Thứ Sáu, 8 tháng 1, 2021

TT&HĐIII - 26/b

 
Tiểu Sử 12 Vị Chúa Trịnh - Bối Cảnh Lịch Sử Hơn 200 Năm Công Và Tội Thời Kỳ Chúa Trịnh
 
Sấm Trạng Trình: Dựng tóc gáy với lời tiên tri về tương lai | VTC Now

PHẦN III:     NGUỒN CỘI 

" Đi đi con!
Trong khinh khi may nhớ nước non
Mà ôn lại cho đừng quên lịch sử
Bốn ngàn năm rồi, Việt Nam bất tử
Dằng dặc đoạn trường chống giặc ngoại xâm
Biết mấy đau thương, biết mấy anh hùng
Ghi tạc địa cầu bao chiến công hiển hách
..."

                                                                                Trần Hạnh Thu

"Lịch sử hoài thai chân lý, nó có thể kháng cự với thời gian, có thể dìm đi những việc cũ, nó là dấu tích của thời xa xưa, là gương soi của đương đại, là lời giáo huấn cho thế hệ sau."
                                                                 
Cervantes (Tây Ban Nha)

"Lịch sử là bằng chứng của thời đại, là ngọn lửa của chân lý, là sinh mệnh của kí ức, là thầy giáo của cuộc sống và là sứ giả của cổ nhân."
                                                                                                      Cicero (La Mã)
 
“Đừng chê cõi trần nhơ
Đừng khen cõi trần đẹp
Cõi trần là thản nhiên
Chỉ có đời nhơ, đẹp.” 
.

CHƯƠNG V: XUÂN LỬA ĐỐNG ĐA

“Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quí báu của ta. Từ xưa đên nay, mỗi khi Tổ Quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn; nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước.”
(Hồ Chí Minh)
"Những ngả đường bát ngát
Những dòng sông đỏ nặng phù sa
Nước chúng ta
Nước những người chưa bao giờ khuất
Đêm đêm rì rầm trong tiếng đất
Những buổi ngày xưa vọng nói về!"
(Trích bài thơ "Đất nước" - Nguyễn Đình Thi)
"Đất Nước là nơi dân mình đoàn tụ
Đất là nơi Chim về
Nước là nơi Rồng ở
Lạc Long Quân và Âu Cơ
Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng
Những ai đã khuất
Những ai bây giờ
Yêu nhau và sinh con đẻ cái
Gánh vác phần người đi trước để lại
Dặn dò con cháu chuyện mai sau
Hàng năm ăn đâu làm đâu
Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ"

(Trích bài thơ "Đất nước" - Nguyễn Khoa Điềm

 

 

 

(Tiếp theo)

 

Sang thế kỷ XVIII, nhất là từ thập kỷ 30, phong trào khởi nghĩa nông dân bộc phát dữ dội, uy hiếp nghiêm trọng nến thống trị của chúa Trịnh. Khởi nghĩa Quận He (Nguyễn Hữu Cầu) đã có lần tiến đánh kinh thành Thăng Long. Vì vậy, năm 1749, chúa Trịnh lúc đó là Trịnh Doanh điều động dân phu, dựa theo thành Đại La cũ, đắp lại vòng thành ngoài, gọi là thành Đại Đô.
Một nét mới trong quần thể kiến trúc cung đình của Thăng Long thời Lê - Trịnh là sự xuất hiện cụm kiến trúc Phủ Chúa. Phủ Chúa ở phía nam tháp Bảo Thiên (bị sập vào năm 1547) và phía tây hồ Hoàn Kiếm (lúc bấy giờ còn khá rộng, gồm hồ Tả Vọng và hồ Hữu Vọng). Kiến trúc chính của Phủ Chúa là các cung điện nguy nga, có tường thành bao bọc hình vương, mở hai cửa: Chính Môn ở phía nam và Tuyền Vũ ở phía đông (nhìn ra hồ Hoàn Kiếm).
Ngoài Phủ Chúa còn một loạt kiến trúc liên quan, bố trí bên bờ hồ Hoàn Kiếm, lan rộng đến bờ sông Hồng như: Nguyệt Đài, Thủy Tạ, cung Khánh Thụy, trên Gò Rùa có Tả Vọng Đình (nền tháp Rùa sau này), cung Tây Long (khoảng vị trì của Bảo tàng lịch sử), lầu Ngũ Long (khoảng Tràng Tiền), chuồng voi (thường nuôi khoảng 150 đến 200 voi chiến)…
Do sự phát triển của kinh tế hàng hóa và sự mở rộng quan hệ ngoại thương, thế kỷ XVII là giai đoạn hưng thịnh của các thành thị trên qui mô cả nước. Nhiều thành thị cũ trở nên thịnh vượng và một loạt thành thị, thương cảng mới ra đời. Trong đó nổi tiếng nhất là Thăng Long, Phố Hiến (Hưng Yên), Vị Hoàng (Nam Định) ở Đàng Ngoài; Phú Xuân (Huế), Thanh Hà (gần Huế), Hội An (Quảng Nam), Đia Định (thành phố Hồ Chí Minh), Cù Lao Phố (Biên Hòa), Hà Tiên (Kiên Giang) ở Đàng Trong. “Thứ nhất Kinh Kỳ, thứ nhì Phố Hiến”, đứng đầu các thành thị ấy là Thăng Long mà người đương thời cũng quen gọi là Kinh Kỳ hay Kẻ Chợ. Các thương nhân và giáo sĩ phương Tây đều thống nhất nhìn nhận Thăng Long là một thành phố lớn ở Á Châu, thậm chí có người so sánh với Vơ-ni-dơ (Venise) của Ý hay Pa-ri (Paris) của Pháp (?)
Thời bấy giờ, hoạt động thương nghiệp của Thăng Long phát triển mạnh mẽ nhất qua các màng lưới chợ, bến cảng và phố xá. Mật độ chợ rất cao, thường họp ở các cửa ô thành ngoài, các cửa của Hoàng Thành và ven sông. Những chợ lớn, nổi tiếng đã có trên 10 chợ như: chợ cửa Đông, chợ cửa Nam, chợ Ông Nước (gần Ngọc Hà), chợ Yên Thọ (Ô Cầu Dền), chợ Thịnh Quang (Ô chợ Dừa), chợ Dịch Vọng (Ô Cầu Giấy), chợ Yên Thái (Bưởi), chợ Đình Ngang (gần Cửa Nam), chợ Bà Đà, chợ Văn Cử, chợ Bác Cử, chợ Gạo, chợ Hàng Cá, chợ Bạch Mã… Ngoài ra còn một loạt chợ không tên, bất cứ nơi nào đông người qua lại lập tức người ta nhóm họp lại để mua bán. Hiện tượng đó làm cho Thăng Long giống như một cái chợ khổng lồ và từ đó mà có tên Kẻ Chợ. Các sông ngòi tự nhiên của Thăng Long tạo nên cho thành thị này một hệ thống bến cảng rất thuận tiện. Sông Hồng lúc đó còn ăn sâu vào phía trong, ăn thông với hồ Tả Vọng, Hữu Vọng và nối liền với sông Tô Lịch, hồ Tây, sông Kim Ngưu. Các bến cảng ven sông, nhất là sông Hồng, không những mở rộng mối giao lưu trong thành phố, mà còn nối Thăng Long với các thị trường chung quanh và với thuyền buôn nước ngoài. Hồi đó, phía ngoài thành, phía sông Hồng (mạn phía nam cầu Long Biên) còn có thương điếm của Hà Lan (từ 1645 đến 1699), của Anh (từ 1683 đến 1697)
Người Thăng Long - Kẻ Chợ rất tự hào với lối sống thanh lịch của đất Kinh Kỳ, với những công trình nghệ thuật “Phật đá Cầu Đông” (Cầu qua sông Tô ở quãng Hàng Đường - Ngõ Gạch), “tượng đồng Trấn Vũ” (cao 3,76m, nặng 4 tấn, đúc năm 1677), với dòng tranh dân gian Hàng Trống, với tên tuổi các danh nhân Đoàn Thị Điểm, Đặng Trần Côn (người Nhân Mục, Đống Đa), Bùi Huy Bích (người Thịnh Liệt, Thanh Trì), Ngô Thì Sở (người làng Tô, tức Tả Thanh Đài), Lê Quí Đôn, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Du v..v…..
 
Nguyễn Du
阮攸

Tượng đài cụ Nguyễn Du
Sinh 3 tháng 1, 1766
Bích Câu, Thăng Long
Mất 16 tháng 9, 1820 (54 tuổi)
Huế
Bút danh Tố Như, Thanh Hiên, Hồng Sơn lạp hộ, Nam Hải điếu đồ
Công việc Nhà thơ
Quan nhà Lê trung hưng
Quốc gia Việt Nam
Quốc tịch Việt Nam
Tác phẩm nổi bật Truyện Kiều
Tuy nhiên, những yếu tố thuận lợi, kích thích sự tăng trưởng kinh tế nói trên (trong đó phải kể đến cả những tác động tích cực của việc hình thành lãnh thổ Đàng Trong của chúa Nguyễn, tạo điều kiện lan tỏa dân cư xuống phía nam (là mang tính ngẫu nhiên, tự phát). Trong khi đó, linh hồn của một nền kinh tế là sản xuất nông nghiệp lại hầu như dậm chân tại chỗ, thậm chí là suy thoái đi bởi cơ chế đè ép nặng nề của giai tầng thống trị, Thực trạng đó có thể nhất thời tạo nên cảnh phồn hoa đô hội nhưng có vẻ giả tạo và bất ổn. Nó sẽ không đương đầu nổi với những khó khăn chất chồng lên đất nước bởi nạn chiến tranh tranh quyền đoạt lợi giữa các thế lực vương triều, nạn cát cứ chia cắt đất nước, nạn xa hoa đàng điếm trong cung đình và quan lại tham nhũng của bộ máy chính quyền cồng kềnh, nạn thiên tai.
Chiến tranh Lê - Mạc (hay còn gọi là cuộc chiến Nam - Bắc triều) kết thúc bằng thắng lợi của vua Lê - chúa Trịnh (Nam Triều). Sau 47 năm chiến tranh với 38 trận đụng độ lớn nhỏ đã gây nên nhiều hậu quả ghê gớm cho nhân dân và xã hội Viêt Nam đương thời. Hàng vạn người thương vong, mùa màng bị tàn phá chưa kể do thiên tai.
Năm 1592, nhà Mạc tiêu vong, tình trạng phân chia Nam - Bắc triều chấm dứt. Nhưng trước đó đã nảy sinh mầm mống của nạn cát cứ mới. Sau khi Nguyễn Kim chết, trong nội bộ Nam triều xuất hiện mâu thuẫn gay gắt giữa hai dòng họ thế lực Trịnh và Nguyễn. Trịnh Kiểm, con rể Nguyễn Kim, tiếp nhận vai trò lãnh đạo quyền bính của họ Nguyễn. Trong hai người con của Nguyễn Kim thì một người là Nguyễn Uông đã bị Trịnh Kiểm ám hại, người thứ hai là Nguyễn Hoàng lâm vào tình trạng bị đe dọa tính mạng. Trước tình thế đó, Nguyễn Hoàng đã khôn khéo chủ động xin vào trấn thủ đất Thuận Hóa để tránh tai họa.
Tháng 11 năm 1558, Nguyễn Hoàng đem theo nhiều bà con, dòng tộc ở Tống Sơn (Thanh Hóa) vượt biển, đổ bộ lên Cửa Việt, lập bản doanh ở Ái Tử (Bình Trị Thiên), thu hết hào kiệt, xúc tiến việc tổ chức cai trị, tranh thủ lòng dân… Năm 1570, khi quân Mạc tấn công vùng Thanh Nghệ, chúa Trịnh phải triệu trấn thủ Quảng Nam, về bảo vệ Nghệ An và giao cho Nguyễn Hoàng cai quản luôn đất Quảng Nam. Từ đó, bề ngoài Nguyễn Hoàng vẫn giữ tư cách một phiên thần của Nam triều, nhưng bên trong thì khẩn trương xây dựng lực lượng riêng. Dựa vào điều kiện thiên nhiên thuận lợi và nhân lúc họ Trịnh đang phải lo đối phó với nhà Mạc ở phía Bắc (Bắc Triều), họ Nguyễn ra sức cải tạo vùng Thuận - Quảng thành căn cứ địa vững chắc, tạo dựng một tiềm lực quân sự mạnh mẽ chống Trịnh lâu dài. Năm 1613, trước khi chết, Nguyễn Hoàng dặn con là Nguyễn Phúc Nguyên: “Đất Thuận - Quảng phía bắc có Hoàng Sơn và Linh Giang, phía nam có núi Hải Vân và Thạch Bí, địa thế hiểm cố, thật là nơi để cho người anh hùng dụng võ. Nếu biết dạy bảo nhân dân, luyện tập binh sĩ kháng cự lại họ Trịnh thì gầy dựng được cơ nghiệp muôn đời”.
Năm 1614, Phúc Nguyên cải sổ chính quyền, xây dựng một nhà nước riêng, tách khỏi mọi quan hệ lệ thuộc với họ Trịnh (đình chỉ việc nộp phú thuế cho Trịnh, thải hồi những quan lại do họ Trịnh cử vào Thuận - Quảng). Hành động đó đã chính thức phân chia đất nước thành hai miền mà dân gian gọi là Đàng Trong, Đàng Ngoài. Tháng 4 năm 1627, lấy cớ họ Nguyễn chống lại vua Lê, quân Trịnh tiến đánh, mở đầu cuộc chiến tranh Trịnh - Nguyễn kéo dài từ năm 1627 đến 1672, với 7 cuộc đụng độ lớn và chiến trường khốc liệt nhất là vùng lưu vực sông Gianh và sông Nhật Lệ. Cuộc chiến tranh đó dai dẳng và bất phân thắng bại, sự chia cắt đất nước vẫn tồn tại kéo dài đã tiêu tốn vô ích biết bao nhân tài vật lực của đất nước, đó là nguyên nhân chủ yếu làm cho đời sống nhân dân, nhất là nhân dân Đàng Ngoài lâm vào tình cảnh ngày càng cơ cực, đói khổ.
Một nguyên nhân cũng rất quan trọng dẫn đến sự suy thoái nghiêm trọng của đời sống kinh tế xã hội là nạn mất mùa. Nó đóng vai trò như chất xúc tác, kích thích tốc độ suy thoái xảy ra nhanh và mức độ suy thoái nặng nề hơn. Thực ra, thiên tai mất mùa đã xảy ra khá thường xuyên từ cuối thế kỷ XVII. Các năm 1678, 1681, 1684, 1687, 1695… là những năm hạn lụt, mất mùa lớn. Sang thế kỷ XVIII, thiên tai cơ vận càng xảy ra triền miên và trầm trọng hơn. Năm 1702, do từ lâu trước đó việc coi sóc tu tạo đê điều không được quan tâm đúng mức, nhiều nơi bỏ bê, dẫn đến sự kiện vỡ đê sông Mã, sông Chu ở Thanh Hóa, mùa màng mất sạch, nhân dân bị đói lớn. Năm 1703, nạn đói lan ra cả 4 nội trấn ở đồng bằng và khu vực kinh thành. Những năm 1712, 1713, một trận đói lớn nữa lan tràn khắp Đàng Ngoài, các đê sông lớn lại vỡ nhiều nơi, người ta “phải ăn vỏ cây, rau cỏ, thây chết đói đầy đường, thôn xóm tiêu điều…”. Năm 1726 và 1727, nhân dân Thanh Nghệ lại lâm vào nạn đói kéo dài, đến 1728 thì lan rộng ra cả 4 trấn đồng bằng. Đặc biệt nghiêm trọng là nạn đói năm 1741, bắt đầu ở trấn Hải Dương rồi bao trùm lên khắp Đàng Ngoài. Sử cũ chép: “Dân bỏ cả cày cấy, thóc lúa dành dụm trong xóm làng đều hết sạch, duy có Sơn Nam còn hơi khá. Dân lưu vong bồng bế dắt díu nhau đi kiếm ăn đầy đường. Giá gạo cao vọt, 100 đồng tiền không đổi được một bữa ăn. Dân phần nhiều sống nhờ rau cỏ, đến nỗi ăn cả chuột, rắn. Người chết đói ngổn ngang, người sống sót không còn được 1 phần 10. Làng nào có tiếng là trù mật cũng chỉ còn độ 3 đến 5 hộ mà thôi” (Cương mục). Riêng ở Sơn Nam, Nghệ An, được mùa một chút thì bị họ Trịnh trưng mua, vơ vét lúa gạo nên đời sống nhân dân cũng đói khổ. Thóc gạo khan hiếm đến nỗi có nơi một mẫu ruộng bán đi không mua nổi một cái bánh nướng, có người tiền của đầy nhà cũng chết đói. Ở vùng Hải Dương “ruộng đất đã hầu thành ra rừng rậm, những giống gấu chó, lợn lòi sinh tụ ngoài đồng, những người sống sót phải đi bóc vỏ cây, bắt chuột đồng mà ăn” ("Vũ trung tùy bút")…
Hàng vạn nông dân đã chết qua những nạn đói kéo dài và khủng khiếp ấy. Riêng ở khu vực kinh thành, số người chết đói bị chôn vùi ở bên đường nhiều quá, Trịnh Cương phải lấy đất công lập hai khu mộ địa, một khu rộng hơn 17 mẫu ở xã Dịch Vọng và một khu rộng hơn 14 mẫu ở xã Hoàng Mai để chôn cất những người chết đói, chết dịch ở Kinh Thành.
Các nạn đói, nạn dịch làm cho những người sống sót không còn điều kiện sinh sống, phải bỏ làng quê đi kiếm ăn khắp nơi, tạo ra một lực lượng nông dân lưu vong ngày một đông đảo. Vào khoảng nửa sau thế kỷ XVIII, theo bản điều trần của Ngô Thì Sĩ gửi lên chúa Trịnh thì ở Đàng Ngoài, vùng đồng bằng thuộc Bắc Bộ ngày nay, trong số 9668 xã thôn thì có 1076 xã đã phiêu tán…
Trong khi ở Đàng Ngoài, đời sống xã hội đã suy thoái như thế thì ở Đàng Trong, nhờ những điều kiện đất đai, khí hậu thuận lợi hơn ở phía Nam mà tình hình có đỡ hơn. Tuy nhiên, bản chất chính trị của chế độ quân chủ cũng dần gây ra những hậu quả làm mâu thuẫn giàu - nghèo trong xã hội trở nên hết sức căng thẳng. Chế độ thuế khóa rắm rối và không kém phần nặng nề đã không kích thích được sản xuất mà còn làm cho đời sống nhân dân lâm vào cơ cực. Từ năm 1769, trong khoảng bốn, năm năm liền, đói kém diễn ra liên tiếp. Mùa đông năm 1774 vùng Thuận Hóa lâm vào nạn đói lớn, người chết đói đầy đường. Vùng Gia Định là vựa thóc của Đàng Trong mà từ năm 1768 trở đi, giá thóc cũng tăng vọt.
Trong khi đó, sau khi đã củng cố được địa vị thống trị, tầng lớp thống trị nhà Nguyễn cùng với đám quan lại đã bắt đầu “đổ đốn”, ra sức bóc lột, đục khoét nhân dân, đã tích lũy được rất nhiều của cải để bắt đầu cuộc sống xa hoa trụy lạc. Xu hướng sa đọa này thể hiện rõ ngay từ đầu thế kỷ XVIII và đến đời Nguyễn Phúc Khoát (1738-1765) thì sự xa hoa trụy lạc đã lên đến cực độ, không thua kém gì bè lũ họ Trịnh ở Đàng Ngoài. Ở Phú Xuân, “cung điện cao nguy nga rực rỡ…”, dinh thự quí tộc “la liệt hai bên bờ thượng lưu sông Phú Xuân và con sông nhỏ ở Phủ Cam”. Trong những lâu đài, dinh thự cực kỳ tráng lệ đó là cảnh đua nhau phè phỡn, ăn chơi trác táng, yến tiệc, ca hát thâu đêm. Chúa Nguyễn cuối cùng ở Đàng Trong là Nguyễn Phúc Thuần, khi lên ngôi mới 12 tuổi, mọi quyền hành đều bị Trương Thúc Loan thâu tóm hết, bộ máy chính quyền càng trở nên thối nát, tham tàn, “từ quan to đến quan nhỏ, nhà cửa chạm trổ, trướng vóc màn the, đồ dùng toàn bằng đồng, bằng sứ, bàn ghế bằng gỗ đán gỗ trắc, yên ngựa dây cương đều nạm vàng ngọc, áo quần là lượt, nệm hoa chiếu mây, lấy sự phú quý phong lưu để khoa trương lẫn nhau. Họ coi vàng bạc như cát, thóc gạo như bùn, hoang phí vô cùng” (Lê Quí Đôn). Điển hình cho sự tham lam vô độ của quí tộc, quan lại Đàng Trong là quyền thần Trương Thúc Loan: hàng năm thu lợi từ 4 đến 5 vạn quan tiền, nổi tiếng về tham ô, ăn của đút và mua quỵt hàng của thương nhân nước ngoài, “vàng bạc, châu báu, gấm vóc chứa đầy nhà, nô bộc, trâu ngựa không biết bao nhiêu mà kể”. Mỗi lần bị lụt, Loan đem vàng bạc bày lên chiếu mây để phơi nắng “sáng chói cả một góc sân”.
Đến đây, quyền lợi ích kỷ mù quáng, bất nhân bất nghĩa của cả hai tập đoàn thống trị Trịnh, Nguyễn đã hoàn toàn trở thành đối kháng với quyền lợi được sống còn của Đại Chúng ở Đàng Ngoài cũng như Đàng Trong. Như vậy chúng đã hoàn toàn biến tướng thành những bè lũ phản dân, hại nước và dù có mang nhãn mác nào đi chăng nữa, dù đám cháu con hậu thế có phân trần đến mấy chăng nữa, thì lúc này, về thực chất, chúng đã hành động không khác gì những bọn, nếu chưa phải là bán nước thì cũng là cướp nước.
Phong trào khởi nghĩa nông dân xuất hiện là điều tất yếu, không thể tránh khỏi!
(Còn tiếp)
--------------------------------------------

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét