Thứ Sáu, 28 tháng 2, 2014

CÕI TRẦN


Đừng chê Cõi Trần nhơ
Đừng khen Cõi Trần đẹp
Cõi Trần là thản nhiên
Chỉ con người nhơ, đẹp!

Cõi Trần không eo hẹp
Cũng không thỏa mênh mông
Cứ hữu tình bày tỏ
Chuyện vô thường vô vi.

 Đời đến rồi đời đi
Ai đi rồi còn đến?
Thương tiếc hay thờ ơ?
Cõi Trần chẳng mong chờ!...

Cõi Trần mải âu lo
Xoay bốn mùa hối hả
Giữ tươi cành xanh lá
Vỗ về cho dòng trôi!

Cõi Trần theo Mặt Trời
Tung tăng gieo sắc nắng
Cho linh thiêng đắc thắng
Sống chết hòa bên nhau.

Cõi Trần chẳng biết đâu
Trước điên cuồng tàn phá
Đất trời tan nát cả
Kệ đi đâu về đâu!

Ôi, Cõi Trần hỉ xả
Lặng lẽ với dãi dầu
Cưu mang và che chở 
Giữa Vũ Trụ bể dâu!

Cõi Trần ơi, thương quá
Vui mang nặng đẻ đau
Như mẹ ta vô cầu!...

                                    Trần Hạnh Thu

Xem tiếp...

VUA HÁT "SẾN" - CHẾ LINH 2

(ĐC sưu tầm trên NET)


Chế Linh

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Chế Linh
Che Linh at liveshow Khả Tú.jpg
Chế Linh trong liveshow Khả Tú, năm 2008
Thông tin nghệ sĩ
Tên khai sinh Chà Len
Sinh 1942 (71–72 tuổi)
Ninh Thuận
Thể loại Nhạc vàng
Ca khúc tiêu biểu Thói đời, Thành phố buồn, Thương hận, Xin làm người xa lạ, Mười năm yêu em, Áo em chưa mặc một lần, Trong tầm mắt đời, Giọng ca dĩ vãng, Đêm buồn tỉnh lẻ
Chế Linh là một người Việt gốc Chăm (tên thật Chà Len (Jamlen), tên Việt là Lưu Văn Liên), sinh năm 1942 tại paley Hamu Tanran, gần Phan Rang (nay thuộc Làng Hữu Đức, xã Phước Hữu (Ninh Phước - Ninh Thuận). Chế Linh vừa là một ca sĩ (Chế Linh) và vừa là một nhạc sĩ với nghệ danh Tú Nhi, có một giọng hát đặc biệt và có rất nhiều bài hát nổi tiếng. Về sau ông được xem như là một trong bốn giọng nam nổi tiếng nhất của nhạc vàng thời kỳ đầu ("tứ trụ nhạc vàng"), ba người còn lại là: Duy Khánh , Nhật Trường, Hùng Cường. Chế Linh có thiên hướng hát về nhạc chiến tranh của những người lính trong Quân lực Việt Nam Cộng hòa (mặc dù anh không phải nhập ngũ vì là người dân tộc thiểu số). Những bài hát nổi tiếng nhất: Đêm nguyện cầu, Thành phố buồn, Thói đời, Thương hận, Trong tầm mắt đời, Đêm buồn tỉnh lẻ, Áo em chưa mặc một lần...

Chế Linh biểu diễn trước 1975.
Năm 16 tuổi, anh vào Sài Gòn sinh sống và hoạt động âm nhạc từ năm 1960. Trong khoảng thời gian 1964-1965, anh thâu rất nhiều dĩa hát. Năm 1976-1978, anh bị bắt vì vượt biên trái phép và tội phản động, biệt giam 28 tháng. Năm 1980, anh vượt biên thành công sang Mã Lai, sau đó định cư tại Toronto, Canada.
Ngoài việc là một trong những giọng ca nam hát nhạc vàng được yêu thích nhất, Chế Linh còn nổi tiếng là người có nhiều vợ con, tính cho đến tháng 1 năm 2007, anh đã có 4 vợ và 14 đứa con  (sau khi ly dị anh mới lấy vợ khác).
Năm 2007, anh có theo một đoàn văn hóa của UNESCO về thăm lại và biểu diễn tại Việt Nam.

Giải thưởng

1972: Đoạt giải Kim Khánh - Huy chương vàng đệ nhất hạng nam ca, do nhật báo Trắng Đen tổ chức.

Ca sĩ Anh Thơ lo lắng khi song ca cùng Chế Linh

21/02/14 12:11
(GDVN) - Trong liveshow "10 năm tình cũ” vào ngày 1/3 tới đây, Chế Linh sẽ lần đầu tiên có những phần song ca cùng các nữ ca sĩ khách mời.
Trong liveshow diễn ra tại Trung tâm Hội nghị Quốc Gia (Hà Nội), đặc biệt Chế Linh sẽ lần đầu tiên có những phần song ca cùng các nữ ca sĩ khách mời như Lệ Quyên, Phi Nhung, Hà Thu Hiền và đặc biệt  hơn nữa là phần song ca với “nữ hoàng dòng nhạc dân gian” Anh Thơ.
Phần song ca của Chế Linh - Anh Thơ đang là tiết mục gây tò mò, hiếu kỳ và cũng rất đáng để chờ đợi trong liveshow.
Sở dĩ khán giả tò mò vì Anh Thơ nổi tiếng trong dòng nhạc cách mạng Việt Nam và dòng nhạc mang âm hưởng dân gian, còn Chế Linh lại rất “sến”. Thế nhưng cũng khá bất ngờ khi Anh Thơ tiết lộ, ngày bé chị nghe dòng nhạc này nhiều lắm, nhất là nghe Chế Linh hát. Chị thuộc rất nhiều bài, ngấm vào và luôn ở trong tâm hồn chị lúc nào không hay.
Cũng vì thế mà hồi cuối năm ngoái, Anh Thơ đã ra mắt CD “Suốt Đời Tình Khắc Sâu” với những bản nhạc bolero nổi tiếng, khiến rất nhiều khán giả ngạc nhiên. Với Anh Thơ, chị hát dòng nhạc này không chỉ bởi đã “ngấm” từ ngày bé mà còn bởi chị yêu mến những ca khúc nhạc sến, luôn đẹp cả về ca từ cho đến giai điệu, nhiều ca khúc là những câu chuyện rất thật, thật như chính đời sống.
Danh ca Chế Linh
Thực lòng, chưa bao giờ Anh Thơ từng nghĩ đến việc sẽ hát cùng danh ca Chế Linh vì điều kiện quá xa xôi, dòng nhạc chị theo đuổi lại khác biệt với dòng nhạc của Chế Linh. Lần này khi được mời, chị đã nhận lời với một sự thích thú, một phần vì yêu mến giọng hát của Chế Linh, một phần vì ca khúc hai người song ca là ca khúc rất đẹp, nổi tiếng. Anh Thơ rất ngưỡng mộ giọng hát Chế Linh với quãng giọng trầm rất đẹp – tình cảm – mùi mẫn, lên cao cũng rất ấm áp… “Cách hát của chú rất nhẹ nhàng, từ từ như những lời tự sự, bộc bạch mà rất gần gũi”- Anh Thơ nói. 
Ca sĩ Anh Thơ song ca cùng Chế Linh
Đến thời điểm này, khi ngày diễn ra liveshow đến rất gần (thứ bảy, 1/3), tuy không quá hồi hộp nhưng Anh Thơ cũng thoáng những lo lắng để chuẩn bị cho màn song ca cùng Chế Linh. Lý do là bởi chị chưa nắm được tinh thần, cái e của giọng hát Chế Linh để quyện giọng “ngọt” nhất cùng ông.
Tuy nhiên, chị tin phần hòa giọng này sẽ rất thành công, bởi bản thân chị cũng có chút…“sến”… Dòng nhạc dân gian rất gần với dòng nhạc Bolero, thắm đượm chất tình, dễ hát, dễ nghe, gần gũi với cuộc sống… 
Với danh ca Chế Linh, đây là lần đầu tiên ông song ca cùng Anh Thơ, đặc biệt là trên sân khấu Hà Nội. Ông từng nghe Anh Thơ và rất yêu mến giọng ca này. Nhưng vì đây là lần đầu tiên, nên Chế Linh cũng ít nhiều… hồi hộp, ông chuẩn bị  kỹ lưỡng phần song ca với các nữ nghệ sĩ để làm hài lòng người hâm mộ. 
Trong liveshow này, khán giả cũng sẽ được thưởng thức những phần song ca rất đặc biệt, rất ngọt ngào của Chế Linh với Lệ Quyên và Phi Nhung. Họ sẽ hát cùng ông những tác phẩm song ca bất hủ mà Chế Linh từng song ca thành công với những nữ nghệ sĩ khác./.
(ĐC chép từ http://giaoduc.net.vn)
Xem tiếp...

VUA HÁT "SẾN" - CHẾ LINH 1

(ĐC sưu tầm trên NET)


Chế Linh: ’70 tuổi nhưng không yêu tôi… không sống được’

“70 tuổi nhưng tôi không yêu thì không sống được. Rất nhiều người hỏi Chế Linh là sao tuổi này rồi mà vẫn hát về tình yêu rã rời, và nghe ướt át quá” – ca sĩ Chế Linh tâm sự.
    Ngày 26/2, ca sĩ Chế Linh cùng ê-kíp thực hiện chương trình đã có buổi họp giới thiệu liveshow "10 năm tình cũ" sẽ diễn ra ngày 1/3 tới tại Trung tâm hội nghị Quốc gia (Hà Nội). Chế Linh xuất hiện trẻ hơn so với tuổi thật của ông và ông cười rất nhiều. Dường như ai cũng nhận thấy rõ niềm hạnh phúc của Chế Linh trong lần trở lại sân khấu Thủ đô sau 2 năm tạm vắng này.
    “Hai năm tạm xa sân khấu Thủ đô, Chế Linh nhận ra rằng mình cần phải sớm trở lại. Khán giả trên quê hương vẫn chiếm đại đa số và tôi cần phải đáp ứng sự thương mến của khán giả dành cho tôi.
    Tôi vô cùng biết ơn tình cảm của những người hâm mộ giọng ca Chế Linh, chính vì thế, để chuẩn bị cho liveshow, tôi phải giữ sức khỏe, giữ giọng hát và luyện tập để thể hiện tình cảm của tôi qua tiếng hát, qua từng ca từ của các ca khúc gửi tới khán giả”, Chế Linh tâm tình.
    Chế Linh: ’70 tuổi nhưng không yêu tôi… không sống được’ - Ảnh 1
    Giọng ca nổi tiếng hải ngoại lấy tên livehow là “10 năm tình cũ”, một cái tên như gợi nhắc nỗi niềm riêng tư, có chút sầu muộn. Có nhiều người thắc mắc, liệu cái tên liveshow có phải là tình cảm ẩn ý mà Chế Linh muốn gửi tới một người tình cũ? Về điều này, Chế Linh trải lòng: “Tất cả chúng ta khi lớn lên đều có ít nhiều kỷ niệm, vui – buồn, lớn – nhỏ, kỷ niệm nào cũng đáng nhớ. “10 năm tình cũ” là rất nhiều những kỷ niệm, ký ức được thể hiện qua từng ca từ, từng ca khúc Chế Linh thể hiện. Đó có thể là tình cảm riêng tư Chế Linh không biết thổ lộ cùng ai, Chế Linh hát thể hiện tâm tình của mình, hoặc là để hát cho những người có cùng tâm trạng giống như Chế Linh”.
    Nhắc đến tên tuổi Chế Linh, người ta hay nghĩ đến cặp song ca Chế Linh với Sơn Tuyền, Thanh Tuyền, Phi Nhung, Khánh Ly… Tuy nhiên, trong liveshow “10 năm tình cũ” tới đây, song ca cùng Chế Linh lại xuất hiện những cái tên như Anh Thơ, Lệ Quyên. Chế Linh bảo rằng, ông muốn có một sự kết hợp nghệ thuật từ những giọng ca tưởng như không thể hòa quyện cùng nhau.
    Mặc dù Chế Linh và Anh Thơ chưa tập luyện nhưng Chế Linh hết sức tin tưởng rằng, sự kết hợp giọng ca đặc biệt này sẽ đem lại món ăn tinh thần mới, không phụ lòng mong mỏi của khán thính giả.
    Chế Linh: ’70 tuổi nhưng không yêu tôi… không sống được’ - Ảnh 2
    Chế Linh sẽ song ca cùng Anh Thơ trong “10 năm tình cũ”.
    Trong các liveshow riêng, Chế Linh thường hát những ca khúc cũ bởi theo ông, đây là yêu cầu, mong mỏi của khán giả. Ông khẳng định là “10 năm tình cũ” sẽ đáp ứng được 70-85% mong muốn của người hâm mộ. Chế Linh cũng tiết lộ thêm, ông đã chuẩn bị một món quà đặc biệt để tri ân khán giả Thủ đô. Đó là một ca khúc khán giả chưa từng nghe Chế Linh thể hiện, một ca khúc về Hà Nội mà ông rất yêu thích nhưng xin được giấu tên.
    Thêm một điểm đặc biệt trong “10 năm tình cũ” là giọng ca ngoài 70 tuổi khẳng định chắc nịch, Chế Linh sẽ hát live toàn bộ liveshow. Chế Linh chia sẻ: “Ở các trung tâm thu hình, nhiều nghệ sĩ tên tuổi đều hát nhép. Chỉ riêng tôi là xin các trung tâm cho mình hát trực tiếp.
    Tôi thấy rằng khi hát trực tiếp, cảm xúc của người nghệ sĩ vô cùng đẹp mặc dù giọng của mình có khi không tròn trịa, không hoàn hảo như khi thu âm trước. Thế nhưng nó đẹp ở chỗ tự nhiên, có những đoạn cao trào mình gào thét lên thực sự và khán giả nhìn nhận được sự cố gắng của người nghệ sĩ.
    Chế Linh nghĩ rằng, còn sức thì tôi còn hát thật. Và nhân đây, tôi cũng kêu gọi các bạn trẻ cố gắng tập luyện để phục vụ khán giả. Đừng vì lo sợ lên sân khấu, giọng hát của mình không tròn trịa, bởi lẽ cảm xúc và sự chân thành, tự nhiên nhất là điều mà khán giả chờ đợi”. 
    Nói thêm về điều này, ca sĩ Phan Anh cũng là MC dẫn chương trình cùng Kỳ Duyên trong liveshow Chế Linh sắp tới cho biết thêm: “Được làm việc cùng chú Chế Linh, Phan Anh có những điều thực sự khâm phục và phải học hỏi chú. Thứ nhất là Phan Anh ngưỡng mộ sự dẻo dai của chú Chế Linh, vì Phan Anh từng diễn show với Chế Linh vòng quanh Hà Nội, mỗi chương trình, chú hát live hơn 20 bài mà không hề mệt mỏi.
    Thứ hai là chú làm việc rất chuyên nghiệp, chú luôn giữ gìn sức khỏe, chăm chỉ luyện giọng, luôn đến đúng giờ để khán giả không phải chờ đợi. Và thêm và điều đặc biệt nữa, chú Chế Linh luôn kỹ lưỡng trong việc chuẩn bị trang phục biểu diễn tránh để bị nhàm chán trong mắt khán giả”.
    Chế Linh: ’70 tuổi nhưng không yêu tôi… không sống được’ - Ảnh 3
    Chế Linh và ca sĩ Phan Anh - MC dẫn chương trình cùng Kỳ Duyên. Photo: Hải Bá
    Dường như trong suy nghĩ, người nghệ sĩ tâm niệm, cuộc đời Chế Linh không phải của riêng ông mà là của khán giả, của những người mến mộ ông. Vì thế, ông hát theo yêu cầu, chuẩn bị kỹ lưỡng từ giọng hát, từng ca khúc trong chương trình, ngoại hình… đều nhằm mục đích làm hài lòng khán giả. Thậm chí, ông còn cởi mở "hô hào" nhà báo có thể hỏi ông về bất cứ điều gì, về liveshow, hay kể cả chuyện riêng tư. Ông bảo, Chế Linh là người của công chúng nên không có việc gì phải giấu diếm cả.
    Chế Linh không ngần ngại thừa nhận, ông có 4 bà vợ và 14 người con (7 trai, 7 gái) và ông cảm thấy hạnh phúc vô cùng khi có được nhiều sự thương yêu trên đời đến như vậy.
    Khi một nhà báo hỏi rằng, tình yêu của người nghệ sĩ đã ngoài 70 tuổi thì khác gì chàng trai tuổi 20-30, và Chế Linh phải "mượn" cảm xúc như thế nào để hát về tình yêu giờ đây ngọt ngào như thế? Chế Linh nói vui: “70 tuổi nhưng tôi không yêu thì không sống được. Rất nhiều người hỏi Chế Linh là sao tuổi này rồi mà vẫn hát về tình yêu rã rời, và nghe ướt át quá. Chế Linh nói rằng, tất cả là vì mong muốn đáp ứng nhu cầu khán giả.
    Tuổi của tôi có nhiều thứ để yêu lắm, yêu quê hương, yêu khán giả... yêu tất cả những gì đáng quý nhất trong cõi đời mình. Có lẽ tình yêu của khán giả, và việc chăm chỉ tập luyện đã khiến tôi vẫn giữ được giọng hát như của chàng trai tuổi đôi mươi”.
    Phạm Thủy 
    (nguoiduatin.vn)
    Xem tiếp...

    VĂN MINH HÓA 3 (Ấn Độ)

    (ĐC sưu tầm trên NET)

    Văn minh Ấn Độ

    Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

    Đền Taj Mahal
    Nền văn minh Ấn Độ là một nền văn minh nổi tiếng và thuộc về những nền văn minh cổ nhất thế giới.
    Nền văn minh Ấn Độ thời cổ đại bao gồm cả vùng đất ở các nước như: Ấn Độ, Pakistan, Nêpan, Bangladesh ngày nay.

    Cơ sở hình thành nền văn minh Ấn Độ

    Điều kiện tự nhiên

    Bán đảo Ấn Độ thuộc Nam Á gần như hình tam giác. Ở phía bắc, bán đảo bị chắn bởi dãy núi Hymalaya. Từ bên ngoài vào Ấn Độ rất khó khăn, chỉ có thể qua các con đèo nhỏ ở tây-bắc Ấn. Đông nam và tây nam Ấn Độ giáp Ấn Độ dương.
    Hàng năm tới mùa tuyết tan, nước từ dãy Hymalaya theo hai con sông Ấn (Indus) và sông Hằng (Ganges) lại đem phù sa tới bồi đắp cho những cánh đồng ở Bắc Ấn.
    Nền văn minh ở lưu vực sông Indus (3.000-1.800 Tr. C.N.) đã thấm đượm những tư tưởng và hình thức nghệ thuật mà về sau người ta xem như bản sắc tiêu biểu cho Ấn Độ.

    Dân cư

    Người dân xây dựng nên nền văn minh cổ xưa nhất ở Ấn Độ ven bờ sông Ấn là những người Dravidian. Ngày nay những người Dravidian chủ yếu cư trú ở miền nam bán đảo Ấn Độ. Khoảng 2000 năm TCN đến 1500 năm TCN có nhiều tộc người Aryan tràn vào xâm nhập và ở lại bán đảo Ấn. Sau này, trong quá trình lịch sử còn có nhiều tộc người khác như người Hy Lạp, Hung Nô, Ả Rập Saudi, Mông Cổ xâm nhập Ấn Độ do đó cư dân ở đây có sự pha trộn khá nhiều dòng máu, nhiều chủng tộc, tôn giáo, ngôn ngữvăn hóa phong phú đã tạo nên nền văn minh Ấn Độ.

    Các giai đoạn lịch sử chính


    Bức vẽ trên vách đá cổ xưa

    Nền văn minh cổ xưa trên lưu vực sông Ấn (3.000-1.800 TCN)

    Các nhà khảo cổ đã tìm ra cái nôi đầu tiên của Ấn Độ tại lưu vực sông Ấn. Tại đây người ta tìm thấy những pho tượng một người đàn ông trong tư thế suy tưởng gợi đến môn phái yoga. Rất nhiều hiện vật được tìm thấy ở khu vực HarappaMohenjo có niên đại từ 3.000 dến 1.800 trước công nguyên. Những tìm tòi gần đây hé mở phần nào về sự lan tỏa của nền văn minh lưu vực sông Ấn rộng lớn về miền Bắc và miền Tây xa xôi cùng với cư dân lưu vực sông Ấn lại có quan hệ gần gũi với văn hóa Dravidian, từng phồn thịnh từ rất lâu ở miền Nam Ấn Độ trước khi người Aryan đặt chân đến.

    Nền văn minh Vệ Đà (1.600-thế kỷ I TCN)


    Bức tượng Đức Phật đứng đã được tìm thấy
    Ở vào khoảng thời gian 100 đến 1.600 TCN, một chi của dòng họ Aryan rộng lớn, thường được gọi là người Indo-Aryan, di cư đến Ấn Độ. Họ đem theo cùng với họ là tiếng Phạn và một tôn giáo dựa trên nghi lễ hiến tế các vị thần tượng trưng cho các thế lực của thiên nhiên như Indra, thần mưa và sấm, thần Agni (lừa) và Varuma, chúa tể của các sông biển và mùa màng. Những bài ngợi ca vị thần ấy được tập hợp lại thành bốn tập Kinh Vệ Đà. Lâu đời nhất là tập Rigveda (1.500-1.200 Tr. C.N.). Đặc điểm của Kinh Veda là hướng con người đến tư tưởng cao cả, văn phong đẹp đẽ và bước chuyển những nghi thức từ bên ngoài vào kinh nghiệm nội tại. Thời kỳ này chính là thời kỳ có thuyết nói rằng cùng với nó là sự ra đời Đức Phật
    Vào năm 326 TCN Alexandros người Macedonia vượt sông Indus và đánh thắng một trận quyết định và rút về. Cuộc xâm lăng của ông đã để lại dấu ấn của thế giới Hy Lạp, nâng văn hóa Ấn Độ lên một tầm cao mới.
    Vào năm 320 TCN. Chandragup-ta Maurya (hoàng đế Maurya) thống nhất trở lại toàn bộ các bộ lạc rời rạc và thành lập chế độ tập quyền, kinh đô được đặt tại Pataliputra (bang Bihar ngày nay).

    Đế chế Gupta

    Thời kỳ hoàng kim của nền văn minh Ấn Độ thuộc vào thời kỳ triều đại Gupta. Thời kỳ này có nhiều thành tựu nổi bật về văn hóa trồng trọt. Thời kỳ này nền văn minh Ấn độ đã để lại cho nhân loại một khối lượng các di sản khổng lồ.

    Thành tựu chính của Văn minh Ấn Độ

    Chữ viết, văn học

    Thời đại Harappa-Môhenjô Đarô, ở miền Bắc Ấn đã xuất hiện một loại chữ cổ mà ngày nay người ta còn lưu giữ được khoảng 3.000 con dấu có khắc những kí hiệu đồ họa.
    Thế kỉ VII TCN, ở đây đã xuất hiện chữ Brami, ngày nay còn khoảng 30 bảng đá có khắc loại chữ này. Trên cơ sở chữ Brami, thế kỉ V TCN ở Ấn Độ lại xuất hiện chữ Sanskrit, đây là cơ sở của nhiều loại chữ viếtẤn ĐộĐông Nam Á sau này.
    Hai tác phẩm văn học nổi bật thời cổ đại là MahabharataRamayana. Mahabharata là bản trường ca gồm 220.000 câu thơ. Bản trường ca này nói về một cuộc chiến tranh giữa các con cháu Bharata. Bản trường ca này có thể coi là một bộ “bách khoa toàn thư” phản ánh mọi mặt về đời sống xã hội Ấn Độ thời đó.
    Ramayana là một bộ sử thi dài 48.000 câu thơ, mô tả một cuộc tình giữa chàng hoàng tử Rama và công chúa Xita(con của nữ thần mẹ đất). Thiên tình sử này ảnh hưởng tới văn học dân gian một số nước Đông Nam Á. Riêmkê ở Campuchia, Riêmkhiêm ở Thái Lan chắc chắn có ảnh hưởng từ Ramayana.
    Thời cổ đại ở Ấn Độ còn có tâp ngụ ngôn Năm phương pháp chứa đựng rất nhiều tư tưởng được gặp lại trong ngụ ngôn của một số dân tộc thuộc hệ ngôn ngữ Ấn-Âu.

    Nghệ thuật

    Ấn Độ là nơi có nền nghệ thuật tạo hình phát triển rực rỡ, ảnh hưởng tới nhiều nước Đông Nam Á. Nghệ thuật Ấn Độ cổ đại hầu hết đều phục vụ một tôn giáo nhất định, do yêu cầu của tôn giáo đó mà thể hiện. Có thể chia ra ba dòng nghệ thuật: Ấn Độ giáo, Phật giáo, Hồi giáo.
    Có rất nhiều chùa tháp Phật giáo, nhưng đáng kể đầu tiên là dãy chùa hang Ajantamiền trung Ấn Độ. Đây là dãy chùa được đục vào vách núi, có tới 29 gian chùa, các gian chùa thường hình vuông và nhiều gian mỗi cạnh tới 20m. Trên vách hang có những bức tượng Phật và nhiều bích hoạ rất đẹp.
    Các công trình kiến trúc Ấn Độ giáo được xây dựng nhiều nơi trên đất Ấn Độ và được xây dựng nhiều vào khoảng thế kỉ 7 - 11. Tiêu biểu cho các công trình Ấn Độ giáo là cụm đền tháp KhajurahoTrung Ấn, gồm tất cả 85 đền xen giữa những hồ nước và những cánh đồng.
    Những công trình kiến trúc Hồi giáo nổi bật ở Ấn Độ là tháp Mina, được xây dựng vào khoảng thế kỉ 13lăng Taj Mahan được xây dựng vào khoảng thế kỉ 17.

    Khoa học tự nhiên

    Về Thiên văn, người Ấn Độ cổ đại đã làm ra lịch, họ chia một năm ra làm 12 tháng, mỗi tháng có 30 ngày. (Như vậy năm bình thường có 360 ngày). Cứ sau 5 năm thì họ lại thêm vào một tháng nhuận.
    Về Toán học: Người Ấn Độ thời cổ đại chính là chủ nhân của hệ thống chữ số mà ngày nay ta quen gọi là số Arập. Đóng góp lớn nhất của họ là đặt ra số không, nhờ vậy mọi biến đổi toán học trở thành đơn giản, ngắn gọn hẳn lên. (Người Tây Âu vì vậy mà từ bỏ số La Mã mà sử dụng số Arập trong toán học.) Họ đã tính được căn bậc 2căn bậc 3; đã có hiểu biết về cấp số, đã biết về quan hệ giữa 3 cạnh trong một tam giác. Pi = 3,1416.
    Về Vật lí, người Ấn Độ cổ đại cũng đã có thuyết nguyên tử. Thế kỉ 5 TCN, có một nhà thông thái ở Ấn Độ đã viết “...trái đất, do trọng lực của bản thân đã hút tất cả các vật về phía nó”.
    Y học cũng khá phát triển. Người Ấn Độ cổ đại đã mô tả các dây gân, cách chắp ghép xương sọ, cắt màng mắt, theo dõi quá trình phát triển của thai nhi. Họ để lại hai quyển sách là “Y học toát yếu” và “Luận khảo về trị liệu”.

    Tư tưởng, tôn giáo

    Ấn Độ là nơi sản sinh ra nhiều tôn giáo như Ấn Độ giáo, Phật giáo, đạo Jainađạo Sikh.
    Đạo Bàlamôn mà sau này là Ấn Độ giáo ra đời vào khoảng thế kỉ 15 TCN, trong hoàn cảnh đang có sự bất bình đẳng rất sâu sắc về đẳng cấp và đạo này chứng minh cho sự hợp lí của tình trạng bất bình đẳng đó.
    Đạo Phật ra đời vào khoảng giữa thiên niên kỉ 1 TCN do thái tử Xitđacta Gôtama, hiệu là Sakya Muni (Thích Ca Mâu Ni) khởi xướng. Các tín đồ Phật giáo lấy năm 544 TCN là năm thứ nhất theo Phật lịch, họ cho là đây là năm Đức Phật nhập niết bàn. (Vì vậy, những người châu Á theo đạo Phật trước kia vẫn để ý đến ngày qua đời hơn ngày ra đời, khác hẳn những người theo đạo Thiên Chúa). Giáo lí cơ bản của đạo Phật là Tứ diệu đế (bốn điều), vô ngã, duyên khởi.
    Đạo Jaina cũng xuất hiện vào khoảng thế kỉ 6 TCN. Cùng thời với Phật giáo. Đạo này chủ trương bất sát sinh một cách cực đoan và nhấn mạnh sự tu hành khổ hạnh.
    Đạo Sikh xuất hiện ở Ấn Độ vào khoảng thế kỉ 15. Giáo lý của đạo Sikh là sự dung hòa và kết hợp giáo lí của Ấn Độ giáo và giáo lí của Hồi giáo. Tín đồ đạo Sikh tập trung rất đông ở Punjab và ngôi đền thiêng liêng của họ là ngôi đền Vàng ở Punjab. Đạo Sikh là đạo sinh ra cuối cùng trên đất Ấn Độ.

    Tài liệu tham khảo

    • Almanach những nền văn minh thế giới. Nhà xuất bản Văn hóa - Thông tin. Hà Nội.(1999)
    • Kocchar, Rajesh, The Vedic people: their history and geography, Hyderabad: Orient Longmans (1999).fáđfà
    Trang này được sửa đổi lần cuối lúc 20:41, ngày 9 tháng 10 năm 2013.

    Xem tiếp...

    Eric Clapton 4

    (ĐC sưu tầm trên NET)

    Cứ nghĩ một mai về cát bụi rồi
    Đời vẫn thản nhiên thi, ca, nhạc, họa
    Vào quên rồi, ai còn mong ta nữa,
    Lòng lại cuộn lên nỗi quằn quại đau vùi!...

    Người ơi, xin khuyên người
    Trĩu gánh đời nhỏ nhoi
    Chất nặng thêm uất hờn chi cho tội
    Quẳng hết đi, cố lên mà vui vội
    Đừng như ta, về già mới tiếc thương đời!... 

    Trần Hạnh Thu 



    Xem tiếp...

    Thứ Năm, 27 tháng 2, 2014

    VĂN MINH HÓA 2 (Lưỡng Hà)

    (ĐC sưu tầm trên NET)

                                         


    Văn minh Lưỡng Hà

    Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
    Văn minh Lưỡng Hà gồm các nhóm văn minh sau:
    Trang này được sửa đổi lần cuối lúc 07:58, ngày 10 tháng 11 năm 2013.

    Lưỡng Hà

    Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
    Lưỡng Hà là tên gọi của một vùng địa lý và của một nền văn minh ở nơi gồm lãnh thổ Iraq, đông Syria, đông nam Thổ Nhĩ Kỳ, và tây nam Iran hiện đại. Tên gốc của nó xuất phát từ tiếng Hy Lạp μέσος "giữa" và ποταμός "sông", để chỉ hai vùng châu thổ sông Euphrates và sông Tigris cũng như vùng đất nằm giữa chúng. Tương tự, trong tiếng Ả rập nó được gọi là بين نهرين Bayn Nahrain "giữa hai con sông". Vùng địa lý được cung cấp nước từ hai con sông đó thường được gọi là "Cái nôi của Văn minh", bởi chính tại đây những xã hội tri thức đầu tiên đã phát triển từ cuối thiên niên kỷ thứ 4 trước Công Nguyên. Từ Lưỡng Hà (mesopotamia) đã được tạo ra trong giai đoạn Hy Lạp và không hề có biên giới rõ ràng xác định vùng này, để chỉ một vùng địa lý rộng lớn và có lẽ đã được người Seleucid sử dụng. Vùng này đã từng trở thành một tỉnh của Đế chế La Mã trong một thời gian ngắn ở thời Trajan, với tên gọi Provincia Mesopotamia. Các nhà học giả đã cho rằng thuật ngữ biritum/birit narim trong tiếng Akkad tương ứng với một khái niệm địa lý và đã xuất hiện ở thời vùng này đang trải qua giai đoạn Aramaic hoá[1]. Tuy nhiên, một điều cũng được nhiều người chấp nhận rằng những xã hội Lưỡng Hà sớm đơn giản chỉ phản ánh toàn bộ những vùng bồi tích, kalam trong tiếng Sumer (dịch nghĩa "đất đai"). Những thuật ngữ gần đây hơn như "Đại Lưỡng Hà" hay "Lưỡng Hà Syria" đã được chấp nhận với nghĩa chỉ một vùng địa lý rộng hơn tương đương vùng Cận Đông hay Trung Đông. Những tên khác sau này đều là các thuật ngữ do người Châu Âu đặt cho nó khi họ tới xâm chiếm vùng đất này vào giữa thế kỷ 19.
    Sách chữ Nôm của người Việt thế kỷ 17 gọi khu vực này là Mạch Tam.

    Lịch sử


    Bản đồ tổng quan Lưỡng Hà cổ đại
    Lịch sử Lưỡng Hà bắt đầu từ sự xuất hiện của nền văn minh tại miền nam Iraq vào thiên niên kỷ thứ 4 trước Công Nguyên cho tới khi Alexander Đại Đế tới đây vào thế kỷ thứ 4 trước Công Nguyên (đây được coi là thời điểm bắt đầu sự Hy Lạp hoá vùng Cận Đông, vì thế cũng đánh dấu sự "chấm dứt" của Lưỡng Hà). Thông thường, mọi người cho rằng có một sự nối tiếp văn hoá và đồng nhất không gian cho toàn bộ thời gian lịch sử địa lý này ("Truyền thống Vĩ đại"), dù còn một số điểm chưa rõ ràng. Lưỡng Hà là nơi tồn tại của một số vương quốc cổ nhất thế giới, với trình độ tổ chức xã hội ở mức cao và phức tạp. Vùng này là một trong bốn nền văn minh phát sinh dọc theo các con sông nổi tiếng trên thế giới, nơi phát minh ra chữ viết, cùng với đồng bằng châu thổ sông Nile tại Ai Cập, châu thổ sông Indus tại Tiểu lục địa Ấn Độ và châu thổ sông Hoàng Hà tại Trung Quốc.
    Lưỡng Hà cũng là nơi phát sinh của nhiều thành phố có tầm quan trọng lịch sử như Uruk, Nippur, NinevehBabylon cũng như nhiều vương quốc rộng lớn khác như vương quốc Akkadian, Vương triều Ur thứ baĐế chế Assyri. Một số nhà lãnh đạo nổi tiếng trong lịch sử Lưỡng Hà là Ur-Nammu (Vua xứ Ur), Sargon (người thành lập nên Vương quốc Akkad), Hammurabi (người thành lập quốc gia Babylon cổ), Tiglath-Pileser I (người thành lập Đế chế Assyri), và Tigranes Đại Đế (người thành lập Đế chế Armenia).
    "Lưỡng Hà cổ đại" bao gồm giai đoạn từ cuối thiên niên kỷ thứ 4 trước Công Nguyên cho tới khi những người Achaemenid trỗi dậy vào thế kỷ thứ 6 trước Công Nguyên. Khoảng thời gian dài này có thể được phân chia thành những giai đoạn như sau:
    Ngày tháng thuộc thiên niên kỷ thứ hai và thứ ba trước Công Nguyên chỉ gần đúng; so sánh Bảng niên đại Cận Đông Cổ Đại.

    Ngôn ngữ và chữ viết

    Ngôn ngữ viết sớm nhất tại Lưỡng Hà là tiếng Sumer - một ngôn ngữ đã "tuyệt chủng". Các học giả đồng ý rằng nhiều ngôn ngữ khác cũng đã được sử dụng ở Lưỡng Hà trong thời kỳ đầu song song với tiếng Sumer. Sau này Tiếng Semit, tiếng Akkad, dần trở thành ngôn ngữ phổ thông, dù tiếng Sumer vẫn được giữ lại sử dụng trong hành chính, tôn giáo, văn học, và khoa học. Nhiều biến thể khác nhau của tiếng Akkad vẫn được sử dụng cho tới cuối thời kỳ Tân Babalon. Sau đó, tiếng Aramaic, vốn đã trở thành phổ thông tại Lưỡng Hà, trở thành ngôn ngữ chính thức của triều đại Achaemenid thuộc Đế chế Ba Tư. Tiếng Akkad bị bỏ rơi, nhưng cả nó và tiếng Sumer vẫn được sử dụng trong các ngôi đền trong một số thế kỷ.

    Các thư viện và bảo tàng hoàng gia

    Một trong những bộ sưu tập văn bản chữ hình nêm lớn nhất thuộc các văn khố của Ashurbanipal, nhà lãnh đạo Assyria. Khoảng năm 650 TCN ông đã quyết định thành lập một thư viện tại Nineveh. Bởi vì mọi ngôi đền tại Babylonia đều có thư viện, ông đã cử các sứ thần tới thu thập các văn bản khắc tại đó. Nếu ngôi đền nào từ chối trao những văn bản của mình, các vị sứ thần sẽ tiến hành sao chụp lại. Chỉ một thời gian ngắn, thư viện hoàng gia tại Nineveh đã trở thành thư viện lớn nhất ở Assyria. Đa số những gì chúng ta hiện biết về Lưỡng Hà cổ đại đều có được ở thư viện này.
    Vua Babylon, Nebuchadnezzar II, đã thành lập một bảo tàng, nơi trưng bày một số bức tượng, các đồ vật và một số văn bản. Đây là một ví dụ về văn học Babylon.

    Khoa học và kỹ thuật

    Cư dân Lưỡng Hà đã phát triển nhiều kỹ thuật như gia công kim loại, làm kính, dệt vải, trồng cấy và tích trữ nước cũng như tưới tiêu. Họ cũng là những cư dân đầu tiên trên Trái Đất tiến vào thời kỳ đồ đồng. Ban đầu họ sử dụng đồng đỏ, đồng thauvàng, sau này họ sử dụng sắt. Những cung điện được trang trí bằng hàng trăm cân những kim loại quý giá đó. Tương tự, đồng đỏ, đồng thau và sắt cũng được dùng làm áo giáp cũng như các loại vũ khí khác nhau như kiếm, dao găm, giáo, và chùy.

    Toán học

    Bài chi tiết: Toán học Babylon
    Người dân Lưỡng hà sử dụng hệ thống số đếm căn bản 60. Đây là nguồn gốc của giờ 60 phút và ngày 24 giờ hiện nay, cũng như vòng tròn 360 độ. Lịch Summer cũng tính theo tuần bảy ngày. Sự hiểu biết toàn học này đã được sử dụng trong việc lập bản đồ.

    Thiên văn học

    Những nhà thiên văn học Babylon rất chú tâm nghiên cứu các ngôi sao và bầu trời, và đa số họ đã có thể dự đoán các kỳ nhật nguyệt thực và các điểm chí. Con người cho rằng mọi hiện tượng thiên văn học đều có một mục đích nào đó. Đa số chúng có liên quan tới tôn giáo và các điềm báo hiệu. Các nhà thiên văn Lưỡng Hà đã tạo ra lịch 12 tháng dựa trên những vòng quay của Mặt Trăng. Họ chia năm làm hai mùa: mùa hè và mùa đông. Những nguồn gốc của thiên văn học có lẽ bắt đầu từ thời điểm này.

    Tôn giáo

    Tôn giáo Lưỡng Hà là tôn giáo cổ nhất được ghi chép tới ngày nay. Người dân Lưỡng Hà tin rằng thế giới là một cái đĩa phẳng, được bao quanh bởi một khoảng không gian to lớn và trống rỗng, phía trên thế giới là thiên đường. Họ cũng tin rằng nước có mặt ở mọi nơi, ở trên, dưới, và hai bên, và rằng vũ trụ đã sinh ra từ trong biển cả vô biên đó. Tôn giáo Lưỡng Hà là đa thần giáo, người dân ở đây tin vào rất nhiều vị thần.
    Dù những niềm tin được miêu tả như ở trên là điều thông thường đối với mọi người dân Lưỡng Hà, vẫn có một số khác biệt theo từng vùng. Từ của người Summer để chỉ vũ trụ là an-ki, gồm tên nam thần An và nữ thần Ki. Con của họ là Enlil, vị thần không khí. Họ tin rằng Enlil là vị thần có nhiều quyền lực nhất. Ông ta là người đứng đầu các thần Pantheon, tương tự thần Zeus của người Hy Lạp và thần Jupiter của người La Mã. Người Sumer cũng tự đặt ra một số câu hỏi triết học như: Chúng ta là ai? Chúng ta đang ở đâu? Tại sao chúng ta lại ở đây. Họ cho rằng những câu hỏi đó sẽ được các vị thần linh của họ giải đáp.
    Nếu ai đó bị ốm, họ sẽ cầu nguyện các vị thánh để được lành bệnh. Như đã đề cập ở trên, các bác sĩ Lưỡng Hà không có trình độ cao về y học, vì thế người dân phải trông đợi sự giúp đỡ của các thánh thần.

    Những vị thần đầu tiên

    • Anu là vị thần bầu trời của người Sumer. Ông lấy nữ thần Ki, nhưng trong một số tôn giáo Lưỡng Hà, ông có một người vợ tên là Uraš.
    • Marduk là vị thần chính của Babylon. Người dân ca ngợi ông, vì thế ông sẽ cho phép Babylon từ một nước nhỏ trở thành một Đế chế hùng mạnh.
    • Gula,*Utu (cũng được gọi là Šamaš hay Sahamash) là vị thần mặt trời.
    • Ishtar là nữ thần tình yêutình dục.
    • Enlil là vị thần nhiều quyền lực nhất trong tôn giáo Lưỡng Hà. Vọ ông là Ninlil, và các con của ông gồm Inanna, Iškur, Nanna-Suen, Nergal, Ninurta, Pabilsag, Nushu, Utu, Uraš ZababaEnnugi.
    • Nabu là vị thần chữ viết Lưỡng Hà. Ông rất tử tế, và được kính trọng vì tài viết chữ của mình. Ở một số nơi, ông được cho là người kiểm soát thiên đường và Trái Đất.
    • Iškur (hay Adad) là vị thần của các cơn bão.
    • Ninurta là vị thần chiến tranh của người Sumer. Ông cũng là vị thần của những người anh hùng.
    • Inanna, vị nữ thần tình yêu và chiến tranh của Sumer, cũng là vợ của Ninurta.
    • Pazuzu, cũng được gọi là Zu, là vị thần ma quỷ, người đã lấy trộm những tờ giấy số mệnh của Enlil và vì thế bị giết. Ông cũng là người mang đến bệnh dịch không thể cứu chữa.

    Tang lễ

    Các nhà khảo cổ học đã tìm thấy hàng trăm ngôi mộ ở một số nơi tại Lưỡng Hà. Những ngôi mộ ấy kể lại cho chúng ta nhiều điều về phong tục tang lễ Lưỡng Hà. Tại thành phố Ur, đa số mọi người được chôn trong những ngôi mộ gia đình bên dưới nhà họ. Trẻ em được đặt trong những chiếc bình lớn và được mang tới nhà nguyện gia đình. Những người khác được chôn trong nghĩa trang chung của thành phố. Một số người được quấn trong những chiếc chiếu và thảm. Trong đa số các ngôi mộ, một số đồ vật cá nhân của người chết được chôn cùng họ, và có 17 ngôi mộ có những đồ vật quý, vì thế chúng được cho là những ngôi mộ của hoàng gia.

    Ziggurat

    Ziggurat là những ngôi đền to lớn được xây dựng để cúng tế các vị thần. Chúng được xây bằng đất sétbùn và có ba hay bốn phần. Chúng được xây rất cao để luôn được giữ khô ráo bởi ở thời ấy thường xuyên xảy ra những trận lũ lụt. Cần nhiều nhân công để xây dựng một ziggurat. Ít nhất phải có đủ người để đào đất sét, làm gạch, và xếp những viên gạch đó lại với nhau. Những viên gạch được làm bằng bùn và sậy ép. Chỉ ziggurat tại Ur còn tồn tại tới ngày nay bởi những người xây dựng chúng sau này đã nhân ra rằng việc nung đất sét sẽ khiến những viên gạch có tuổi thọ lâu hơn.
    Những ziggurat được xây dựng theo hình kim tự tháp, với những bậc thang dẫn lên mặt phẳng trên đỉnh - rất giống những vườn treo. Chúng được xây trông giống như những ngọn núi, vì người dân muốn có được số cây gỗ và các khoáng chất phong phú như ngọn núi Zargos, nằm giữa Lưỡng hà và nước Iran hiện nay, cũng như bởi núi là nơi trú ngụ của các vị thần, và việc xây dựng một hòn núi giả khiến con người gần gũi hơn với các vị thánh thần cũng như sẽ thường xuyên được thừa huệ hơn khi luôn có các vị thần bên cạnh.

    Văn hoá

    Âm nhạc và bài hát

    Những bài hát được sáng tác để ca ngợi các vị thần thánh, nhưng cũng có nhiều bài hát ghi lại các sự kiện quan trọng. Dù âm nhạc và các bài hát là để tiêu khiển cho các vị vua và các quan cai trị, chúng cũng được nhiều người dân thường hâm mộ và họ thường hát, nhảy múa tại nhà riêng hay tại các khu chợ. Những bài hát được dạy cho trẻ em và trẻ em lại truyền lại cho các thế hệ sau đó. Nhờ thế những bài hát được lưu truyền cho tới khi có ai đó viết lại chúng. Những bài hát đó là phương tiện lưu trữ các thông tin quan trọng qua nhiều thế kỷ về các sự kiện lịch sử còn lại đến chúng ta ngày nay.
    Oud (tiếng Ả Rập: العود) là một nhạc cụ dây nhỏ. Bức tranh cổ nhất về Oud có từ giai đoạn Uruk ở phía Nam Lưỡng Hà hơn 5000 năm trước. Nó hiện ở tại Bảo tàng Anh và do Tiến sĩ Dominique Collon tìm thấy. Hình ảnh thể hiện một phụ nữ ngồi bên các nhạc cụ trên một chiếc thuyền, chơi bằng tay phải. Nhạc cụ này đã xuất hiện hàng trăm lần trong lịch sử Lưỡng Hà và tái hiện ở cả thời Ai Cập cổ đại từ vương triều thứ 18 trở về sau, nhạc cụ có các biến thể cổ dài và ngắn mới.
    Oud được coi là tiền thân của sáo Châu Âu. Tên của nó xuất phát từ العود al-‘ūd (gỗ) trong tiếng Ả Rập, có lẽ là loại cây có gỗ dùng chế tạo ra oud.

    Nghệ thuật

    Hội họa

    Điêu khắc

    Giải trí

    Các vị vua Assyri thường đi săn bắn. Những cảnh đấm bốcđấu vật thường được thể hiện trong nghệ thuật, và polo cũng có thể là môn thể thao phổ thông, dù khi chơi một người sẽ ngồi lên vai của người kia thay vì cưỡi ngựa. Họ cũng chơi cờ tương tự như hiện nay.

    Cuộc sống gia đình

    Tỷ lệ tử vong trẻ em lên tới từ 75 đến 95 phần trăm, chỉ con cái hoàng gia và các gia đình giàu có cũng như các thợ chuyên môn, học giả, các bác sĩ, thầy tu được tới trường. Đa số trẻ em trai được tiếp tục làm công việc của cha mình hay đi ra ngoài học buôn bán. Trẻ em gái ở nhà cùng mẹ, học nội trợ và chăm sóc những đứa em nhỏ hơn. Một điều khá lạ ở thời điểm đó, phụ nữ cũng có quyền. Họ có thể sở hữu tài sản và nếu có lý do, có thể ly hôn.

    Nông nghiệp

    Nguồn cung cấp lương thực tại Lưỡng Hà khá phong phú nhờ vị trí giữa hai con sông, cũng là nguồn gốc tên gọi của vùng này, sông Tigris và sông Euphrates. Những vùng đất gần sông màu mỡ hơn và thuận lợi hơn cho trồng cấy, nhiều vùng đất ở xa nguồn nước khô và thường không có người ở. Điều này giải thích tại sao sự phát triển hệ thống tưới tiêu rất quan trọng đối với những người dân định cư tại Lưỡng Hà. Những phát kiến mới của Lưỡng Hà còn bao gồm việc kiểm soát nước bằng đập và sử dụng kênh dẫn nước.
    Những người định cư đầu tiên ở vùng đất màu mỡ Lưỡng Hà đã sử dụng những chiếc cày gỗ để làm mềm đất trước khi trồng cấy lúa mạch, hành, nho, củ cải, và táo. Những người dân Lưỡng Hà cũng là một trong những người đầu tiên biết làm bia và nấu rượu.
    Thời tiết khó đoán định của Lưỡng Hà là một trở ngại đối với những người nông dân; mùa màng thường bị thất bát vì thế những nguồn lương thực dự trữ như bò và cừu cũng được phát triển.
    Nhờ khả năng trồng cấy lương thực tài tình, những người dân Lưỡng Hà không phải phụ thuộc vào nô lệ để làm việc đồng áng, chỉ trừ một số ngoại lệ nhỏ. Cũng có nhiều nguy cơ có thể gặp khi sử dụng nô lệ (ví dụ bỏ trốn/hay nổi loạn). Họ sống ở những vùng đất được gọi là vùng đất hình trăng lưỡi liềm màu mỡ.

    Triều đình

    Vua chúa

    Những người dân Lưỡng Hà tin rằng vua và nữ hoàng của họ là con cháu của thần linh, nhưng không giống những người Ai Cập cổ đại, họ không bao giờ tin rằng các vị vua đó là những vị thần thực sự. Đa số các vị vua đều tự phong là “vua của vũ trụ” hay “vua vĩ đại”. Một cái tên khác cũng thường được dùng là "người chăn dắt", bởi các vị vua phải trông nom thần dân của mình.
    Nebuchadrezzar II là vị vua hùng mạnh nhất tại Babylonia. Ông cho rằng mình là con trai của thần Nabu. Ông đã cưới con gái Cyaxeres, vì thế các triều đại Median và Babylonia có mối quan hệ gia đình với nhau. Tên của Nebuchadnezzar có nghĩa: Nabo, bảo vệ vương triều!
    Belshedezzar là vị vua cuối cùng của Babylonia. Ông là con trai của Nabonidus và Nictoris, con gái Nebuchadnezzar.
    Vị vua đầu tiên của triều đại Ur (khoảng năm 2560 TCN) là Mesanepada. Ông đã biến Ur thành thành phố chính của Sumer.
    Triều đại Ur khoảng 2563–2387 TCN
    Triều đại Lagash khoảng 2494–2342 TCN
    Triều đại Uruk khoảng 2340-2316 TCN
    Triều đại Akkad khoảng 2334-2154 TCN

    Quyền lực

    Khi Assyria lớn mạnh thành một đế chế, nó bị chia thành những phần nhỏ hơn, được gọi là các tỉnh. Mỗi tỉnh được đặt tên theo thành phố chính tại đó, như Nineveh, Samaria, DamascusArpad. Tất cả tỉnh đều có thủ hiến riêng, thủ hiến đảm nhiệm vai trò thu thuế: ông cũng giữ nhiệm vụ tập trung binh sĩ cho chiến tranh, và cung cấp nhân lực khi xây dựng đền miếu. Thủ hiến cũng có trách nhiệm thực thi luật pháp. Nhờ vậy họ có thể dễ dàng kiểm soát được một đế chế như Assyria. Dù Babylon là một thành bang khá nhỏ của Sumer, và nó đã lớn mạnh lên rất nhiều sau thời kỳ cai trị của Hammurabi. Ông được gọi là "người tạo luật pháp", và Babylon nhanh chóng trở thành một trong những thành phố chính của Lưỡng Hà. Sau này nó được gọi là Babylonia, có nghĩa "cổng ngõ của các vị thánh." Nó cũng đã trở thành trung tâm học vấn lớn nhất thời đại.

    Chiến tranh

    Khi các thành bang bắt đầu phát triển, vùng ảnh hưởng của chúng chồng lấn lẫn nhau, tạo ra những cuộc xung đột, đặc biệt về đất đai và những con kênh. Những cuộc xung đột đó đã được ghi lại trên những bảng ghi chép hàng trăm năm trước khi cuộc chiến lớn nổ ra - cuộc chiến đầu tiên được ghi lại xảy ra vào khoảng năm 3200 TCN, nhưng chỉ sau năm 2500 TCN những cuộc chiến tranh mới trở thành điều thường nhật. Ở thời điểm này chiến tranh kết hợp vào bên trong hệ thống chính trị Lưỡng Hà, một thành bang trung lập có thể hành động như một trọng tài cho hai bên tranh chấp. Điều đó giúp hình thành các liên minh giữa các thành bang, dẫn tới việc thành lập các thành bang theo vùng.
    Khi các đế chế thành hình, chúng tiếp tục tiến hành chiến tranh với nước ngoài. Ví dụ, vua Sargon, đã chinh phục tất cả các thành phố của Sumer, một số thành phố tại Mari, và sau đó gây chiến với Bắc Syria.
    Nhiều bức tường cung điện Babylonia được trang hoàng bằng những bức tranh thể hiện những trận thắng trước kẻ thù, binh lính đối địch hoặc đang bỏ chạy trong tuyệt vọng, hoặc đang trốn tránh trong những đám lau sậy.
    Một vị vua Sumer, Gilgamesh, được cho là hai phần ba thần thánh và chỉ một phần ba con người. Có những câu chuyện huyền thoại và những bài thơ về ông, được truyền lại qua nhiều thế hệ, bởi ông đã tiến hành nhiều cuộc phiêu lưu mạo hiểm được cho là rất quan trọng và giành thắng lợi trong nhiều cuộc chiến.

    Luật pháp

    Vua Hammurabi, như được đề cập ở trên, là người nổi tiếng với Bộ luật Hammurabi (được tạo ra khoảng năm 1780 TCN), đây là một trong những bộ luật sớm nhất được tìm thấy cũng như là một ví dụ được bảo tồn tốt nhất nhất về kiểu văn bản này từ thời Lưỡng Hà cổ đại. Xem HammurabiLuật Hammurabi.
    Trong luật Hammurabi có 282 điều tàn bạo. Vì vậy người dân sẽ phải khiếp sợ mà tuân thủ.

    Kiến trúc

    Việc nghiên cứu kiến trúc Lưỡng Hà cổ đại dựa trên những bằng chứng khảo cổ học, những bức tranh thể hiện các công trình và những văn bản miêu tả lại việc xây dựng. Những văn bản của các học giả thời trước thường được lưu giữ trong các đền, trên những bức tường thành phố, trên những cánh cổng và trên những công trình lăng mộ, nhưng thỉnh thoảng chúng cũng xuất hiện trên các công trình nhà cửa dân cư.[7] Việc nghiên cứu bề mặt kiến trúc cũng cho phép có cái nhìn về hình thức thành thị tại các thành phố ở buổi đầu lịch sử Lưỡng Hà. Những tàn tích nổi tiếng nhất từ thời Lưỡng Hà là các tổ hợp đền tại Uruk từ thiên niên kỷ thứ 4 trước Công Nguyên, những đền đài và cung điện từ các địa điểm thuộc Triều đại sớm tại thung lũng Sông Diyala như Khafajah và Tell Asmar, những tàn tích của Triều đại Ur thứ 3 tại Nippur (điện thờ Enlil) và Ur (điện thờ Nanna), những tàn tích giữa Thời đồ đồng tại các địa điểm ở Syria và Thổ Nhĩ Kỳ Ebla, Mari, Alalakh, AleppoKultepe, những cung điện giai đoạn cuối thời đồ đồng ở Bogazkoy (Hattusha), Ugarit, AshurNuzi, các cung điện thời kỳ đồ sắt và các đền đài tại Assyria (Kalhu/Nimrud, Khorsabad, Nineveh), Babylonian (Babylon), Urartian (Tushpa/Van Kalesi, Cavustepe, Ayanis, Armavir, Erebuni, Bastam) và các dịa điểm Neo-Hittite (Karkamis, Tell Halaf, Karatepe). Các ngôi nhà thường là tàn tích còn sót lại của Babylonia cổ tại Nippur và Ur. Trong số những văn bản về việc xây dựng công trình và mục đích của chúng, Gudea từ thiên niên kỷ thứ 3 trước Công Nguyên là đáng chú ý nhất, cũng như những văn bản ghi chép hoàng gia Assyria và Babylonia từ Thời đồ sắt.

    Nhà cửa

    Những vật liệu sử dụng xây dựng nhà cửa tại Lưỡng Hà tương tư như vật liệu ta dùng ngày nay: gạch bùn, vữa bùn và cửa gỗ, tất cả chúng đều có sẵn ở xung quanh thành phố, dù gỗ có hiếm hơn. Đa số nhà đều có phòng trung tâm hình vuông và các phòng khác bao xung quanh, nhưng nhà nói chung khác biệt nhau nhiều về kích thước và vật liệu sử dụng tùy theo gia đình. Những phòng nhỏ không đồng nghĩa với việc chủ nhà nghèo khó; trên thực tế những người nghèo nhất xây nhà bằng các vật liệu nhanh hỏng như lau sậy lấy từ bên ngoài thành phố, nhưng có rất ít bằng chứng trực tiếp về điều này.

    Cung điện

    Các cung điện của tầng lớp trên tại Lưỡng Hà ở thời kỳ đầu là những phức hợp công trình lớn, và thường được trang hoàng rực rỡ. Những công trình như vậy còn có thể thấy tại các di chỉ châu thổ Sông Diyala River như KhafajahTell Asmar. Các cung điện có từ thiên niên kỷ thứ 3 trước Công Nguyên đó được dùng cho những định chế kinh tế xã hội bậc cao, vì thế, ngoài chức năng ở và nhà riêng, chúng còn là xưởng chế tạo đồ thủ công, kho thực phẩm, sân tổ chức nghi lễ, và thường có cả các điện thờ. Ví dụ, cái gọi là "giparu" (hay Gig-Par-Ku trong tiếng Sumer) tại Ur nơi những vị nữ tu của thần Mặt Trăng Nanna trú ngụ là một phức hợp lớn với nhiều sân, một số điện thờ, những phòng chôn cất của các nữ tu, một phòng nghi lễ lớn, vân vân. Một phức hợp tương tự là một cung điện Lưỡng Hà đã được khai quật tại MariSyria, có niên đại từ giai đoạn Babylonia Cũ.
    Các cung điện Assyria từ Thời đồ sắt, đặc biệt tại Kalhu/Nimrud, Dur Sharrukin/Khorsabad và Ninuwa/Nineveh, đã trở nên nổi tiếng nhờ những hình ảnh và những đoạn văn miêu tả trên các bức tường của chúng, tất cả đều được khắc trên những phiến đá. Những hình ảnh đó hoặc thể hiện cảnh thờ cúng hoặc miêu tả về quân đội của nhà vua hay các thành tựu dân sự. Những cánh cổng và những lối vào quan trọng được trang trí bằng nhiều hình khắc các vị thần trong thần thoại để tránh điều không may. Bố cục kiến trúc các cung điện thời đồ sắt cũng được tổ chức xung quanh một sân nhỏ. Thường phòng thiết triều của vua có cửa trông ra một sân nghi lễ lớn, nơi những vị triều thần gặp gỡ và tổ chức các lễ nghi triều đình.
    Số lượng lớn các đồ vật bằng ngà tìm thấy ở nhiều cung điện Assyria cho thấy mối quan hệ buôn bán thường xuyên với những quốc gia Neo-Hittite Bắc Syria thời kỳ đó. Một bằng chứng khác là những dải hình repousse đồng trang trí trên những cánh cổng gỗ.

    Kinh tế

    Từng có một sự khác biệt lớn giữa tiền bạc và sự giàu có giữa người giàungười dân thường. Người dân thường phụ thuộc nhiều vào Mùa màng, vì họ có rất ít tiền. Người giàu có nhiều nô lệ và cũng có nhiều tiền bạc.
    1 talent =
    1 mina =
    • 60 shekel
    • 500 gam bạc
    1 shekel =
    • 8.333 gam bạc
    • 2 division
    • 8 miếng mỏng (slice)
    • 12 hạt ngũ cốc (grain)
    • 24 carat
    • 24 cây đậu xanh (chickpea)
    • 180 hạt lúa mạch (barleycorn)
    Những đồng xu bạc không phải làm hoàn toàn bằng bạc. Bạc nguyên chất chỉ chiếm khoảng 87%.
    Nhiều đồng tiền xu khác làm bằng đồng.
     
                                              

    Lịch sử cận đại

    • Lưỡng Hà sau này thuộc quyền kiểm soát của Đế chế Achaemenid Ba Tư, trở thành hai vùng thuộc quyền kiểm soát của hai vị phó vương, Babylonia ở phía nam và Athura (từ Assyria) ở phía bắc. Trong thời kỳ này, 500-330 TCN, Ba Tư, một quốc gia sử dụng ngôn ngữ Indo-European, đã sắp đủ điều kiện để trở thành một đế chế hùng mạnh trên thế giới.
    • Sau khi vị vua đã Hy Lạp hóa của MacedoniaAlexandros Đại đế chinh phục toàn bộ Ba Tư, các vùng đất của các vị phó vương trở thành một phần của Đế chế Seleucid, cho tới trước khi nó bị Đại Armenia tiêu diệt năm 42 TCN.
    • Đa phần Lưỡng Hà sau này trở thành một phần của Đế chế Parthia của Ba Tư, kéo dài tới năm 224. Ctesiphon trở thành thủ đô của Đế chế Parthia. Tuy nhiên, vùng phía tây bắc thuộc Roma. Ở thời Tetrarchy vùng này được chia thành hai tỉnh: Osrhoene (xung quanh Edessa, là vùng biên giới ngày nay giữa Thổ Nhĩ KỳSyria) và Lưỡng Hà (nằm xa hơn ở phía đông bắc).
    • Ở thời Đế chế Ba Tư của người Sassanid, phần lớn hơn của Lưỡng Hà được gọi là Del-e Iranshahr có nghĩa "Trái tim Iran" và thủ phủ Ctesiphon (đối diện Seleukia bên kia sông Tigris), thủ đô của Ba Tư, nằm tại Lưỡng Hà.
    • Đầu thế kỷ thứ 7, các vị hoàng đế Hồi giáo của Đế chế Ả Rập lên nắm quyền tại Damascus và sáp nhập toàn bộ Đế chế Sassanid. Vì thế Lưỡng Hà được tái thống nhất dưới quyền quản lý của người Ả Rập, nhưng được chia thành hai tỉnh: phía bắc với Mosul (cũng được gọi là Nineveh) là thủ đô, và phía nam, với thủ đô Bagdad. Sau này Bagdad cũng trở thủ đô của vị hoàng đế Hồi giáo. Bagdad đã trở thành trung tâm của Đế chế Ả Rập cho tới tận năm 1258.
    • Giai đoạn 1508-1534, người nhà Safavid Ba Tư nắm quyền kiểm soát Lưỡng Hà.
    • Năm 1535, người Thổ Nhĩ Kỳ Ottoman chiếm Baghdad. Trong thời Đế chế Ottoman, Lưỡng Hà được chia thành ba khu vực hay ba lãnh thổ riêng biệt: Mosul, BagdadBasra, gồm cả lãnh thổ Kuwait hiện nay.
    • Cuối Chiến tranh thế giới thứ nhất Lưỡng Hà thuộc quyền quản lý của người Anh trong một thời gian ngắn, người Anh đã lập nên một chính phủ của người HashemiteSyriaIraq hiện nay.
    • Năm 1920 quy chế quốc gia cho Iraq được Anh Quốc đồng thuận sau sự giải tán của Đế chế Ottoman, với những biên giới hiện nay và cả Kuwait. Kuwait, một vùng bảo hộ của Anh, nguyên từng là một phần của tỉnh Basra thời Đế chế Ottoman, và được trao quyền độc lập từ Anh năm 1961.
    • Đầu thập kỷ 1990 các lực lượng liên quân đã tung ra cuộc tấn công vào Iraq được gọi là Chiến dịch Bão táp Sa mạc, để trả đũa việc Tổng thống Saddam Hussein xâm chiếm Kuwait.

    Xem thêm

    Các nền văn minh phát sinh từ các khu vực định cư và các nền văn hóa biết làm nông nghiệp sớm nhất.
    Các thành phố đầu tien trong vùng này gồm:
    Trang này được sửa đổi lần cuối lúc 08:26, ngày 13 tháng 1 năm 2014.


    Xem tiếp...