Thứ Bảy, 9 tháng 1, 2021

TT&HĐIII - 26/c

                                      

                                             Hoàng Lê Nhất Thống Chí - Lời Giới Thiệu

PHẦN III:     NGUỒN CỘI 

" Đi đi con!
Trong khinh khi may nhớ nước non
Mà ôn lại cho đừng quên lịch sử
Bốn ngàn năm rồi, Việt Nam bất tử
Dằng dặc đoạn trường chống giặc ngoại xâm
Biết mấy đau thương, biết mấy anh hùng
Ghi tạc địa cầu bao chiến công hiển hách
..."

                                                                                Trần Hạnh Thu

"Lịch sử hoài thai chân lý, nó có thể kháng cự với thời gian, có thể dìm đi những việc cũ, nó là dấu tích của thời xa xưa, là gương soi của đương đại, là lời giáo huấn cho thế hệ sau."
                                                                 
Cervantes (Tây Ban Nha)

"Lịch sử là bằng chứng của thời đại, là ngọn lửa của chân lý, là sinh mệnh của kí ức, là thầy giáo của cuộc sống và là sứ giả của cổ nhân."
                                                                                                      Cicero (La Mã)
 
“Đừng chê cõi trần nhơ
Đừng khen cõi trần đẹp
Cõi trần là thản nhiên
Chỉ có đời nhơ, đẹp.” 
.

CHƯƠNG V: XUÂN LỬA ĐỐNG ĐA

“Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quí báu của ta. Từ xưa đên nay, mỗi khi Tổ Quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn; nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước.”
(Hồ Chí Minh)
"Những ngả đường bát ngát
Những dòng sông đỏ nặng phù sa
Nước chúng ta
Nước những người chưa bao giờ khuất
Đêm đêm rì rầm trong tiếng đất
Những buổi ngày xưa vọng nói về!"
(Trích bài thơ "Đất nước" - Nguyễn Đình Thi)
"Đất Nước là nơi dân mình đoàn tụ
Đất là nơi Chim về
Nước là nơi Rồng ở
Lạc Long Quân và Âu Cơ
Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng
Những ai đã khuất
Những ai bây giờ
Yêu nhau và sinh con đẻ cái
Gánh vác phần người đi trước để lại
Dặn dò con cháu chuyện mai sau
Hàng năm ăn đâu làm đâu
Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ"
(Trích bài thơ "Đất nước" - Nguyễn Khoa Điềm

(Tiếp theo)


***
Từ cuối thế kỷ XVII, đầu thế kỷ XVIII, nhiều cuộc nổi dậy và khởi nghĩa nông dân đã nổ ra rải rác khắp nơi. Đến những năm cuối của nửa đầu thế kỷ XVIII, khởi nghĩa nông dân bộc phát thành cao trào, cuồn cuộn dâng lên như nước vỡ bờ và kéo dài trên dưới 10 năm. Theo Wikipedia thì từ khi kết thúc chiến tranh phía nam với họ Nguyễn (xem Trịnh-Nguyễn phân tranh) và dứt được việc cát cứ ở Cao Bằng của họ Mạc, các chúa Trịnh là Tây Định vương Trịnh Tạc và Định Nam vương Trịnh Căn ra sức củng cố chính quyền Bắc Hà. Đến chắt Trịnh Căn là Trịnh Cương tiếp tục xây dựng nền thịnh trị ở Đàng Ngoài.
Năm 1729, An Đô vương Trịnh Cương mất, con là Trịnh Giang lên thay, tức là Uy Nam vương. Từ khi Trịnh Giang cầm quyền, chính sự Bắc Hà bắt đầu suy. Giang phế bỏ vua Lê Duy Phường làm Hôn Đức công năm 1732 và sau đó giết chết, lập anh Duy Phường lên ngôi, tức là Lê Thuần Tông (1732 - 1735). Không chỉ vua Lê, các đại thần như Nguyễn Công Hãng, Lê Anh Tuấn vốn có uy tín với đời trước cũng bị giết hại. Giang tiêu dùng xa xỉ, vì thế thuế má một ngày một nhiều, sưu dịch một ngày một nặng khiến nhân dân Đàng Ngoài vô cùng cực khổ. Do đó nông dân Đàng Ngoài đồng loạt đứng lên khởi nghĩa.
Năm 1737, nhà sư Nguyễn Dương Hưng nổi dậy khởi nghĩa ở Tam Đảo. Năm 1739, Vũ Đình Dung nổi dậy ở Ngân Già (nên bị gọi là giặc Ngân Già), hậu duệ nhà Mạc (đã bị đổi họ) là Nguyễn Cừ, Nguyễn Tuyển cùng Vũ Trác Oánh nổi dậy ở Hải Dương. Theo "Lê Triều dã sử", Nguyễn Cừ và Nguyễn Tuyển tin theo Sấm Trạng Trình có câu: "Phá điền thiên tử xuất, bất chiến tự nhiên thành" (Vỡ ruộng thiên tử ra, không đánh tự nhiên thành) nên dựng cờ khởi nghĩa. Khởi nghĩa này sau đó không lâu bị dẹp nhưng thuộc hạ của hai người là Hoàng Công ChấtNguyễn Hữu Cầu tiếp tục tập hợp lực lượng và trở thành hai cánh quân khởi nghĩa lớn và làm hao binh tổn tướng của chúa Trịnh nhiều hơn cả.
Tại Tam Đảo, sau khi Nguyễn Dương Hưng thất bại, Nguyễn Danh Phương nổi dậy và cũng trở thành một cuộc khởi nghĩa lớn trong nhiều năm. Tôn thất nhà Lê là Lê Duy Mật cũng định làm binh biến ở Thăng Long để lật đổ họ Trịnh nhưng không thành nên rút ra ngoài khởi nghĩa, cát cứ suốt 30 năm.
Ngoài những cuộc khởi nghĩa trên còn một số khởi nghĩa khác. Phong trào khởi nghĩa trải rộng khắp Bắc bộ vào tới Thanh Hoá, Nghệ An. Các cuộc khởi nghĩa phần đông lấy tiếng "phù Lê diệt Trịnh" làm cớ. Nhân dân mặt đông nam mang bừa vác gậy đi theo quân khởi nghĩa, toán nào đông thì kể có hàng vạn người, toán nào ít thì cũng có đến hàng trăm hàng nghìn người, rồi đi cướp phá ở các hương thôn và vây các thành ấp, quân triều đình đánh dẹp không được.
Trong cung, Trịnh Giang xa xỉ tư thông với cung nữ của cha, lại bị sét đánh nên tin theo lời hoạn quan, làm nhà hầm ở luôn dưới đất để tránh sét, còn việc chính trị thì để cho các hoạn quan là bọn Hoàng Công Phụ chuyên quyền làm bậy.
Trước tình hình đó, gia tộc họ Trịnh quyết định phế truất Giang, lập em Giang là Trịnh Doanh lên ngôi năm 1740. Là người có tài, Trịnh Doanh bắt đầu chỉnh đốn tình hình trong nước, ra tay đánh dẹp các cuộc khởi nghĩa.
Năm 1740, ở làng Ngân Già, có Vũ Đình Dung, Đoàn Danh Chấn, Tú Cao, cướp phá rất dữ, giết chết Đốc lĩnh là Hoàng Kim Trảo. Trịnh Doanh phải tự làm tướng đem binh đi đánh, bắt được Vũ Đình Dung đem chém, và đổi tên xã Ngân Già làm Lai Cách (nay là Gia Hòa).
Nguyễn Cừ và Nguyễn Tuyển giữ đất Đỗ Lâm ở Gia Phúc, núi Phao Sơn ở Chí Linh, làm đồn, xây lũy liên lạc với nhau, quân lính kể có hàng mấy vạn người, quân triều đình đi đánh, nhiều người bị bắt. Năm 1741 thống lĩnh Hải Dương là Hoàng Nghĩa Bá phá được các đồn quân khởi nghĩa ở Phao Sơn, ở Ninh Xá và Gia Phúc; Nguyễn Tuyển thua chạy rồi chết, Vũ Trác Oánh trốn đi mất tích. Nguyễn Cừ thì chạy lên Lạng Sơn được mấy tháng, lại về Đông Triều, nhưng vì hết lương phải vào nấp ở núi Ngọa Vân, bị Phạm Đình Trọng bắt được đóng cũi đem về kinh hành hình.
Sau đó Trịnh Doanh còn mất nhiều năm đánh dẹp các cuộc khởi nghĩa khác.
Ở Đàng Ngoài, bốn cuộc khởi nghĩa có qui mô rộng lớn hơn cả và mang tính tiêu biểu là: khởi nghĩa Nguyễn Danh Phương, khởi nghĩa Nguyễn Hữu Cầu, khởi nghĩa Hoàng Công Chất và khởi nghĩa Lê Duy Mật.
Nguyễn Danh Phương, thường gọi là Quận Hẻo, tên khác là Nguyễn Danh Ngu, người xã Tiêu Sơn, huyện Yên Lạc, trấn Sơn Tây (nay thuộc Vĩnh Phúc). Ông là nhà nho nghèo,Ban đầu dự định theo nghiệp văn, nhưng tình hình xã hội Đàng Ngoài từ khi Trịnh Giang lên nắm quyền thay Trịnh Cương (1729) có nhiều biến động tiêu cực: Trịnh Giang không lo việc triều chính, chỉ lo hưởng lạc, tăng cường bóc lột dân chúng; vì thế nhiều người bất bình với chính quyền họ Trịnh. Nguyễn Danh Phương bỏ dở nghiệp văn chương theo nghiệp võ. Năm 1739, nghe tin Đô Tế và thủ lĩnh Bồng khởi nghĩa ở Sơn Tây, ông bèn đến xin đầu quân. 
Tháng 2 năm 1740, chúa Trịnh sai Võ Tá Lý làm Chinh tây đại tướng quân đi dẹp. Hai bên đụng nhau ở An Lạc (nay thuộc Trung Giã, Sóc Sơn, Hà Nội). Đô Tế và Bồng đánh không lại với Tá Lý, bị bắt và bị giết. Nguyễn Danh Phương tập hợp tàn quân của Đô Tế, rút về cố thủ ở núi Tam Đảo, xây dựng lực lượng, lập căn cứ mới để tính kế lâu dài. Ở đây, Phương cho đắp thành lũy, tích trữ lương thực, rèn khí giới, tuyển mộ thêm quân.  Để tránh sự truy sát của triều đình, quận Hẻo sai người ra xin hàng. Lúc đó Trịnh Doanh phải đối phó với những cuộc khởi nghĩa mạnh của Nguyễn Hữu CầuHoàng Công Chất nên chấp thuận cho quận Hẻo hàng.
Đầu năm 1744, lực lượng nghĩa quân lên đến một vạn người, nhiều lần đánh bại quân Trịnh.Tận dụng vùng núi hiểm trở, nhất là ngọn Độc Sơn Tôn, quận Hẻo ra sức xây đồn lũy để phòng thủ và chiêu thêm quân. Cũng năm 1744, khi lực lượng dưới quyền ông đã lớn mạnh, ông mang quân đi đánh ra xung quanh. Thanh thế quân quận Hẻo lan sang vùng Tuyên Quang, Hưng Hóa.
Tháng 11 năm 1744, Nguyễn Danh Phương mang quân đánh lên Việt Trì, tiến sang Bạch Hạc. Sau đó ông dùng kế nghi binh, đánh lừa đạo quân triều đình do Văn Đình Ức chỉ huy và tiến sang đánh chiếm Thanh Lãnh (huyện Bình Xuyên, Vĩnh Phúc).
Cuối năm 1744, Phương xây dựng căn cứ trung tâm ở núi Ngọc Bội, gọi là “Đại Đồn”, tự xưng “Thuận Thiên Khải vận đại nhân”, đặt quan lại, xây điện như một triều đình riêng. Xung quanh căn cứ Ngọc Bội là hệ thống đồn lũy phòng thủ. Hầu hết các huyện thuộc Tam Đài, Lâm Thao, Đà Dương (trấn Sơn Tây) và một số huyện thuộc các trấn Thái Nguyên, Tuyên Quang đều nằm trong khu vực hoạt động của nghĩa quân Nguyễn Danh Phương. Nghĩa quân vừa hoạt động, vừa cày cấy tự túc, tích trữ lương thảo làm kế lâu dài. Khi đã có căn cứ địa vững chắc, Phương tỏa quân đi đánh phá các cơ sở chính quyền họ Trịnh thuộc vùng Tam Đài, Lâm Thao, Đà Dương, gây thanh thế ngày càng lớn. Tháng 9 năm 1748, quận Hẻo bắt đầu xây dựng hệ thống đồn trại kiên cố ở núi Ngọc Bội, gồm có Đại đồn là trung tâm, bên ngoài có đồn Hương Canh là Trung đồn và Ức Kỳ là ngoại đồn. Ngoài ra, ông còn cho xây nhiều đồn nhỏ xung quanh gọi là chi đồn. Hệ thống đồn của quận Hẻo trải rộng một vùng thuộc các huyện Tam Đái, Lâm Thao, Đà Dương thuộc trấn Sơn Tây và một số huyện thuộc trấn Thái Nguyên, Tuyên Quang. Ông tự xưng là Thuận thiên khải vận đại nhân, đặt hệ thống quan tước, ban hành chế độ thu thuế trong vùng mình quản lý.
Tháng 2 năm 1750, chúa Trịnh điều quân đánh vào Thanh Lãnh, bắt được hai người em ông là Nguyễn Văn Bị và Nguyễn Văn Quảng. Được tin, quận Hẻo mang quân đến giải vây, uy hiếp khiến quân Trịnh phải thả hai người em ông.
Trước sự lớn mạnh của Nguyễn Danh Phương, Trịnh Doanh buộc phải tập trung lực lượng tiến đánh. Chúa Trịnh đích thân cầm quân, có các tướng tài như Hoàng Ngũ Phúc làm giám quân, Nguyễn Nghiễm làm tá lý, Đoàn Chú là Hiệp đồng, chia quân làm 4 đạo tiến đánh. Sau nhiều đợt tấn công không kết quả, Trịnh Doanh phải lui quân. Khoảng cuối năm 1750, đầu năm 1751,Trịnh Doanh lại thân chinh đi đánh quận Hẻo. Ông cử các tướng kéo 4 đạo quân lớn tiến đánh Nguyễn Danh Phương. Quân Trịnh đi vòng lên Thái Nguyên rồi bất ngờ đánh đồn Ức Kỳ, vây đồn Hương Canh. Nghĩa quân phải lui về căn cứ Ngọc Bội. Sau một thời gian chiến đấu ác liệt, đại đồn Ngọc Bội thất thủ, Phương rút về núi Độc Tôn (thuộc huyện Tam Dương), phá hết đồn trại, rồi chạy trốn đến Tinh Luyện (huyện Lập Trạch). Đến đây, Nguyễn Danh Phương bị quân Trịnh mai phục bắt được, giải về kinh xử tử, cuộc khởi nghĩa do ông cầm đầu tan rã.
Nguyễn Hữu Cầu là thủ lĩnh kiệt xuất của phong trào nông dân Đàng Ngoài ở thế kỷ XVIII. Nguyễn Hữu Cầu  quê ở xã Lôi Dương, huyện Thanh Hà (nay thuộc Hải Dương), thuở nhỏ là bạn học với Phan Đình Trọng (sau này là tướng nhà Trịnh). Ông xuất thân trong gia đình nông dân nghèo, có tài cả văn kiêm võ, lại bơi lội rất giỏi nên được gọi là quận He. He là tên loài cá ở biển Đông, bởi Hữu Cầu bơi khoẻ và hùng dũng nên được gọi như vậy. 
Lúc đầu Cầu vì nhà nghèo nên đi làm cướp, sau theo Nguyễn Cừ khởi nghĩa, được Cừ yêu quý gả con gái là Nguyễn Thị Quỳnh cho. Năm 1741, Nguyễn Cừ bị bắt, Cầu tiếp tục duy trì và phát triển lực lượng ở Hải Dương. Năm 1742, Cầu chiếm Đồ Sơn lập căn cứ, làm chủ cả một vùng bờ biển và hải đảo tự xưng là “Đông đạo tổng quốc bảo dân đại tướng quân”. Cầu thường tổ chức cướp của nhà giàu, đón đánh thuyền buôn của phú thương, lấy lúa gạo chia cho dân nghèo. Hành động đó đã lôi cuốn hàng vạn nông dân nghèo đói, lưu vong theo nghĩa quân nên chỉ trong thời gian ngắn lực lượng tăng nhanh, mở rộng hoạt động ra khắp vùng đông - bắc Hải Dương. 
Trong năm 1743, nghĩa quân phá được những cuộc tấn công lớn của quân Trịnh. Tháng 6-1744, tướng Trịnh là Hoàng Ngũ Phúc dồn lực lượng đánh Đồ Sơn nhưng Cầu nhanh chóng phá được vòng vây, tiến về mạn Kinh Bắc, chiếm vùng sông Thọ Xương (khúc sông Thương thuộc huyện Lạng Giang), đắp lũy hai bên bờ sông, phòng thủ. Trấn thủ Kinh Bắc là Trần Đình Cẩm đem quân tới phá, bị nghĩa quân đánh tan, phải rút về Thị Cầu. Nhân đà thắng lợi, Cầu cho quân tiến đánh, chiếm được trấn thành Kinh Bắc.Trấn phủ là Trần Đình Cẩm và Đốc đồng là Vũ Phương Đề đánh thua ở Thị Cầu phải bỏ ấn tín mà chạy. Tin ấy bay vế Thăng Long làm triều đình rất lo lắng. Được cấp báo, lo sợ nghĩa quân kéo thẳng lên Thăng Long, chúa Trịnh Doanh vội huy động vệ binh chia nhau đóng ở các cửa ngõ kinh thành để phòng giữ, đồng thời cử tướng Trương Khương kết hợp với Hoàng Ngũ Phúc tiến đánh, mới chiếm lại được Kinh Bắc rồi huy động thêm lực lượng truy kích, bao vây nghĩa quân.nhưng thế Nguyễn Hữu Cầu vẫn mạnh, phá quân của Trương Khuông ở làng Ngọc Lâm (thuộc huyện Yên Dũng), đuổi quân của quan thống lĩnh Đinh Văn Giai ở Xương Giang (thuộc huyện Bảo Lộc) rồi lại về vây dinh Thị Cầu. Trịnh Doanh sai Hoàng Ngũ Phúc và Phạm Đình Trọng đem binh đến đánh bại Hữu Cầu ở Xương Giang.
Cuối năm 1744, nghĩa quân phá tan được thế bao vây của quân Trịnh, đánh thắng một trận lớn ở xã Ngọc Lâm (Hà Bắc) rồi trở lại vây thành Kinh Bắc lần thứ hai. Mấy cánh quân Trịnh do các tướng Hoàng Ngũ Phúc, Đàm Xuân Vực… chỉ huy phải hợp sức lại mới giải vây được. Mùa thu năm 1745, Nguyễn Hữu Cầu rời Kinh Bắc, trở lại hoạt động ở Hải Dương. Trong khoảng năm 1746-1748, nghĩa quân hoạt động mạnh ở vùng ven biển Hải Dương, có lần vượt biển đánh tập kích vào Sơn Nam. Nguyễn Hữu Cầu được các sử gia đánh giá là người kiệt hiệt, nhiều mưu mẹo nhất trong số các thủ lĩnh khởi nghĩa lúc đó. Có khi bị vây hàng mấy vòng, ông chỉ một mình một ngựa phá vây ra, rồi chỉ trong mấy ngày lại có hàng vạn người đi theo. Các tướng sĩ họ Trịnh ai cũng sợ quận He, duy chỉ có Phạm Đình Trọng là bạn học thuở nhỏ là người hiểu quận He. Hai người đố kỵ nhau từ trước, sau đó lại đối địch, Hữu Cầu đào mồ mẹ Trọng đổ xuống sông. Từ đó Phạm Đình Trọng thề không cùng sống ở đời với Nguyễn Hữu Cầu. Những người tin vào tâm linh có thể coi hai người như có nợ từ kiếp trước, chẳng những đối địch từ khi đi học đến khi cầm quân, khi ra mặt trận không chỉ đối gươm mà đối cả chữ. Hai người chí hướng khác hẳn nhau, người ra làm quan, người đi làm giặc. Cầu đào mộ mẹ Trọng thì đúng là hành động quân cường khấu, nhưng Trọng là đại quan triều đình cũng trả thù quật lại mộ cha Cầu thì cũng không khá hơn giặc cướp. Dẹp được Cầu, Trọng được phong làm Binh Bộ thượng thư. Nhưng cũng chỉ 3 năm sau (1754), Trọng chết lúc mới 40 tuổi. Có Cầu thì có Trọng đối địch, Cầu không còn thì Trọng cũng ra đi, như truyện dân gian "Trạng chết thì chúa băng hà". Giai thoại về Nguyễn Hữu Cầu và Phạm Đình Trọng có nhiều. Sau đây là vài chuyện nữa:
Tương truyền thuở nhỏ Nguyễn Hữu Cầu và Phạm Đình Trọng cùng học một thầy. Trọng hay được thầy khen nhưng Cầu không phục. Một hôm đi đám ma về, thầy cho cả hai người đi theo. Nhà đám biếu thủ lợn, Cầu và Trọng tỵ nhau không ai chịu xách. Thầy bèn ra vế đối, bảo ai đối được thì không phải xách:

Huề trư thủ (xách đầu lợn)
Trọng đối lại:

Phan long lân (Vịn vây rồng)
Còn Cầu đối:

Diệt Tần phá Sở
Thầy gõ quạt lên đầu Cầu, nói câu đối không chuẩn, thừa chữ và bắt xách thủ lợn. Nhưng Cầu vẫn gân cổ cãi:

Tôi đối sai thật, nhưng ý tôi là muốn bóc vẩy rồng kia, chứ không thèm vịn vây rồng như Trọng!
Một lần khác thầy lại ra vế đối:

Mười rằm trăng náu, mười sáu trăng treo
Trọng đối:

Tháng giêng rét đài, tháng hai rét lộc
Cầu lại đối rằng:

Tháng mười sấm rạp, tháng chạp sấm động
Thầy nghe xong bảo:

Thằng Trọng có khẩu khí làm quan to, còn thằng Cầu thì chỉ làm giặc!
Rồi từ đó ông đồ sợ không dám nhận dạy Cầu nữa. Sau này quả nhiên Trọng làm quan cho nhà Lê còn Cầu khởi nghĩa chống triều đình.
Tương truyền có lần hai bên đối trận, Phạm Đình Trọng ra vế đối sai người đưa cho Cầu như sau:

Thổ triệt bán hoành, thuận giả thượng, nghịch giả hạ
Nghĩa là: chữ "thổ" bỏ nửa một nét ngang, để xuôi là chữ "thượng", để ngược là chữ "hạ". Câu này có ý đe doạ Cầu nếu thuận theo triều đình thì có chức, chống lại thì bị diệt.
Hữu Cầu viết thư đối lại rằng:

Ngọc tàng nhất điểm, xuất vi chúa, nhập vi vương 
Nghĩa là: bộ "ngọc" có một dấu chấm, để lên đầu là chữ "chúa", bỏ đi là chữ "vương". Ý nói chí lớn của mình chẳng làm chúa cũng làm vua chứ không chịu hàng.
"Chim trong lồng" là bài thơ nổi tiếng trước khi bị đem hành hình của Nguyễn Hữu Cầu còn lưu truyền đến ngày nay. Bài thơ làm cả tiếng Hán cả tiếng Nôm, có những từ cổ mà có lẽ tiếng Việt thời đó quen dùng.
Khi Cầu bị bắt, Trọng lại gần xem Cầu có kêu cầu gì không, nhưng Cầu thản nhiên ngồi hát xướng rất ngang tàng. Trọng hỏi:

Anh bây giờ như con chim trong lồng, còn gì mà hát? Nghe nói anh có tài thơ, trong trường hợp nào cũng làm được, vậy anh thử làm bài thơ "Chim trong lồng" xem sao?
Cầu không cần đợi giục hai lần, liền ngâm:

Nhất lung thiên địa tàng thân tiểu[1]
Vạn lý phong vân cử mục tần[2]
Hỏi sao sao luỵ cơ trần
Bận tài bay nhảy, xót thân tang bồng
Nào khi vỗ cánh rỉa lông
Hót câu thiên túng trong vòng lao lung[3]
Chim oanh nọ vẫy vùng giậu bắc
Đàn loan kia túc tắc cành nam
Mặc bay đông ngữ tây đàm[4]
Chờ khi phong tiện dứt dàm vân lung[5]
Bay thẳng cánh muôn trùng tiêu Hán
Phá vòng vây làm bạn kim ô[6]
Giang sơn khách diệc tri hồ?[7]

Chú thích:

  1.  Trời đất như cái lồng, nhốt mình vào cảm thấy nhỏ hẹp
  2.  Phóng tầm mắt nhìn ra muôn đám mây
  3. Hát câu buông thả trong vòng kìm hãm
  4.  Ý nói coi thường những lời dị nghị
  5. Chờ khi gió thuận sẽ dứt ràng buọc của lồng trời mây
  6.  Mặt trời
  7.  Những người khách trong núi có ai biết cho chăng?

Theo Việt Nam sử lược, khi Cầu bị bắt mang nộp chúa Trịnh cùng lúc với Nguyễn Danh Phương, chúa sai bày tiệc, bắt Phương rót rượu và Cầu thổi kèn hầu tiệc. Không rõ có phải đó chính là lúc Cầu ngâm bài thơ này hay không?
Tiếp chuyện Nguyễn Hữu Cầu khởi nghĩa: tuy nhiên quân Trịnh do Hoàng Ngũ Phúc và Phạm Đình Trọng chỉ huy vẫn bám sát nghĩa quân của Nguyễn Hữu Cầu, chờ thời cơ tấn công tiêu diệt. Cuối năm 1748, nghĩa quân thua một trận lớn ở Cẩm Giàng (Hải Dương) nhưng ngay sau đó, lợi dụng sơ hở, Cầu kéo quân cấp tốc tiến về bến Bồ Đề nhằm tấn công thành Thăng Long. Tiếc rằng khi nghĩa quân vừa sang sông thì trời sáng, quân Trịnh kịp huy động lực lượng vây đánh. Bị tổn thất nặng, Cầu phải rút về Sơn Nam phối hợp với nghĩa quân của Hoàng Công Chất. Quân Trịnh lại tập trung về Sơn Nam, quyết tiêu diệt cuộc khởi nghĩa Nguyễn Hữu Cầu. Nhiều cuộc giáp chiến ác liệt giữa hai bên đã diễn ra ở vùng Bình Lục (Hà Nam).
Năm 1746, quận He cho người đem vàng về đút lót cho Đỗ Thế Giai và người nội giám là Nguyễn Phương Đĩnh để xin hàng, Trịnh Doanh thuận cho và lại phong cho làm Hướng Nghĩa Hầu. Nguyễn Hữu Cầu tuy đã xin về hàng, nhưng vẫn cứ cướp phá các nơi, sau lại về phá ở đất Sơn Nam. Phạm Đình Trọng đánh đuổi Hữu Cầu ở Cẩm Giàng, Hữu Cầu nhân lúc kinh thành không ai phòng bị, nên lẻn về đánh, ngay đêm hôm ấy kéo quân về bến Bồ Đề. Đến nơi thì trời vừa sáng; có tin báo, Trịnh Doanh tự đem quân ra giữ ở bến Nam Tân. Phạm Đình Trọng biết tin ấy lập tức đem quân về đánh mặt sau, Hữu Cầu lại thua bỏ chạy, về cùng với Hoàng Công Chất cướp ở huyện Thần Khê và Thanh Quan. Phạm Đình Trọng và Hoàng Ngũ Phúc lại đem binh xuống đánh đuổi.
Tháng 2-1751, sau mấy trận thua lớn, lực lượng hao tổn nhiều, núng thế, Cầu phải chạy vào Thanh Hóa rồi vào Nghệ An dựa vào lực lượng của Nguyễn Diên (một tướng chỉ huy trong khởi nghĩa Nguyễn Tuyển). Phạm Đình Trọng kéo quân vào vây đánh, Cầu cùng một số bộ tướng và nghĩa quân vượt biển định trở về Hải Dương, nhưng gặp bão, phải bỏ thuyền lên bộ, bị quân Trịnh đuổi kịp bắt được ở núi Hoàng Mai (Quỳnh Lưu, Nghệ An). Tháng 3-1751, Nguyễn Hữu Cầu bị xử tử cùng một lần với Nguyễn Danh Phương ở Thăng Long.  Phạm Đình Trọng mang quân về quê ông, quật mộ bố Nguyễn Hữu Cầu, giết 3 họ gia quyến ông. Vợ ông là Nguyễn Thị Quỳnh tự tử. Cuộc khởi nghĩa Nguyễn Hữu Cầu chấm dứt.
 Năm 1739, Hoàng Công Chất và Nguyễn Hữu Cầu đi theo Nguyễn Cừ và Nguyễn Tuyển hoạt động ở vùng Sơn Nam. Sau khi quân Nguyễn Cừ bị đánh bại, Công Chất tụ tập lực lượng riêng tiếp tục hoạt động ở Sơn Nam . Nghĩa quân Hoàng Công Chất rất giỏi thủy chiến, sở trường về lối đánh du kích, chiến đấu linh hoạt, không có căn cứ cố định ở một nơi. Quân Trịnh nhiều lần tiến đánh nhưng không dẹp nổi. 
Năm 1740, chúa Trịnh cử các tướng Hoàng Công Kỳ, Phạm Trần Tông mang quân đánh Công Chất ở Công An nhưng không nổi.
Năm 1743, Công Chất lại chống cự thành công cuộc bao vây của thống lĩnh Trương Nhiêu. Quân triều đình lại buộc phải rút về. Cuối năm đó, chúa Trịnh Doanh sai sứ đi chiêu an, đòi Công Chất phải về yết kiến. Chất cự tuyệt, chiếm giữ phủ Khoái Châu (Hưng Yên). Trịnh Doanh bèn điều Đinh Văn Giai mang đại quân đi dẹp, quân khởi nghĩa thất bại nặng nề ở Đỗ Xá nhưng vẫn giữ được Khoái Châu.
Năm 1745, quân khởi nghĩa tập kích bắt và giết chết trấn thủ Sơn Nam là Hoàng Công Kỳ. Công Chất mang quân đánh phá các huyện lân cận và phối hợp với quân khởi nghĩa Nguyễn Hữu Cầu.
Năm 1746 và 1748, quân Công Chất phối hợp với quân của Hữu Cầu đánh Sơn Nam và Thăng Long nhưng thất bại. Cuối năm 1748, Trịnh Doanh sai Hoàng Ngũ Phúc, Phạm Đình Trọng tấn công vào Mã Não và Hương Nhi, quân khởi nghĩa thua to, Công Chất cùng con là Công Toản đến Mỹ Lương theo thủ lĩnh khởi nghĩa tên là Tương. Sau đó quân của Tương bị đánh tan, cha con Công Chất bỏ chạy vào Thanh Hoá. Triều đình ban thưởng ai bắt được ông thì được tước quận công, hàm tam phẩm. Tuy nhiên năm 1750 ông theo đường núi tiến ra vùng Hưng Hoá.
 Cuối năm 1748, Hoàng Công Chất phối hợp với nghĩa quân của Nguyễn Hữu Cầu chống cự quân Trịnh, sau mấy trận thua liên tiếp và nặng nề, Cầu chạy vào Nghệ An và Chất chạy vào Thanh Hóa. Sau đó, Chất theo đường núi tiến ra miền Hưng Hóa. Năm 1750, Hoàng Công Chất liên kết với một thủ lĩnh khởi nghĩa giáp biên giới Vân Nam (Trung Quốc) là Thành để phát triển lực lượng, quân triều đình do Đinh Văn Thản tới đánh không dẹp nổi. Năm 1751, Thản chết, Lê Đình Châu được cử thay. Tháng 6 năm 1751, Lê Đình Châu đánh bại Công Chất và Thành. Thành bị bắt, Chất rút lên động Mãnh Thiên, châu Ninh Biên, tức là Mường Thanh (Điện Biên), xây dựng căn cứ kháng cự lâu dài, rồi dần mở rộng hoạt động ra nhiều nơi thuộc vùng Tây Bắc (như Điện Biên, Sơn La, Hưng Hóa, Hòa Bình), gây cho quân Trịnh nhiều thiệt hại. Một trung tâm khởi nghĩa hình thành ở vùng Hưng Hóa. Tại đây quân khởi nghĩa đã lấy thành Tam Vạn do người Lự xây dựng trước đó (tiếng Thái gọi là Sam Mứn) làm đại bản doanh. Tương truyền tên gọi Tam Vạn là do trong thành có thể chứa 3 vạn quân, có thuyết nói rằng vì trong thành có 3 vạn cối giã gạo. Sau đó nhận thấy thành Tam Vạn ở địa thế bất lợi, Công Chất xây thành Bản Phủ làm căn cứ.
Hoàng Công Chất rất được lòng dân bản địa. Ông đánh tan quân giặc cướp, phát triển lực lượng ra khắp miền Tây Bắc, chia ruộng cho dân nghèo, lôi kéo những người cầm đầu ở các châu mường. Dân gian vùng này còn truyền câu hát:

Dưới xuôi có vua
Trên này có chúa
Những miền từ Mường Puồn, châu Ét
Từ Đà Bắc, chợ Bờ
Lại phía trên từ chợ Xo, La trở xuống
Tất cả đều quy phục chúa Mường Thanh...
... Chúa thật lòng yêu dân
Chúa xây dựng bản Mường
Mọi người đều yên ổn...
Quân khởi nghĩa của Công Chất ngoài người Kinh còn có cả người thiểu số. Người bản xứ gọi ông là "Then Chất" (tiếng Thái là "Thiên Chết") với ý tôn kính. Trong "Quám tổ Mường" (sử người Thái ở Tây Bắc) gọi ông là "vua Hoàng". Các tướng dưới quyền Công Chất nổi danh có: Bun Xao, Cầm Phẳn,.anh em Ngải, Khanh, cha con Cầm Tom, Cầm Phanh.
Quân của Công Chất có thời gian phối hợp với lực lượng khởi nghĩa của hoàng thân Lê Duy Mật. Từ Tuần Giáo, Điện Biên trở lên thuộc phạm vi Công Chất, phía nam từ Mộc Châu tới Văn Chấn thuộc Duy Mật.
 Cuối năm 1767, Công Chất từ Yên Tây đánh xuống chiếm châu Mộc (Sơn La), châu Mai (Hoà Bình), lại chia quân tiến xuống thượng du Thanh Hóa. Các trấn thủ Thanh Hóa, Hưng Hoá cáo cấp, chúa Trịnh Sâm huy động các tướng Trịnh Phưởng, Đinh Văn Phục, Hoàng Đình Thể mang quân đi đánh. Quân của Công Chất thua chạy vào Xa Hổ và Nậm Ban.
Tháng 2 năm 1768, Trịnh Sâm cử Nguyễn Đình Huấn và Phạm Ngô Cầu mang quân đánh Mường Thanh. Lê Duy Mật nghe tin bèn điều quân cứu ứng cho Công Chất. Đình Huấn sợ không dám tiến phải rút về.
Trịnh Sâm bèn giao quân cho Đoàn Nguyễn Thục chia làm nhiều cánh đánh thẳng vào Mường Thanh. Năm 1768 trong lúc chiến sự đang căng thẳng thì Hoàng Công Chất lâm bệnh qua đời tại căn cứ. Chất chết, cuộc khởi nghĩa về cơ bản tàn lụi theo.
Con ông là Hoàng Công Toản tiếp tục cầm quân chống Trịnh. Đầu năm 1769, Toản đặt phục binh ở Nậm Cô đón đánh quân Trịnh nhưng thất bại. Nguyễn Phục một mặt đánh Nậm Cô, mặt khác điều quân đánh úp đốt căn cứ thành Bản Phủ. Công Toản chạy về thấy thành mất bèn bỏ trốn, không biết sau đó kết cục ra sao...
Lê Duy Mật (?-1770) là thủ lĩnh một cuộc khởi nghĩa lớn chống lại chúa Trịnh vào giữa thế kỷ 18. Cuộc khởi nghĩa được hình thành và phát triển cùng với các cuộc khởi nghĩa khác trong phong trào khởi nghĩa nông dân Đàng Ngoài. Ông là hoàng thân nhà Hậu Lê, con thứ vua Lê Dụ Tông (1705-1729). 
Thời Lê trung hưng, họ Trịnh nắm hết quyền bính, vua Lê chỉ có hư vị. Một số vị vua có ý định chống lại đều bị chúa Trịnh sát hại. Thời vua cha của Duy Mật là Lê Dụ Tông ở ngôi, tuy chúa An Đô vương Trịnh Cương khá mềm mỏng nhưng vẫn giữ quyền sắp đặt và quyết định mọi sự.
Năm 1728, theo ý của Trịnh Cương, Dụ Tông lên làm thái thượng hoàng, nhường ngôi cho con thứ là Duy Phường. Năm sau, Trịnh Cương đột ngột qua đời, Trịnh Giang lên thay, tức là Uy Nam vương. Trịnh Giang muốn tỏ rõ uy quyền nên sau khi thượng hoàng Dụ Tông mất (1731), Giang phế truất và giết Duy Phường (1732), lập người anh lớn nhất của Duy Mật, tức là con cả của Dụ Tông là Duy Tường lên ngôi, tức là Lê Thuần Tông. Được 4 năm, Thuần Tông mất sớm, Giang lập em Thuần Tông là Duy Thận nối ngôi, tức là Lê Ý Tông.
Sau khi làm việc phế lập, Trịnh Giang không quan tâm tới triều chính, ăn chơi sa đọa. Giang bỏ và sát hại nhiều công thần đời Trịnh Cương như Nguyễn Công Hãng, Lê Anh Tuấn. Xã hội rối ren, chính trị mất ổn định. Trong triều đình nhiều người bất bình với hành động của Giang.
Trước sự tàn bạo của Trịnh Giang, Lê Duy Mật bàn với chú là Lê Duy Chúc và em là Lê Duy Quý làm binh biến ở Thăng Long để lật đổ họ Trịnh. Tháng 12 năm 1738, Duy Mật cùng Duy Chúc, Duy Quý định đốt kinh thành để khởi sự, nhưng chưa kịp thi hành thì mưu kế đã bị tiết lộ, ba người lập tức bỏ trốn.
Lê Duy Mật và chú Duy Chúc chạy đến Nghi Dương (Kinh Môn, Hải Dương), Duy Quý chạy đến Cẩm Thủy (Quảng Hóa, Thanh Hóa). Ít lâu sau, cả Duy Chúc và Duy Quý đều lâm bệnh nặng và qua đời. Sau khi chú và em mất, Lê Duy Mật được sự giúp đỡ của viên thổ hào ở Nghi Dương là Ngô Hưng Tạo. Ông mang gia quyến và tùy tùng chạy vào Thanh Hóa. Nhờ danh nghĩa hoàng thân nhà Lê, ông được sự ủng hộ của dân chúng địa phương và bắt đầu xây dựng lực lượng chống họ Trịnh.
Đầu tiên, ông xây dựng căn cứ ở huyện Thạch Thành, dựng lũy ở Ngọc Lâu và tự xưng là Thiên Nam Đế Tử.
Sau khi Duy Mật nổi dậy, ngày càng nhiều cuộc khởi nghĩa nông dân khác bùng phát, cùng mang danh nghĩa "Phù Lê diệt Trịnh". Họ Trịnh buộc phải tìm cách phế Trịnh Giang, lập em Giang là Trịnh Doanh lên thay.
Tháng 1 năm 1740, Lê Duy Mật xuất phát từ Ngọc Lâu tấn công vào Phúc Lộc và Tiên Phong (Hà Tây). Chúa Trịnh vội sai Trần Đình Miên đến đánh trả, sau đó lại điều Nguyễn Bá Lân tới hợp sức tiến công. Do quân Trịnh đông hơn, Lê Duy Mật không chống nổi phải rút lui về Thanh Hóa.
Tháng 5 năm 1740, Trịnh Doanh ép vua Ý Tông nhường ngôi cho cháu là Duy Diêu – cũng là cháu của Duy Mật - lên ngôi, tức là Lê Hiển Tông. Theo các nhà nghiên cứu, đây là dụng ý chính trị rất lớn của Trịnh Doanh. Trước đây, khi Thuần Tông mất, lẽ ra Duy Diêu là con cả của vua cũng đã lớn phải được lập, nhưng Trịnh Giang cố tự làm theo ý mình nên lập chú Duy Diêu là Ý Tông khiến nhiều người không đồng tình. Lúc đó Trịnh Doanh lập Duy Diêu là trả lại ngôi cho ngành trưởng khiến dẹp đi sự bất bình của thiên hạ, làm cho việc chống Trịnh của Lê Duy Mật không còn nhiều ý nghĩa chính trị như trước và duy trì ngôi vị làm chúa của họ Trịnh.
Tháng 9 năm 1741, Lê Duy Mật tấn công ra Hưng Hóa và Sơn Tây. Trịnh Doanh điều Đặng Đình Mật. Đình Mật nhân đêm tối đánh úp khiến quân Duy Mật bị rối loạn. Sau đó, ông tổ chức lại đội ngũ và mai phục đánh thắng quân Trịnh một trận. Tuy nhiên sau đó Duy Mật không đánh lại được Đình Mật nên rút về Văn Lãng (Thái Nguyên) và sau đó trở về Ngọc Lâu.
Trong lần ra bắc thứ hai, ông được sự hậu thuẫn của thủ lĩnh khởi nghĩa nông dân là Tương. Khi Duy Mật trở về Ngọc Lâu, Tương cùng đi theo về.
Sau khi Duy Mật rút lui, Trịnh Doanh sai Lê Hữu Kiều làm chức Lưu thủ, cùng với Thượng thư Bộ hình là Hà Tông Huân làm Tham tụng về Thanh Hóa để phủ dụ dân chúng. Do tài năng của Hữu Kiều và Tông Huân lấy danh nghĩa vua Hiển Tông làm danh nghĩa để phủ dụ, một bộ phận dân chúng ngả theo triều đình.
Do tình hình bất lợi, Lê Duy Mật để lại một bộ phận ở lại giữ Ngọc Lâu, còn ông mang quân vào Nghệ An, đánh chiếm Cổ Nam (Quỳ Châu, Nghệ An) và bắt đầu xây dựng căn cứ mới ở đây.
Giữa năm 1742, Lê Duy Mật trở về Thanh Hóa đánh bại quân Trịnh ở Bái Thượng (Thanh Hóa). Tháng 10 năm đó, Trịnh Doanh phải điều các tướng tài như Đặng Đình Mật, Nguyễn Nghiễm và Hà Tông Huân cùng phối hợp đánh vào nơi ông đóng quân ở Lôi Dương. Quân Trịnh quyết tâm tiêu diệt Lê Duy Mật ở Thịnh Mỹ. Tuy nhiên, khi quân Trịnh tiến vào Thịnh Mỹ thì Duy Mật đã rút lui về Lang Chánh.
Trong khi Trịnh Doanh phải đối phó với những cuộc khởi nghĩa mạnh mẽ của Nguyễn Hữu Cầu, Hoàng Công Chất thì Lê Duy Mật tranh thủ phát triển lực lượng ở Lang Chánh. Ông xây dựng Lang Chánh trở thành căn cứ vững chắc trong 7 năm (1742 – 1749). Từ lúc đó, quân Lê Duy Mật có 3 căn cứ là Ngọc Lâu, Cổ Nam và Lang Chánh.
Các cuộc khởi nghĩa lớn của Nguyễn Hữu Cầu, Nguyễn Danh Phương bị dẹp, thủ lĩnh Tương theo Duy Mật cũng bị tử trận, tới năm 1763 chỉ còn ông và Hoàng Công Chất ở Mường Thanh chống lại họ Trịnh.
Dẹp xong các cuộc khởi nghĩa kia, Trịnh Doanh rảnh tay đối phó với Lê Duy Mật. Trước sức tấn công mạnh mẽ của quân Trịnh, Duy Mật nhiều lần phải rút lui.
Tháng 5 năm 1763, ông cho quân tiến vào Trấn Ninh và Cao Châu, nhanh chóng kiểm soát hai vùng này rồi sau đó tiếp tục đánh Quỳ Châu và Trà Lân. Ông xây dựng căn cứ mới ở núi Trình Quang (Trấn Ninh). Theo Khâm định Việt sử Thông giám cương mục, căn cứ gồm có 16 đồn lũy, thành cao hào sâu, có đài quan sát điếm canh từ xa để bảo vệ. Theo Lịch triều hiến chương loại chí, quân chiến ước 3000 người, voi chiến hơn 100 con, ngựa hơn 300 con, súng lớn nhỏ có đến hàng nghìn khẩu, diêm tiêu lưu hoàng thuốc đạn không kể xiết được. Khi giới binh giáp rất là tinh nhuệ, đạn lửa, tên lửa quả ném bằng lửa, mồi lửa, những thứ cần dùng để đánh thành, không thứ gì là không có. Bên ngoài phủ chung quanh có 16 đồn gác trên núi, liên lạc với nhau, dựa nhau để phòng giữ. Đồn gác nào cũng: lần thứ nhất, đắp lũy đất, trên mặt lũy cứ cách 1 trượng dựng 1 lầu để bắn, phía ngoài lũy trồng tre, cách chỗ tre 1 trượng thì xẻ hào sâu hơn 13 trượng, chiều rộng cũng như thế. Ở chỗ quan hệ khẩn thiết cần phải canh phong, đều cắm chông sắt. Ngoài ra đều cắm chông bằng tre liền như lông nhím. Cách hào 1 trượng lại làm thêm lần lũy nữa, ngoài lũy ấy đặt chông tre dày kín như lông mọc; trên lũy đặt nỏ gỗ, treo chuông có quả lắc, hễ động vào luỹ, thì tiếng chuông vang lên. Phòng bị chỗ nào cũng chu đáo. Về phạm vi uy hiếp thì có phía tây từ Hô Mường đến các Lào, cho đến cả ở các động ở biên giới Hưng Hoá, phía đông đến Lạc Hoàn, phía bắc đến 7 tổng ở phủ Trà, phủ Quỳ. Thường đem háng hóa buôn bán thông với Trung Quốc, thế lực có phần mở rộng thêm
Từ Trấn Ninh, ông thường tổ chức tấn công xuống đồng bằng Thanh Hóa và Nghệ An. Trịnh Doanh bèn sai Bùi Thế Đạt vào Nghệ An làm Đốc suất, được tùy ý quyết định mọi việc. Tháng 7 năm 1764, Trịnh Doanh cử thêm Đàm Xuân Vực vào hỗ trợ cho Thế Đạt, kiêm quản cả Thanh Hóa và Nghệ An.
Trước sự uy hiếp của quân Trịnh, Lê Duy Mật viết thư, sai người vào Thuận Hóa đưa cho chúa NguyễnNguyễn Phúc Khoát đề nghị hỗ trợ "diệt Trịnh phù Lê" nhưng Khoát không muốn gây hấn với họ Trịnh nên không ra quân giúp.
Năm 1767, Trịnh Doanh chết, con là Sâm lên thay. Lê Duy Mật nhân lúc chúa Trịnh mới lên ngôi bèn tiến quân đánh chiếm Thanh Chương (Nghệ An) và Hương Sơn (Hà Tĩnh) vào tháng 4 năm đó. Trịnh Sâm vội sai Nguyễn Nghiễm mang quân vào Nghệ An tiếp viện cho Bùi Thế Đạt, đẩy lui quân khởi nghĩa về phía tây Nghệ An.
Tháng 8 năm 1769, Trịnh Sâm sai Tham nghị Nghệ An là Nguyễn Mậu Dinh dụ hàng ông nhưng không kết quả. Trịnh Sâm cho người đưa thư sang vỗ về không được, mới quyết ý dùng binh để dứt mối loạn. Trịnh Sâm bèn huy động lực lượng lớn gồm 3 đạo quân Thanh Hóa, Hưng Hóa, Nghệ An do Bùi Thế Đạt, Nguyễn Phan và Hoàng Đình Thể chỉ huy vào đánh Duy Mật.
Lê Duy Mật chủ động điều quân ra phủ Ngoại đối phó với quân Trịnh. Tháng 1 năm 1770, quân Trịnh tiến đến phủ Ngoại. Lê Duy Mật giữ vững đồn lũy phòng thủ không đánh. Các tướng Trịnh cũng không dám tiến quân. Trịnh Sâm thấy chiến sự không thuận lợi phải điều danh tướng Hoàng Ngũ Phúc đến tây Nghệ An tăng viện.
Hoàng Ngũ Phúc dày dạn trận mạc, biết đồn lũy Trấn Ninh vững vàng không đánh được, bèn dùng kế khác. Ngũ Phúc cho bắt mẹ của một thủ hạ, đồng thời là con rể của Lê Duy Mật là Lại Thế Thiều. Do sự tác động của Hoàng Ngũ Phúc, mẹ Thế Thiều viết thư dụ con. Lại Thế Thiều nhận thư, vì thương mẹ nên quyết định phản Lê Duy Mật. Thiều sai thủ hạ là Lê Văn Bản mở cửa thành cho quân Trịnh tiến vào. Thấy tình hình có nội biến, Lê Duy Mật biết không thể thoát được bèn tụ tập hết vợ con lại rồi đốt lửa tự thiêu mà chết. cuộc khởi nghĩa Lê Duy Mật kết thúc.
Đến đây, các cuộc khởi nghĩa nông dân Đàng Ngoài bị dẹp yên, nạn giặc giã không còn nhưng hậu quả để lại rất nặng nề. Theo đánh giá của GS. Nguyễn Phan Quang trong "Phong trào khởi nghĩa nông dân Đàng Ngoài", đời sống xã hội miền Bắc Đại Việt bị ảnh hưởng nghiêm trọng.
Chiến tranh kéo dài, đồng ruộng bị tàn phá, sản xuất bị đình đốn; người chết vì tòng quân cho triều đình và quân khởi nghĩa rất nhiều. Cá biệt như vùng Ngân Già (huyện Nam Chân, nay thuộc huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định), sau khi khởi nghĩa của Vũ Đình Dung bị đàn áp, gần như toàn bộ làng đó bị triệt hạ, chết gần hết. Trịnh Doanh ra lệnh đổi tên làng đó từ Ngân Già thành Lai Cách với ý miệt thị (lai cách mang nghĩa là "không ai đến"). Hoặc như khởi nghĩa quận He bị dẹp, mộ cha của thủ lĩnh Nguyễn Hữu Cầu bị tướng Phạm Đình Trọng quật lên tiêu huỷ. Những việc làm đó càng làm khoét sâu mối thù hận trong dân chúng bị bóc lột và đàn áp.
Về phía triều đình, để có lực lượng đối phó với các cuộc khởi nghĩa, Trịnh Doanh ưu đãi tướng sĩ để khuyến khích sự hăng hái của họ. Binh lính nòng cốt là lính Thanh - Nghệ, vì cậy có công nên trở thành kiêu binh. Mặt khác, vì muốn dẹp loạn bằng mọi giá, chúa Trịnh đã hạ lệnh đốt hết sổ sách thư từ, thu nhặt hết chuông khánh trong các chùa để đúc binh khí.
Hoà bình được lập lại nhưng sức mạnh của Đàng Ngoài bị xói mòn khá nhiều, không còn khả năng phục hồi như thời Trịnh Cương trước đây.
Trong khi ở Đàng Ngoài, phong trào khởi nghĩa nông dân nổi lên rầm rộ thì ở Đàng Trong, tình hình có vẻ “dịu” hơn. Năm 1747 có nổ ra cuộc khởi nghĩa ở Gia Định do một thương nhân cầm đầu. Nhân dân thiểu số dọc Trường Sơn và vùng Tây Nguyên, người Chàm, người Khmer cũng nhiều lần nổi dậy, chống họ Nguyễn. Ở vùng đồng bằng cũng xuất hiện những cuộc nổi dậy lẻ tẻ. Nói chung thì qui mô của các cuộc nổi dậy đó chưa lớn. Nổi trội chỉ có cuộc nổi dậy của Lía là đáng kể trước khi có cuộc khởi nghĩa Tây Sơn. Trong dân gian còn lưu truyền câu chuyện của Lía và câu thơ gây xúc cảm sau đây:
                              “Chiều chiều én liệng Truông Mây
                              Cảm thương chàng Lía bị vây trong thành”
Dù có lúc phát triển rất nhanh, bộc phát thành cao trào nhưng tất cả các cuộc khởi nghĩa lớn nhỏ trước khi có cuộc khởi nghĩa Tây Sơn, trong phong trào khởi nghĩa nông dân suốt thế kỷ XVII và XVIII (nhất là ở thế kỷ XVIII, khi mà tình hình đất nước đã trở nên bất lợi đối với thế lực Trịnh ở Đàng Ngoài và Nguyễn ở Đàng Trong) đều lần lượt thất bại. Nguyên nhân thất bại có thể là rất nhiều, nhưng chung kết lại thì nguyên nhân sâu xa nhất là gì?
Chúng ta cho rằng ba yếu tố chắc chắn làm nên mọi thắng lợi là thiên thời, địa lợi, nhân hòa. Nhân hòa, hiểu rộng ra là sự đoàn kết nhất trí, sự tài giỏi, sự thấu tỏ chân lý… Không có nhân hòa thì không thấy được địa lợi và cũng không nắm bắt được thiên thời. Một cuộc khởi nghĩa tự phát, hành động mù quáng mà giành được thắng lợi thì chỉ có thể là hú họa. Đối đầu với một đối tượng đàn áp giàu kinh nghiệm, cáo già, còn đủ binh lực thì sự hú họa đó là gần như không tưởng. Nhân hòa, ở mức cao độ của nó chính là biểu hiện của Đức Huyền Diệu, đó là chính nghĩa. Thế nhưng không phải tự dưng mà có được nhân hòa nếu không có sự tạo dựng bởi con người (con người có thể tự tạo dựng mình thành người tài năng, như thế là đã tạo nhân hòa và nhờ thế mà biết tạo ra nhân hòa rộng lớn hơn và khi Đại Chúng đồng thuận thì đó là chính nghĩa, là hành động vì chính nghĩa).
Bất cứ ai dù tốt, xấu đều có thể dựng được ngọn cờ gắn nhãn mác chính nghĩa, nhưng hành động có làm cho ngọn cờ đó thực sự thắm màu chính nghĩa không và Đại Chúng có đồng ý để dần dần hướng về hay không lại là chuyện khác.
Điều đáng suy nghĩ là nhiều cuộc khởi nghĩa xảy ra gần như đồng thời, có quan hệ với nhau, đôi lúc còn hỗ trợ nhau nhưng lại không thể hòa hợp với nhau để cùng qui về một mối, cùng phụng sự cho một ngọn cờ chung. Hình như sự thiển cận về quan niệm chính nghĩa trước thời cuộc, mục đích nhỏ hẹp về danh lợi ở các thủ lĩnh khởi nghĩa đã không cho phép họ thực hiện được điều đó, nghĩa là không cho phép họ chuyển hóa phong trào khởi nghĩa thành một cuộc tổng khởi nghĩa thống nhất, tập trung, có đủ sức mạnh lật đổ chế độ vua Lê - chúa Trịnh đã đến giai đoạn mạt vận.
Phải chăng các cuộc khởi nghĩa đó lần lượt thất bại là tại nguyên nhân phổ biến này: chưa đủ chính nghĩa vì còn thiếu nhân hòa? Nếu đúng thế thì chỉ có thể nói rằng phong trào khởi nghĩa nông dân của khoảng thời gian đó đã thiếu một lãnh tụ tư tưởng chung, biết nhìn xa trông rộng, vạch ra được đúng đắn đường lối chiến lược và sách lược, qui tụ được lòng dân, phân hóa được kẻ thù, từ đó mà tổ chức tiến hành khởi nghĩa vũ trang đúng nơi đã định và đúng thời điểm đã định, thực hiện những hành động quân sự một cách hợp lý, có phương pháp… (Chúng ta tin rằng trong một chừng mực nhất định thì con người có thể tác động cho thiên thời đến sớm hơn, thậm chí là có thể tạo dựng được!).
Tuy nhiên, cho dù các cuộc khởi nghĩa có thất bại, thì phong trào khởi nghĩa nông dân Đàng Ngoài ở thế kỷ XVII - XVIII đã làm rung chuyển, lung lay tận gốc rễ chế độ vua Lê - chúa Trịnh, tạo điều kiện cho cuộc tiến công giành thắng lợi nhanh chóng của nghĩa quân Tây Sơn sau này.

(Còn tiếp)


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét