Chủ Nhật, 31 tháng 1, 2021
CÂU CHUYỆN TÌNH BÁO 342
(ĐC sưu tầm trên NET)
Hạ viện Mỹ điều tra thất bại tình báo trong vụ bạo loạn Đồi Capitol
Các lãnh đạo Hạ viện Mỹ tuyên bố mở cuộc điều tra về những thất bại tình báo và lập kế hoạch an ninh dẫn tới việc trụ sở Quốc hội trên Đồi Capitol dễ dàng bị "thất thủ" trong vụ bạo loạn hồi tuần trước.
Theo báo The Hill, bốn quan chức hàng đầu của Hạ viện gồm Chủ tịch Ủy ban tình báo Adam Schiff, Chủ tịch Ủy ban Tư pháp Jerrold Nadler, Chủ tịch Ủy ban giám sát Carolyn Maloney và Chủ tịch Ủy ban an ninh nội địa Bennie Thompson đã cùng ký tên vào một lá thư chung gửi Cục điều tra liên bang Mỹ (FBI), Bộ An ninh nội địa và các quan chức tình báo liên bang hôm 16/1.
Những người biểu tình quá khích ủng hộ Tổng thống Trump đột kích trụ sở Quốc hội Mỹ trên Đồi Capitol ngày 6/1. Ảnh: AP |
Trong thư, các nhà lãnh đạo Hạ viện viết, hiện có bằng chứng cho thấy giới chức tình báo liên bang và các cơ quan thực thi pháp luật đã nhận được thông tin cảnh báo về nguy cơ xảy ra bạo lực nhắm vào Quốc hội. Tuy nhiên, trục trặc trong quá trình chia sẻ thông tin khiến Đồi Capitol dễ bị tấn công dù nhà chức trách được báo trước về những nỗ lực làm gián đoạn phiên họp của các nhà lập pháp hôm 6/1, vốn là thủ tục để phê duyệt kết quả bầu cử tổng thống năm 2020.
"Các ủy ban sẽ tích cực điều tra để hiểu những dấu hiệu cảnh báo nào có thể đã bị bỏ qua, xác định xem có lỗi hệ thống hay không và xem xét cách giải quyết tốt nhất nhằm chống lại chủ nghĩa cực đoan bạo lực trong nước, bao gồm cả việc khắc phục bất kỳ lỗ hổng nào về luật pháp hoặc chính sách", trích lá thư.
Trước đó, các nghị sĩ Dân chủ cáo buộc một số đồng nghiệp thuộc đảng Cộng hòa của Tổng thống sắp mãn nhiệm Donald Trump có thể trợ giúp những kẻ bạo loạn. Họ nói đã chứng kiến những nhà lập pháp Cộng hòa này có các chuyến đi khả nghi quanh khu vực hôm 5/1, tức là một ngày trước khi những người biểu tình quá khích ủng hộ ông Trump đột kích trụ sở Quốc hội.
Trong một diễn biến có liên quan, hãng thông tấn NBC ngày 17/1 đưa tin, FBI đang tiến hành xác minh khả năng những kẻ gây bạo loạn đã nhận được tài trợ từ nước ngoài.
Cuộc điều tra bắt đầu bằng việc làm rõ các khoản thanh toán nước ngoài trị giá hơn 500.000 USD được công ty nghiên cứu tiền ảo Chainalysis tiết lộ hôm 14/1. Cụ thể, một lập trình viên máy tính người Pháp tình nghi đã chuyển 28,15 Bitcoin (trị giá khoảng 522.000 USD) đến 22 tài khoản trong một giao dịch. Người này đã tự sát ngay sau khi giao dịch.
Các nhà điều tra phát hiện, một phần số tiền trên dường như thuộc về “các nhà hoạt động cực hữu và một số cá nhân đóng góp trên mạng trực tuyến”. Trong đó, Nick Fuentes, một người tham gia vụ biểu tình trên Đồi Capitol nhưng không tràn vào tòa nhà quốc hội Mỹ đã nhận được lượng tiền ảo lớn nhất, tương đương khoảng 250.000 USD.
Toàn cảnh cuộc khủng hoảng trên Đồi Capitol ở Mỹ
Tuấn Anh
số phận thăng trầm của điệp viên Liên Xô Anatoly Gurevich
Bích Nguyễn (Tổng hợp) |
Tình báo viên huyền thoại Liên Xô Anatoly Gurevich là một trong số những người lãnh đạo của “Dàn hợp xướng Đỏ”, gồm một nhóm các điệp viên từng hoạt động tại các nước châu Âu.
Sau khi bị lộ và bị bắt, ông đã bị đích thân sếp
Gestapo của Đức Quốc xã Henrich Himller thẩm vấn. Nhà tình báo gan dạ đã
tìm cách không chỉ bảo toàn được mạng sống của mình và các điệp viên
Xôviết khác, mà còn che mắt quân Đức để vẫn tiếp tục trao đổi điện tín
qua radio với Moscow…
Khởi đầu sự nghiệp
A.Gurevich sinh ngày 7-11-1913 trong gia đình có cha là nhà cách mạng tại Kharkov. Sau cuộc cách mạng và Nội chiến kết thúc, gia đình chuyển đến Leningrad. Năm 1939 A.Gurevich tốt nghiệp khóa phòng không và được biệt phái đến đồn cảnh sát số 14 làm cảnh sát khu vực, sau đó được chuyển đến trụ sở phòng không quận Navra và được thăng cấp phó.
Năm 1935, Anatoly Gurevich theo học tại Học viện “Intourist”. Sau khi tốt nghiệp, ông được đề nghị ở lại giảng dạy. Chính tại đây ông đã thành thạo các kỹ năng trò chuyện, khả năng vũ đạo hoàn hảo và tham gia các cuộc tranh luận triết học. Hơn nữa, ông có khả năng ngoại ngữ tuyệt vời. Năm 1936, tại Tây Ban Nha nổ ra cuộc nội chiến, A.Gurevich đã học thạo tiếng Tây Ban Nha chỉ trong vài tháng và tuyên bố với tổ chức rằng muốn được chiến đấu chống phát xít.
Sau đó, A.Gurevich và một số tình nguyện viên được mời làm việc tại khách sạn “Châu Âu”, tại đây có một người lạ mặt đề nghị ông đến Tây Ban Nha làm phiên dịch và ông đã đồng ý. Sống ở Tây Ban Nha một năm, ông làm phiên dịch cho chỉ huy tàu ngầm C-4 Liên Xô Ivan Burmistrov và Tư lệnh Lục quân Grigory Stern. Khi trở về Liên Xô, A.Gurevich được gọi vào GRU và được đề nghị làm việc trong lĩnh vực tình báo. Ông hy vọng rằng sẽ được làm mật mã viên hoặc điện đài viên, nhưng sau đó được cử đến châu Âu hoạt động bí mật.
Những hoạt động bí mật
A.Gurevich trở thành một doanh nhân Uruguay mang tên Vincent Siera rồi được cử đến hoạt động tại Stockholm với biệt danh là Kent. Nhưng trên đường đi mới vỡ lẽ rằng ở Thụy Điển không tồn tại công ty mà ông phải làm đại diện, mà tại đây người nước ngoài còn bị cấm hoạt động kinh doanh. Vậy là “Siera người Uruguay” bị mắc kẹt ở Brussels và vài tháng sau thì Chiến tranh Thế giới II bắt đầu.
Tại Brussel, A.Gurevich phải làm việc dưới sự chỉ đạo của điệp viên người Canada Otto Leopold Trepper, sau khi Bỉ bị quân Đức tạm chiếm, ông này đã bỏ đến Paris, để lại cho A.Gurevich toàn bộ mạng lưới điệp viên. Lúc này, Đức đã chính thức trong tình trạng chiến tranh với Canada và Otto có thể bị người Đức bắt.
Chàng Kent trẻ tuổi rất nhanh chóng thích nghi với xã hội thượng lưu Brussels. Ông có những người quen giàu có và thậm chí đã kết hôn với con gái của triệu phú người Séc gốc Do Thái Ziger - người từng phải bỏ trốn, lúc đầu đến Brussels rồi sau đó sang Mỹ. Con gái ông ta là Margaret Barcha khi đó đã rất yêu Kent nên đã ở lại cùng ông. Để đảm bảo tài chính cho mình và có tiền để trả cho mạng lưới điệp viên, A.Gurevich thành lập công ty thương mại “Simex và Co”. Vì công ty có quan hệ tốt với Đức Quốc xã nên ông không chỉ sống thoải mái, mà còn có dịp gặp gỡ với giới thượng lưu và các sĩ quan cấp cao của Đức.
Vincent Siera đã khiến những người bạn mới của mình tin rằng ông hoàn toàn không quan tâm đến chính trị và các sĩ quan Đức Quốc xã thậm chí đã không đeo thẻ quân nhân khi gặp ông. A.Gurevich đã đóng vai người di cư khỏi Nam Mỹ tốt đến nỗi một nữ quý tộc Nga di cư đã dạy ông nói chuyện “bằng tiếng Nga”. Trong số những người quen của Gurevich có cháu trai của Thống đốc bang Flanders, và ông được mời đến dự một buổi tiệc chiêu đãi tại Cung điện Hoàng gia và còn vinh dự được hôn tay thân mẫu của Nữ hoàng Bỉ Elizabeth Bavarskaya.
Nhưng đằng sau cuộc sống phù phiếm giàu sang là sự hoạt động tích cực của các tình báo viên Liên Xô. A.Gurevich đã tìm cách khôi phục liên lạc bị gián đoạn giữa Trung tâm với nhà tình báo Sandor Rado đang làm việc tại Thụy Sĩ. Ông còn truyền đến Moscow thông tin quan trọng là Đức Quốc xã đang lên kế hoạch tấn công Liên Xô muộn nhất là vào cuối tháng 6-1941.
Với tư cách là một doanh nhân nên A.Gurevich đã được Đức Quốc xã cấp giấy phép có thể đi giao dịch công việc của công ty ngay cả vào giờ giới nghiêm, ông đã không ít lần mạo hiểm mang theo cả máy bộ đàm cầm tay dưới dạng hành lý. Ngoài ra, hầu như mỗi buổi tối, các bức điện báo đều được truyền từ biệt thự của ông trên đường Atrebat ở Brussels đến Moscow. Chúng đã được nhân viên điện đài Carlos Alamo (là thượng úy Mikhail Makarov) chuyển đi.
Không lâu sau, Gestapo bắt đầu nghi ngờ có sự tồn tại của một mạng lưới điệp viên Liên Xô ở Bỉ. Quân Đức đã tổ chức một đội đặc biệt để truy tìm “các nghệ sĩ piano” (là tên quân Đức gọi các nhân viên điện đài), bởi rõ ràng là thường xuyên có quá nhiều buổi “hòa nhạc” của họ được phát trên sóng tại Bỉ.
Ngày 26-10-1941, “doanh nhân Vicent Siera” được phép đến Berlin gặp một sĩ quan người Đức chống phát xít là Harro Schulze Boysen. Người này đã chuyển cho ông những tài liệu quý về những tổn thất của quân Đức ở Moscow, các kế hoạch của Đức về việc sử dụng vũ khí hóa học tại Mặt trận phía Đông. Và điều quan trọng nhất là báo tin về những dự định của Hitler sẽ chuyển trận đánh trọng yếu sang Cavkaz và tiến hành một cuộc tấn công vào khu vực Grozny và Maikop, nơi có các mỏ dầu của Liên Xô. Tất cả những dữ liệu này đã được A.Gurevich truyền về Moscow.
Cơ sở bị lộ
Những hiểm họa luôn đe dọa A.Gurevich. Ngày 12-12-1941, địa điểm liên lạc bí mật trên đường Atrebat ở Brussels bị lộ trong hoàn cảnh kỳ lạ. Ngày hôm đó, không thông báo cho Gurevich bất cứ điều gì, Trepper đã triệu tập toàn bộ nhân viên của mình ở Brussels và quân Đức đã bao vây nơi đó. Bản thân Trepper dường như đã thoát hiểm thần kỳ khi viện cớ mình là “đại diện của hãng Simex và Co, đã đi nhầm phòng”.
Với bộ dạng sợ hãi, Trepper liền tìm đến Gurevich và kể rằng nhân viên điện đài Makarov, nữ nhân viên mật mã Poznanskaya và một số người khác đã rơi vào tay quân Đức. Hơn thế, Makarov đã nhanh chóng bị khuất phục và đã cung cấp cho Gestapo không chỉ những con số, mà còn toàn bộ danh tính những điệp viên còn lại. Một làn sóng bắt bớ đã lan khắp nước Bỉ.
Gurevich đã kịp bỏ về Marseille, tại đây ông tiếp tục tiến hành các hoạt động tình báo - tiếng tăm về nhà doanh nhân Uruguay của ông vẫn còn hiệu lực. Năm 1943, ông và vợ bị Gestapo bắt giữ. Việc ông bị bắt cũng diễn ra trong một tình huống kỳ lạ. Trepper thông qua những người quen đã chuyển cho ông một bưu kiện có quần áo ấm và họ lập tức bị Gestapo bắt giữ và đã khai ra địa chỉ của A.Gurevich. Chỉ đến khi quân Đức đột kích vào căn hộ của ông thì Margaret Barcha mới biết rằng mình đang chung sống với một sĩ quan tình báo Liên Xô. Cả hai vợ chồng đều bị Gestapo bắt giữ.
Tại cuộc thẩm vấn, sếp Gestapo Henrich Muller ngạc nhiên khi thấy “nhà tình báo Liên Xô đáng sợ” đã gây thiệt hại lớn cho Đế chế Đức là một người trẻ tuổi. Hơn thế, anh ta làm việc trong ngành thương mại do Đức Quốc xã cấp kinh phí. Điều này làm cho hắn bỏ ra khỏi phòng trong cơn tức giận. A.Gurevich đã đối đầu với Gestapo và bị thẩm vấn suốt nhiều giờ liền. Ông đã chọn cách “lặp lại” - chỉ kể những gì mà quân Đức đã biết. Ông khẳng định rằng mình được Comitern (Quốc tế cộng sản) tuyển dụng và sếp của mình đang ẩn náu đâu đó tại Paris.
Tuy nhiên, quân Đức đã nhanh chóng đưa ra một bản mật mã, trong đó Trung tâm đã chúc mừng Anatoly Gurevich được thăng chức đại úy. Hóa ra, Trepper từ lâu đã phản bội tất cả mọi người. Quân Đức nói với Gurevich rằng có hàng chục bức điện tín mang tên ông đã gửi đến Trung tâm, sau đó chúng đã đề nghị ông hợp tác. Gurevich đồng ý và bằng cách này ông đã cứu mạng không chỉ bản thân mà cả những điệp viên khác.
Về việc mạng lưới bị đổ bể, ông đã có thông báo về Trung tâm trong một bức điện đài được cẩn thận mã hóa một cách đặc biệt. Nhận thấy rằng mạng lưới đã tan rã, Moscow đã thay đổi “trò chơi điện tín”. Theo cách thức riêng biệt, Gurevich cũng thực hiện nước cờ của mình bên trong bức tường của Gestapo và vẫn tiếp tục truyền những thông tin quan trọng về Moscow, trong đó có cả danh sách điệp viên nằm vùng của phát xít Đức. Ông còn tuyển dụng được viên cố vấn hình sự Heinz Pannwitz, là người đã thực hiện các cuộc thẩm vấn. Tên này đã đồng ý giúp Gurevich được sống với hy vọng rằng trong trường hợp Đức thất bại thì sẽ được tha mạng.
Biến cố bất ngờ
A.Gurevich không chỉ cứu được mạng sống của mình và những người khác, mà ngay sau ngày thắng lợi liền bàn giao cho Moscow nhiều tài liệu mật của một tên tướng Đức. Đã xảy ra một điều không ngờ: ông không biết rằng Otto từ lâu đã ghen tỵ với mình, trong các cuộc thẩm vấn của NKVD (Bộ Nội vụ cũ), hắn đã đổ lỗi mọi thất bại lên đầu ông. Gurevich đã bị bắt ngay khi xuống máy bay và một năm sau, vào tháng 12-1946 đã bị kết án 20 năm tù "vì tội phản quốc". Sau 9 năm ông được ân xá và được thả, nhưng sau đó vẫn phải nếm trải những biến cố nghiệt ngã, nhiều lần bị bắt giữ, được tạm tha, mất quyền công dân.
Mãi đến năm 1990, A.Gurevich mới được biết rằng người vợ Margaret và con trai là Michel (được sinh ra trong nhà tù của Gestapo) vẫn còn sống. NKVD từng nói với ông rằng họ đã chết trong một trận bom. Chỉ đến năm 1991, Văn phòng Công tố mới thừa nhận rằng nhà tình báo A.Gurevich không phạm bất cứ tội danh nào. Ông được phục hồi danh dự và trả lại tên thật của mình. Song Anatoly Gurevich cũng không được Liên Xô trao bất cứ phần thưởng nào, không có lương hưu quân đội, không trợ cấp, mặc dù đã hai lần ông được đề nghị tặng thưởng huân chương khi hoạt động ở Tây Ban Nha, lần thứ hai - vì báo tin quân Đức tập trung lực lượng về hướng Capkaz.
Anatoly Markovich Gurevich đã qua đời vào năm 2009 ở tuổi 95 sau một thời gian dài bị bệnh.
TT&HĐ III - 28/c
Đả thạch tướng quân - Tôn Thất Thuyết
Những năm tháng lưu đày của vua Hàm Nghi ở Alger
PHẦN III: NGUỒN CỘI
" Đi đi con!
Trong khinh khi may nhớ nước non
Mà ôn lại cho đừng quên lịch sử
Bốn ngàn năm rồi, Việt Nam bất tử
Dằng dặc đoạn trường chống giặc ngoại xâm
Biết mấy đau thương, biết mấy anh hùng
Ghi tạc địa cầu bao chiến công hiển hách..."
Trần Hạnh Thu
Cervantes (Tây Ban Nha)
Cicero (La Mã)
Đừng khen cõi trần đẹp
Cõi trần là thản nhiên
Chỉ có đời nhơ, đẹp.”
CHƯƠNG VII (XXVIII): BẤT KHUẤT
9 năm sau thất bại của Francis Garnier trong việc xâm chiếm Bắc Kỳ, quân đội Pháp và Việt Nam lại đụng độ ở Bắc Kỳ vào ngày 25 tháng 4 năm 1882, khi sĩ quan chỉ huy Henri Rivie chiếm được thành Hà Nội chỉ với một lực lượng nhỏ lính thủy đánh bộ.
Trận chiến tại Nam Định, 19/07/1883.
Binh lính thời nhà Nguyễn
Sau khi quân tiếp viện của Mayer tới nơi, lực lượng Pháp bắt đầu quay lại phản công. Ngày 15, người Pháp đốt khu vực đồn trú của quân Cờ đen, một ngày sau đó quân Pháp dưới sự chỉ huy của Berthe de Villers tiến tới ngã ba sông Đuống. Tuy nhiên Henri Rivière vẫn cảm thấy bất an và trong lúc chờ lực lượng cứu viện cho phép người Pháp chiếm Bắc Ninh và Sơn Tây, Rivière quyết định vào ngày 19 tháng 5 sẽ rút khỏi Hà Nội để tiến về Phủ Hoài (Dịch vọng) theo hướng Sơn Tây. Tối ngày 18, Rivière cho triệu tập các sĩ quan Pháp để thông báo quyết định chuyển quân, ông ta cho rằng hành động này của quân Pháp không có gì bất thường nên sẽ ít bị đối phương chú ý. Tuy nhiên Rivière không ngờ rằng kế hoạch của mình đã bị một người hầu gốc Hoa nghe được.
Khi đã nhận thêm viện binh từ Hải Phòng, Hạ Long và cả từ Sài Gòn, tổng số quân Pháp trong thành Hà Nội lên đến 750 tên. Để lại 200 tên giữ thành và Đồn Thủy, Rivie và Vile (De Villers) dẫn 550 quân tiến ra phía Cầu Giấy.
4 giờ sáng ngày 19 tháng 5, lực lượng Pháp do Berthe de Villers chỉ huy bắt đầu xuất phát, Henri Rivie cũng có mặt trong đội quân này, cùng lúc một nhóm quân Pháp do đại úy Jacquin chỉ huy được lệnh canh chừng cho cuộc hành quân. Tới 6 giờ sáng thì các cuộc đụng độ giữa hai bên bắt đầu và quân Pháp chiếm được Cầu Giấy. Được thông báo trước về kế hoạch của người Pháp, quân Cờ đen của Lưu Vĩnh Phúc chủ động bày thế trận ở bên kia Cầu Giấy,.phục sẵn với đại bác ở khu vực làng Hạ Yên Khê (còn gọi là Hạ Yên Quyết) bên trái Cầu Giấy. Khi quân Pháp tiến gần làng thì lính Cờ đen bắt đầu nổ súng làm Berthe de Villers thiệt mạng. Tuyến đầu ở ngay gần cầu, một đầu do Dương Tử An, đầu kia do Ngô Phong Diễn chỉ huy, khoảng giữa là Lưu Vĩnh Phúc và Hoàng Trung Thư. Lãnh binh Đinh Công Tráng cũng có mặt trong trận này. Quân ta bố trí trận địa sau các lũy tre làng Cót và Dịch Vọng. Tổng cộng khoảng 1000 người. Hoàng Tá Viêm cùng đại quân ở phía sau.
Trận Cầu Giấy |
Một phần của Chiến dịch Bắc Kỳ |
|
|||||||
. | |||||||
|
|||||||
Tham chiến | |||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|
Đệ tam cộng hòa Pháp | Quân cờ đen | ||||||
Chỉ huy | |||||||
Henri Rivière † Berthe de Villers † |
Lưu Vĩnh Phúc | ||||||
Lực lượng | |||||||
550 quân (hải quân đánh bộ, thủy binh và pháo binh) | khoảng 3.000 quân Cờ đen | ||||||
Tổn thất | |||||||
30 người chết, 55 bị thương | 50 chết, 56 bị thương |
Courbet và Harmand tại Huế, tháng 8 năm 1883
Ký kết Hòa ước Quý Mùi, 25/08/1883
Chân dung Tôn Thất Thuyết.
Kinh thành Huế
Ngày 21 tháng 5 năm 1885, Bộ trưởng Ngoại giao Pháp chỉ thị cho Lemaitre- Khâm sứ Pháp ở Huế:
- "Không thể không trừng phạt hành vi của viên Thượng thư Bộ Binh nước Nam. Ông cho triều đình nước ấy biết rằng chúng ta không chịu để cho ông Thuyết ở chức Phụ chánh lâu hơn nữa. Ông phải đòi người ta bãi chức ông ấy và đưa đi xa...".
Viên tướng Pháp yêu cầu Nam triều ra lệnh cho sĩ phu và dân chúng tuân phục hoàn toàn chính thể bảo hộ. Để đáp lại việc Tôn Thất Thuyết cho chĩa đại bác từ Đại Nội vào đồn Mang Cá, phía Pháp cho thiếu tá Pernot dẫn quân tuần tiễu quanh Đại Nội. Người thay Rheinard (lúc đó vẫn chỉ là một quan chức nhỏ) là Lemaire, cựu công sứ Pháp tại Thượng Hải thuyết phục được Tôn Thất Thuyết rút đại bác khỏi các vị trí bố phòng nhắm vào quân Pháp. Nhưng phía Pháp không biết được rằng Tôn Thất Thuyết sau khi rút đại bác ra đã bí mật cho chở chúng lên căn cứ Tân Sở.
Khi hiệp thương với Nguyễn Văn Tường và Phạm Thận Duật, tướng De Courcy đã yêu cầu chỉ khi nào Tôn Thất Thuyết lành bệnh thì mới định ngày vào gặp vua, đồng thời cử bác sĩ Maugin sang chữa bệnh cho ông, đòi ông Thuyết nếu ốm thì nằm cáng mà sang sứ quán Pháp. Biết ý đồ của De Courcy có ý nhân dịp này bắt mình ngay giữa cuộc đàm phán, do ông là linh hồn của phe chủ chiến, nên Thuyết không chịu sang. Ngoài ra, Pháp còn đặt điều kiện là khi phái đoàn vào đến Hoàng Thành, vua Hàm Nghi phải bước xuống ngai vàng đích thân ra đón. Ông ta còn đòi tất cả nhân viên trong phái đoàn của Pháp, phải được đi vào Đại Nội bằng của chính Ngọ Môn chứ không chịu đi một mình. De Courcy khước từ quà tặng của vua Hàm Nghi, và tuyên bố "nếu các người muốn yên ổn, thì trong 3 ngày phải nộp 200.000 thỏi vàng, 200.000 thỏi bạc và 200.000 francs". Sự ngạo mạn và lăng nhục của phía Pháp khiến phe chủ chiến tức giận và quyết định ra tay trước.
Tại góc đông bắc kinh thành Huế, bên ngoài cửa Trấn Bình có một vòng thành đắp bằng đất có từ năm Gia Long thứ 4 (1805) gọi là đài Thái Bình. Đến năm Minh Mạng thứ 17 (1836), vòng thành được xây lại bằng gạch và đổi tên là Trấn Bình đài, song dân gian gọi là đồn Mang Cá. Trấn Bình đài là cái pháo đài thứ 25 của Kinh thành Huế, đây là một thành phụ của Kinh thành, cách thành chính chỉ một đoạn hào chung.
Trấn Bình đài | |
---|---|
Trấn Bình đài |
|
Tên khác | đài Thái Bình, đồn Mang Cá |
Vị trí | góc đông bắc ngoài kinh thành Huế |
Xây dựng | 1805 |
Lúc trước, nơi đây được xây những bệ cao để đặt 3 giàn súng đại bác và kho đạn (hỏa dược khố), điếm canh. Trấn Bình môn và Trường Định môn là hai "ám đạo" để vào Trấn Bình Đài, những cửa này chỉ trổ xuyên qua thân tường thành, chứ không xây vọng lâu ở bên trên. Trấn Bình môn không nằm ở phạm vi của Trấn Bình đài, mà nằm thuộc vòng tường thành của Kinh thành. Cửa này được trổ ra ở giữa đoạn thành nối hai pháo đài Bắc Định và Đông Bình (của Kinh thành) lại với nhau. Ngay trước mặt cửa là một chiếc cầu xây bằng đá và gạch bắc qua hào, dùng để nối liền mạch giao thông giữa hai địa phận của thành chính và thành phụ. Vì yếu thế, triều đình nhà Nguyễn phải nhường Trấn Bình đài cho quân đội Pháp đóng quân. Lúc đó, nơi đây vẫn được gọi là "thành Mang Cá", nhưng vào năm 1886, Toàn quyền Paul Bert lại ép triều đình Đồng Khánh nhường thêm một khu đất ở bên trong góc đông bắc của Kinh thành để quân đội Pháp xây dựng thêm doanh trại, đồn bót, bệnh xá, nhà nguyện.v.v... Người Pháp còn xây một bức tường thành bằng đá và gạch cao để ngăn cách riêng biệt phần tô giới mà họ thủ đắc trong Thành Nội (Concession Francaise de Hue). Do đó, để phân biệt sự khác nhau giữa hai địa phận ấy, nhân dân địa phương đã gọi Trấn Bình đài là "Mang Cá Nhỏ" và khu đất mới nhường thêm ở trong góc Đông Bắc của kinh thành là "Mang Cá Lớn".
Quân Pháp bị bất ngờ nhưng vẫn giữ thế thủ để chờ buổi sáng. Họ ẩn núp trong trại không chịu ra ngoài trong khi đại bác quân Nguyễn bắn sập mái nhà và lầu tòa Khâm Sứ. Còn phía đồn Mang Cá thì thậm chí Trần Xuân Soạn đã dùng cả tù nhân được sung binh đi phóng hỏa trại quân Pháp. Quân Nam hò reo và liên tục bắn súng. Nhà cửa trong Tòa khâm sứ cháy tứ tung, khói lửa bốc lên ngùn ngụt, thiêu cháy nhiều trại lính, chuồng ngựa. Quân Nam quyết tràn vào chiếm Tòa, một toán quân Pháp do trung úy Boucher nổ súng chống cự, ngăn chặn quân Nam tràn vào. Lính Pháp đang ngủ, chợt thức dậy, kẻ bị bắn, kẻ bị chết cháy, số bị thương khá nhiều. Một số sống sót chạy ra vơ lấy súng ống, mình trần như nhộng, nhiều người không kịp mặc áo. Họ được lệnh tập trung ở một địa điểm xa tầm đạn của quân Nam. Tòa Khâm sứ và đồn Mang Cá cách xa 2500m và ngăn cách bằng dòng Sông Hương, vì thế họ không thể cứu viện lẫn nhau.
Khi mặt trời hé mọc, quân Pháp phản công. Họ chở súng lên đài và nóc tàu bắn qua hạ được quân Nguyễn rất nhiều, Hoàng thành và cung điện nhiều nơi bị phá hủy. Pháo hạm Javelin cấp tập bắn dọn đường cho bộ binh Pháp phản công. Dưới sự chỉ huy của Pernot, quân Pháp chia quân làm 3 cánh để tiến vào kinh thành. Họ xung phong từng đợt một, chiếm lĩnh các vị trí cửa chắn then chốt, để tràn vào các cửa Đông Ba, Thượng Tứ, Chánh Đông, Chánh Tây, An Hòa… Một toán từ Cửa Trài phá cầu Thanh Long, vượt sông Ngự Hà tiến vào Lục Bộ, cố tấn công cửa Hiển Nhơn để mở đường vào Đại Nội. Toán quân thứ hai vượt Cầu Kho, tấn công quân Nam đang tử thủ ở vườn Thượng Uyển, đồng thời cũng để tiếp ứng cho toán quân đang tìm cách phá vỡ cửa Hiển Nhơn (cửa phía Đông vào Đại Nội).
Bị bất ngờ phản công, ban đầu quân Nam chống cự rất anh dũng, bắn thủng ruột thiếu úy Pellicot. Các vọng lâu được sử dụng làm pháo đài, trên thành, quân Nam bắn xuống xối xả. Quân Pháp đánh vào một pháo đài có chứa thuốc súng, pháo đài bốc cháy, một toán quân Phi và một chỉ huy bị nổ tung, chết cháy ngay tại trận.
Về bên phía Tòa Sứ, đoàn quân của Cheroutre cũng tiến sang... Họ cố tràn lên, nhưng bị quân Nam nổ súng chặn lại. Trung úy Lacroix bị thương; thiếu úy Heitschell khi sắp qua cầu thì một thùng thuốc súng phát nổ, bị chết cháy tại chỗ. Cuối cùng, quân Pháp cũng tiến được vào thành, cùng lúc đó, quân của Bornes và Sajot cũng vừa tiến vào
Trước sự phản công của quân Pháp, quân triều đình không giữ được thành, cả hai đạo quân của triều đình ở bên trong và bên ngoài chống không nổi, tan vỡ, tháo chạy về phía Lục Bộ và tràn ra cửa Đông Ba. Tại đây đã họ bị toán quân của Pháp từ phía Cửa Trài tiến lên bao vây. Cuộc giết chóc tàn bạo chưa từng có đã xảy ra: hơn 1.500 người dân và binh lính triều đình đã ngã xuống trong đêm hôm đó vì bị trúng đạn của Pháp, hay một số do chen lấn, giẫm đạp lên nhau khi cố vượt ra khỏi Kinh thành. Hầu như không có gia đình nào không có người bị tử nạn trong đêm binh biến này.
Quân Pháp tiến được vào thành, họ hạ cờ triều đình Huế xuống, treo cờ tam tài lên kỳ đài. Sau đó, họ tiếp tục tiến vào Đại Nội, rồi ra sức đốt phá, hãm hiếp, giết chóc, cướp bóc không từ một ai. Một toán quân Pháp đốt trụi trụ sở Bộ Lại, Bộ Binh và các kho thuốc súng. Quân Pháp chia nhau chiếm giữ các kho tàng, cung điện, thu được nhiều vàng bạc và số tiền hơn một triệu quan, là số tiền mà triều đình không kịp mang đi... Trưa hôm đó, họ chia nhau đi đốt hoặc vùi lấp những thi hài của quân và dân Nam chết trong trận đánh.
Nguyễn Văn Tường thấy thế nguy liền vào Nội yêu cầu nhà vua xuất cung. Hữu quân Hồ Văn Hiển phò giá, đưa Hoàng gia ra cửa tây nam. Từ Dũ thái hậu ủy Tường ở lại lo việc giảng hòa, Thuyết chạy kịp theo, còn chừng trăm người.
Kiểm điểm lại trận đánh tại Kinh thành, bắt đầu từ đêm 4-7-1885 (tức 22 tháng 5 năm Ất Dậu), thất bại hoàn toàn về phía triều đình Huế. Pháp chỉ chết có 16 người, bị thương 80 người, còn quân Nam chết đến 1.200-1.500 người. Quân Pháp khi chiếm được kho vũ khí thu được 812 súng thần công, 16.000 súng hỏa mai, khí giới, lương thực mất đến hàng triệu bạc. Dù đã chuẩn bị khá cẩn thận trong việc tấn công đồn địch, nhưng vì thiếu thông tin liên lạc, nhất là khi phải đánh đột kích trong đêm tối, hơn nữa vũ khí yếu kém, không có sức công phá lớn và không thể bắn được tầm xa nên quân Nam đã thua trận. Quân Pháp chiếm được một số lớn của cải mà triều đình chưa kịp chuyển đi, gồm 2.6 tấn vàng và 30 tấn bạc, trong số này chỉ có một phần rất nhỏ sau này được hoàn lại cho triều đình Huế. Còn lại, số 700.000 lạng bạc phải được 5 lính Pháp đóng hòm trong 5 ngày mới xong và chở về Pháp.
Sáng ngày 23, vua Hàm Nghi rút lui khỏi Huế, xa giá nghỉ ở Trường Thi một lát rồi lên đường đi Quảng Trị. Nguyễn Văn Tường được lệnh ở lại thu xếp mọi việc. Trưa hôm ấy, ông nhờ Giám mục Caspard đưa ra gặp thống tướng De Courcy, ông Tường được đến trú tại Thương bạc viện (?) và bị đại úy Schmitz coi giữ. Pháp buộc ông ta nội hai tháng phải thu xếp cho yên mọi việc. Trong khi đó, Thuyết đem vua Hàm Nghi chạy ra Tân Sở (Quảng Trị) tiếp tục chống Pháp. Người Pháp treo giải 2000 lạng bạc cái đầu của ông Thuyết và ai bắt được vua Hàm Nghi thì được thưởng 500 lạng.
Năm ngày sau (10-7-1885), Tôn Thất Thuyết lấy danh nghĩa vua Hàm Nghi hạ chiếu “Cần Vương”, thổi một luồng gió mới, tuy muộn nhưng cũng phần nào khuấy động tích cực đến phong trào kháng chiến chống Pháp của nhân dân ta và hàng ngũ quan lại, sĩ phu yêu nước.
--------------------------------------------------------------------
MUÔN MẶT ĐỜI THƯỜNG I/998
(ĐC sưu tầm trên NET)