Thứ Hai, 31 tháng 1, 2022

TT&HĐ V - 49/f


PHÓNG XẠ LÀ GÌ? ẢNH HƯỞNG ĐẾN SỨC KHỎE CON NGƯỜI NHƯ THẾ NÀO?
 
PHẦN V:     THỐNG NHẤT 
"Khoa học là một sức mạnh trí tuệ lớn nhất, nó dốc hết sức vào việc phá vỡ xiềng xích thần bí đang cầm cố chúng ta."
Gorky 
 
"Mỗi một thành tựu lớn của nhà khoa học chính là xuất phát từ những ảo tưởng táo bạo". 
JohnDewey
"Chân lý chỉ có một, nó không nằm trong tôn giáo, mà nằm trong khoa học."
Leonardo da Vinci
 
"Cái khó hiểu nhất chính là hiểu được thế giới" 
Albert Einstein
 "Có hai cách để sống trên đời: một là xem như không có phép lạ nào cả, hai là xem tất cả đều là phép lạ".
Albert Einstein
      
“Chính qua cuộc đấu tranh nhằm thống nhất một cách hợp lý cái đa dạng mà đã đạt được những thành công lớn nhất, dù rằng chính ý đồ đó có thể gây ra những nguy cơ lớn nhất để trở thành con mồi của ảo vọng”.
Albert Einstein


“Người nhìn thấy cái đa dạng mà không thấy cái đồng nhất thì cứ trôi lăn trong cõi chết”.

Upanishad       


  CHƯƠNG X (XXXXIX): LỜI "LẢM NHẢM" SAU CÙNG
 
“Điều gì đã thổi sức sống vào các phương trình và làm cho chúng có thể mô tả Vũ Trụ?”
Stephen Hawking

“Không có thiên tài nào mà không pha lẫn sự điên rồ trong đó”
Arixtốt

“Thiên tài khác ngu ngốc ở chỗ thiên tài có giới hạn”
A. Anhxtanh

“Nếu thực tại không tương đồng với lý thuyết, hãy thay đổi thực tại”
A. Anhxtanh

“Có thật nhiều thứ để tìm hiểu, nhưng cũng thật ít thứ đã được tìm hiểu thấu đáo”
Robert A. Heinlein

“Từ Vũ Trụ, tôi không còn nhìn thấy biên giới các quốc gia! Trái đất xanh một màu xanh vĩnh cửu”. Gagarin

“...Đặt cược cho một vũ trụ duy nhất và sự tồn tại của một nguyên lý sáng tạo chịu trách nhiệm cho việc điều chỉnh Vũ Trụ một cách vô cùng chính xác... Nguyên lý này không đại diện bởi một vị Chúa rậm râu; đó là một nguyên lý phiếm thần biểu hiện qua các định luật của tự nhiên.”
Trịnh Xuân Thuận

“Chắc chắn rằng, tựa như tình cảm tôn giáo, niềm tin rằng thế giới là lý tính, hay ít nhất là có thể hiểu được, chính là cơ sở của mọi công trình khoa học. Niềm tin này tạo nên quan niệm của tôi về Chúa. Đó là quan niệm của Spinoza”. 
Albert Einstein

"Có một thứ chúng ta thấy ngay từ khi chào đời và hầu như thường xuyên trong cuộc đời, nhưng chúng ta vẫn tưởng là chưa từng thấy, đó là không gian. Có một thứ chúng ta tưởng thực sự tồn tại như dòng trôi cuốn chúng ta đi nhưng không biết trôi về đâu, đó là thời gian. Ngày nay, chưa ai nhận thức được hoặc nhận thức vẫn sai lầm về chúng. Chỉ khi nào loài người nhận thức chính xác và cặn kẽ hai thứ thiết yếu ấy, thì nhiệm vụ khoa học của loài người mới có cơ may hoàn thành".
TC
 
"Sau nhiều năm nghiền ngẫm, ở chặng cuối cuộc đời tôi mới ngộ ra: Vũ Trụ không hỗn độn như chúng ta tưởng mà là một khối gắn kết thống nhất vĩ đại, không phải vì phục tùng ý Chúa (làm gì có Chúa!) mà vì chính bản thân nó: Tồn Tại. Vạn vật trong lòng nó luôn vận động để tránh Hư Vô, nghĩa là vận động cho nó và vì nó, luôn tự giác răm rắp tuân theo một nguyên lý chung nhất và duy nhất: nguyên lý Tự Nhiên". 
 NTT

""Của dân,do dân và vì dân" là nguyên tắc cơ bản của mọi nhà nước trong việc duy trì và bảo toàn xã hội chứ không phải sở hữu riêng của NNVN". 
NTT
 
 
 

(Tiếp theo)

Bước đi quyết định giúp chúng ta mạnh dạn lên đường thực hiện cuộc hành trình “Thực tại và Hoang đường”, là đến với triết học Trung Hoa cổ đại. Tinh hoa của triết học Trung Hoa cổ đại là triết học Lão - Trang. Nhờ có triết học Hy Lạp cổ đại cũng như triết học Ấn Độ cổ đại mà khi tiếp cận triết học Lão - Trang, chúng ta đã ngay lập tức thấy được sự suy tưởng thiên tài của Lão Tử về tự nhiên nói chung và xã hội nói riêng. Có thể nói quan niệm của Lão Tử về Vũ Trụ thực tại, dù còn ngây thơ, ở mức sơ phác, thì cũng đã rất đúng. Chính triết học Lão - Trang đã cho chúng ta có ý tưởng: thể hiện của tồn tại là không gian và chuyển hóa không gian. Hơn nữa, chính sự chuyển hóa không gian chứ không phải là cái gì khác đã tác động đến quan sát và tư duy gây ra cảm giác về sự nhanh - chậm, lâu - mau, từ đó mà hình thành nên ý niệm về sự tồn tại thực của thời gian.
Phải nói rằng ngay trong lòng triết học cổ đại thế giới đã ẩn chứa những nhận thức trác tuyệt của loài người về tự nhiên - xã hội. Ấy vậy mà trải qua mấy ngàn năm từ đó đến nay, loài người lại vẫn ra sức lùng sục, kiếm tìm trong hoang mang ngộ nhận các chân lý mà nó đã phát hiện được ngay từ buổi bình minh của quá trình nhận thức triết học của mình. Thật kỳ lạ!
Chắc rằng phải có sự hối thúc tâm linh nào đó, nhưng phần nhiều là do bản tính quá ư tò mò mà trình độ nhận thức lại có hạn, nên chúng ta hướng về triết học cổ đại, thứ triết học ẩn chứa thâm thúy trong những lời chất phác, cô đọng, để nghiền ngẫm và nhận thức lại. Nhờ thế, chúng ta mới có được thuật ngữ “Tự Nhiên Tồn Tại”. Tự Nhiên Tồn Tại vừa là nhãn mác (tên gọi) mà chúng ta đặt cho Vũ Trụ, cho cái Vốn Dĩ, vừa là khái niệm theo cách hiểu riêng của mình, vừa hàm chứa thực thể Tồn Tại, vừa hàm chứa nguyên lý Tự Nhiên. Cũng nhờ nhận thức lại, chúng ta biết được một đặc tính cơ bản của Tự Nhiên Tồn Tại, gọi là “đặc tính thể hiện nước đôi” (tính vừa như thế này vừa như thế kia). Chính đặc tính này đã gây rất nhiều khó khăn cho nhận thức khoa học, tạo ra nhiều ngộ nhận vẫn còn tồn tại cho đến nay. Chẳng hạn, không gian Vũ Trụ được mô tả theo hình học Ơclít hay theo hình học phi Ơctít đều được.
Triết học duy tồn được thai nghén và ra đời như vậy đấy! Đó là học thuyết được sáng tạo ra trên cơ sở kế thừa những tinh hoa của triết học cổ đại thế giới. Chúng ta đã dựa vào triết học đó để thử lý giải một số hiện tượng tự nhiên cũng như xã hội thì theo như chúng ta tự đánh giá, đều thỏa đáng. Chính vì vậy, dù có thể còn “lợn cợn” chỗ này chỗ nọ, xong chúng ta tin rằng về đại thể nó đã đúng và miêu tả khá tốt thực tại khách quan.
Tuy nhiên, cần thấy rằng một triết thuyết thực sự đúng đắn thì các luận điểm thuần túy lý tính của nó phải được toán - lý chứng thực và nhất là phải trở thành kim chỉ nam cho toán - lý tự điều chỉnh lại để tiếp tục tiến lên đúng hướng. Nhưng toán - lý với những quan niệm ngày nay về tự nhiên của nó, làm sao mà chấp nhận được triết học duy tồn (chắc phải chờ đến cuối thế kỷ này hoặc đến các thế kỷ sau!)? Chính vì thế, để bảo vệ đứa con tinh thần được sinh ra từ sự ước vọng mãnh liệt mà chúng ta vô cùng tin yêu, chúng ta buộc phải “xông vào” toán - lý để “uốn nắn” lại một số quan niệm của nó theo… ý mình. Nhưng xông vào bằng cách nào và vùng nào của Vũ Trụ ảo toán - lý (cũng bao la và vĩ đại như Vũ Trụ thực tại) mới là điều phải bận tâm suy nghĩ.
Như đã nói, chúng ta không thể không thừa nhận về đại thể những phương trình, biểu thức cơ bản đã được nghiệm chứng và thử thách và đang tồn tại, đóng vai trò thiết yếu trong cấu trúc toán - lý. Nhưng có thể có những “hiểu lầm” nhất định đến ý nghĩa mà chúng hàm chứa. Cần tìm cho ra những hiểu lầm ấy. Đó là mong muốn của chúng ta. Mặt khác, có thể thấy bốn phép toán cộng, trừ, nhân, chia là những yếu tố cơ bản tạo nên các phương trình, biểu thức toán học từ đơn giản đến phức tạp. Như thế, thông qua qui ước và chú thích, có thể đưa một phương trình, biểu thức phức tạp nào đó của toán - lý về dạng biểu diễn đơn giản hơn, thậm chí là rất đơn giản. Mặt khác nữa, do đặc tính thể hiện nước đôi của Vũ Trụ thực tại mà một hiện tượng có thể được thấy rất phức tạp theo góc độ này thì đồng thời cũng có thể được thấy rất giản đơn ở góc độ khác. Từ những điều đó, chúng ta cho rằng có thể giải quyết một vấn đề phức tạp bằng cách giản dị, nghĩa là có thể giải thích những hiện tượng phức tạp bằng những lý thuyết cao siêu. Nhưng cũng có thể bằng những lý thuyết chất phác nếu… gặp may!
Đương nhiên, chúng ta không thể xông vào vùng “kiến thức thượng tầng” của toán - lý mà chỉ có thể vào vùng “cơ sở hạ tầng” của nó. Thế là chúng ta quyết định đến khu vực kiến thức phổ thông toán - lý để khảo cứu, “bênh vực” triết học duy tồn, và đồng thời cũng coi như cùng với toán - lý ở dạng bình giản nhất, xóa bỏ những “ngộ nhận lớn lao” của chính toán - lý.
Có thể nhiều người gọi chúng ta là những kẻ ngông cuồng và rồ dại, nhưng chúng ta đã vạch ra phương hướng ấy và thực sự đã hành trình theo phương hướng ấy từ đó đến nay trên “con đường của những gã nhà quê” (được cho là ngớ ngẩn, ngây ngô nhất). Chúng ta sẽ còn tiếp tục độc hành trên con đường ngoằn ngoèo kỳ dị do bản thân chúng ta tự mở lối cho đến khi… trở về nơi trước lúc khởi hành, tức là cho đến khi hết bị… lẩm cẩm!
***
Thu và phát bức xạ là hai quá trình tương phản nhau trong một quá trình thống nhất gọi là quá trình thu - phát bức xạ. Thu - phát bức xạ là hiện tượng phổ quát, nền tảng của vận động tự nhiên. Phải nói, một thực thể trong Vũ Trụ, xét đến tận cùng vật chất của nó, là một khối bức xạ điện từ. Nghĩa là trong Vũ Trụ thực tại không thể có thực thể nào không phải là một khối được hun đúc nên từ bức xạ điện từ và không thu phát bức xạ điện từ, không thể có thực thể nào chỉ thuần túy thu hoặc phát bức xạ trong quá trình tồn tại của nó, mà chỉ có thể từng lúc từng nơi thu trở nên nổi trội hơn phát bức xạ hoặc ngược lại. Do cơ thể sinh học của chúng ta bị Tự Nhiên hạn định, nên nếu không để ý, chúng ta hầu như không phát hiện được quá trình ấy. Một hòn đá trên mặt đất luôn thu-phát bức xạ nhiệt. Tất cả các vật thể đều phai màu, mòn mỏi theo thời gian, phải chăng đó là biểu hiện của hiện tượng thu-phát bức xạ điện từ? Phần lớn bức xạ đi qua vật chất như đi qua..."chỗ không người". Rồi đây, có thể loài người sẽ phải xây dựng một lý thuyết hoàn toàn mới về hiện tượng thu phát bức xạ điện từ. Theo thuyết này, thu phát bức xạ điện từ là hiện tượng phổ quát, nền tảng nhất của Tự Nhiên Tồn Tại, trong thế giới này, mọi vật chất tồn tại được là nhờ có thu-phát bức xạ điện từ, và cuối cùng, dựa vào thuyết này, mọi hiện tượng tâm linh cũng sẽ được giải thích rạch ròi! Thậm chí căn nguyên cốt lõi về hiện tượng sinh-tử của mọi cá thể sinh vật trong thế giới sinh vật cũng sẽ được tìm thấy trên cơ sở của lý thuyết thu-phát bức xạ điện từ này. Chẳng hạn, nếu cho rằng các cá thể sinh vật đều là các khối thu - phát bức xạ điện từ thì có thể phân chia tương đối ra làm hai giai đoạn "trẻ hóa" và "lão hóa". Trẻ hóa là giai đoạn tăng trưởng, phát triển, được cho là thu nhiều hơn phát bức xạ. Còn lão hóa là quá trình suy thoái, già đi của cơ thể, được cho là phát nhiều hơn thu bức xạ.
Sự phát hiện ra hiện tượng phóng xạ là có tính tình cờ. Việc nghiên cứu hiện tượng phóng xạ đã hầu như mở toang cánh cửa vào thế giới nội nguyên tử. Vật lý học ngày nay đã quan sát được rất nhiều biểu hiện về vận động vật chất trong đó và cũng đã nhận thức đến mức độ sâu sắc bản chất của sự phóng xạ. Sau đây, chúng ta sẽ kể vắn tắt câu chuyện lịch sử bi hùng của quá trình nghiên cứu ấy và như thường lệ, nếu thấy cần thiết và có khả năng, sẽ đưa ra nhận xét, đánh giá riêng tư đối với quan niệm về tự nhiên của vật lý học trên lĩnh vực này.
Từ thời cổ đại, đã xuất hiện những quan niệm cho rằng vật chất được cấu thành từ những hạt đơn vị rất nhỏ không thể phân chia được nữa, nhưng rất mơ hồ. Triết học Ấn Độ cổ đại gọi hạt đó là “thực thể tế vi”, ở Trung Hoa cổ đại gọi nó là “vô cực”, "thái cực",… Ý kiến nhất quán ngày nay cho rằng, một cách rõ ràng hơn thì người đầu tiên nêu lên sự cấu tạo vật chất từ những hạt đơn vị không thể phân chia được chính là nhà hiền triết Đêmôcrit. Hạt đó được Đêmôcrit gọi là “nguyên tử” và quan niệm đó của ông sau này thường được gọi là “thuyết nguyên tử cổ đại”.
Thuyết nguyên tử của Đêmôcrit thật ra chỉ là kết quả của sự suy lý triết học từ sự ám chỉ ở những hiện tượng hợp thành và phân chia của vật chất xảy ra trong hiện thực. Do đó cũng gây ra được niềm tin nhất định trong tâm hồn con người. Tuy nhiên, niềm tin đó chỉ là niềm tin về một ý tưởng có vẻ hợp lý nhưng mông lung trong mười mấy thế kỷ vì trình độ nghiên cứu khoa học trong suốt thời gian đó đã không đủ năng lực chứng thực.
Mãi đến đầu thế kỷ XIX, giả thuyết nguyên tử về cấu tạo vật chất mới được củng cố thêm một bước. Dù sự củng cố đó vẫn chỉ bằng một tiên đoán, nhưng là một tiên đoán rút ra từ những thực nghiệm khoa học, cho nên có thể coi đó cũng là bước đầu tiên, làm cho giả thuyết nguyên tử chính thức trở thành một đối tượng của khảo cứu khoa học. Theo dõi hiện tượng phản ứng hóa học làm cho (các) chất tham gia phản ứng biến thành (các) chất mới, nhà hóa học người Anh, tên là J. Đantơn (John Dalton, 1766-1844), đã nêu ra ý niệm “nguyên tố hóa học”. Ông cho rằng nguyên tố hóa học, là phần tử nhỏ nhất của một chất vẫn còn giữ nguyên tính chất của chất đó. Cũng theo Đantơn thì nguyên tố hóa học đều do các nguyên tử cấu tạo nên và nguyên tử là phần tử nhỏ nhất của vật chất, không thể phân chia. Khi một phản ứng hóa học xảy ra, các nguyên tố hóa học “cũ” (nghĩa là các chất cũ) chuyển biến thành các nguyên tố hóa học “mới” (nghĩa là các chất mới) bởi sự phân ly hay hợp thành của các nguyên tử.


                               Democritus, by Hendrick ter Brugghen, 1628
                                                              John Dalton
Trong gần suốt thế kỷ XIX, quan niệm của Đantơn được các nhà khoa học thừa nhận. Tuy nhiên, lúc này nhận thức của họ về “chất” đã sâu sắc hơn vì đã có sự phân biệt rõ ràng giữa “đơn chất”, “hợp chất” và “tạp chất”. Đơn chất là sự hợp thành của các nguyên tố cùng loại, hợp chất là sự hợp thành của hai hay nhiều nguyên tố khác loại liên kết chặt chẽ với nhau, còn tạp chất chỉ là sự pha trộn cơ học của các chất hay hợp chất. Như vậy, dù có quá trình phức tạp đến mấy chăng nữa thì kết quả của bất kỳ một phản ứng hay biến đổi hóa học nào cũng chỉ hoặc là tạo thành các tổ hợp chất mới từ các nguyên tố tham gia, hoặc cùng lắm là tách ra được các đơn chất thuần khiết. Điều này đã giải thích vì sao mà mọi nỗ lực của các nhà giả kim thuật thời Trung cổ nhằm biến nguyên tố này thành nguyên tố khác, cụ thể là biến thủy ngân hay chì thành vàng đều dẫn đến thảm bại. (Cần nói thêm rằng, xét ở góc độ này thì tham vọng của các nhà giả kim thuật thời Trung cổ chỉ là một ảo tưởng điên rồ vĩ đại, nhưng xét ở góc độ rộng lớn hơn thì tham vọng đó của họ cũng không đến nỗi vô lý lắm, vì trong thiên nhiên vẫn có hiện tượng nguyên tố này (hay đơn chất này), theo thời gian, chuyển biến thành nguyên tố khác (hay đơn chất khác). Hơn nữa, dù những nỗ lực của họ trong thực tế không đạt được tham vọng của họ, thì cũng không hoàn toàn uổng công, vô ích. Công lao của các nhà giả kim thuật châu Âu thời Trung cổ không phải là nhỏ trong sự nghiệp phát triển lý thuyết hóa học. Rõ ràng, ngay trong thế kỷ XX, các “nhà giả kim thuật” hiện đại, trong một chừng mực nhất định, khi làm ra được kim cương nhân tạo..., thì coi như đã thực hiện được ước mơ điên rồ của các bậc tiền bối đó!
Sự phát triển của điện học đã là nhân tố đầu tiên đưa ra bằng chứng chống lại quan niệm nguyên tử là những hạt vật chất nhỏ nhất và bất khả phân chia. Những nghiên cứu về điện thời kỳ đầu dẫn đến ý niệm “chất điện” xuất hiện vào khoảng nửa cuối thế kỷ XVIII. Khoảng nửa đầu thế kỷ XIX, những thực nghiệm về hiện tượng điện giải làm hình thành nên ý niệm “hạt điện” hay “nguyên tử điện”.
Cũng vào nửa đầu thế kỷ XIX, những nghiên cứu về quang phổ Mặt Trời đã phát hiện ra thêm hai tia hồng ngoại và tử ngoại (còn gọi là tia cực tím). Tia hồng ngoại là tia ngoài vùng ánh sáng thấy được ở phía tần số thấp, được nhà thiên văn người Anh gốc Đức tên là Herschel phát hiện. Tia tử ngoại là tia cũng ngoài vùng ánh sáng nhìn thấy được nhưng ở phía tần số cao, được Ritter và Wollaston phát hiện vào năm 1803. Được tái hiện lại bởi Becquerel vào năm 1842 và bởi Stokes vào năm 1852 trong quá trình nghiên cứu hiện tượng phát sáng của một số chất dưới tác dụng của ánh sáng Mặt Trời (thường gọi là hiện tượng huỳnh quang).
Năm 1886, Hittorff tiến hành một thực nghiệm tạo ra hiện tượng phóng điện trong khí loãng: trong ống thủy tinh dài khoảng 50cm đã được hút không khí tạo một áp suất thấp nhất định và nếu giữa hai điểm cực được áp một hiệu điện thế đủ lớn thì catod sẽ phát ra những tia gọi là “tia âm cực”.
Đến năm 1888, hiện tượng có những kim loại, khi bị tia cực tím chiếu vào thì thoát ra từ đó nhiều hạt mang điện tích âm, cũng chính thức được xác nhận. Năm 1891, Stoney đề nghị gọi những hạt mang điện tích âm là “điện tử”. Năm 1895, J. Perrin, trong luận án tiến sĩ của mình, đã chứng minh tia âm cực là sự hợp bởi những hạt điện tử.
Nhà vật lý học nổi tiếng người Anh, J.Thomson (1856-1940) đã xác định được, những hạt điện âm thoát ra từ catod cũng chính là những hạt điện âm thoát ra từ các kim loại bị chiếu bởi tia cực tím, hơn nữa, chúng có mặt trong nội tại mọi nguyên tử và có thể thoát ra khỏi nguyên tử dưới tác động của từ trường. Đặc biệt, năm 1897, Thomson đã thực hiện được một thí nghiệm mang tính cách mạng, khẳng định điện tử là hạt mang điện tích âm nhỏ nhất của vật chất. Trên cơ sở đó, năm 1898, Thomson đề xuất ra một mô hình cấu tạo của nguyên tử: nguyên tử là một khối cầu bé nhỏ, có điện tích dương nhưng được trung hòa bởi các điện tử, mà theo như chính lời ông nói: “Hình ảnh đó giống như chiếc bánh ngọt có rắc nho khô”. Đó cũng là mô hình cấu tạo nội tại nguyên tử đầu tiên của nhân loại.
John Herschel
Sinh 7 tháng 3 năm 1792
Slough, Anh
Mất 11 tháng 5, 1871 (79 tuổi)
Collingwood, Anh
Nơi cư trú
  • Cape Town
  • Slough
Nơi công tác Đại học Cambridge
 
Nổi tiếng vì Phát minh ra nhiếp ảnh
 
Giải thưởng
  • Huy chương Copley năm 1821
  • Huy chương Lalande
  • Huy chương vàng của Hội Thiên văn Hoàng gia năm 1826
  • Huy chương Hoàng gia năm 1836 và 1840
  • Hiệp sĩ của Hội Hoàng gia Guelphic
Antoine Henri Becquerel
Antoine Becquerel, nhà vật lý người Pháp
Sinh 15 tháng 12 năm 1852
Paris, Pháp
Mất 25 tháng 8 năm 1908
Le Croisic, Bretagne, Pháp
Nơi cư trú Flag of France.svg Pháp
Ngành Vật lý
 
Nổi tiếng vì Hiện tượng phóng xạ
Giải thưởng Nobel prize medal.svg Giải Nobel vật lý (1903)
George Stokes
Nam tước George Gabriel Stokes
Sinh 13 tháng 8 năm 1819
Skreen, County Sligo, Ireland
Mất 1 tháng 2 năm 1903
Cambridge, Anh
Nơi cư trú Flag of England (bordered).svg Anh
Tôn giáo Anh giáo Phúc âm
Ngành Nhà toán học và nhà vật lý
 
Nổi tiếng vì Định luật Stokes
Định lý Stokes
Đường Stokes
Hệ thức Stokes
Dịch chuyển Stokes
Phương trình Navier-Stokes
Giải thưởng Huy chương Rumford (1852)
Huy chương Copley (1893)
 
Johann Wilhelm Hittorf
Johann Wilhelm Hittorf
Sinh 27 tháng 3 năm 1824
Bonn
Mất 28 tháng 11 năm 1914
Münster
Ngành Nhà vật lý học
George Johnstone Stoney
Sinh 15 tháng 2, 1826
Oakley Park, Birr, County Offaly, Ireland
Mất 5 tháng 7, 1911 (85 tuổi)
Notting Hill, London, Anh Quốc
Nơi cư trú Ireland, Anh Quốc
Ngành Vật lý
Nơi công tác Queen's College Galway, Queen's University of Ireland
 
Nổi tiếng vì Thang Stoney, Electron
Jean Baptiste Perrin
Jean Perrin 1926.jpg
Sinh 30 tháng 9, 1870
Lille, Pháp
Mất 17 tháng 4, 1942
New York, Hoa Kỳ
Nơi an nghỉ Điện Panthéon
Quốc gia Pháp
Nghề nghiệp Nhà vật lý, hóa học
 
Sir Joseph John Thomson
Sinh 18 tháng 12 năm 1856
Đồi Cheetham, Manchester, Anh Quốc
Mất 30 tháng 8, 1940 (83 tuổi)
Cambridge, Anh
Nơi cư trú Flag of England.svgAnh
Tôn giáo Anglican
Ngành Vật lý học
 
Nổi tiếng vì Plum pudding model Phát hiện ra electron Phát hiện chất đồng vị Phát minh phương pháp phổ khối lượng
Giải thưởng Nobel prize medal.svgGiải thưởng Nobel vật lý (1906)
Wilhelm Röntgen
Wilhelm Conrad Röntgen
Sinh 27 tháng 3 năm 1845
Lennep, Phổ
Mất 10 tháng 2, 1923 (77 tuổi)
München, Đức
Ngành Vật lý
 
Nổi tiếng vì X-quang
Giải thưởng Nobel prize medal.svg Giải Nobel vật lý năm
Mô hình nguyên tử của Thomson dù còn rất nhiều hạn chế, chưa đủ sức trả lời được nhiều câu hỏi về nội tại nguyên tử, thì nó cũng đã làm lung lay đến tận gốc rễ cái quan niệm nguyên tử là một khối đồng nhất và bền vững, không thể phân chia. Quan niệm ấy bị sụp đổ hoàn toàn là nhờ có sự phát hiện và quá trình nghiên cứu hiện tượng phóng xạ.
Hiện tượng phóng xạ được khám phá ra từ những tình cờ thú vị. Tuy nhiên, theo chúng ta thì đó là những tình cờ hàm chứa sự tất yếu vì chúng xảy ra trong một quá trình nghiên cứu thực nghiệm khoa học có chủ đích.
Tháng 9-1895, nhà vật lý người Đức tên là Rơnghen (W. C. Rơnghen, 1845-1923) bắt tay thực hiện lại các bước thí nghiệm “Hiện tượng phóng điện trong khí loãng” bằng ống chân không Crookes (được sáng chế 40 năm trước đó). Ống Crookes được ông bọc giấy đen. Vào một buổi chiều tối, khi ống Crookes đang hoạt động, Rơnghen bất ngờ phát hiện một vệt sáng màu xanh lục nhạt trên một chiếc ghế gần đó. Thì ra đó là nơi ông có để một màn huỳnh quang. Khi ngắt điện (ống Crookes ngừng hoạt động), vệt sáng cũng mất theo. Rơnghen tái hiện hiện tượng nhiều lần và rút ra nhận xét: Chùm điện tử phát ra từ catod (tia âm cực) trong ống Crookes đập vào vật (gọi là “đối catod”) làm vật này phát ra tia xuyên qua giấy đen đến màn huỳnh quang gây ra sự phát quang. Là một người thận trọng, ông cải tiến lại ống Crookes và lặp đi lặp lại thí nghiệm. Một lần, trong khi thực hành thí nghiệm tay ông vô tình che hướng tia đến màn huỳnh quang và lạ thay ông thấy trên màn huỳnh quang là một bộ xương bàn tay đang cử động. Sau đó, ông lấy một cuốn sách dày, rồi lần lượt là tấm gỗ, thủy tinh, êbôrit, cao su, để che thì màn huỳnh quang vẫn sáng. Tia đó còn xuyên qua các tấm kim loại mỏng trừ chì và bạch kim. Hơn nữa, trong buồng tối, các tấm kính ảnh bị tia đó chiếu đều hóa đen như khi bị ánh sáng Mặt Trời tác dụng. Cuối cùng, Rơnghen đi đến kết luận chắc chắn rằng ông đã phát hiện ra một tia lạ (nên ông gọi là tia X) mà khoa học chưa từng biết. Tia X cũng ở ngoài vùng phổ ánh sáng nhìn thấy, cũng tác dụng (làm đen) kính ảnh như tia hồng ngoại hay tử ngoại nhưng khả năng xuyên thấu của nó mạnh hơn nhiều so với tia tử ngoại.
Một lần, vợ của Rơnghen đến phòng thí nghiệm thăm ông. Trong niềm vui về khám phá của mình và cũng muốn chia sẻ niềm vui ấy với vợ, Rơnghen đã bảo vợ đặt bàn tay lên kính ảnh và phát tia X đến đó. Sau khi hình ảnh được tráng rửa, bà vợ Rơnghen xem và quá đỗi kinh ngạc trước bàn tay lộ rõ cả phần xương cùng chiếc nhẫn cưới đeo ở một ngón tay. Đó là bức ảnh chụp bằng tia X đầu tiên của nhân loại.
Ngày 28-12-1895, Rơnghen công bố phát hiện của mình. Ngay lập tức, hàng trăm nhà nghiên cứu hăm hở lặp lại thí nghiệm của Rơnghen để tìm hiểu sâu hơn về tia X. Ngày nay, tia X còn được gọi là tia Rơnghen để tưởng nhớ công lao (nhất là đối với y học) người đã khám phá ra nó và mọi người đều biết nó là bức xạ điện từ mà trong dải quang phổ nằm kề vùng tử ngoại và có tần số cao hơn tần số của tia tử ngoại.
Chuyện thú vị ngoài lề là sau khi Rơnghen công bố thành quả thí nghiệm của ông. Trong xã hội nổi lên dư luận ông là một tay phù thủy biến người thành bộ xương và hô hào đòi… thiêu cháy ông. Tuy nhiên, thời Trung cổ đã qua lâu rồi!...
(Còn tiếp)
---------------------------------------------------------------



Xem tiếp...

CÂU CHUYỆN VỤ ÁN 209

(ĐC sưu tầm trên NET)

 

 
Ớn lạnh 5 vụ g.i.ế.t chồng P.H.A.N.H T.H.Â.Y ghê rợn nhất Việt Nam | Phá án TV

41 ngày cuối đời bi thảm của nữ sinh bị giam giữ

Nhật BảnFuruta Junko về nhà sau ca làm đêm, bị kẻ đi xe máy đạp ngã nhưng có người đỡ dậy, gợi ý đưa về. Cô không biết những ngày đen tối nhất đời sắp mở ra.

Ngày 29/3/1989, trong trại giam tại Tokyo, hai cảnh sát hỏi cung riêng biệt hai thanh thiếu niên. Vài ngày trước, cô gái 19 tuổi báo cảnh sát hai người này cưỡng hiếp mình. Quá trình điều tra, cảnh sát phát hiện trong phòng một thanh niên còn có đồ lót nữ, nghi ngờ có thể liên quan đến các vụ án tương tự.

Khi hỏi cung, một cảnh sát vờ hỏi dò: "Tại sao cậu lại giết người?". Thanh niên giật mình, cho rằng đồng bọn đã khai mọi chuyện, liền thừa nhận đã tham gia cưỡng hiếp và sát hại một cô gái, thi thể bị giấu tại bãi chôn rác.

Cảnh sát hỏi cung nghe xong đã rất kinh ngạc, vì chính họ cũng chỉ thử dò hỏi theo nghiệp vụ, không ngờ lại phát hiện vụ giết người. Sáng sớm 30/3, cảnh sát Tokyo dẫn thanh niên này đi tới bãi chôn rác, tìm được ống gạch xây hình thùng phi, bên trong có thi thể thiếu nữ.

Người bị hại là Furuta Junko, sinh năm 1971, đang học cấp ba. Junko xinh đẹp, lễ phép, thành tích học tập tốt. Cha mẹ Junko luôn yên tâm, cho cô cuộc sống rất tự do.

Nữ sinh Furuta Junko. Ảnh: Caso Criminal

Nữ sinh Furuta Junko. Ảnh: Caso Criminal

Junko dự định sau khi tốt nghiệp cấp ba sẽ đi du lịch. Cô không định xin tiền cha mẹ mà tận dụng thời gian rảnh đi làm thuê kiếm tiền. Từ tháng 10/1988, hết giờ học, nữ sinh lại đến một xưởng nhựa làm thuê.

Khoảng 20h ngày 25/11/1988, Junko đi từ xưởng nhựa về nhà như thường lệ. Thiếu nữ vừa đạp xe đạp trên đường vừa hát khe khẽ, đột nhiên người lái chiếc xe máy từ phía trước từ từ chạy tới đạp cô. Junko loạng choạng ngã xuống đất, đúng lúc này một thanh niên tầm tuổi cô đi tới, đỡ Junko lên.

Gã nói với Junko, kẻ lái xe máy đó là một tên điên, thường xuyên đạp những người đi đường khác, chính mình cũng từng bị đạp ngã và sẵn sàng đưa Junko về nhà. Junko cảm thấy may mắn vì gặp được người tốt, không hề biết đây là cạm bẫy do hai kẻ bất hảo bày ra.

Kẻ vờ quan tâm đến Junko tên là Hiroshi Miyano, khi đó 18 tuổi. Người đi xe máy đạp Junko là Shinji Minato, 16 tuổi. Cả hai đã bỏ học.

Khi Junko bị dẫn tới một kho hàng bỏ hoang, Hiroshi liền lộ bộ mặt thật, đe dọa, ép cô đến một khách sạn cưỡng hiếp. Sau đó, Hiroshi gọi điện cho Shinji tới. Lúc này Shinji đang ở cùng chỗ với hai thiếu niên bất hảo khác. Chúng thống nhất sẽ giam giữ Junko. Khoảng 3h ngày 26/11, cả đám ép Junko về nhà Shinji, đe dọa nếu chạy trốn sẽ sát hại cả nhà cô.

Đêm đó Junko không về nhà, cha mẹ cô cũng không nghĩ nhiều, vì thỉnh thoảng Junko cũng đến ngủ ở nhà bạn học. Điểm khác biệt duy nhất là lần này Junko không gọi điện thoại về báo với họ một tiếng.

Đến ngày 27/11, Junko mất tích quá 24 tiếng, cha mẹ cô bắt đầu sốt ruột, đi tới đồn cảnh sát trình báo. Nhưng cảnh sát còn chưa kịp triển khai tìm kiếm, Junko đã gọi điện về nhà, nói mình đến nhà bạn học chơi mấy ngày, cha mẹ không cần lo lắng. Nếu cha mẹ đã báo cảnh sát thì hãy báo lại là đã tìm thấy con gái.

Vài ngày sau, Junko lại một lần nữa gọi điện thoại cho mẹ, nói phải mấy hôm nữa mới về. Mặc dù cảm thấy không hài lòng, mẹ Junko chỉ dặn con cố gắng về nhà sớm một chút. Lại qua vài ngày, Junko gọi điện thoại về nhà lần thứ ba. Lần này mẹ Junko không chịu được nữa, mắng con gái qua điện thoại, bắt về nhà.

Tâm lý đang kích động, người mẹ không phát hiện giọng nói của Junko rất yếu ớt, cũng không để ý ngữ điệu của cô không bình thường. Đây cũng là lần trò chuyện cuối cùng của hai mẹ con.

Chân dung bốn kẻ côn đồ. Ảnh: Caso Criminal

Chân dung bốn kẻ côn đồ. Ảnh: Caso Criminal

Junko bị đám trai bất hảo giam cầm và hành hạ tới 41 ngày. Bọn chúng đe dọa, ép Junko gọi điện về nhà báo bình an để cha mẹ cô không báo cảnh sát. Bọn chúng nói với cha mẹ Shinji rằng Junko là bạn gái của Shinji để tránh họ nghi ngờ. Suốt 41 ngày, cha mẹ Shinji không hỏi han gì về chuyện xảy ra trên tầng hai nhà mình, cuối cùng dẫn đến kết cục không thể cứu vãn.

Junko cũng đã tìm cách chạy trốn nhưng đều thất bại. Một ngày đầu tháng 12, thấy đám côn đồ ngủ say, Junko lẳng lặng đi xuống tầng một. Nhìn thấy chiếc điện thoại trên bàn, Junko gọi điện báo cảnh sát, nhưng tiếng quay số lại khiến Hiroshi giật mình tỉnh giấc, dập điện thoại rồi đánh đập Junko. Khi cảnh sát gọi điện lại hỏi thăm, Hiroshi chỉ nói "Gọi nhầm số" rồi cúp máy.

Ngày 4/1/1989, Hiroshi đánh bạc thua lớn nên trút toàn bộ giận dữ lên người Junko từ 6h đến 10h. Junko trút hơi thở cuối cùng, kết thúc những tháng ngày tăm tối.

Thấy Junko tắt thở, đám thanh thiếu niên bàn cách xử lý thi thể. Cuối cùng bọn chúng mua xi măng, lấy trộm cát và gạch, xây thành hình trụ tròn cho thi thể Junko vào rồi xây bịt lại, mang tới vứt ở bãi chôn rác.

Bãi rác nơi đám côn đồ phi tang xác Junko. Ảnh: Toutiao

Bãi rác nơi đám côn đồ phi tang xác Junko. Ảnh: Toutiao

Điều tra về đám thanh thiếu niên, cảnh sát phát hiện Hiroshi là kẻ cầm đầu, có cha làm việc tại công ty chứng khoán, mẹ là giáo viên piano. Thoạt nhìn gia đình này có vẻ là môi trường tốt, nhưng thực ra cha Hiroshi ngoại tình, chuyển đến ở nhà của tình nhân.

Mẹ Hiroshi không quan tâm, mặc kệ con trai thích làm gì thì làm. Kết quả là từ thời tiểu học, Hiroshi đã bắt đầu trộm cắp, đánh nhau. Lên đến cấp ba, Hiroshi ngày càng ngỗ ngược, tự ý bỏ học, giao du với các thành phần bất hảo.

Shinji có một gia đình cơ bản hơn, nhưng cha Shinji luôn dạy con cái bằng roi vọt. Bị điểm kém đánh một trận, không làm việc nhà đánh một trận, thậm chí nửa đêm hàng xóm vẫn nhìn thấy Shinji bị cha đuổi chạy khắp ngõ. Khi lên đến cấp ba, Shinji đã cao to hơn cha mình. Khi đang học lớp 11, Shinji bỏ học.

Hai nam sinh còn lại cũng có hoàn cảnh gia đình tương tự, cha mẹ đều ly dị từ lúc đang học tiểu học, cả hai đều sống cùng với mẹ. Nhưng hai bà mẹ đều bận lo sinh kế, không có thời gian quan tâm và dạy bảo con nên chúng sớm đi theo đám Hiroshi chơi bời lêu lổng.

Kết quả xử án cũng trở thành vấn đề gây tranh cãi. Do tất cả thủ phạm đều là trẻ vị thành niên theo quy định của Nhật Bản, Hiroshi bị tuyên án 20 năm tù, mãn hạn tù năm 2009, còn đám đồng phạm đều chỉ bị phạt 4-5 năm tù. Sau khi ra tù, cả nhóm tham gia các băng nhóm xã hội đen, tiếp tục gây phiền phức cho xã hội.

Khang Diệp (Theo Toutiao)

Án mạng đặc biệt nghiêm trọng, 2 người tử vong

19-01-2022 - 09:25 | Pháp luật

(NLĐO)- Lực lượng chức năng đang truy bắt nghi phạm trong vụ án mạng đặc biệt nghiêm trọng khiến 2 người tử vong mới xảy ra trên địa bàn huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La.

Sáng 19-1, một lãnh đạo xã Mường Sang (huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La) xác nhận thông tin trên địa bàn vừa xảy ra vụ án mạng đặc biệt nghiêm trọng khiến 2 người tử vong.

Theo thông tin ban đầu, vụ án mạng xảy ra vào khoảng 15 giờ ngày 18-1, tại khu vực bản Sò Lườn, xã Mường Sang.

Sau khi gây án, nghi phạm đã bỏ trốn vào khu vực rừng núi.

Danh tính 2 nạn nhân được xác định là L.X.P. (SN 2000) và L.V.I., cùng trú tại bản Sò Lườn, xã Mường Sang.

Hiện, Công an huyện Mộc Châu đang phối hợp với các lực lượng chức năng khác để truy bắt nghi phạm gây án.

Đông Hồ

 

Đang đi uống cà phê, cô gái bỗng lăn đùng ra chết, đoạn camera vạch trần sự thật man rợ đằng sau nụ cười lạnh gáy của hung thủ

Diệp Lục, Theo Pháp luật và bạn đọc

Vụ việc đã khiến cả thế giới chấn động bởi âm mưu đầu độc bạn thân bằng chất độc xyanua của ả hung thủ sở hữu nụ cười máu lạnh làm ai cũng rùng mình ghê sợ.

Nhiều vụ án đầu độc đã xảy ra gây chấn động thế giới bởi mức độ tàn nhẫn và máu lạnh của kẻ thủ ác. Và một trong những vụ việc ám ảnh, rùng rợn hơn cả đó chính là câu chuyện về cô gái xinh đẹp có nụ cười máu lạnh hãm hại bạn thân 7 năm chỉ bằng một cốc cà phê!

Màn kịch hoàn hảo

Vào ngày 6/1/2016, cô Mirna Salihin được người bạn thân 7 năm là Jessica Kumala Wongso hẹn đi uống cà phê tại một nhà hàng ở Jakarta. Cả hai cô gái từng ở chung phòng khi theo học Đại học thiết kế tại Úc. Khi trở về Indonesia, cả hai đã duy trì tình bạn gắn bó thân thiết. 

Tuy nhiên, sau khi uống cà phê, Mirna Salihin bỗng nhiên ngã quỵ xuống sàn, sùi bọt mép và giãy giụa một lúc rồi chết ngay tại chỗ. Mọi người trong quán đều hốt hoảng và rối loạn, chẳng ai để ý đến nụ cười lạnh gáy của cô bạn thân Jessica Wongso. 

Đang đi uống cà phê, cô gái bỗng lăn đùng ra chết trước nụ cười lạnh gáy của bạn thân 7 năm, hé lộ màn kịch đầy thâm độc - Ảnh 1.

Hiện trường xảy ra vụ đầu độc.

Đang đi uống cà phê, cô gái bỗng lăn đùng ra chết trước nụ cười lạnh gáy của bạn thân 7 năm, hé lộ màn kịch đầy thâm độc - Ảnh 2.

CCTV ghi lại hình ảnh của Wongso và cô bạn thân trong quán.

Theo báo cáo khám nghiệm tử thi, trong dạ dày của Mirna Salihin có đến 15gr chất độc xyanua trong khi đó chỉ cần 90mg là có thể giết chết một người. Cốc cà phê mà nạn nhân uống trước khi qua đời có chứa chất độc này. 

Trích xuất camera an ninh từ nhà hàng cho thấy rõ chính Wongso đã bỏ thuốc độc vào cốc của bạn thân Salihin. Sau khi cảnh sát khám xét nhà của nghi phạm, họ đã thấy tìm thấy loại thuốc độc tương tự. Kết quả điều tra cho thấy, lý do khiến Wongso đầu độc cô bạn thân xuất phát từ lời khuyên hãy chia tay bạn trai của nạn nhân.

Trong phiên tòa sơ thẩm, Wongso đã kể rằng cô bạn Salihin đã khuyên cô nên chia tay với bạn trai do anh chàng kia rất thô lỗ và nghiện ma túy khi cả hai trút bầu tâm sự với nhau. Tuy nhiên, Wongso lại coi lời khuyên đó mang ý thù địch nên cô gái ôm tức tối trong lòng. 

Đang đi uống cà phê, cô gái bỗng lăn đùng ra chết trước nụ cười lạnh gáy của bạn thân 7 năm, hé lộ màn kịch đầy thâm độc - Ảnh 3.

Mirna Salihin và chồng.

Về sau mọi chuyện càng trở nên tồi tệ hơn khi Wongso cuối cùng cũng chia tay với bạn trai. Trong khi đó, Salihin lại có cuộc hôn nhân viên mãn với người chồng đẹp trai và tài năng. Cơn ganh tỵ đã làm mờ lý trí của Wongso, cô ta cho rằng chính người bạn thân Salihin đã đẩy mình vào bế tắc tăm tối của cuộc đời. Chính vì vậy, Wongso đã âm thầm thực hiện kế hoạch tàn độc của mình. 

Xây dựng màn kịch gắn bó với nạn nhân, Wongso rủ cô bạn thân đi uống cà phê nơi đông người để ra tay hành động. Wongso đã hẹn nạn nhân cùng một cô bạn khác tới nhà hàng Olivier tại một trung tâm thương mại, thuộc thành phố Jakarta, Indonesia. Cô gọi trước một tách cà phê nâu cho nạn nhân, rồi lén bỏ thuốc độc vào đó.

Đang đi uống cà phê, cô gái bỗng lăn đùng ra chết trước nụ cười lạnh gáy của bạn thân 7 năm, hé lộ màn kịch đầy thâm độc - Ảnh 4.
Đang đi uống cà phê, cô gái bỗng lăn đùng ra chết trước nụ cười lạnh gáy của bạn thân 7 năm, hé lộ màn kịch đầy thâm độc - Ảnh 5.

Wongso tại hiện trường thực nghiệm.

Nụ cười lạnh gáy đầy ám ảnh

Một trong những điều khiến vụ án trở thành tâm điểm chú ý của dư luận và truyền thông quốc tế đó là nụ cười lạnh gáy luôn thường trực trên môi của Wongso sau khi bị bắt giữ và lúc xuất hiện tại tòa án. Wongso không hề tỏ ra ăn năn hối cải mà coi việc giết chết bạn thân là một sự việc đáng tự hào, cô đã thành công trong kế hoạch tàn độc của mình.

Vì sao Jessica Wongso lại có thể bình tĩnh mỉm cười trước bao người một cách thản nhiên đến như vậy? Khi xem xét quá khứ của Wongso có lẽ nhiều người đã tìm ra được câu trả lời.

Jessica Wongso thường xuyên nở nụ cười sau khi tội ác bị vạch trần.

Theo các tài liệu thu được từ phía cảnh sát Úc thì Jessica Wongso đã 4 lần tự sát không thành vì áp lực cuộc sống. Ngoài ra, Jessica Wongso cũng có quá khứ đe dọa một số đồng nghiệp, những người mà cô cho rằng đã "làm phiền" cuộc sống cá nhân của mình.

Kristie Carter, một đồng nghiệp cũ của Wongso mô tả cô là một người phụ nữ sống "2 mặt": Lúc thì tươi cười, tốt bụng khi thì nổi giận vô cớ. Kristie Carter chia sẻ tại tòa án rằng, khi xảy ra xích mích với Wongso trong công việc, cô gái này đã phun ra một loạt câu nói ớn lạnh: "Nếu tôi muốn giết ai đó, tôi sẽ biết cách" và "Cô đi chết đi và mẹ cô cũng vậy".

Jessica Wongso cũng có quá khứ gây tai nạn giao thông do lái xe trong tình trạng say xỉn. Điều tệ hại hơn cả là Wongso có bạn trai vô cùng bạo lực. Cô thường xuyên bị người yêu hành xử thô bạo. Nhiều người cho rằng, chính vì có quá khứ phức tạp và tâm lý bất ổn như vậy đã khiến Jessica Wongso dùng nụ cười để che giấu con người thật của mình.

Trong một cuộc phỏng vấn vào năm 2016, Jessica Wongso cũng từng lý giải vì sao cô có thể cười trước ống kính truyền thông và ngay tại phiên tòa xét xử mà không tỏ ra sợ hãi.

"Tôi bình thường là một người điềm tĩnh, tôi luôn cố gắng lạc quan nhất có thể. Tôi không muốn thể hiện cảm xúc của mình trước ống kính, tôi không muốn bị ai khác nhìn thấy mình đang khóc. Tôi cũng không muốn mình trông thật tàn tạ và cực đoan trước ống kính", Jessica Wongso chia sẻ với Liputan6 SCTV và Fokus Indosiar.

Đang đi uống cà phê, cô gái bỗng lăn đùng ra chết trước nụ cười lạnh gáy của bạn thân 7 năm, hé lộ màn kịch đầy thâm độc - Ảnh 7.

Người phụ nữ cũng cho hay cô muốn chôn giấu toàn bộ ký ức tồi tệ vào ngày ra tay giết bạn thân 7 năm. Có thể nói rằng, nụ cười chính là liều thuốc tốt nhất để "trấn an" tinh thần của cô gái trẻ trước tội ác mà mình gây ra. Thay vì bộc lộ sự sợ hãi hay những giọt nước mắt hối hận, Jessica Wongso chọn mỉm cười để che đi nội tâm đang giằng xé bên trong.

Hướng về tương lai

Tại phiên tòa xét xử vào tháng 10/2016, Wongso ban đầu một mực phủ nhận hành vi giết bạn thân. Theo bằng chứng đưa ra, Wongso đã không hề có động thái giúp đỡ gì trong khi những người khác vây quanh và đưa nạn nhân tới bệnh viện. Vào năm 2018, bị cáo bị kết tội giết người có chủ đích vì đã đầu độc bạn thân và nhận mức án 20 năm tù giam. 

6 năm dần trôi, vụ án đầu độc từng gây chấn động một thời đã khép lại nhưng những người trong cuộc vẫn phải tiếp tục cuộc sống của mình. Vào năm 2021, truyền thông Indonesia đưa tin, Jessica Wongso trong trại giam trở nên trầm lặng hơn, ít nói và thường xuyên cầu nguyện mỗi ngày. Dường như cô đang gặm nhấm sự ăn năn hối lỗi về những gì gây ra.

Đang đi uống cà phê, cô gái bỗng lăn đùng ra chết trước nụ cười lạnh gáy của bạn thân 7 năm, hé lộ màn kịch đầy thâm độc - Ảnh 8.

Hình ảnh Wongso gầy gò, tiều tụy trong trại giam.

Trong khi đó, Arief Soemarko, người chồng mới cưới của nạn nhân, hoàn toàn vắng bóng trên truyền thông. Bức ảnh mới đây nhất được người đàn ông đăng tải trên mạng xã hội là vào năm 2017. Trước đó Arief Soemarko luôn có mặt tại các phiên tòa xét xử và rất hạn chế chia sẻ trước báo giới.

Về phần Sandy Salihin, chị gái song sinh của nạn nhân quá cố hiện đã lập gia đình và có một con trai nhỏ. Trên mạng xã hội, thi thoảng Sandy Salihin lại gửi lời thương nhớ đến người quá cố.

Đang đi uống cà phê, cô gái bỗng lăn đùng ra chết trước nụ cười lạnh gáy của bạn thân 7 năm, hé lộ màn kịch đầy thâm độc - Ảnh 9.

Arief Soemarko có cuộc sống kín tiếng sau vụ án.

Đang đi uống cà phê, cô gái bỗng lăn đùng ra chết trước nụ cười lạnh gáy của bạn thân 7 năm, hé lộ màn kịch đầy thâm độc - Ảnh 10.

Gia đình nạn nhân đã từng trải qua nỗi đau khủng khiếp.

Đang đi uống cà phê, cô gái bỗng lăn đùng ra chết trước nụ cười lạnh gáy của bạn thân 7 năm, hé lộ màn kịch đầy thâm độc - Ảnh 11.

Sandy Salihin đã có gia đình hạnh phúc.

Bên cạnh đó, Hani Boon, một trong những nhân chứng quan trọng của vụ án, tận mắt chứng kiến cảnh nạn nhân chết ngay trước mặt mình cũng đã có cuộc sống khác xưa. Vào thời điểm xảy ra vụ việc, Hani Boon được Wongso rủ đi cà phê cùng với nạn nhân, cả 3 được cho là duy trì mối quan hệ thân thiết.

Ngay khi thấy cô bạn thân ngã quỵ, Hani Boon chính là người đầu tiên ngay lập tức cầu cứu những người xung quanh và gọi điện cho chồng nạn nhân để thông báo tình hình. Hiện tại, Hani Boon là một họa sĩ vẽ tranh minh họa nổi tiếng và cũng đã kết hôn. Cô đã chào đón đứa con đầu lòng vào năm 2020. Trên mạng xã hội, Hani vẫn thi thoảng nhắc lại những kỷ niệm đáng nhớ với cô bạn thân xấu số.

Đang đi uống cà phê, cô gái bỗng lăn đùng ra chết trước nụ cười lạnh gáy của bạn thân 7 năm, hé lộ màn kịch đầy thâm độc - Ảnh 3.

Hani Boon ra làm chứng tại phiên tòa xét xử.

Đang đi uống cà phê, cô gái bỗng lăn đùng ra chết trước nụ cười lạnh gáy của bạn thân 7 năm, hé lộ màn kịch đầy thâm độc - Ảnh 4.

Hani Boon đang có mái ấm gia đình hạnh phúc.

Có thể thấy rằng những người ở lại đang cố gắng sống thật tốt thay cho phần người đã khuất. Thời gian đôi khi là liều thuốc hữu hiệu nhất để chữa lành những nỗi đau mất mát.

Nguồn: Tổng hợp

Xem tiếp...