TT&HĐ V - 48/g
Khám Phá Bí Ẩn Của MẶT TRỜI Khám phá vũ trụ (Thuyết Minh)
Cách Trái Đất 144 triệu km là nguồn năng lượng hình thành Trái Đất, ngôi
sao riêng của chúng ta - Mặt Trời. Chúng ta có thể nhìn thấy Mặt Trời
chiếu sáng từ trên cao. Nhưng phía xa tầm mắt của chúng ta có một điều
kỳ diệu đang diễn ra, mặt trời đang tăng tốc. Ngôi sao này hoạt động
ngày càng mãnh liệt trong suốt một thập kỷ qua. Thể Plasma siêu nhiệt
đang phun trào và những đợt sóng bức xạ khổng lồ hướng về phía Trái Đất
có khả năng tiêu diệt sự sống bằng những cách không thể ngờ tới. Cùng
lúc đó, một thế hệ mới của các vệ tinh sẽ cho chúng ta hiểu rõ về mặt
trời một cách chi tiết hơn bao giờ hết.
"Khoa học là một sức mạnh trí tuệ lớn nhất, nó dốc hết sức vào việc phá vỡ xiềng xích thần bí đang cầm cố chúng ta."
Gorky
Gorky
"Cái khó hiểu nhất chính là hiểu được thế giới"
"Có hai cách để sống trên đời: một là xem như không có phép lạ nào cả, hai là xem tất cả đều là phép lạ".
Albert Einstein
“Chính qua cuộc đấu tranh nhằm thống nhất một cách hợp lý cái đa dạng
mà đã đạt được những thành công lớn nhất, dù rằng chính ý đồ đó có thể
gây ra những nguy cơ lớn nhất để trở thành con mồi của ảo vọng”.
Albert Einstein
“Người nhìn thấy cái đa dạng mà không thấy cái đồng nhất thì cứ trôi lăn trong cõi chết”.
CHƯƠNG IX (XXXXVIII): TƯƠNG LAI VŨ TRỤ
“Có
một vật hỗn độn mà thành trước cả trời đất. Nó yên lặng, vô hình, đứng
một mình mà không thay đổi vĩnh cửu, vân hành khắp vũ trụ không ngừng,
có thể coi nó là mẹ của vạn vật trong thiên hạ. Ta không biết tên nó là
gì, tạm đặt tên cho nó là đạo. Đạo mà diễn tả được thì đó không còn là
đạo bất biến nữa, tên mà gọi ra được thì đó không còn là tên bất biến
nữa."
Lão Tử
“…
Chúng ta vẫn còn là những người mới bắt đầu hết sức lúng túng với những
hình ảnh trí tuệ đúng – sai lầm và thực tại tối hậu vẫn còn nằm ngoài
xa tầm nắm bắt của chúng ta”
Susskind
"Ngôn
ngữ của vật lí là toán học, và không thể hiểu được vật lí nếu không có
toán học. Đây là cái khiến nó khó nuốt. Ngôn ngữ của văn học là tiếng
Anh hay tiếng Trung hay thứ tiếng nào đó, và đó là cái khiến nó dễ tiêu
hóa. Và văn học thì nói về con người. Vật lí học thì nói về cái phi con
người. Nó không phải là một hương vị mà mọi con người đều nếm được".
Susskind
"Thay đổi là bản chất của Vũ Trụ chúng ta"
Frank Herbert
"Người
thuận theo đất, đất thuận theo trời, trời thuận theo Đạo, Đạo thuận
theo tự nhiên".
Lão Tử
"Các hằng số Vũ Trụ là hữu hạn (không vô tỷ!). Chỉ khi nào thừa nhận điều đó, vật lý học mới có khả năng hiểu thấu đáo Vũ Trụ.
NTT
(Tiếp theo)
Quá trình từ lúc vật đứng yên, nhận “cú hích” để chuyển động với vận tốc v1 rồi thực hiện một công và chuyển động với vận tốc v2 được
gọi là một quá trình kín và nếu quá trình đó lặp lại nhiều lần thì gọi
là một chu trình kín nếu không có sự truyền nhiệt giữa vật với môi
trường ngoài. Như ta đã thấy, vì m không
đổi nên năng lượng toàn phần của vật sau chu trình là không đổi: được
bảo toàn, nghĩa là vật sinh công nhờ thay đổi trạng thái chuyển động (từ
trạng thái “cao” xuống trạng thái “thấp”, từ )
tương tự như chuyển hóa nhiệt từ trạng thái có nhiệt độ cao xuống trạng
thái có nhiệt độ thấp. Mặt khác, do có nguyên lý tác động - phản ứng
chi phối, không thể chuyển hóa hết một động năng thành công cơ học được
dù loại bỏ sự ma sát. Như vậy, chúng ta cho rằng có thể bằng một điều
chỉnh nào đó, mở rộng ứng dụng của nguyên lý hai nhiệt động ra cả phạm
vi cơ học. Mặt khác, do không thể cách ly tuyệt đối được một hệ và nhiệt
lượng được thấy là sự thể hiện của rối loạn bức xạ điện từ (mà mức rối
loạn cao nhất là mọi vận động của bức xạ điện từ, tức h.v, đều khác
nhau), nên nhiệt lượng (và cả nhiệt độ) luôn có xu thế giảm dần về O
(bởi hiện tượng bức xạ nhiệt theo nguyên lý ưu tiên chuyển hóa Không
Gian), nhưng không thể về O được, vì nội tại một thực thể không thể không vận động.
Nếu có thể tăng khả năng sinh công (là mv2 )
của vật đó lên mãi, giả sử không có sự truyền nhiệt (tức là bức xạ
nhiệt!) thì nhiệt độ và nhiệt lượng của vật sẽ tăng dần (mức độ rối loạn
bức xạ điện từ nội tại tăng lên) đến một nhiệt độ giới hạn tương tự như
trường hợp tăng v=c, nội năng của vật hoàn toàn biến thành nhiệt
lượng (Q). Lúc này, vật sẽ phải phân rã thành (nổ thành) vô số sóng ánh
sáng lan truyền khắp Vũ Trụ, tham gia vào việc làm hình thành nên thực
thể mới!
Khi
có sự truyền nhiệt (bức xạ nhiệt!), khối lượng riêng (m/V) giảm đi, lúc
đó mức độ rối loạn bức xạ điện từ nội tại của vật sẽ giảm xuống và vật
tiếp tục tồn tại.
Như
vậy, theo quan niệm của chúng ta, không thể xảy ra hiện tượng “chết
nhiệt Vũ Trụ”, hay cân bằng nhiệt, vì khi tương tác, trường hợp nào (nhận công hay sinh
công) cũng đều gây ra hiện tượng "tạo nhiệt"!
Cũng
từ hiện tượng này, chúng ta càng tin Vũ Trụ luôn là một hệ cân bằng
động vĩ đại và tin vào quan niệm “Vũ Trụ dừng” (quan sát ở góc độ bao quát nhất, Vũ Trụ là tĩnh tại (không đổi) và vĩnh
cửu (vốn dĩ thế)). Nhưng hiện nay, phần đa số các nhà vật lý tin vào thuyết Vụ nổ lớn
(BigBang). Theo từ điển mới, Wikipedia thì: “Lý thuyết BigBang là mô
hình Vũ Trụ học nổi bật miêu tả giai đoạn sơ khai của sự hình thành Vũ
Trụ". Theo lý thuyết này, Vụ nổ lớn xảy ra xấp xỉ cách nay 13,7980,037
tỷ năm trước, và được các nhà Vũ Trụ học coi là tuổi của Vũ Trụ. Sau
giai đoạn này, Vũ Trụ ở vào trạng thái cực nóng, đặc và bắt đầu giãn nở
nhanh chóng. Sau giai đoạn lạm phát, Vũ Trụ đủ “lạnh” để năng lượng bức
xạ (photon) chuyển đổi thành nhiểu hạt hạ nguyên tử, bao gồm proton,
neutron và electron. Tuy những hạt nhân nguyên tử đơn giản có thể hình
thành nhanh chóng sau BigBang, phải mất hàng ngàn năm sau các nguyên tử
trung hòa điện mới xuất hiện. Nguyên tố đầu tiên sinh ra là Hydro, cùng
với lượng nhỏ Heli và Liti. Những đám mây khổng lồ chứa các nguyên tố
nguyên thủy sau đó hội tụ lại bởi hấp dẫn để hình thành nên các ngôi sao
và các thiên hà rồi siêu đám thiên hà, và nguyên tố nặng hơn hoặc được
tổng hợp trong lòng ngôi sao hoặc sinh ra từ các vụ nổ siêu tân tinh.
Thuyết
Vụ nổ lớn là một lý thuyết khoa học đã được kiểm chứng và được cộng
đồng khoa học chấp nhận rộng rãi. Nó đưa ra cách giải thích tương đối
thỏa đáng nhiều loại hiện tượng quan sát thấy trong Vũ Trụ, bao gồm sự
có mặt của những nguyên tố nhẹ, bức xạ nền vi sóng Vũ Trụ, cấu trúc vĩ
mô của Vũ Trụ, và định luật Huble về sự rời xa nhau của các thiên thể.
Sau
khi lý thuyết tương đối hẹp và đối với những khái niệm nổi tiếng như,
sự co không – thời gian tùy thuộc vào vận tốc chuyển động, sự tương đối
của hiện tượng đồng thời… chưa lắng xuống, nghĩa là lý thuyết ấy đã gặt
hái được thành công vang dội, phần lớn các nhà vật lý học đã thừa nhận
những luận điểm khoa học mà Anhxtanh nêu ra thì ông vẫn âm thầm nghiên
cứu Vũ Trụ để vẽ nên mô hình đúng nhất về nó. Tháng 2-1917, A. Anhxtanh
đệ trình lên Viện hàn lâm khoa học Phổ một công trình có tên “Suy xét Vũ
Trụ dựa trên lý thuyết tổng quát” (Cosmological considerations on the
General Theory of Relativity): Có thể coi ngày đó là ngày khai mở khái
niệm “Vũ Trụ giãn nở”. Phương trình của lý thuyết tổng quát đó mà ông
xây dựng lúc đầu là:
: Tenxơ Rixi - Anhxtanh
: tenxơ khoảng cách Rimann (tenxơ metrix)
R: độ cong vô hướng
(G là hằng số hấp dẫn Newton)
: tenxơ năng - xung lượng
Phương
trình này đã dẫn đến một suy lý gây choáng váng: Vũ Trụ là giãn nở, các
sao, vật chất, và bức xạ, tất cả phải bay về hướng “vô cùng” hoặc nếu
không thì toàn thể Vũ Trụ sẽ co về chính nó, dù nó có một lượng hữu hạn
các sao và một lượng hữu hạn vật chất hay không. Vì thế từ việc xây dựng
phương trình tổng quát về vận động của Vũ Trụ đó của mình, coi như
Anhxtanh, là người đầu tiên khám phá ra sự giãn nở của Vũ Trụ.
Nhưng Anhxtanh đã không tin vào một Vũ Trụ giãn nở.
Về
mặt toán học, phương trình trường hấp dẫn của Anhxtanh chuẩn mực đến
nỗi ông tin chắc rằng phương trình của ông hoàn toàn đúng ngay cả trước
khi Thuyết tương đối tổng quát nhận được bằng thực nghiệm. Do đó thật là
khổ sở khi phải đối mặt với một bài toán cho thấy rõ ràng là cần có một
sự hòa giải giữa một Vũ Trụ tĩnh và một phương trình đẹp đẽ ngụ ý một
Vũ Trụ giãn nở. Nhưng Anhxtanh vẫn điều chỉnh lại phương trình bằng cách
bổ sung vào một hằng số gọi là hằng số Vũ Trụ. Nghĩa là từ phương trình
đầu tiên, ông đã biến đổi thành:
Trong đó:
§ Rμν: tenxơ Ricci
§ R: vô hướng Ricci
§ Tμν : tenxơ mêtric
§ Λ : hằng số vũ trụ
§ c : vận tốc ánh sáng trong chân không
§ G : hằng số hấp dẫn (giống như hằng số hấp dẫn trong định luật hấp dẫn của Newton)
§ Tμν : tenxơ năng lượng-xung lượng
và sau này ông cho rằng đó là hành động sai lầm lớn nhất đời mình.
Trong
khi vào những năm 20 của thế kỷ XX, hầu hết các nhà khoa học vẫn tin
vào Vũ Trụ tĩnh tại thì đã có bằng chứng khoa học đầu tiên chỉ thị về
một Vũ Trụ đang giãn nở. Năm 1923, Huble, từ quan sát thiên văn của
mình, thực hiện qua kính thiên văn đặt tại đỉnh Wilson, giữa những ngọn
đồi bên trên Pasadena, California đã phát hiện được hiện tượng hầu hết
thiên hà đều đang chuyển động dời xa chúng ta (nghĩa là Vũ Trụ đang giãn
nở và trong quá khứ toàn bộ Vũ Trụ mà ngày nay chúng ta thấy phải bắt
đầu từ một điểm). Thuyết Vụ nổ lớn ra đời. Thuật ngữ BigBang là do nhà
vật lý thiên văn Fred Hoyle, người bênh vực cho thuyết “Vũ Trụ dừng”,
nêu ra có ý giễu cợt thuyết “Vũ Trụ giãn nở”.
Sự
lùi xa của các thiên hà thể hiện trên hai mặt sau: hiệu ứng Dopple và
quy luật Huble. Hiệu ứng Dopple chỉ ra rằng nếu một thiên hà chuyển động
ra xa Trái Đất thì ánh sáng phát ra từ nó sẽ có phổ gọi là “dịch về
phía đỏ” (bước sóng dài ra). Thiên hà càng dời xa Trái Đất thì chuyển
động càng nhanh tuân theo định luật Huble (do chính Huble khám phá ra):
V = H x R
Với H là hằng số Huble, R là khoảng cách.
Nếu
tin vào quan niệm của triết học duy tồn về Vũ Trụ thì ngay lập tức,
chúng ta phải phủ định giả thuyết BigBang. Thứ nhất, nếu học thuyết
BigBang chỉ ra rằng cách nay khoảng 13,8 tỷ năm, Vũ Trụ chỉ là một hạt
vô cùng nhỏ chứa chấp tất cả vật chất, năng lượng được gọi là “điểm kỳ
dị” và bên ngoài nó là Hư Vô (sự trống rỗng, không có gì hết!) thì phải
thừa nhận rằng không những Hư Vô thực sự tồn tại mà còn bao hàm cả Tồn
Tại. Một “không có gì” tuyệt đối mà có khả năng bao hàm Tồn Tại là một
điều thậm phi lý! Thứ hai, vì Vũ Trụ giãn nở, các thiên hà lùi xa Trái
Đất ra xung quanh ngày một nhanh theo định luật Huble (ngày nay xác định
được nhiều thiên hà đang chuyển động dời xa với vận tốc >95% vận tốc
ánh sáng), nên sẽ đến một lúc nào đó chúng chuyển động nhanh hơn ánh
sáng và như thế một mặt chúng sẽ không còn nội năng nữa, mặt khác chúng
sẽ phải xâm phạm vào tiên đề cơ bản của tự nhiên là v > c.
Có thể là, rồi đây người ta sẽ chứng minh được rằng, biểu thức: Rμν + k.Tμν = 1/2.gμν.R chỉ là biểu thức gần đúng về Vũ Trụ, mà bằng cách nào đó nó được dẫn xuất ra từ biểu thức chính xác: moc2+mv2=mc2, và từ mc2 còn có thể suy ra hàm sóng (phương trình cơ bản) của cơ học lượng tử!? Chúng ta tin chắc rằng, đến lúc đó, vật lý học sẽ đến được bến bờ thống nhất vĩ đại của nó!
Có thể là, rồi đây người ta sẽ chứng minh được rằng, biểu thức: Rμν + k.Tμν = 1/2.gμν.R chỉ là biểu thức gần đúng về Vũ Trụ, mà bằng cách nào đó nó được dẫn xuất ra từ biểu thức chính xác: moc2+mv2=mc2, và từ mc2 còn có thể suy ra hàm sóng (phương trình cơ bản) của cơ học lượng tử!? Chúng ta tin chắc rằng, đến lúc đó, vật lý học sẽ đến được bến bờ thống nhất vĩ đại của nó!
Có
lẽ cần phải quan niệm lại hiệu ứng Dobble đối với tia sáng đi từ xa
xôi tới Trái Đất và cả định luật Dobble lẫn phương trình tổng quát của
Anhxtanh. Phải chăng nguyên nhân gây ra sức hấp dẫn của Mặt Trời cũng
là nguyên nhân gây ra lực cản (đại loại, tương tự như lực ma sát !) các tia sáng đến
Trái Đất từ các thiên hà xa thẳm trong Vũ Trụ làm nên hiện tượng "dịch
chuyển về phía đỏ"?
Từ
đây suy ra việc đưa hằng số Vũ Trụ vào phương trình Trường tổng quát
của ông không phải là hành động vô lý. Trong “Câu chuyện về phương trình
thâu tóm của Vũ Trụ” của Amir D. Aczel có đoạn: “Hằng số Vũ Trụ của
Anhxtanh chưa bao giờ thực sự chết, ngay cả khi người sáng tạo ra nó đã
phủi tay với nó (…)
Khoa
học cần những lý thuyết mới: những lý thuyết này lại đòi hỏi những công
cụ toán học mới. Sẽ không đủ nếu chỉ chắp vá phương trình của Anhxtanh
bằng các thử nghiệm và sai lầm. Phương trình trứ danh đã chịu được sự
thử thách kinh khủng qua nhiều năm, luôn luôn dẫn tới những khám phá vật
lý mới phù hợp một cách đáng kinh ngạc với những dự đoán của phương
trình. Nhưng khi người ta cố gắng làm việc với phương trình bao gồm hằng
số Vũ Trụ - hoặc cố gắng kết hợp phương trình của lý thuyết tương đối
tổng quát với lý thuyết lượng tử - thì kết quả thật nghèo nàn. Đơn giản
là hiểu biết căn bản của nhân loại về phương trình thần diệu này vẫn
chưa đầy đủ”.
Và
chúng ta thấy những dòng này trong “Giai điệu bí ẩn và con người tạo ra
Vũ Trụ” – tác giả là Trịnh Xuân Thuận , nhà Vật lý thiên văn người Việt
Nam:
“Sau
BigBang, Lý thuyết Vũ Trụ học xem ra có thể được đẩy đi xa nhất đó là
lý thuyết “Vũ Trụ dừng” (Steady State). Lý thuyết này đã được ba nhà
thiên văn người Anh là Hermann Bordi, Thomas Gold và Fred Hoyle xây dựng
vào năm 1948. Nó đã có ảnh hưởng to lớn tới tư tưởng Vũ Trụ học những
năm 50 và 60, và đã kích thích nhiều nghiên cứu nhằm tách biệt nó với
BigBang.
Lý
thuyết “Vũ Trụ dừng” ra đời đồng thời từ nỗi ưu tư về mỹ học, sự băn
khoăn về triết học và tôn giáo và cũng từ một quan sát mà sau này người
ta phát hiện là sai. Nỗi ưu tư về mỹ học bắt nguồn từ nguyên là Vũ Trụ
học, một trong những tiên đề cơ bản của Thuyết tương đối tổng quát và là
nguyên lý sẽ được khẳng định sau đó một cách hết sức ngoạn mục bởi quan
sát bức xạ hóa thạch của Vũ Trụ. Theo nguyên lý này thì Vũ Trụ là đồng
nhất và đẳng hướng (…)
Trong
lý thuyết Vũ Trụ dừng, Vũ Trụ không còn điểm bắt đầu cũng không có điểm
kết thúc. Đây chính là chỗ những băn khoăn về triết học và tôn giáo xen
vào. Trong những năm 50 và 60, khái niệm về sáng thế và sự khởi đầu (và
do đó cả khái niệm về đấng tối thượng) trong lĩnh vực khoa học đã bốc
mùi dị giáo. Đa số các nhà Vũ Trụ học đều không muốn nghe nói về nó và
họ vô cùng mừng rỡ khi có một lý thuyết đặt lên khay bạc dâng cho họ một
Vũ Trụ đã tồn tại một thời gian. Điều này cho phép họ tống vào quên
lãng vấn đề sáng thế mà vẫn giữ được lương tâm thanh thản. Mặt khác một
Vũ Trụ có tuổi vô hạn sẽ cho phép họ giải quyết được vấn đề đặt ra bởi
tuổi tương ứng của Vũ Trụ và Trái Đất theo những đánh giá vào thời điểm
đó. Thực vậy, nếu ta chấp nhận BigBang, thì theo Bubble, Vũ Trụ chỉ có
tuổi là 2 tỷ năm, trong khi đó các phép đo những nguyên tố, phóng xạ
trong vỏ Trái Đất lại cho thấy tuổi của Trái Đất là 4,6 tỷ năm. Làm sao
Trái Đất lại có thể già hơn Vũ Trụ được? Bondi, Gold và Hoyle kết luận
mô hình BigBang là sai. Tuy nhiên, ngày hôm nay chúng ta biết rằng sai
lầm ở đây không phải là của BigBang mà là của Hubble. Ông đã sai lầm
trong việc đánh giá độ sáng thực của các ngọn hải đăng Vũ Trụ - các sao
Xêpheit (…)”
Một
số lý thuyết đặt vấn đề xem xét lại cách giải thích sự dịch về phía đỏ
của ánh sáng tới từ các thiên hà là do chuyển động giãn nở. Những lý
thuyết này đưa ra lý lẽ rằng sự mất năng lượng gây ra sự dịch chuyển về
phía đỏ không phải là do sự giãn nở của Vũ Trụ gây ra mà là hệ quả của
sự “mệt mỏi” được tích tụ bởi các photon trên con đường vạn dặm giữa các
thiên hà và các vì sao trong một Vũ Trụ tĩnh và bất biến tuyệt đối để
tới được các kính thiên văn của chúng ta. Năm 1935, Hubble và nhà vật lý
Mỹ, Richard Tolman đã đề xuất một mô hình Vũ Trụ tĩnh (không giãn nở)
với một ánh sáng đã “mệt mỏi”, có thể tái tạo lại được sự tỷ lệ của độ
dịch chuyển về phía đỏ với khoảng cách tới các thiên hà. Nhưng lý thuyết
về ánh sáng mệt mỏi lại có rất nhiều yếu điểm. Nhà vật lý thiên văn
người Pháp, Jean - Claude Pecker đã đề xuất rằng các photon mất năng
lượng của mình trên con đường vạn dặm là do chúng tương tác với một hạt
mới có khối lượng nhỏ hơn khối lượng của electron. Cơ chế này không được
đa số các nhà vật lý thiên văn chấp nhận, bởi lẽ cho tới tận ngày hôm
nay, các hạt mới đó vẫn chưa bao giờ quan sát được, dù là trong phòng
thí nghiệm hay trong Vũ Trụ. Ngoài nguyên nhân chính xác về sự mệt mỏi
của ánh sáng, lý thuyết này còn có nhiều khuyết tật khác (…) Nhưng khối
đá ngầm chính là lý thuyết ánh sáng mệt mỏi, cũng như tất cả các lý
thuyết khác, sẽ va phải đó là bức xạ hóa thạch. Thực vậy, lý thuyết này
không có cách nào giải thích được sự tồn tại của bức xạ đó (…). Biết đâu
chừng hiện tượng “bức xạ nền” Vũ Trụ (bức xạ hóa thạch), là hiện tượng
phân rã của các vật thể do tính giới hạn của vận tốc ánh sáng. Sự lệch
về phía đỏ của quang phổ ánh sáng đến Trái Đất từ những Thiên Hà ở “rìa”
Vũ Trụ không phải có nguyên nhân từ hiệu ứng Đôplơ mà trái lại có
nguyên nhân từ hiện tượng ánh sáng đi vào vùng không ưu tiên chuyển hóa
Không Gian (vào môi trường có chiết xuất. Cần nhớ rằng ánh sáng đến Trái Đất từ 13,8 tỷ năm trước (có
thể không đến từ Thiên Hà vì thuở đầu tiên tất nhiên chưa tồn tại Thiên
Hà?) và bức xạ hóa thạch đến Trái Đất phải từ cùng một nơi xuất phát-
đến từ chính vụ nổ BigBang. Có quan sát được hiện tượng đó không? Chúng
ta cũng cần chú ý tới trường hợp: Trái Đất tiếp nhận ánh sáng tới từ các
ngôi sao, thiên hà trong trạng thái chuyển động!
Edwin Hubble | |||
---|---|---|---|
Edwin Hubble
|
|||
Sinh | 20 tháng 11, 1889 Marshfield, Missouri, Hoa Kỳ |
||
Mất | 28 tháng 9, 1953 (63 tuổi) San Marino, California |
||
Nơi cư trú | Hoa Kỳ | ||
Ngành | Thiên văn học | ||
Nơi công tác | Đại học Chicago Đài thiên văn Wilson |
||
Nổi tiếng vì |
Big Bang (Vụ nổ lớn) Định luật Hubble Redshift Dẫy Hubble |
Trịnh Xuân Thuận |
---|
|
|
---|---|
Sinh | 20 tháng 8 năm 1948 Thái Bình, Danh Lâm, Từ Sơn, Bắc Ninh (nay thuộc Đông Anh, Hà Nội), Việt Nam |
Nơi cư trú | Hoa Kỳ |
Tôn giáo | Phật giáo |
Ngành | Vật lý, Thiên văn học |
Nổi tiếng vì | Nghiên cứu thiên văn Tác giả sách đại chúng |
Giải thưởng | Giải Moron (2007) Giải Kalinga (2009) Giải thưởng Prix mondial Cino |
|
---|
Dù
là một lũ còn ngu ngốc, không hiểu được thuyết tương đối rộng của
Anhxtanh, thì chúng ta cũng dứt khoát một cách cực đoan, phủ nhận học
thuyết Big Bang và cuồng tín tin theo triết học duy tồn, triết học coi
Vũ Trụ Tồn Tại là vốn dĩ thế, không có khởi đầu lẫn kết thúc. Chúng ta
tin rằng rồi đây loài người sẽ thấy được cái sai của thuyết tương đối
rộng, không phải trong suy tư lý thuyết vật lý của nó (những suy tư ấy
là rất logic, khó lòng bác bẻ được), mà
chính ở hệ thống lý thuyết toán học mà nó dựa vào. Như H. Poincaré đã
nói một câu đầy gợi ý suy nghĩ: “Người ta không dùng các lý thuyết toán
học để xác minh bản chất thật của các sự vật, những đòi hỏi như vậy đối
với chúng hình như là không hợp lý. Mục đích duy nhất của chúng là phối
hợp các định luật vật lý mà thí nghiệm cung cấp cho chúng ta, nhưng
thiếu toán học thì thậm chí chúng ta không thể phát biểu được các định
luật này”. Vậy thì phải hiểu như thế nào về toán học ngày nay? Phải nói
thẳng: nó là một biểu diễn siêu hình của thực tại do con người dựng nên
chứ không phải thực tại thực, nó là một thực tại ảo, hay nói cho mỹ miều
hơn, là một…Thực Tại lẫn Hoang Đường! Chỉ riêng việc dựa vào nó để tìm
ra các hằng số Vũ Trụ với kết quả là các số vô tỉ, đã không thể chấp
nhận được rồi! Vũ Trụ, cũng như các kết quả chuyển hóa Vũ Trụ sẽ thế nào
nếu…vô tỷ!? Phải chăng các phép tính về thực thể tenxơ chỉ là những hậu
quả có lý rút ra từ hoang tưởng chứ không phải là Thực Tại? Nếu thế,
những đại lượng tenxơ trong phương trình trường của Anhxtanh, nhất là
đại lượng năng-xung lượng, đều không thực, phiếm chân lý, và phương
trình đó mãi mãi là…”phương trình của Chúa”, nếu Chúa...tồn tại!
Và
nhà Vũ Trụ học không thuộc trường phái chính thống người Thụy Điển,
Hannes Alfvén (tác giả của Vụ Trụ vật chất – phản vật chất) đã tung ra
lời buộc tội rằng “Big Bang là một chuyện thần thoại, có thể là một thần
thoại tuyệt vời, xứng đáng được ở vị trí danh dự trong bảo tàng các
chuyện thần thoại như thần thoại Hindu về Vũ Trụ luân hồi, thần thoại về
quả trứng Vũ trụ của người Trung Hoa, thần thoại kinh thánh về sự Sáng
Thế trong 6 ngày, thần thoại Vũ Trụ học của Ptôlêmê và nhiều thần thoại
khác”. Chúng ta nghĩ Alfvén đã lầm. Dưới ánh sáng của những điều đã được nói
tới, không còn nghi ngờ gì nữa, BigBang giờ đây đã vượt xa một chuyện
thần thoại rất nhiều. Nó đã có những danh hiệu cao quí của một khoa học.
Đây là một lý thuyết có sức khỏe cường tráng, cho tới nay đã có khả
năng chống đỡ được mọi cuộc tấn công và hiện vẫn còn là một lý thuyết mô
tả Vũ Trụ tốt nhất. Nếu một ngày nào đó, BigBang cần phải được thay thế
bởi một lý thuyết Vũ Trụ tinh xảo hơn, thì lý thuyết mới này cũng sẽ
phải gộp vào trong nó những thành tựu của BigBang giống như lý thuyết
của Anhxtanh đã gộp vào trong nó những thành tựu của vật lý Newton.
Nhưng dù sao đi nữa theo chúng ta quan niệm, lý thuyết BigBang vẫn chỉ
là một câu chuyện thần thoại thuộc hàng những câu chuyện thần thoại hấp
dẫn và tinh xảo nhất của vật lý học. Biết đâu chừng hiện tượng “bức xạ
nền” Vũ Trụ là hiện tượng phân rã của các vật thể do tính giới hạn của
vận tốc ánh sáng. Sự lệch về phía đỏ của quang phổ ánh sáng đến Trái Đất
từ những Thiên Hà ở “rìa” Vũ Trụ không phải có nguyên nhân từ hiệu ứng
Đôplơ mà trái lại có nguyên nhân từ hiện tượng ánh sáng đi vào vùng
không ưu tiên chuyển hóa Không Gian. Cần nhớ rằng ánh sáng đến Trái Đất
từ 13,8 tỷ năm trước (có thể không đến từ Thiên Hà vì thuở đầu tiên tất
nhiên chưa tồn tại Thiên Hà?) và bức xạ hóa thạch đến Trái Đất phải từ
cùng một nơi xuất phát- đến từ chính vụ nổ BigBang. Có quan sát được
hiện tượng đó không?
Nói
chung kết lại, dựa trên quan niệm của triết học duy tồn thì vì không
triệt tiêu được chuyển động, dù chuyển động bị giới hạn bởi c, thì
không thể có được sự chết nhiệt Vũ Trụ và cũng không có Vụ Nổ Lớn
(BigBang)!...
Rồi đây, đến một thời điểm không xa nữa, vật lý học sẽ phải thay đổi hoàn toàn nhận thức trước thực tại khách quan của mình như đã từng trong khoảng thời gian từ cuối thế kỷ XVIII đến đầu thế kỷ XX. Trong tác phẩm "Cuộc chiến lỗ đen", tác giả Leonard Susskind, chúng ta đọc thấy những dòng này: "Vào năm 1900, năm năm trước khi Anhxtanh bước lên sân khấu, một sự thay đổi hính mẫu tư duy còn kỳ quặc hơn nhiều đã diễn ra cùng với việc khám phá ra ánh sáng được tạo bởi các hạt được gọi là photon, hay đôi khi còn gọi là lượng tử ánh sáng. Thuyết photon ánh sáng (thuật ngữ photon bắt đầu dược sử dụng vào năm 1926, do nhà hóa học Gilbert Lewis đặt ra) chỉ là một dấu hiệu báo trước một cuộc cách mạng sắp diễn ra; sự rèn luyện trí tuệ bây giờ còn trừu tượng hơn bất cứ thứ gì được chứng kiến từ trước đến nay: Cơ học lượng tử còn hơn cả một định luật mới của tự nhiên. Nó liên quan đến việc thay đổi các qui tắc của lôgic cổ điển, những qui tắc thông thường của tư duy mà mọi người có đầu óc tỉnh táo bình thường đều sử dụng để đưa ra các suy luận. Nó dường như còn thật điên rồ. Nhưng dù có điên rồ hay không thì các nhà vật lý vẫn phải thay đổi nhận thức của mình theo lôgic mới gọi là lôgic lượng tử".
Leonard Susskind | ||
---|---|---|
Leonard Susskind
| ||
Sinh ra | 1940 (tuổi 78) Nam Bronx , Thành phố New York , Hoa Kỳ | |
Nơi cư trú | Hoa Kỳ | |
Quốc tịch | Hoa Kỳ | |
Quyền công dân | Hoa Kỳ | |
Trường cũ | Cao đẳng Thành phố New York Đại học Cornell | |
Được biết đến với | Nguyên lý toàn cảnh Lý thuyết dây Chuỗi học thuyết cảnh quan Giới hạn màu Thuyết Hamilton Hamilton Mô hình RST Nhà điều hành Susskind-Glogower Fermion Kogut-Susskind Cơ chế Fischler-Susskind | |
Giải thưởng | Giải Pomeranchuk (2008) Giải thưởng Sáng kiến Khoa học Viện Vật lý Hoa Kỳ Giải Sakurai (1998) Giải Boris Pregel , Học viện Khoa học New York (1975) | |
Sự nghiệp khoa học | ||
Lĩnh vực | Vật lý , toán học | |
Tổ chức | Đại học Yeshiva Đại học Tel Aviv Đại học Stanford Viện Vật lý Lý thuyết Stanford Học viện nghiên cứu cấp cao Hàn Quốc Viện Vật lý lý thuyết Vành đai | |
Luận án | Cơ học lượng tử tiếp cận các tương tác mạnh (1965) |
Rồi đây, đến một thời điểm không xa nữa, vật lý học sẽ phải thay đổi hoàn toàn nhận thức trước thực tại khách quan của mình như đã từng trong khoảng thời gian từ cuối thế kỷ XVIII đến đầu thế kỷ XX. Trong tác phẩm "Cuộc chiến lỗ đen", tác giả Leonard Susskind, chúng ta đọc thấy những dòng này: "Vào năm 1900, năm năm trước khi Anhxtanh bước lên sân khấu, một sự thay đổi hính mẫu tư duy còn kỳ quặc hơn nhiều đã diễn ra cùng với việc khám phá ra ánh sáng được tạo bởi các hạt được gọi là photon, hay đôi khi còn gọi là lượng tử ánh sáng. Thuyết photon ánh sáng (thuật ngữ photon bắt đầu dược sử dụng vào năm 1926, do nhà hóa học Gilbert Lewis đặt ra) chỉ là một dấu hiệu báo trước một cuộc cách mạng sắp diễn ra; sự rèn luyện trí tuệ bây giờ còn trừu tượng hơn bất cứ thứ gì được chứng kiến từ trước đến nay: Cơ học lượng tử còn hơn cả một định luật mới của tự nhiên. Nó liên quan đến việc thay đổi các qui tắc của lôgic cổ điển, những qui tắc thông thường của tư duy mà mọi người có đầu óc tỉnh táo bình thường đều sử dụng để đưa ra các suy luận. Nó dường như còn thật điên rồ. Nhưng dù có điên rồ hay không thì các nhà vật lý vẫn phải thay đổi nhận thức của mình theo lôgic mới gọi là lôgic lượng tử".
***
(Hết chương XXXXVIII)--------------------------------------------------------------------
Nhận xét
Đăng nhận xét