên Việt là Lưu Văn Liên), sinh năm 1942 tại paley Hamu Tanran, gần Phan Rang (nay thuộc Làng Hữu Đức, xã Phước Hữu (Ninh Phước - Ninh Thuận). Chế Linh vừa là một ca sĩ (Chế Linh) và vừa là một nhạc sĩ với nghệ danh Tú Nhi,
có một giọng hát đặc biệt và có rất nhiều bài hát nổi tiếng. Về sau ông
được xem như là một trong bốn giọng nam nổi tiếng nhất của nhạc vàng thời kỳ đầu ("tứ trụ nhạc vàng"), ba người còn lại là: Duy Khánh , Nhật Trường, Hùng Cường. Chế Linh có thiên hướng hát về nhạc chiến tranh của những người lính trong Quân lực Việt Nam Cộng hòa (mặc dù anh không phải nhập ngũ vì là người dân tộc thiểu số). Những bài hát nổi tiếng nhất: Đêm nguyện cầu, Thành phố buồn, Thói đời, Thương hận, Trong tầm mắt đời, Đêm buồn tỉnh lẻ, Áo em chưa mặc một lần...
Chế Linh biểu diễn trước 1975.
Năm 16 tuổi, anh vào Sài Gòn
sinh sống và hoạt động âm nhạc từ năm 1960. Trong khoảng thời gian
1964-1965, anh thâu rất nhiều dĩa hát. Năm 1976-1978, anh bị bắt vì vượt
biên trái phép và tội phản động, biệt giam 28 tháng. Năm 1980, anh vượt biên thành công sang Mã Lai, sau đó định cư tại Toronto, Canada.
Ngoài việc là một trong những giọng ca nam hát nhạc vàng
được yêu thích nhất, Chế Linh còn nổi tiếng là người có nhiều vợ con,
tính cho đến tháng 1 năm 2007, anh đã có 4 vợ và 14 đứa con (sau khi ly dị anh mới lấy vợ khác).
Năm 2007, anh có theo một đoàn văn hóa của UNESCO về thăm lại và biểu diễn tại Việt Nam.
Giải thưởng
1972: Đoạt giải Kim Khánh - Huy chương vàng đệ nhất hạng nam ca, do nhật báo Trắng Đen tổ chức.
Ca sĩ Anh Thơ lo lắng khi song ca cùng Chế Linh
Như Lan
21/02/14 12:11
(GDVN) - Trong liveshow "10 năm tình cũ” vào ngày 1/3 tới đây, Chế Linh
sẽ lần đầu tiên có những phần song ca cùng các nữ ca sĩ khách mời.
Trong liveshow diễn ra tại Trung tâm Hội
nghị Quốc Gia (Hà Nội), đặc biệt Chế Linh sẽ lần đầu tiên có những phần
song ca cùng các nữ ca sĩ khách mời như Lệ Quyên, Phi Nhung, Hà Thu
Hiền và đặc biệt hơn nữa là phần song ca với “nữ hoàng dòng nhạc dân
gian” Anh Thơ.
Phần song ca của Chế Linh - Anh Thơ đang là tiết mục gây tò mò, hiếu kỳ và cũng rất đáng để chờ đợi trong liveshow.
Sở dĩ khán giả tò mò vì Anh Thơ nổi
tiếng trong dòng nhạc cách mạng Việt Nam và dòng nhạc mang âm hưởng
dân gian, còn Chế Linh lại rất “sến”. Thế nhưng cũng khá bất ngờ khi Anh
Thơ tiết lộ, ngày bé chị nghe dòng nhạc này nhiều lắm, nhất là nghe
Chế Linh hát. Chị thuộc rất nhiều bài, ngấm vào và luôn ở
trong tâm hồn chị lúc nào không hay.
Cũng vì thế mà hồi cuối năm ngoái, Anh
Thơ đã ra mắt CD “Suốt Đời Tình Khắc Sâu” với những bản nhạc bolero
nổi tiếng, khiến rất nhiều khán giả ngạc nhiên. Với Anh Thơ, chị hát
dòng nhạc này không chỉ bởi đã “ngấm” từ ngày bé mà còn bởi chị yêu mến
những ca khúc nhạc sến, luôn đẹp cả về ca từ cho đến giai điệu,
nhiều ca khúc là những câu chuyện rất thật, thật như chính đời sống.
Danh ca Chế Linh
Thực lòng, chưa bao giờ Anh Thơ từng
nghĩ đến việc sẽ hát cùng danh ca Chế Linh vì điều kiện quá xa xôi,
dòng nhạc chị theo đuổi lại khác biệt với dòng nhạc của Chế Linh. Lần
này khi được mời, chị đã nhận lời với một sự thích thú, một phần vì
yêu mến giọng hát của Chế Linh, một phần vì ca khúc hai người song
ca là ca khúc rất đẹp, nổi tiếng. Anh Thơ rất ngưỡng mộ giọng hát Chế
Linh với quãng giọng trầm rất đẹp – tình cảm – mùi mẫn, lên cao
cũng rất ấm áp… “Cách hát của chú rất nhẹ nhàng, từ từ như
những lời tự sự, bộc bạch mà rất gần gũi”- Anh Thơ nói.
Ca sĩ Anh Thơ song ca cùng Chế Linh
Đến thời điểm này, khi ngày diễn ra
liveshow đến rất gần (thứ bảy, 1/3), tuy không quá hồi hộp nhưng Anh Thơ
cũng thoáng những lo lắng để chuẩn bị cho màn song ca cùng Chế Linh. Lý
do là bởi chị chưa nắm được tinh thần, cái e của giọng hát Chế Linh để
quyện giọng “ngọt” nhất cùng ông.
Tuy nhiên, chị tin phần hòa giọng này sẽ
rất thành công, bởi bản thân chị cũng có chút…“sến”… Dòng nhạc dân
gian rất gần với dòng nhạc Bolero, thắm đượm chất tình, dễ
hát, dễ nghe, gần gũi với cuộc sống…
Với danh ca Chế Linh, đây là lần đầu
tiên ông song ca cùng Anh Thơ, đặc biệt là trên sân khấu Hà Nội. Ông
từng nghe Anh Thơ và rất yêu mến giọng ca này. Nhưng vì đây là lần đầu
tiên, nên Chế Linh cũng ít nhiều… hồi hộp, ông chuẩn bị kỹ lưỡng phần
song ca với các nữ nghệ sĩ để làm hài lòng người hâm mộ.
Trong liveshow này, khán giả cũng sẽ
được thưởng thức những phần song ca rất đặc biệt, rất ngọt ngào của Chế
Linh với Lệ Quyên và Phi Nhung. Họ sẽ hát cùng ông những tác phẩm song
ca bất hủ mà Chế Linh từng song ca thành công với những nữ nghệ sĩ
khác./.
“70 tuổi nhưng tôi không yêu thì không sống được. Rất
nhiều người hỏi Chế Linh là sao tuổi này rồi mà vẫn hát về tình yêu rã
rời, và nghe ướt át quá” – ca sĩ Chế Linh tâm sự.
Ngày 26/2, ca sĩ Chế Linh
cùng ê-kíp thực hiện chương trình đã có buổi họp giới thiệu liveshow
"10 năm tình cũ" sẽ diễn ra ngày 1/3 tới tại Trung tâm hội nghị Quốc gia
(Hà Nội). Chế Linh xuất hiện trẻ hơn so với tuổi thật của ông và ông
cười rất nhiều. Dường như ai cũng nhận thấy rõ niềm hạnh phúc của Chế
Linh trong lần trở lại sân khấu Thủ đô sau 2 năm tạm vắng này.
“Hai năm tạm xa sân khấu Thủ đô, Chế Linh nhận ra rằng mình cần phải
sớm trở lại. Khán giả trên quê hương vẫn chiếm đại đa số và tôi cần phải
đáp ứng sự thương mến của khán giả dành cho tôi.
Tôi vô cùng biết ơn tình cảm của những người hâm mộ giọng ca Chế Linh, chính vì thế, để chuẩn bị cho liveshow, tôi phải giữ sức khỏe,
giữ giọng hát và luyện tập để thể hiện tình cảm của tôi qua tiếng hát,
qua từng ca từ của các ca khúc gửi tới khán giả”, Chế Linh tâm tình.
Giọng ca nổi tiếng hải ngoại lấy tên livehow là “10 năm tình cũ”, một
cái tên như gợi nhắc nỗi niềm riêng tư, có chút sầu muộn. Có nhiều người
thắc mắc, liệu cái tên liveshow có phải là tình cảm ẩn ý mà Chế Linh
muốn gửi tới một người tình cũ? Về điều này, Chế Linh trải lòng: “Tất cả
chúng ta khi lớn lên đều có ít nhiều kỷ niệm, vui – buồn, lớn – nhỏ, kỷ
niệm nào cũng đáng nhớ. “10 năm tình cũ” là rất nhiều những kỷ niệm, ký
ức được thể hiện qua từng ca từ, từng ca khúc Chế Linh thể hiện. Đó
có thể là tình cảm riêng tư Chế Linh không biết thổ lộ cùng ai, Chế
Linh hát thể hiện tâm tình của mình, hoặc là để hát cho những người có
cùng tâm trạng giống như Chế Linh”.
Nhắc đến tên tuổi Chế Linh, người ta hay nghĩ đến cặp song ca Chế Linh
với Sơn Tuyền, Thanh Tuyền, Phi Nhung, Khánh Ly… Tuy nhiên, trong
liveshow “10 năm tình cũ” tới đây, song ca cùng Chế Linh lại xuất hiện
những cái tên như Anh Thơ, Lệ Quyên. Chế Linh bảo rằng, ông muốn có một
sự kết hợp nghệ thuật từ những giọng ca tưởng như không thể hòa quyện
cùng nhau.
Mặc dù Chế Linh và Anh Thơ chưa tập luyện nhưng Chế Linh hết sức tin
tưởng rằng, sự kết hợp giọng ca đặc biệt này sẽ đem lại món ăn tinh thần
mới, không phụ lòng mong mỏi của khán thính giả.
Chế Linh sẽ song ca cùng Anh Thơ trong “10 năm tình cũ”.
Trong các liveshow riêng, Chế Linh thường hát những ca khúc cũ bởi
theo ông, đây là yêu cầu, mong mỏi của khán giả. Ông khẳng định là “10
năm tình cũ” sẽ đáp ứng được 70-85% mong muốn của người hâm mộ. Chế Linh
cũng tiết lộ thêm, ông đã chuẩn bị một món quà đặc biệt để tri ân khán
giả Thủ đô. Đó là một ca khúc khán giả chưa từng nghe Chế Linh thể hiện,
một ca khúc về Hà Nội mà ông rất yêu thích nhưng xin được giấu tên.
Thêm một điểm đặc biệt trong “10 năm tình cũ” là giọng ca ngoài 70 tuổi khẳng định chắc nịch, Chế Linh sẽ hát live toàn bộ liveshow.
Chế Linh chia sẻ: “Ở các trung tâm thu hình, nhiều nghệ sĩ tên tuổi đều
hát nhép. Chỉ riêng tôi là xin các trung tâm cho mình hát trực tiếp.
Tôi thấy rằng khi hát trực tiếp, cảm xúc của người nghệ sĩ vô cùng đẹp
mặc dù giọng của mình có khi không tròn trịa, không hoàn hảo như khi
thu âm trước. Thế nhưng nó đẹp ở chỗ tự nhiên, có những đoạn cao trào
mình gào thét lên thực sự và khán giả nhìn nhận được sự cố gắng của
người nghệ sĩ.
Chế Linh nghĩ rằng, còn sức thì tôi còn hát thật. Và nhân đây, tôi
cũng kêu gọi các bạn trẻ cố gắng tập luyện để phục vụ khán giả. Đừng vì
lo sợ lên sân khấu, giọng hát của mình không tròn trịa, bởi lẽ cảm xúc
và sự chân thành, tự nhiên nhất là điều mà khán giả chờ đợi”.
Nói thêm về điều này, ca sĩ Phan Anh cũng là MC dẫn chương trình cùng
Kỳ Duyên trong liveshow Chế Linh sắp tới cho biết thêm: “Được làm việc
cùng chú Chế Linh, Phan Anh có những điều thực sự khâm phục và phải học
hỏi chú. Thứ nhất là Phan Anh ngưỡng mộ sự dẻo dai của chú Chế Linh, vì
Phan Anh từng diễn show với Chế Linh vòng quanh Hà Nội, mỗi chương
trình, chú hát live hơn 20 bài mà không hề mệt mỏi.
Thứ hai là chú làm việc rất chuyên nghiệp, chú luôn giữ gìn sức khỏe,
chăm chỉ luyện giọng, luôn đến đúng giờ để khán giả không phải chờ đợi.
Và thêm và điều đặc biệt nữa, chú Chế Linh luôn kỹ lưỡng trong việc
chuẩn bị trang phục biểu diễn tránh để bị nhàm chán trong mắt khán giả”.
Chế Linh và ca sĩ Phan Anh - MC dẫn chương trình cùng Kỳ Duyên. Photo: Hải Bá
Dường như trong suy nghĩ, người nghệ sĩ tâm niệm, cuộc đời Chế Linh
không phải của riêng ông mà là của khán giả, của những người mến mộ ông.
Vì thế, ông hát theo yêu cầu, chuẩn bị kỹ lưỡng từ giọng hát, từng ca
khúc trong chương trình, ngoại hình… đều nhằm mục đích làm hài lòng khán
giả. Thậm chí, ông còn cởi mở "hô hào" nhà báo có thể hỏi ông về bất cứ
điều gì, về liveshow, hay kể cả chuyện riêng tư. Ông bảo, Chế Linh là
người của công chúng nên không có việc gì phải giấu diếm cả.
Chế Linh không ngần ngại thừa nhận, ông có 4 bà vợ và 14 người con (7
trai, 7 gái) và ông cảm thấy hạnh phúc vô cùng khi có được nhiều sự
thương yêu trên đời đến như vậy.
Khi một nhà báo hỏi rằng, tình yêu của người nghệ sĩ đã ngoài 70 tuổi
thì khác gì chàng trai tuổi 20-30, và Chế Linh phải "mượn" cảm xúc như
thế nào để hát về tình yêu giờ đây ngọt ngào như thế? Chế Linh nói vui:
“70 tuổi nhưng tôi không yêu thì không sống được. Rất nhiều người hỏi
Chế Linh là sao tuổi này rồi mà vẫn hát về tình yêu rã rời, và nghe ướt
át quá. Chế Linh nói rằng, tất cả là vì mong muốn đáp ứng nhu cầu khán
giả.
Tuổi của tôi có nhiều thứ để yêu lắm, yêu quê hương, yêu khán giả...
yêu tất cả những gì đáng quý nhất trong cõi đời mình. Có lẽ tình yêu của
khán giả, và việc chăm chỉ tập luyện đã khiến tôi vẫn giữ được giọng
hát như của chàng trai tuổi đôi mươi”.
Nền văn minh Ấn Độ là một nền văn minh nổi tiếng và thuộc về những nền văn minh cổ nhất thế giới.
Nền văn minh Ấn Độ thời cổ đại bao gồm cả vùng đất ở các nước như: Ấn Độ, Pakistan, Nêpan, Bangladesh ngày nay.
Cơ sở hình thành nền văn minh Ấn Độ
Điều kiện tự nhiên
Bán đảo Ấn Độ thuộc Nam Á gần như hình tam giác. Ở phía bắc, bán đảo bị chắn bởi dãy núi Hymalaya. Từ bên ngoài vào Ấn Độ rất khó khăn, chỉ có thể qua các con đèo nhỏ ở tây-bắc Ấn. Đông nam và tây nam Ấn Độ giáp Ấn Độ dương.
Hàng năm tới mùa tuyết tan, nước từ dãy Hymalaya theo hai con sông Ấn (Indus) và sông Hằng (Ganges) lại đem phù sa tới bồi đắp cho những cánh đồng ở Bắc Ấn. Nền văn minh ở lưu vực sông Indus
(3.000-1.800 Tr. C.N.) đã thấm đượm những tư tưởng và hình thức nghệ
thuật mà về sau người ta xem như bản sắc tiêu biểu cho Ấn Độ.
Dân cư
Người dân xây dựng nên nền văn minh cổ xưa nhất ở Ấn Độ ven bờ sông Ấn là những người Dravidian. Ngày nay những người Dravidian chủ yếu cư trú ở miền nam bán đảo Ấn Độ. Khoảng 2000 năm TCN đến 1500 năm TCN có nhiều tộc người Aryan tràn vào xâm nhập và ở lại bán đảo Ấn. Sau này, trong quá trình lịch sử còn có nhiều tộc người khác như người Hy Lạp, Hung Nô, Ả Rập Saudi, Mông Cổ xâm nhập Ấn Độ do đó cư dân ở đây có sự pha trộn khá nhiều dòng máu, nhiều chủng tộc, tôn giáo, ngôn ngữ và văn hóa phong phú đã tạo nên nền văn minh Ấn Độ.
Các nhà khảo cổ đã tìm ra cái nôi đầu tiên của Ấn Độ tại lưu vực sông Ấn. Tại đây người ta tìm thấy những pho tượng một người đàn ông trong tư thế suy tưởng gợi đến môn phái yoga. Rất nhiều hiện vật được tìm thấy ở khu vực Harappa và Mohenjo có niên đại từ 3.000 dến 1.800 trước công nguyên. Những tìm tòi gần đây hé mở phần nào về sự lan tỏa của nền văn minh lưu vực sông Ấn rộng lớn về miền Bắc và miền Tây xa xôi cùng với cư dân lưu vực sông Ấn lại có quan hệ gần gũi với văn hóa Dravidian, từng phồn thịnh từ rất lâu ở miền Nam Ấn Độ trước khi người Aryan đặt chân đến.
Ở vào khoảng thời gian 100 đến 1.600 TCN, một chi của dòng họ Aryan rộng lớn, thường được gọi là người Indo-Aryan, di cư đến Ấn Độ. Họ đem theo cùng với họ là tiếng Phạn và một tôn giáo dựa trên nghi lễ hiến tế các vị thần tượng trưng cho các thế lực của thiên nhiên như Indra,
thần mưa và sấm, thần Agni (lừa) và Varuma, chúa tể của các sông biển
và mùa màng. Những bài ngợi ca vị thần ấy được tập hợp lại thành bốn tập
Kinh Vệ Đà. Lâu đời nhất là tập Rigveda (1.500-1.200 Tr. C.N.). Đặc điểm của Kinh Veda
là hướng con người đến tư tưởng cao cả, văn phong đẹp đẽ và bước chuyển
những nghi thức từ bên ngoài vào kinh nghiệm nội tại. Thời kỳ này chính
là thời kỳ có thuyết nói rằng cùng với nó là sự ra đời Đức Phật
Những tượng đồng ở triều đại Chola
Tháp chứa hài cốt Sanchi, xây dựng vào triều đại Mauyran
Khối đá khắc nguyên khối ở hang Ellora
Bức họa trên tường ở hang Ajanta
Bức tượng thần Shiva và vợ
Đồng tiền triều đại Gupta
Đồng tiền bạc 205-171 Tr. C.N.
Đồng tiền Vua của các vị vua 35-12 Tr. C.N.
Vào năm 326 TCN Alexandros người Macedonia vượt sông Indus và đánh thắng một trận quyết định và rút về. Cuộc xâm lăng của ông đã để lại dấu ấn của thế giới Hy Lạp, nâng văn hóa Ấn Độ lên một tầm cao mới.
Vào năm 320 TCN. Chandragup-ta Maurya (hoàng đế Maurya) thống nhất
trở lại toàn bộ các bộ lạc rời rạc và thành lập chế độ tập quyền, kinh
đô được đặt tại Pataliputra (bang Bihar ngày nay).
Thời kỳ hoàng kim của nền văn minh Ấn Độ thuộc vào thời kỳ triều đại Gupta.
Thời kỳ này có nhiều thành tựu nổi bật về văn hóa trồng trọt. Thời kỳ
này nền văn minh Ấn độ đã để lại cho nhân loại một khối lượng các di sản
khổng lồ.
Thành tựu chính của Văn minh Ấn Độ
Chữ viết, văn học
Thời đại Harappa-Môhenjô Đarô,
ở miền Bắc Ấn đã xuất hiện một loại chữ cổ mà ngày nay người ta còn lưu
giữ được khoảng 3.000 con dấu có khắc những kí hiệu đồ họa.
Thế kỉ VII TCN, ở đây đã xuất hiện chữ Brami, ngày nay còn khoảng 30 bảng đá có khắc loại chữ này. Trên cơ sở chữ Brami, thế kỉ V TCN ở Ấn Độ lại xuất hiện chữ Sanskrit, đây là cơ sở của nhiều loại chữ viết ở Ấn Độ và Đông Nam Á sau này.
Hai tác phẩm văn học nổi bật thời cổ đại là Mahabharata và Ramayana. Mahabharata là bản trường ca gồm 220.000 câu thơ. Bản trường ca này nói về một cuộc chiến tranh giữa các con cháu Bharata. Bản trường ca này có thể coi là một bộ “bách khoa toàn thư” phản ánh mọi mặt về đời sống xã hội Ấn Độ thời đó.
Ramayana là một bộ sử thi dài 48.000 câu thơ, mô tả một cuộc tình
giữa chàng hoàng tử Rama và công chúa Xita(con của nữ thần mẹ đất).
Thiên tình sử này ảnh hưởng tới văn học dân gian một số nước Đông Nam Á. Riêmkê ở Campuchia, Riêmkhiêm ở Thái Lan chắc chắn có ảnh hưởng từ Ramayana.
Thời cổ đại ở Ấn Độ còn có tâp ngụ ngôn Năm phương pháp chứa đựng rất
nhiều tư tưởng được gặp lại trong ngụ ngôn của một số dân tộc thuộc hệ ngôn ngữ Ấn-Âu.
Nghệ thuật
Ấn Độ là nơi có nền nghệ thuật tạo hình phát triển rực rỡ, ảnh hưởng tới nhiều nước Đông Nam Á.
Nghệ thuật Ấn Độ cổ đại hầu hết đều phục vụ một tôn giáo nhất định, do
yêu cầu của tôn giáo đó mà thể hiện. Có thể chia ra ba dòng nghệ thuật: Ấn Độ giáo, Phật giáo, Hồi giáo.
Có rất nhiều chùa tháp Phật giáo, nhưng đáng kể đầu tiên là dãy chùa hang Ajanta ở miền trung Ấn Độ.
Đây là dãy chùa được đục vào vách núi, có tới 29 gian chùa, các gian
chùa thường hình vuông và nhiều gian mỗi cạnh tới 20m. Trên vách hang có
những bức tượng Phật và nhiều bích hoạ rất đẹp.
Các công trình kiến trúc Ấn Độ giáo được xây dựng nhiều nơi trên đất Ấn Độ và được xây dựng nhiều vào khoảng thế kỉ 7 - 11. Tiêu biểu cho các công trình Ấn Độ giáo là cụm đền tháp Khajuraho ở Trung Ấn, gồm tất cả 85 đền xen giữa những hồ nước và những cánh đồng.
Những công trình kiến trúc Hồi giáo nổi bật ở Ấn Độ là tháp Mina, được xây dựng vào khoảng thế kỉ 13 và lăng Taj Mahan được xây dựng vào khoảng thế kỉ 17.
Khoa học tự nhiên
Về Thiên văn, người Ấn Độ cổ đại đã làm ra lịch,
họ chia một năm ra làm 12 tháng, mỗi tháng có 30 ngày. (Như vậy năm
bình thường có 360 ngày). Cứ sau 5 năm thì họ lại thêm vào một tháng nhuận. Về Toán học: Người Ấn Độ thời cổ đại chính là chủ nhân của hệ thống chữ số mà ngày nay ta quen gọi là số Arập. Đóng góp lớn nhất của họ là đặt ra số không, nhờ vậy mọi biến đổi toán học trở thành đơn giản, ngắn gọn hẳn lên. (Người Tây Âu vì vậy mà từ bỏ số La Mã mà sử dụng số Arập trong toán học.) Họ đã tính được căn bậc 2 và căn bậc 3; đã có hiểu biết về cấp số, đã biết về quan hệ giữa 3 cạnh trong một tam giác. Pi = 3,1416. Về Vật lí, người Ấn Độ cổ đại cũng đã có thuyết nguyên tử. Thế kỉ 5TCN, có một nhà thông thái ở Ấn Độ đã viết “...trái đất, do trọng lực của bản thân đã hút tất cả các vật về phía nó”. Y học cũng khá phát triển. Người Ấn Độ cổ đại đã mô tả các dây
gân, cách chắp ghép xương sọ, cắt màng mắt, theo dõi quá trình phát
triển của thai nhi. Họ để lại hai quyển sách là “Y học toát yếu” và
“Luận khảo về trị liệu”.
Tư tưởng, tôn giáo
Ấn Độ là nơi sản sinh ra nhiều tôn giáo như Ấn Độ giáo, Phật giáo, đạo Jaina và đạo Sikh. Đạo Bàlamôn mà sau này là Ấn Độ giáo ra đời vào khoảng thế kỉ 15TCN,
trong hoàn cảnh đang có sự bất bình đẳng rất sâu sắc về đẳng cấp và đạo
này chứng minh cho sự hợp lí của tình trạng bất bình đẳng đó. Đạo Phật ra đời vào khoảng giữa thiên niên kỉ 1TCN do thái tử Xitđacta Gôtama, hiệu là Sakya Muni (Thích Ca Mâu Ni) khởi xướng. Các tín đồ Phật giáo lấy năm 544 TCN là năm thứ nhất theo Phật lịch, họ cho là đây là năm Đức Phật nhập niết bàn. (Vì vậy, những người châu Á theo đạo Phật trước kia vẫn để ý đến ngày qua đời hơn ngày ra đời, khác hẳn những người theo đạo Thiên Chúa). Giáo lí cơ bản của đạo Phật là Tứ diệu đế (bốn điều), vô ngã, duyên khởi. Đạo Jaina cũng xuất hiện vào khoảng thế kỉ 6TCN. Cùng thời với Phật giáo. Đạo này chủ trương bất sát sinh một cách cực đoan và nhấn mạnh sự tu hành khổ hạnh. Đạo Sikh xuất hiện ở Ấn Độ vào khoảng thế kỉ 15. Giáo lý của đạo Sikh là sự dung hòa và kết hợp giáo lí của Ấn Độ giáo và giáo lí của Hồi giáo. Tín đồ đạo Sikh tập trung rất đông ở Punjab và ngôi đền thiêng liêng của họ là ngôi đền Vàng ở Punjab. Đạo Sikh là đạo sinh ra cuối cùng trên đất Ấn Độ.
Tài liệu tham khảo
Almanach những nền văn minh thế giới. Nhà xuất bản Văn hóa - Thông tin. Hà Nội.(1999)
Kocchar, Rajesh, The Vedic people: their history and geography, Hyderabad: Orient Longmans (1999).fáđfà
Trang này được sửa đổi lần cuối lúc 20:41, ngày 9 tháng 10 năm 2013.
Cứ nghĩ một mai về cát bụi rồi Đời vẫn thản nhiên thi, ca, nhạc, họa Vào quên rồi, ai còn mong ta nữa, Lòng lại cuộn lên nỗi quằn quại đau vùi!...
Người ơi, xin khuyên người Trĩu gánh đời nhỏ nhoi Chất nặng thêm uất hờn chi cho tội Quẳng hết đi, cố lên mà vui vội Đừng như ta, về già mới tiếc thương đời!...
Trang này được sửa đổi lần cuối lúc 07:58, ngày 10 tháng 11 năm 2013.
Lưỡng Hà
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Lưỡng Hà là tên gọi của một vùng địa lý và của một nền văn minh ở nơi gồm lãnh thổ Iraq, đông Syria, đông nam Thổ Nhĩ Kỳ, và tây nam Iran hiện đại. Tên gốc của nó xuất phát từ tiếng Hy Lạp μέσος "giữa" và ποταμός "sông", để chỉ hai vùng châu thổ sông Euphrates và sông Tigris cũng như vùng đất nằm giữa chúng. Tương tự, trong tiếng Ả rập nó được gọi là بين نهرين Bayn Nahrain
"giữa hai con sông". Vùng địa lý được cung cấp nước từ hai con sông đó
thường được gọi là "Cái nôi của Văn minh", bởi chính tại đây những xã hộitri thức đầu tiên đã phát triển từ cuối thiên niên kỷ thứ 4 trước Công Nguyên. Từ Lưỡng Hà (mesopotamia) đã được tạo ra trong giai đoạn Hy Lạp và không hề có biên giới rõ ràng xác định vùng này, để chỉ một vùng địa lý rộng lớn và có lẽ đã được người Seleucid sử dụng. Vùng này đã từng trở thành một tỉnh của Đế chế La Mã trong một thời gian ngắn ở thời Trajan, với tên gọi Provincia Mesopotamia. Các nhà học giả đã cho rằng thuật ngữ biritum/birit narim trong tiếng Akkad tương ứng với một khái niệm địa lý và đã xuất hiện ở thời vùng này đang trải qua giai đoạn Aramaic hoá[1].
Tuy nhiên, một điều cũng được nhiều người chấp nhận rằng những xã hội
Lưỡng Hà sớm đơn giản chỉ phản ánh toàn bộ những vùng bồi tích, kalam trong tiếng Sumer
(dịch nghĩa "đất đai"). Những thuật ngữ gần đây hơn như "Đại Lưỡng Hà"
hay "Lưỡng Hà Syria" đã được chấp nhận với nghĩa chỉ một vùng địa lý
rộng hơn tương đương vùng Cận Đông hay Trung Đông. Những tên khác sau
này đều là các thuật ngữ do người Châu Âu đặt cho nó khi họ tới xâm
chiếm vùng đất này vào giữa thế kỷ 19.
Sách chữ Nôm của người Việtthế kỷ 17 gọi khu vực này là Mạch Tam.
Lịch sử Lưỡng Hà bắt đầu từ sự xuất hiện của nền văn minh tại miền
nam Iraq vào thiên niên kỷ thứ 4 trước Công Nguyên cho tới khi Alexander
Đại Đế tới đây vào thế kỷ thứ 4 trước Công Nguyên (đây được coi là thời
điểm bắt đầu sự Hy Lạp hoá vùng Cận Đông, vì thế cũng đánh dấu sự "chấm
dứt" của Lưỡng Hà). Thông thường, mọi người cho rằng có một sự nối tiếp
văn hoá và đồng nhất không gian cho toàn bộ thời gian lịch sử địa lý
này ("Truyền thống Vĩ đại"), dù còn một số điểm chưa rõ ràng. Lưỡng Hà
là nơi tồn tại của một số vương quốc cổ nhất thế giới, với trình độ tổ
chức xã hội ở mức cao và phức tạp. Vùng này là một trong bốn nền văn
minh phát sinh dọc theo các con sông nổi tiếng trên thế giới, nơi phát
minh ra chữ viết, cùng với đồng bằng châu thổ sông Nile tại Ai Cập, châu
thổ sông Indus tại Tiểu lục địa Ấn Độ và châu thổ sông Hoàng Hà tại
Trung Quốc.
Lưỡng Hà cũng là nơi phát sinh của nhiều thành phố có tầm quan trọng lịch sử như Uruk, Nippur, Nineveh và Babylon cũng như nhiều vương quốc rộng lớn khác như vương quốc Akkadian, Vương triều Ur thứ ba và Đế chế Assyri. Một số nhà lãnh đạo nổi tiếng trong lịch sử Lưỡng Hà là Ur-Nammu (Vua xứ Ur), Sargon (người thành lập nên Vương quốc Akkad), Hammurabi (người thành lập quốc gia Babylon cổ), Tiglath-Pileser I (người thành lập Đế chế Assyri), và Tigranes Đại Đế (người thành lập Đế chế Armenia).
"Lưỡng Hà cổ đại" bao gồm giai đoạn từ cuối thiên niên kỷ thứ 4 trước Công Nguyên cho tới khi những người Achaemenid trỗi dậy vào thế kỷ thứ 6 trước Công Nguyên. Khoảng thời gian dài này có thể được phân chia thành những giai đoạn như sau:
Ngày tháng thuộc thiên niên kỷ thứ hai và thứ ba trước Công Nguyên chỉ gần đúng; so sánh Bảng niên đại Cận Đông Cổ Đại.
Ngôn ngữ và chữ viết
Ngôn ngữ viết sớm nhất tại Lưỡng Hà là tiếng Sumer
- một ngôn ngữ đã "tuyệt chủng". Các học giả đồng ý rằng nhiều ngôn ngữ
khác cũng đã được sử dụng ở Lưỡng Hà trong thời kỳ đầu song song với
tiếng Sumer. Sau này Tiếng Semit, tiếng Akkad, dần trở thành ngôn ngữ phổ thông, dù tiếng Sumer vẫn được giữ lại sử dụng trong hành chính, tôn giáo, văn học, và khoa học. Nhiều biến thể khác nhau của tiếng Akkad vẫn được sử dụng cho tới cuối thời kỳ Tân Babalon. Sau đó, tiếng Aramaic, vốn đã trở thành phổ thông tại Lưỡng Hà, trở thành ngôn ngữ chính thức của triều đại Achaemenid thuộc Đế chế Ba Tư. Tiếng Akkad bị bỏ rơi, nhưng cả nó và tiếng Sumer vẫn được sử dụng trong các ngôi đền trong một số thế kỷ.
Các thư viện và bảo tàng hoàng gia
Một trong những bộ sưu tập văn bảnchữ hình nêm lớn nhất thuộc các văn khố của Ashurbanipal, nhà lãnh đạo Assyria. Khoảng năm 650 TCN ông đã quyết định thành lập một thư viện tại Nineveh. Bởi vì mọi ngôi đền
tại Babylonia đều có thư viện, ông đã cử các sứ thần tới thu thập các
văn bản khắc tại đó. Nếu ngôi đền nào từ chối trao những văn bản của
mình, các vị sứ thần sẽ tiến hành sao chụp lại. Chỉ một thời gian ngắn,
thư viện hoàng gia tại Nineveh đã trở thành thư viện lớn nhất ở Assyria. Đa số những gì chúng ta hiện biết về Lưỡng Hà cổ đại đều có được ở thư viện này.
Vua Babylon, Nebuchadnezzar II, đã thành lập một bảo tàng, nơi trưng bày một số bức tượng, các đồ vật và một số văn bản. Đây là một ví dụ về văn học Babylon.
Khoa học và kỹ thuật
Cư dân Lưỡng Hà đã phát triển nhiều kỹ thuật như gia công kim loại, làm kính, dệt vải, trồng cấy và tích trữ nước cũng như tưới tiêu. Họ cũng là những cư dân đầu tiên trên Trái Đất tiến vào thời kỳ đồ đồng. Ban đầu họ sử dụng đồng đỏ, đồng thau và vàng, sau này họ sử dụng sắt.
Những cung điện được trang trí bằng hàng trăm cân những kim loại quý
giá đó. Tương tự, đồng đỏ, đồng thau và sắt cũng được dùng làm áo giáp cũng như các loại vũ khí khác nhau như kiếm, dao găm, giáo, và chùy.
Người dân Lưỡng hà sử dụng hệ thống số đếm căn bản 60. Đây là nguồn gốc của giờ 60 phút và ngày 24 giờ hiện nay, cũng như vòng tròn 360 độ. Lịch Summer cũng tính theo tuần bảy ngày. Sự hiểu biết toàn học này đã được sử dụng trong việc lập bản đồ.
Thiên văn học
Những nhà thiên văn học Babylon rất chú tâm nghiên cứu các ngôi sao
và bầu trời, và đa số họ đã có thể dự đoán các kỳ nhật nguyệt thực và
các điểm chí. Con người cho rằng mọi hiện tượng thiên văn học đều có một
mục đích nào đó. Đa số chúng có liên quan tới tôn giáo và các điềm báo
hiệu. Các nhà thiên văn Lưỡng Hà đã tạo ra lịch 12 tháng dựa trên những
vòng quay của Mặt Trăng. Họ chia năm làm hai mùa: mùa hè và mùa đông.
Những nguồn gốc của thiên văn học có lẽ bắt đầu từ thời điểm này.
Tôn giáo
Tôn giáo Lưỡng Hà là tôn giáo cổ nhất được ghi chép tới ngày nay. Người dân Lưỡng Hà tin rằng thế giới là một cái đĩa phẳng, được bao quanh bởi một khoảng không gian to lớn và trống rỗng, phía trên thế giới là thiên đường. Họ cũng tin rằng nước có mặt ở mọi nơi, ở trên, dưới, và hai bên, và rằng vũ trụ đã sinh ra từ trong biển cả vô biên đó. Tôn giáo Lưỡng Hà là đa thần giáo, người dân ở đây tin vào rất nhiều vị thần.
Dù những niềm tin
được miêu tả như ở trên là điều thông thường đối với mọi người dân
Lưỡng Hà, vẫn có một số khác biệt theo từng vùng. Từ của người Summer để
chỉ vũ trụ là an-ki, gồm tên nam thần An và nữ thần Ki. Con của họ là
Enlil, vị thần không khí. Họ tin rằng Enlil là vị thần có nhiều quyền
lực nhất. Ông ta là người đứng đầu các thần Pantheon, tương tự thần Zeus của người Hy Lạp và thần Jupiter của người La Mã. Người Sumer cũng tự đặt ra một số câu hỏi triết học
như: Chúng ta là ai? Chúng ta đang ở đâu? Tại sao chúng ta lại ở đây.
Họ cho rằng những câu hỏi đó sẽ được các vị thần linh của họ giải đáp.
Nếu ai đó bị ốm, họ sẽ cầu nguyện
các vị thánh để được lành bệnh. Như đã đề cập ở trên, các bác sĩ Lưỡng
Hà không có trình độ cao về y học, vì thế người dân phải trông đợi sự
giúp đỡ của các thánh thần.
Những vị thần đầu tiên
Anu là vị thần bầu trời của người Sumer. Ông lấy nữ thần Ki, nhưng trong một số tôn giáo Lưỡng Hà, ông có một người vợ tên là Uraš.
Marduk là vị thần chính của Babylon. Người dân ca ngợi ông, vì thế ông sẽ cho phép Babylon từ một nước nhỏ trở thành một Đế chế hùng mạnh.
Nabu
là vị thần chữ viết Lưỡng Hà. Ông rất tử tế, và được kính trọng vì tài
viết chữ của mình. Ở một số nơi, ông được cho là người kiểm soát thiên
đường và Trái Đất.
Ninurta là vị thần chiến tranh của người Sumer. Ông cũng là vị thần của những người anh hùng.
Inanna, vị nữ thần tình yêu và chiến tranh của Sumer, cũng là vợ của Ninurta.
Pazuzu, cũng được gọi là Zu, là vị thần ma quỷ, người đã lấy trộm những tờ giấy số mệnh của Enlil và vì thế bị giết. Ông cũng là người mang đến bệnh dịch không thể cứu chữa.
Tang lễ
Các nhà khảo cổ học đã tìm thấy hàng trăm ngôi mộ ở một số nơi tại Lưỡng Hà. Những ngôi mộ ấy kể lại cho chúng ta nhiều điều về phong tục tang lễ Lưỡng Hà. Tại thành phố Ur,
đa số mọi người được chôn trong những ngôi mộ gia đình bên dưới nhà họ.
Trẻ em được đặt trong những chiếc bình lớn và được mang tới nhà nguyện gia đình. Những người khác được chôn trong nghĩa trang chung của thành phố. Một số người được quấn trong những chiếc chiếu và thảm.
Trong đa số các ngôi mộ, một số đồ vật cá nhân của người chết được chôn
cùng họ, và có 17 ngôi mộ có những đồ vật quý, vì thế chúng được cho là
những ngôi mộ của hoàng gia.
Ziggurat
Ziggurat là những ngôi đền to lớn được xây dựng để cúng tế các vị thần. Chúng được xây bằng đất sét và bùn
và có ba hay bốn phần. Chúng được xây rất cao để luôn được giữ khô ráo
bởi ở thời ấy thường xuyên xảy ra những trận lũ lụt. Cần nhiều nhân công
để xây dựng một ziggurat. Ít nhất phải có đủ người để đào đất sét, làm gạch,
và xếp những viên gạch đó lại với nhau. Những viên gạch được làm bằng
bùn và sậy ép. Chỉ ziggurat tại Ur còn tồn tại tới ngày nay bởi những
người xây dựng chúng sau này đã nhân ra rằng việc nung đất sét sẽ khiến
những viên gạch có tuổi thọ lâu hơn.
Những ziggurat được xây dựng theo hình kim tự tháp,
với những bậc thang dẫn lên mặt phẳng trên đỉnh - rất giống những vườn
treo. Chúng được xây trông giống như những ngọn núi, vì người dân muốn
có được số cây gỗ và các khoáng chất phong phú như ngọn núi Zargos, nằm
giữa Lưỡng hà và nước Iran hiện nay, cũng như bởi núi là nơi trú ngụ của
các vị thần, và việc xây dựng một hòn núi giả khiến con người gần gũi
hơn với các vị thánh thần cũng như sẽ thường xuyên được thừa huệ hơn khi
luôn có các vị thần bên cạnh.
Văn hoá
Âm nhạc và bài hát
Những bài hát được sáng tác để ca ngợi các vị thần thánh, nhưng cũng
có nhiều bài hát ghi lại các sự kiện quan trọng. Dù âm nhạc và các bài
hát là để tiêu khiển cho các vị vua và các quan cai trị, chúng cũng được nhiều người dân thường hâm mộ và họ thường hát, nhảy múa tại nhà riêng hay tại các khu chợ.
Những bài hát được dạy cho trẻ em và trẻ em lại truyền lại cho các thế
hệ sau đó. Nhờ thế những bài hát được lưu truyền cho tới khi có ai đó
viết lại chúng. Những bài hát đó là phương tiện lưu trữ các thông tin
quan trọng qua nhiều thế kỷ về các sự kiện lịch sử còn lại đến chúng ta ngày nay. Oud (tiếng Ả Rập: العود) là một nhạc cụ dây nhỏ. Bức tranh cổ nhất về Oud có từ giai đoạn Uruk ở phía Nam Lưỡng Hà hơn 5000 năm trước. Nó hiện ở tại Bảo tàng Anh và do Tiến sĩ Dominique Collon tìm thấy. Hình ảnh thể hiện một phụ nữ ngồi bên các nhạc cụ trên một chiếc thuyền, chơi bằng tay phải. Nhạc cụ này đã xuất hiện hàng trăm lần trong lịch sử Lưỡng Hà và tái hiện ở cả thời Ai Cập cổ đại từ vương triều thứ 18 trở về sau, nhạc cụ có các biến thể cổ dài và ngắn mới.
Oud được coi là tiền thân của sáoChâu Âu. Tên của nó xuất phát từ العود al-‘ūd (gỗ) trong tiếng Ả Rập, có lẽ là loại cây có gỗ dùng chế tạo ra oud.
Các vị vua Assyri thường đi săn bắn. Những cảnh đấm bốc và đấu vật thường được thể hiện trong nghệ thuật, và polo cũng có thể là môn thể thao phổ thông, dù khi chơi một người sẽ ngồi lên vai của người kia thay vì cưỡi ngựa. Họ cũng chơi cờ tương tự như hiện nay.
Cuộc sống gia đình
Tỷ lệ tử vong trẻ em lên tới từ 75 đến 95 phần trăm, chỉ con cái
hoàng gia và các gia đình giàu có cũng như các thợ chuyên môn, học giả,
các bác sĩ, thầy tu được tới trường. Đa số trẻ em trai được tiếp tục làm
công việc của cha mình hay đi ra ngoài học buôn bán. Trẻ em gái ở nhà cùng mẹ, học nội trợ và chăm sóc những đứa em nhỏ hơn. Một điều khá lạ ở thời điểm đó, phụ nữ cũng có quyền. Họ có thể sở hữu tài sản và nếu có lý do, có thể ly hôn.
Nông nghiệp
Nguồn cung cấp lương thực tại Lưỡng Hà khá phong phú nhờ vị trí giữa hai con sông, cũng là nguồn gốc tên gọi của vùng này, sông Tigris và sông Euphrates. Những vùng đất gần sông màu mỡ hơn và thuận lợi hơn cho trồng cấy, nhiều vùng đất ở xa nguồn nước khô và thường không có người ở. Điều này giải thích tại sao sự phát triển hệ thống tưới tiêu rất quan trọng đối với những người dân định cư tại Lưỡng Hà. Những phát kiến mới của Lưỡng Hà còn bao gồm việc kiểm soát nước bằng đập và sử dụng kênh dẫn nước.
Những người định cư đầu tiên ở vùng đất màu mỡ Lưỡng Hà đã sử dụng những chiếc càygỗ để làm mềm đất trước khi trồng cấy lúa mạch, hành, nho, củ cải, và táo. Những người dân Lưỡng Hà cũng là một trong những người đầu tiên biết làm bia và nấu rượu.
Thời tiết khó đoán định của Lưỡng Hà là một trở ngại đối với những
người nông dân; mùa màng thường bị thất bát vì thế những nguồn lương
thực dự trữ như bò và cừu cũng được phát triển.
Nhờ khả năng trồng cấy lương thực tài tình, những người dân Lưỡng Hà không phải phụ thuộc vào nô lệ
để làm việc đồng áng, chỉ trừ một số ngoại lệ nhỏ. Cũng có nhiều nguy
cơ có thể gặp khi sử dụng nô lệ (ví dụ bỏ trốn/hay nổi loạn). Họ sống ở
những vùng đất được gọi là vùng đất hình trăng lưỡi liềm màu mỡ.
Triều đình
Vua chúa
Những người dân Lưỡng Hà tin rằng vua và nữ hoàng của họ là con cháu của thần linh, nhưng không giống những người Ai Cập cổ đại, họ không bao giờ tin rằng các vị vua đó là những vị thần thực sự. Đa số các vị vua đều tự phong là “vua của vũ trụ” hay “vua vĩ đại”. Một cái tên khác cũng thường được dùng là "người chăn dắt", bởi các vị vua phải trông nom thần dân của mình. Nebuchadrezzar II là vị vua hùng mạnh nhất tại Babylonia. Ông cho rằng mình là con trai của thần Nabu. Ông đã cưới con gái Cyaxeres, vì thế các triều đại Median và Babylonia có mối quan hệ gia đình với nhau. Tên của Nebuchadnezzar có nghĩa: Nabo, bảo vệ vương triều!
Belshedezzar là vị vua cuối cùng của Babylonia. Ông là con trai của Nabonidus và Nictoris, con gái Nebuchadnezzar.
Vị vua đầu tiên của triều đại Ur (khoảng năm 2560 TCN) là Mesanepada. Ông đã biến Ur thành thành phố chính của Sumer. Triều đại Ur khoảng 2563–2387 TCN
Khi Assyria lớn mạnh thành một đế chế, nó bị chia thành những phần nhỏ hơn, được gọi là các tỉnh. Mỗi tỉnh được đặt tên theo thành phố chính tại đó, như Nineveh, Samaria, Damascus và Arpad. Tất cả tỉnh đều có thủ hiến riêng, thủ hiến đảm nhiệm vai trò thu thuế: ông cũng giữ nhiệm vụ tập trung binh sĩ cho chiến tranh, và cung cấp nhân lực khi xây dựng đền miếu.
Thủ hiến cũng có trách nhiệm thực thi luật pháp. Nhờ vậy họ có thể dễ
dàng kiểm soát được một đế chế như Assyria. Dù Babylon là một thành bang khá nhỏ của Sumer, và nó đã lớn mạnh lên rất nhiều sau thời kỳ cai trị của Hammurabi. Ông được gọi là "người tạo luật pháp", và Babylon
nhanh chóng trở thành một trong những thành phố chính của Lưỡng Hà. Sau
này nó được gọi là Babylonia, có nghĩa "cổng ngõ của các vị thánh." Nó
cũng đã trở thành trung tâm học vấn lớn nhất thời đại.
Chiến tranh
Khi các thành bang bắt đầu phát triển, vùng ảnh hưởng của chúng chồng lấn lẫn nhau, tạo ra những cuộc xung đột, đặc biệt về đất đai
và những con kênh. Những cuộc xung đột đó đã được ghi lại trên những
bảng ghi chép hàng trăm năm trước khi cuộc chiến lớn nổ ra - cuộc chiến
đầu tiên được ghi lại xảy ra vào khoảng năm 3200 TCN, nhưng chỉ sau năm
2500 TCN những cuộc chiến tranh mới trở thành điều thường nhật. Ở thời
điểm này chiến tranh kết hợp vào bên trong hệ thống chính trị Lưỡng Hà,
một thành bang trung lập có thể hành động như một trọng tài cho hai bên
tranh chấp. Điều đó giúp hình thành các liên minh giữa các thành bang,
dẫn tới việc thành lập các thành bang theo vùng.
Khi các đế chế thành hình, chúng tiếp tục tiến hành chiến tranh với nước ngoài. Ví dụ, vua Sargon, đã chinh phục tất cả các thành phố của Sumer, một số thành phố tại Mari, và sau đó gây chiến với Bắc Syria.
Nhiều bức tường cung điện Babylonia được trang hoàng bằng những bức tranh thể hiện những trận thắng trước kẻ thù, binh lính đối địch hoặc đang bỏ chạy trong tuyệt vọng, hoặc đang trốn tránh trong những đám lau sậy.
Một vị vua Sumer, Gilgamesh, được cho là hai phần ba thần thánh và
chỉ một phần ba con người. Có những câu chuyện huyền thoại và những bài
thơ về ông, được truyền lại qua nhiều thế hệ, bởi ông đã tiến hành nhiều
cuộc phiêu lưu mạo hiểm được cho là rất quan trọng và giành thắng lợi
trong nhiều cuộc chiến.
Luật pháp
Vua Hammurabi, như được đề cập ở trên, là người nổi tiếng với Bộ luật Hammurabi
(được tạo ra khoảng năm 1780 TCN), đây là một trong những bộ luật sớm
nhất được tìm thấy cũng như là một ví dụ được bảo tồn tốt nhất nhất về
kiểu văn bản này từ thời Lưỡng Hà cổ đại. Xem Hammurabi và Luật Hammurabi.
Trong luật Hammurabi có 282 điều tàn bạo. Vì vậy người dân sẽ phải khiếp sợ mà tuân thủ.
Kiến trúc
Việc nghiên cứu kiến trúc Lưỡng Hà cổ đại dựa trên những bằng chứng khảo cổ học,
những bức tranh thể hiện các công trình và những văn bản miêu tả lại
việc xây dựng. Những văn bản của các học giả thời trước thường được lưu
giữ trong các đền, trên những bức tường thành phố, trên những cánh cổng
và trên những công trình lăng mộ, nhưng thỉnh thoảng chúng cũng xuất
hiện trên các công trình nhà cửa dân cư.[7]
Việc nghiên cứu bề mặt kiến trúc cũng cho phép có cái nhìn về hình thức
thành thị tại các thành phố ở buổi đầu lịch sử Lưỡng Hà. Những tàn tích
nổi tiếng nhất từ thời Lưỡng Hà là các tổ hợp đền tại Uruk từ thiên niên kỷ thứ 4 trước Công Nguyên, những đền đài và cung điện từ các địa điểm thuộc Triều đại sớm tại thung lũng Sông Diyala như Khafajah và Tell Asmar, những tàn tích của Triều đại Ur thứ 3 tại Nippur (điện thờ Enlil) và Ur (điện thờ Nanna), những tàn tích giữa Thời đồ đồng tại các địa điểm ở Syria và Thổ Nhĩ Kỳ Ebla, Mari, Alalakh, Aleppo và Kultepe, những cung điện giai đoạn cuối thời đồ đồng ở Bogazkoy (Hattusha), Ugarit, Ashur và Nuzi, các cung điện thời kỳ đồ sắt và các đền đài tại Assyria (Kalhu/Nimrud, Khorsabad, Nineveh), Babylonian (Babylon), Urartian (Tushpa/Van Kalesi, Cavustepe, Ayanis, Armavir, Erebuni, Bastam) và các dịa điểm Neo-Hittite (Karkamis, Tell Halaf, Karatepe).
Các ngôi nhà thường là tàn tích còn sót lại của Babylonia cổ tại Nippur
và Ur. Trong số những văn bản về việc xây dựng công trình và mục đích
của chúng, Gudea từ thiên niên kỷ thứ 3 trước Công Nguyên là đáng chú ý
nhất, cũng như những văn bản ghi chép hoàng gia Assyria và Babylonia từ Thời đồ sắt.
Nhà cửa
Những vật liệu sử dụng xây dựng nhà cửa tại Lưỡng Hà tương tư như vật
liệu ta dùng ngày nay: gạch bùn, vữa bùn và cửa gỗ, tất cả chúng đều có
sẵn ở xung quanh thành phố,
dù gỗ có hiếm hơn. Đa số nhà đều có phòng trung tâm hình vuông và các
phòng khác bao xung quanh, nhưng nhà nói chung khác biệt nhau nhiều về
kích thước và vật liệu sử dụng tùy theo gia đình.
Những phòng nhỏ không đồng nghĩa với việc chủ nhà nghèo khó; trên thực
tế những người nghèo nhất xây nhà bằng các vật liệu nhanh hỏng như lau
sậy lấy từ bên ngoài thành phố, nhưng có rất ít bằng chứng trực tiếp về
điều này.
Cung điện
Các cung điện
của tầng lớp trên tại Lưỡng Hà ở thời kỳ đầu là những phức hợp công
trình lớn, và thường được trang hoàng rực rỡ. Những công trình như vậy
còn có thể thấy tại các di chỉ châu thổ Sông Diyala River như Khafajah và Tell Asmar.
Các cung điện có từ thiên niên kỷ thứ 3 trước Công Nguyên đó được dùng
cho những định chế kinh tế xã hội bậc cao, vì thế, ngoài chức năng ở và
nhà riêng, chúng còn là xưởng chế tạo đồ thủ công, kho thực phẩm, sân tổ
chức nghi lễ, và thường có cả các điện thờ. Ví dụ, cái gọi là "giparu"
(hay Gig-Par-Ku trong tiếng Sumer) tại Ur nơi những vị nữ tu của thần
Mặt Trăng Nanna
trú ngụ là một phức hợp lớn với nhiều sân, một số điện thờ, những phòng
chôn cất của các nữ tu, một phòng nghi lễ lớn, vân vân. Một phức hợp
tương tự là một cung điện Lưỡng Hà đã được khai quật tại Mari ở Syria, có niên đại từ giai đoạn Babylonia Cũ.
Các cung điện Assyria từ Thời đồ sắt, đặc biệt tại Kalhu/Nimrud, Dur Sharrukin/Khorsabad và Ninuwa/Nineveh,
đã trở nên nổi tiếng nhờ những hình ảnh và những đoạn văn miêu tả trên
các bức tường của chúng, tất cả đều được khắc trên những phiến đá. Những
hình ảnh đó hoặc thể hiện cảnh thờ cúng hoặc miêu tả về quân đội của
nhà vua hay các thành tựu dân sự. Những cánh cổng và những lối vào quan
trọng được trang trí bằng nhiều hình khắc các vị thần trong thần thoại
để tránh điều không may. Bố cục kiến trúc các cung điện thời đồ sắt cũng
được tổ chức xung quanh một sân nhỏ. Thường phòng thiết triều của vua
có cửa trông ra một sân nghi lễ lớn, nơi những vị triều thần gặp gỡ và
tổ chức các lễ nghi triều đình.
Số lượng lớn các đồ vật bằng ngà tìm thấy ở nhiều cung điện Assyria cho thấy mối quan hệ buôn bán thường xuyên với những quốc gia Neo-Hittite Bắc Syria thời kỳ đó. Một bằng chứng khác là những dải hình repousse đồng trang trí trên những cánh cổng gỗ.
Kinh tế
Từng có một sự khác biệt lớn giữa tiền bạc và sự giàu có giữa người giàu và người dân thường. Người dân thường phụ thuộc nhiều vào Mùa màng, vì họ có rất ít tiền. Người giàu có nhiều nô lệ và cũng có nhiều tiền bạc.
1 talent =
Những đồng xu bạc không phải làm hoàn toàn bằng bạc. Bạc nguyên chất chỉ chiếm khoảng 87%.
Nhiều đồng tiền xu khác làm bằng đồng.
Lịch sử cận đại
Lưỡng Hà sau này thuộc quyền kiểm soát của Đế chế Achaemenid Ba Tư, trở thành hai vùng thuộc quyền kiểm soát của hai vị phó vương, Babylonia ở phía nam và Athura (từ Assyria)
ở phía bắc. Trong thời kỳ này, 500-330 TCN, Ba Tư, một quốc gia sử dụng
ngôn ngữ Indo-European, đã sắp đủ điều kiện để trở thành một đế chế
hùng mạnh trên thế giới.
Đa phần Lưỡng Hà sau này trở thành một phần của Đế chế Parthia của Ba Tư, kéo dài tới năm 224. Ctesiphon trở thành thủ đô của Đế chế Parthia. Tuy nhiên, vùng phía tây bắc thuộc Roma. Ở thời Tetrarchy vùng này được chia thành hai tỉnh: Osrhoene (xung quanh Edessa, là vùng biên giới ngày nay giữa Thổ Nhĩ Kỳ và Syria) và Lưỡng Hà (nằm xa hơn ở phía đông bắc).
Ở thời Đế chế Ba Tư của người Sassanid, phần lớn hơn của Lưỡng Hà được gọi là Del-e Iranshahr có nghĩa "Trái tim Iran" và thủ phủ Ctesiphon (đối diện Seleukia bên kia sông Tigris), thủ đô của Ba Tư, nằm tại Lưỡng Hà.
Đầu thế kỷ thứ 7, các vị hoàng đế Hồi giáo của Đế chế Ả Rập lên nắm quyền tại Damascus và sáp nhập toàn bộ Đế chế Sassanid. Vì thế Lưỡng Hà được tái thống nhất dưới quyền quản lý của người Ả Rập, nhưng được chia thành hai tỉnh: phía bắc với Mosul (cũng được gọi là Nineveh) là thủ đô, và phía nam, với thủ đô Bagdad. Sau này Bagdad cũng trở thủ đô của vị hoàng đế Hồi giáo. Bagdad đã trở thành trung tâm của Đế chế Ả Rập cho tới tận năm 1258.
Giai đoạn 1508-1534, người nhà Safavid Ba Tư nắm quyền kiểm soát Lưỡng Hà.
Năm 1920 quy chế quốc gia cho Iraq được Anh Quốc đồng thuận sau sự giải tán của Đế chế Ottoman, với những biên giới hiện nay và cả Kuwait. Kuwait, một vùng bảo hộ của Anh, nguyên từng là một phần của tỉnh Basra thời Đế chế Ottoman, và được trao quyền độc lập từ Anh năm 1961.
Đầu thập kỷ 1990 các lực lượng liên quân đã tung ra cuộc tấn công vào Iraq được gọi là Chiến dịch Bão táp Sa mạc, để trả đũa việc Tổng thống Saddam Hussein xâm chiếm Kuwait.
Xem thêm
Các nền văn minh phát sinh từ các khu vực định cư và các nền văn hóa biết làm nông nghiệp sớm nhất.