Thứ Ba, 30 tháng 4, 2019

TIẾU LÂM KIM CỔ 225

(ĐC sưu tầm trên NET)
 
Cưng muốn xỉu với cô bé ẵm 10 triệu Nhanh Như Chớp nhí - Mặt bất biến giữa đời vạn biến
 
Cô bé mặt bất biến trở lại ẵm 10 triệu khiến Trấn Thành ngỡ ngàng | Nhanh như chớp nhí tập 23


Xem tiếp...

CÂU CHUYỆN TÌNH BÁO 257/g

(ĐC sưu tầm trên NET)
 
Truyện tình báo Điệp viên giữa sa mạc lửa - P10
 
Truyện tình báo Điệp viên giữa sa mạc lửa - P11

Bên trong buồng giam cấm ngủ của CIA ở Afghanistan

Có những buồng giam của CIA ở Afghanistan mà các tù nhân không được phép ngủ, bị khóa tay, phải cởi trần giữa cái lạnh dưới 0 độ C.






ben-trong-buong-giam-cam-ngu-cua-cia-o-afghanistan
Tù nhân Gul Rahman. Ảnh: AP.
Nhà tù có 20 phòng giam, mỗi phòng là một khối bê tông riêng biệt. Trong 16 phòng, tù nhân bị xích chân vào một cùm sắt gắn chặt với tường. Ở 4 phòng khác, tù nhân phải đứng, cổ tay bị xích vào một thanh ngang phía trên đầu, khiến họ không thể ngủ. Những người ở buồng giam bình thường dùng xô nhựa để đi vệ sinh. Người ở phòng đặc biệt phải đóng bỉm. Phòng giam không có hệ thống sưởi, luôn chìm trong bóng tối bất kể ngày đêm với tiếng nhạc triền miên, dai dẳng.
"Không khí rất tốt", John "Bruce" Jessen nói với một nhà điều tra Cơ quan Tình báo Trung ương Mỹ (CIA) hồi tháng 1/2013, hai tháng sau khi ông thẩm vấn một tù nhân tên Gul Rahman tại nhà tù trên. "Kinh khủng, nhưng an toàn".
Jessen, một trong hai nhà tâm lý học phát triển "những kỹ thuật thẩm vấn nâng cao" của CIA, đã dành 10 ngày tại một nhà tù bí mật gần thủ đô Kabul, Afghanistan, hồi tháng 11/2002. 5 ngày sau khi ông rời đi, người ta phát hiện Rahman chết tại buồng giam vì hạ thân nhiệt, trong tình trạng bán khỏa thân, bị xích vào nền bê tông lạnh giá.
Tháng 8, gia đình Gul Rahman cùng Mohamed Ben Soud và Suleiman Abdullah Salim, hai tù nhân sống sót tại nhà tù bí mật của CIA ở Afghanistan, đạt được một thỏa thuận dàn xếp bên ngoài tòa án trong vụ kiện yêu cầu hai nhà tâm lý học Jessen và James Mitchell bồi thường vì hành vi tra tấn.
Bằng cách dàn xếp vụ kiện bên ngoài tòa án, Mitchell và Jessen đã tránh được một phiên xét xử công khai có thể làm sáng tỏ điều gì thực sự xảy ra cho các tù nhân bên trong nhà tù với mật danh Cobalt tại Afghanistan.
Tuy nhiên, nhiều chi tiết trong 274 tài liệu mà CIA và Lầu Năm Góc buộc phải giải mật và công bố trong giai đoạn thu thập chứng cứ trước khi xét xử đã vẽ nên bức tranh đầy đủ về những gì các tù nhân phải chịu đựng tại "hầm ngục bí mật của CIA", theo Guardian.
Bẻ gãy tinh thần
ben-trong-buong-giam-cam-ngu-cua-cia-o-afghanistan-1
John "Bruce" Jessen (trái) và James Mitchell. Ảnh: AP.
Rõ ràng nhất trong số những tài liệu kể trên là một báo cáo do các nhà điều tra gửi tới Phó giám đốc phụ trách hoạt động CIA James Pavitt vào ngày 28/1/2003 về cái chết của Gul Rahman. Trong 32 trang tài liệu cũng như những ghi chép từ các cuộc thẩm vấn với Jessen và một sĩ quan CIA trẻ có nhiệm vụ quản lý nhà tù, các nhà điều tra đã tái hiện những quyết định góp phần dẫn tới cái chết của một tù nhân chỉ 69 ngày sau khi nhà tù này mở cửa.
Nhà tù bắt đầu hoạt động từ tháng 9/2002 và không còn chỗ trống trong chưa đầy một tháng. Các buồng giam được thiết kế để cô lập giác quan tù nhân. Nhưng quản lý trại giam đã tự mình can thiệp vào những quy trình định sẵn. Chính người này đã nảy ra ý tưởng phát nhạc liên tục trong phòng giam.
"Về việc tắt điện trong phòng, tiếp tục là quyết định của quản lý", các điều tra viên cho biết. Theo ghi chép thẩm vấn, có một công tắc điều khiển tất cả đèn tại các buồng giam và "trước lựa chọn để nó bật hay tắt cả ngày, anh ta đã chọn phương án thứ hai".
Tên của quản lý nhà tù được lược khỏi các văn bản công khai trong vụ kiện, song ở phần chú thích của báo cáo gửi quốc hội Mỹ, người này được xác định là Matthew Zirbel. Anh ta không có kinh nghiệm về điều hành nhà tù và ba ngày sau khi tới Cobalt, anh ta vẫn không biết mình sẽ phải quản lý nơi này.
Những phát hiện trước đây góp phần hé lộ nhiều hành động của Zirbel trong quãng thời gian Rahman bị bắt giữ. Nhưng các tài liệu mới lại cho thấy Rahman có thể vẫn sống nếu Jessen không đến Cobalt và trực tiếp thẩm vấn anh ta.
Jessen, người đã thẩm vấn Rahman 6 lần trong quãng thời gian hai tuần và Mitchell, người gặp Rahman đúng một lần, tuyên bố họ chỉ cố gắng giảm bớt những điều kiện giam cầm khắc nghiệt mà Rahman phải chịu.
Nhưng theo những khi chép của các nhà điều tra, chính Jessen là người tranh luận với trụ sở CIA về việc có nên áp dụng các kỹ thuật thẩm vấn nâng cao cho Rahman hay không. Cũng chính Jessen đã đưa ra lời khuyên khi ông và Zirbel lên kế hoạch thẩm vấn Rahman nhằm bẻ gãy tinh thần và ý chí chống cự của anh này.
"Ông ấy có thể nói rằng quản lý nhà tù làm theo tất cả những gợi ý của ông ấy", ghi chép từ các nhà điều tra cho hay. "Jessen nói ông ấy là người đưa ra mọi chiêu trò".
Jessen bảo với Zirbel không được tin Rahman khi anh ta phàn nàn về việc bị lạnh bởi Rahman đang sử dụng một kỹ thuật chống đối tinh vi của phiến quân al-Qaeda.
Theo lời Jessen, khi Rahman "phàn nàn về việc không thể suy nghĩ vì lạnh", "phàn nàn về điều kiện tồi tệ" hay "phàn về vi phạm nhân quyền", đó đều là chiến thuật kháng cự "dựa vào điều kiện sức khỏe và phúc lợi".
Nhưng tại một nhà tù tối tăm, không có máy sưởi, khi mùa đông tới, Rahman thực sự chỉ cảm thấy lạnh. Cái lạnh nguy hiểm tới mức trong vòng hai tuần, Rahman chết vì giảm thân nhiệt.
Một giám sát viên CIA đã tới nhà tù Cobalt vào thời điểm Rahman vừa được chuyển tới đây. Ông đã nói với các nhà điều tra CIA rằng "nhà tù rất lạnh... Ông lập tức nghĩ tới vấn đề giảm thân nhiệt khi nhìn thấy Rahman chỉ đi tất và đóng bỉm".
Thực tế, theo lời các quản ngục và người phiên dịch, Rahman gần như ở trong trạng thái không mặc gì, chỉ đóng bỉm, suốt thời gian bị giam giữ.
Jessen biết rõ điều này nhưng coi đó như một hiệu ứng tâm lý. Ông thừa nhận với nhà điều tra rằng đã "nhìn thấy Rahman run rẩy, dấu hiệu ban đầu của giảm thân nhiệt" sau khi "áp dụng kỹ thuật tước đoạt giác quan bằng cách cho Rahman tắm nước lạnh".
ben-trong-buong-giam-cam-ngu-cua-cia-o-afghanistan-2
Trại 6 tại Vịnh Guantanamo, Cuba. Ảnh: Guardian.
Các ghi chép từ một trong các buổi thẩm vấn Jessen có đoạn: "Sau buổi làm việc cuối cùng với các sĩ quan, Rahman trải qua nhiều ngày trong điều kiện lạnh giá với thức ăn và giấc ngủ ở mức tối thiểu. Rahman dường như không thích nghi được với một số phần của quá trình này".
Tuy nhiên, khi Jessen rời Cobalt vào khoảng ngày 14/11/2002, ông đã lưu ý Zirbel rằng để Rahman từ bỏ thái độ chống đối, cần tiếp tục thực hiện những biện pháp tương tự nhằm làm suy yếu anh ta.
"Quá trình này không diễn ra nhanh chóng", Jessen nói với nhà điều tra trong cuộc thẩm vấn hồi tháng 1/2013. "Rahman có thể chất khỏe mạnh vì thế đánh đập không giải quyết vấn đề gì. Bạn phải làm suy yếu anh ta cả về thể chất lẫn tinh thần... Phải mất từ một đến vài tháng mới có thể khiến anh ta hợp tác".
5 ngày sau, vào khoảng 15h ngày 19/11/2002, "Rahman bị xích trong tư thế ngồi trên nền bê tông, nửa thân dưới không mặc gì", cuộc điều tra năm 2003 ghi lại. Nhân viên trại giam kiểm tra Rahman 4 lần, vào 22h, 23h, 4h và 8h. Trong lần kiểm tra buồng giam lúc 4h sáng, nhiệt độ ngoài trời là -0,56 độ C, một nhân viên bảo vệ "nhìn vào buồng giam của Rahman rồi huýt sáo". Đến 8h, "Rahman ngồi dậy, vẫn sống nhưng run rẩy, đôi mắt "mở to và hấp háy".
"Việc Rahman run rẩy không có vẻ gì là bất thường bởi tất cả các tù nhân đều run rẩy", nhân viên bảo vệ nói với nhà điều tra. Hai tiếng sau, một lính gác nhìn vào buồng giam và thấy Rahman nằm trên nền đất. Dùng dùi cui gõ vào cánh cửa, anh thấy tù nhân không động đậy. Rahman đã chết cứng vì lạnh.
Vũ Hoàng

Báo Mỹ nói Trung Quốc từng giết gián điệp, khiến CIA cạn kiệt nguồn tin

New York Times đưa tin Trung Quốc từng giết hoặc bỏ tù một loạt gián điệp của CIA từ năm 2010 đến năm 2012, làm tê liệt hoạt động tình báo của Mỹ.
bao-my-noi-trung-quoc-tung-giet-gian-diep-khien-cia-can-kiet-nguon-tin
Một người lính đứng gác trước Đại lễ đường Nhân dân ở Bắc Kinh. Ảnh: AFP
Trung Quốc đã giết hoặc bỏ tù 18 - 20 người cung cấp thông tin cho Cục Tình báo Trung ương Mỹ (CIA) từ năm 2010 đến năm 2012, trong đó, một người bị bắn chết ở ngay trước một tòa nhà chính phủ Trung Quốc, New York Times dẫn lời ba quan chức Mỹ trong bài báo đăng ngày 20/5.
Các hoạt động phản gián của Trung Quốc bắt đầu tăng cường vào năm 2010, khi CIA đang nhận được thông tin chất lượng cao về chính phủ Trung Quốc từ các nguồn tin nằm sâu trong bộ máy hành chính nước này, 4 cựu quan chức Mỹ nói.
Thông tin bắt đầu cạn kiệt vào cuối năm đó và các nguồn tin bắt đầu biến mất vào đầu năm 2011.
Khi ngày càng có nhiều nguồn tin bị giết, FBI (Cục Điều tra Liên bang Mỹ) và CIA đã mở một cuộc điều tra chung để tìm lỗ hổng, họ xem xét tất cả hoạt động được vận hành ở Bắc Kinh và mọi nhân viên của Đại sứ quán Mỹ ở đó.
bao-my-noi-trung-quoc-tung-giet-gian-diep-khien-cia-can-kiet-nguon-tin-1
Biểu tượng của Cục Tình báo Trung ương Mỹ. Ảnh: AP
Họ tập trung điều tra một cựu quan chức CIA làm việc trong bộ phận giám sát Trung Quốc nhưng không có bằng chứng để buộc tội người này.
Một số nhà điều tra cho rằng Trung Quốc đã tấn công hệ thống liên lạc bí mật của CIA. Những người khác thì đoán rằng gián điệp của Mỹ bị lộ do làm việc bất cẩn, chẳng hạn như nhiều lần đi cùng một tuyến đường đến cùng một điểm họp tại các nhà hàng Trung Quốc, nơi có thiết bị nghe lén.
Đến năm 2013, tình báo Mỹ kết luận Trung Quốc đã chững lại trong việc xác định gián điệp của Mỹ. CIA sau đó cố gắng xây dựng lại mạng lưới gián điệp.
CIA từ chối bình luận về các thông tin trên của New York Times.

Chuyện bà Trần Lệ Xuân tìm cách mua chuộc tướng tình báo

Bà Trần Lệ Xuân nhiều lần cho tiền tướng tình bá Vũ Ngọc Nhạ nhưng ông đều từ chối. 

Từ chối bổng lộc, giữ mình trung kiên
Theo Thiếu tướng Vũ Ngọc Nhạ, có lần bà Trần Lệ Xuân (vợ Ngô Đình Nhu) nói với ông: “Tôi biết, từ trước tới nay anh chỉ nhận tiền công ít ỏi, còn tiền trợ giúp của Chính phủ anh đều không nhận. Chỉ cần anh trung thành với gia đình họ Ngô chúng tôi và đừng từ chối những khoản trợ giúp, vợ con anh sẽ sung sướng suốt đời". Tuy nhiên, nhà tình báo Vũ Ngọc Nhạ đã từ chối sự giúp đỡ đó của bà Lệ Xuân.
Trong thời gian làm bộ phim tài liệu Ông cố vấn, tôi có sưu tầm được một băng video ghi hình và lời nói của bà Trần Lệ Xuân do người Mỹ phỏng vấn. Tháng 7/1969, khi đó bà Xuân đang ở Mỹ và lưới tình báo A22 của Vũ Ngọc Nhạ vừa bị CIA bắt tại Sài Gòn.
Trong cuốn băng ghi hình có một câu hỏi: "Thưa bà Trần Lệ Xuân, bà có nhận xét gì về ông Vũ Ngọc Nhạ - người từng nhiều năm làm cố vấn cho Tổng thống Ngô Đình Diệm và ông Ngô Đình Nhu - chồng bà?". Bà Trần Lệ Xuân trả lời: "Khi ông Vũ Ngọc Nhạ từ Huế về Dinh Độc Lập làm cố vấn cho gia đình họ Ngô, được thường xuyên tiếp cận, tôi thấy ông ta là một người khá đặc biệt: thông minh, thâm trầm, cẩn trọng, làm việc tận tụy nhưng không màng bổng lộc. Anh Ngô Đình Diệm và chồng tôi đã nhiều lần chu cấp tiền bạc để Vũ Ngọc Nhạ yên tâm suốt đời phụng sự cho họ Ngô nhưng ông ta khước từ. Người Mỹ đặt mua ông với cái giá 2 triệu USD (thông qua gia đình tôi) để rút ông ra khỏi lưới cộng sản (mà họ nghi ngờ) để ông cộng sự với họ, ông cũng từ chối. Khi CIA kết luận ông chính là cộng sản, bắt ông, xử ông theo luật người cộng sản phạm tội, tôi không có gì bất ngờ, bởi từ lâu tôi đã nghĩ ông ta là cộng sản".
 Thiếu tướng Vũ Ngọc Nhạ ( bên phải) và Huỳnh Văn Trọng lúc bị giam ở Côn Đảo.
Vợ Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu là người rất tôn kính và sùng bái Vũ Ngọc Nhạ. Biết hoàn cảnh gia đình ông khó khăn, nhiều lần bà cho tiền, ông cũng đều từ chối. Có lần bà Thiệu nhờ người tin cẩn đem 5 cây vàng và một số tiền đến nhà bà Nguyễn Thị Nhẫn (vợ ông Nhạ) ở xóm chợ Thị Nghè, bà Nhẫn cũng một mực không nhận.
Bà Nhẫn bảo: "Mình nhận tiền của họ thì phải làm theo họ. Làm theo họ có nghĩa là mình đã phản bội Tổ quốc rồi. Nhà tôi thường nói với tôi: "Phản bội là điều tối kỵ của người cộng sản. Mình đã chấp nhận dấn thân vào con đường này, dù có khổ ải, thiếu ông ấy, thậm chí có hy sinh cũng không thể làm khác được". Biết nhà tôi không ai lay chuyển nổi, tôi càng yên tâm và xác định dẫu phải chạy chợ suốt đời nuôi chồng, nuôi con, tôi cũng không quản ngại".
Những phút giây sinh tử
Bà Nguyễn Thị Nhẫn kể, năm 1958, ông Vũ Ngọc Nhạ tự dưng "mất tích". Suốt 2 tháng trời bà đi tìm khắp đó đây vẫn không thấy ông. Một buổi tối bà đang ngồi lo lắng nghĩ tình huống ông đã bị thủ tiêu, bỗng có tiếng gõ cửa. Bà e dè ra mở cửa. Người đàn bà hớt hải, vẻ mặt lo sợ là Kim Chi, vợ ông Vũ Hữu Duật - điệp viên lưới A22 do ông Nhạ phụ trách. Khi cánh cửa khép lại, nhìn xung quanh không thấy ai, bà Chi nói: "ông Nhạ bị bắt cóc và cùng chồng tôi bị bắt cóc đưa đi biệt giam ở Tòa Khâm sứ Trung kỳ. Biết tin, tôi vừa ra ngoài đó thăm các ông ấy.
Bà Chi rút trong túi ra một cái bọc nhỏ đưa cho bà Nhẫn và bảo: "Ông Nhạ gửi bộ quần áo lót đang mặc để bà yên tâm, ông ấy còn sống". Bà Chi nói tiếp: "Ông Duật nhà tôi bảo, 2 ông phải giả vờ đi cầu tiêu rồi ông Nhạ cởi ra đưa nhà tôi cất vào trong người mang về cho bà. Bà chuẩn bị ra Huế thăm ông ấy đi". Thế là từ đó, vừa buôn bán, nuôi con, bà vừa chắt chiu từng đồng thường xuyên ra Huế thăm nuôi chồng. Mãi tới khi ông Nhạ "lọt vào mắt xanh" Ngô Đình cẩn -cố vấn miền Trung, rồi được ông cẩn trình lên Nặô Đình Nhu và Ngô Đình Diệm đón về Dinh Gia Long làm cố vấn, bà mới không phải lo nuôi chồng ở tù. Nhưng nỗi lo khác lại luôn ám ảnh.
Người ta bảo "leo càng cao" thì ngã càng đau. Vũ Ngọc Nhạ là cộng sản mà làm tới cố vấn Tổng thống Ngụy, lộ ra thì chết cả nhà, cả họ. Thời kỳ ông làm cố vấn cho Ngô Đình Diệm, bà Nhẫn đã 2 lần thót tim. Lần thứ nhất vào đầu năm 1962, do người Mỹ giật dây, 2 máy bay của phe đảo chính bất thần trút bom xuống Dinh Gia Long định giết vợ chồng Ngô Đình Nhu. Được tin ông Nhạ đang ở trong Dinh, bà lo lắm. Sau bà mới biết ông Nhạ và Ngô Đình Nhu vừa ra khỏi phòng thì bom nổ, chỉ mình Lệ Xuân bị thương.
Lần thứ 2, vào ngày 28/11/1963, các tướng lĩnh do Dương Văn Minh cầm đầu nổi lên đảo chính Ngô Đình Diệm, giết chết anh em Diệm, Nhu. Có người nói quân làm phản đã thủ tiêu ông cố vấn Vũ Ngọc Nhạ trước khi "tiễn" Diệm, Nhu. Bà hoảng hốt nhờ người đi dò xét khắp nơi, mãi chiều tối hôm ấy mới thấy xác Ngô Đình Diệm, Ngô Đình Nhu bê bết máu nằm gục trên 2 tấm phản, không thấy xác ông Nhạ. Rất may, nửa đêm hôm ấy thì chồng bà về gõ cửa.
Một tai họa lớn ập xuống đầu những người vợ của anh em trong lưới A22 là vào ngày 16/7/1969 bọn địch đưa tin: đã phát hiện ra một nhóm cộng sản nằm trong Chính phủ Việt Nam Cộng hòa. Tất cả đã bị thủ tiêu dã man: cắt cổ, lấy máu. Bọn địch tung tin đe dọa như vậy nhưng vì áp lực đấu tranh rất mạnh, chúng không thể thủ tiêu được nên đã giam các ông để chờ ngày xét xử.
Bà Nguyễn Thị Nhẫn kể lại: “Sau khi nhà tôi bị bắt, bọn mật vụ kéo đến bao vây lục soát, rồi nằm lì trong nhà tôi hàng tháng trời. Chúng dọa nạt không lúc nào yên, mẹ con tôi nhiều đêm không ngủ đước. Chúng đưa ông Nhạ về nhà đối chất và lục soát. Chúng đánh ông ấy bầm tím chân tay, mặt mày sưng húp. Thương chồng và lo cho đàn con bị chúng dọa hành hung, nên mang bầu mới được hơn 7 tháng tôi đã sinh con".
Bà Nhẫn kể tiếp: "Gia đình bà Như, bà Chi, bọn mật vụ cũng kéođến lục lọi và dọa không khai chúng sẽ giết cả nhà. Hai bà ấy cứng rắn, kiên quyết, dù kẻ địch có giết chết cả nhà cũng không cạy được miệng các bà". Hơn 3 tháng sau chúng đứa anh em trong lưới A22 ra xét xử tại Tòa án Sài Gòn. Vụ án làm sửng sốt, rung chuyển cả bộ máy chính quyền Ngụy. Chúng đặt câu hỏi vì sao nhóm cộng sản lại chui được vào Chính phủ để thâu tóm Dinh Độc Lập. Ai đặt cộng sản vào những chiếc ghế trong Phủ Tổng thống? Mật vụ có mắt như mù. Có người nói, hay chính mật vụ đã thông đồng với cộng sản?

Theo Một thế giới

Số phận bi thảm của điệp viên Liên Xô cung cấp tin chiến lược

Điệp viên Liên Xô Sorge – “điệp viên đáng sợ nhất trong lịch sử”, với công lao lớn trong cuộc chiến chống phát xít, cuối cùng đã bị bắt và treo cổ.

Vào ngày 6/9/1941, một Hội nghị Đế quốc nữa của Nhật xác nhận quyết định bành trướng xuống phía nam và chuẩn bị cho cuộc chiến tranh chống lại nước Mỹ và Anh. Điệp viên Ozaki biết được điều này.
 Con tem bưu chính của Đông Đức (Cộng hòa Dân chủ Đức) tưởng niệm Tiến sĩ Richard Sorge - sĩ quan quân báo của Liên Xô. Ảnh: Alchetron.
Ott tâm sự với Sorge rằng ông ta hoàn toàn thất bại trong nỗ lực thuyết phục người Nhật tấn công Nga. Vào ngày 14/9 Sorge thông báo về Moscow và nhấn mạnh “Dựa vào sự xem xét cẩn trọng của tất cả nhóm chúng tôi ở đây thì khả năng Nhật Bản mở một cuộc tấn công – vốn tồn tại gần đây thì nay đã biến mất...”.
Liên Xô tự tin điều quân lật ngược thế cờ
Bây giờ thì nguyên soái Liên Xô Stalin tự tin đưa ra quyết định quan trọng là đưa một bộ phận lớn quân dự bị từ vùng Viễn Đông sang phía tây. Trong hai tháng tiếp theo, 15 sư đoàn bộ binh, 3 sư đoàn kỵ binh, 1.700 xe tăng và 1.500 máy bay đã di chuyển từ Viễn Đông Xô viết sang mặt trận châu Âu (để đối phó với phát xít Đức). Chính các đợt tăng viện quy mô lớn này đã lật ngược thế cờ trong trận Moscow vào tuần đầu tiên của tháng 12/1941 - cùng thời điểm Nhật Bản tấn công Trân Châu cảng.
Tất nhiên công lao phát hiện ý đồ của Nhật không hoàn toàn thuộc về tổ điệp viên Liên Xô của Sorge. Nhưng Sorge đóng một vai trò quan trọng trong chiến công này.
Mặc dù vậy lưới tình báo Liên Xô của Sorge không được hưởng dư vị chiến thắng này lâu. Bão tố đã ập xuống đầu họ.
Các cảnh trong bộ phim "Spy Sorge" nói về hoạt động của tình báo viên Richard Sorge ở Nhật Bản. Ảnh: lifo.gr. 
Theo RBTH.com, mật vụ Nhật đã nhờ một sĩ quan Gestapo trong sứ quán Đức tại Nhật theo dõi anh.
Vào tháng 10/1941, cảnh sát Nhật nghi vấn và bắt giữ một người may quần áo được cấp dưới của Ozaki (tên là Yotoku Miyagi) tuyển dụng.
Người may quần áo đã tiết lộ tên của Miyagi. Khi cảnh sát truy bắt Miyagi, anh đã cố gắng cứu các đồng nghiệp của mình bằng cách nhảy lầu tự tử. Nhưng anh không chết sau khi nhảy. Cảnh sát lôi anh ta – trong tình trạng gãy xương – tới phòng thẩm vấn. Bị đau đớn, anh ta đã phun ra với cảnh sát rằng Ozaki và Sorge là các điệp viên cộng sản. Vào ngày 18/10, Sorge đã bị bắt.
Sau một tuần phủ nhận các cáo buộc, Sorge chấp nhận trình bày lại tất cả các hoạt động của mình ở Nhật Bản với điều kiện giới chức Nhật không được làm gì người tình của anh – cô Hanako Iishi, cũng như các bà vợ của một số đồng nghiệp của anh. Sorge khẳng định họ vô tội.
Lên giá treo cổ
Trong 3 năm tiếp theo Sorge bị giam trong nhà tù Sugamo ở Tokyo. Sau nhiều tháng bị thẩm vấn, anh bị đưa ra xét xử và bị kết tội làm điệp viên cộng sản, thực hiện các hoạt động gián điệp với mục đích lật đổ chế độ Nhật hoàng và quyền tư hữu. Vào tháng 9/1943, anh bị khép tội chết.
Tuy nhiên Sorge tin rằng mình sẽ không phải đối mặt với giá treo cổ. Anh tin là Tokyo sẽ đổi anh để lấy một tù nhân Nhật bị Moscow giam giữ. Giới chức Nhật cùng suy nghĩ với anh. Họ cũng muốn đánh đổi anh với tù nhân đó.
Thế nhưng Moscow đã hồi đáp “Họ không biết người đàn ông tên là Richard Sorge”.
Nhiều nước không thừa nhận các điệp viên của họ. Liên Xô trong trường hợp này không phải là một ngoại lệ. Nhưng vụ Sorge có lẽ còn có những nguyên nhân bí hiểm khác nữa.
Sau khi phía Nhật không thành công trong việc đổi tù nhân với Liên Xô, số phận của Sorge đã được định đoạt. Vào ngày 7/11/1944, chính phủ Nhật đã treo cổ Sorge tại nhà tù Sugamo.
Theo RBTH.com, đồng đội của Sorge là Ozaki cũng bị hành quyết.
Tại thời điểm đó, Sorge không hay biết người vợ Katya Maximova của mình đã chết cách đó hơn một năm.
Trong khi đó, người tình yêu dấu Iishi của Sorge khá may mắn. Giới chức Nhật tôn trọng lời cam kết của mình với Sorge là không truy tố cô này. Iishi được phép sống yên lặng phần còn lại của đời mình ở Tokyo. Di hài của Sorge vào năm 1949 đã được đưa từ nghĩa trang nhà tù tới một nghĩa trang mọc đầy cỏ ở ngoại ô Tokyo.
Truy tặng danh hiệu Anh hùng Liên Xô
Năm 1961, bộ phim Pháp có tựa đề “Anh là ai, hả ngài Sorge?” trở thành một bộ phim được chiếu nhiều ở Liên Xô. Lãnh tụ Liên Xô khi ấy là Nikita Khrushchev đã xem bộ phim này và hỏi cơ quan tình báo KGB là liệu cốt truyện có đúng không. Khi người ta xác nhận câu chuyện này là thật, ông Krushchev đã truy tặng Sorge danh hiệu Anh hùng Liên Xô – danh hiệu cao quý nhất của quốc gia này. Còn Iishi – qua đời vào năm 2000 ở tuổi 89, khi đó được nhận tiền hưu trí của Liên Xô. Ngày nay, danh hiệu Anh hùng Liên Xô được khắc trên bia mộ cẩm thạch màu đen của Sorge. Một con phố ở Moscow mang tên anh. Người ta cũng đã phát hành các con tem tôn vinh anh.
Trong phim ảnh cũng như trong đời thường, Sorge không phải là nhân vật James Bond. Mặc dù vậy, Ian Flemming – tác giả sáng tạo ra James Bond và bản thân là một sĩ quan tình báo Anh trong Thế chiến 2, vẫn coi Sorge là “điệp viên đáng sợ nhất trong lịch sử”. Có thể coi thông tin tình báo của Sorge về quyết định của Nhật Bản tiến đánh phương nam là điều đã góp phần cứu Liên Xô khỏi thất bại trước các thế lực phát xít./.
Theo VOV

Phạm Xuân Ẩn và độc chiêu tạo vỏ bọc trong nghề tình báo

(Kiến Thức) - Sau này, khi trả lời tác giả Nguyễn Thị Ngọc Hải (tác giả cuốn Phạm Xuân Ẩn – Tên người như cuộc đời), ông Phạm Xuân Ẩn cực kỳ coi trọng việc xây dựng một vỏ bọc trong nghề tình báo. 

Tình báo lại dạy gián điệp
Sau thời gian học báo chí ở Mỹ, ông Phạm Xuân Ẩn về nước. Vào thời điểm cuối những năm 1950, nhiều mạng lưới tình báo của ta bị vỡ, nhiều cán bộ bị bắt giữ. Ông Ẩn lo rằng mình đã bị lộ nên một thời gian ông chỉ ở nhà không đi đâu để nếu có bị bắt thì gia đình còn biết.
Sau đó, ông nghĩ ra một cách để thăm dò xem mình đã lộ hay chưa. Cách đó là viết thư nhờ Trần Kim Tuyến (một người ông Ẩn có quen biết và bấy giờ đang cầm đầu ngành an ninh, tình báo trong chế độ Ngô Đình Diệm) để nhờ giới thiệu việc làm. Ông Ẩn viết: “Tôi mới học xong lớp báo chí ở Mỹ và đã về nước, hiện đang cần một việc làm. Ông có thể bố trí cho tôi vào đâu được không?". Ông Ẩn dự tính nếu mình đã bị lộ thì Trần Kim Tuyến sẽ không bố trí việc làm vì Trần Kim Tuyến nắm giữ danh sách những người hoạt động cách mạng.
Nhưng Trần Kim Tuyến đã giới thiệu ông Ẩn vào làm việc trong Phủ Tổng thống của Ngô Đình Diệm. Một thời gian sau Tuyến lại giới thiệu ông Ẩn sang Việt Tấn Xã – hãng thông tấn chính thức của chính quyền Ngô Đình Diệm. Tại đây, ông Ẩn được gặp một người cũng học báo chí từ Mỹ về là Nguyễn Thái, lúc đó là Tổng Giám đốc Việt Tấn Xã.
Gặp Ẩn, ông Nguyễn Thái đánh giá rất cao và nhận ngay. Trong sách Điệp viên hoàn hảo, Nguyễn Thái có nói về việc này: “"Phạm Xuân Ẩn là nhân viên đầu tiên của Việt Tấn Xã được đào tạo báo chí ở Mỹ và là người nói trôi chảy tiếng Anh. Hơn nữa, tôi đang cần một phóng viên giỏi như vậy để đưa tin từ văn phòng Tổng thống, vì đây là một nhiệm vụ rất nhạy cảm. Tôi nhận thấy Phạm Xuân Ẩn rất thạo tin và quan hệ rộng. Dường như ông ấy quen biết tất cả những nhân vật quan trọng ở Nam Việt Nam, nhưng không bao giờ thấy ông khoe khoang điều đó. Đầu óc dí dỏm và khiếu hài hước khiến cho ông trở thành một người mà ai cũng thích".
Chính từ chỗ làm việc cho Việt Tấn Xã, Phạm Xuân Ẩn đã trở thành thày giáo cho lớp huấn luyện điệp viên do Trần Kim Tuyến tổ chức. Số là Trần Kim Tuyến có kế hoạch sử dụng Việt Tấn Xã làm bình phong cho các điệp viên của chính quyền Ngô Đình Diệm ra hoạt động ở nước ngoài. Tuyến chỉ thị cho Nguyễn Thái mở lớp đào tạo ngắn hạn về báo chí cho các điệp viên của ông ta trước khi tung sang New Delhi, Jakarta, Cairo để hoạt động tình báo.
Nguyễn Thái đã bác bỏ chỉ thị này nhưng sau khi Tuyến bảo đó là mệnh lệnh của Ngô Đình Nhu thì Nguyễn Thái phải chấp nhận. Ông Thái lại giao việc này cho Phạm Xuân Ẩn vì ông Ẩn không những vừa tốt nghiệp báo chí ở Mỹ về mà còn vì ông có quan hệ tốt với Trần Kim Tuyến.
 Ông Ẩn và một sĩ quan của chính quyền Sài Gòn. 
Nghề vỏ bọc không thể đóng giả
Sau này, khi trả lời tác giả Nguyễn Thị Ngọc Hải (tác giả cuốn Phạm Xuân Ẩn – Tên người như cuộc đời), ông Phạm Xuân Ẩn cực kỳ coi trọng việc xây dựng một vỏ bọc trong nghề tình báo. Ông nói: “Bình phong để hoạt động không phải là cái vỏ, không phải là sự đội lốt trá hình, đó không phải sự ngụy trang bên ngoài. Phải thực sự sống bằng nghề đó một cách trong sạch – sống mãn đời nghề đó mới mong tiếp cận được mọi điều. Đó là cả một nghệ thuật sống. Nội cái đó không thôi cũng đã là cả một cái luận án.
Nếu coi bình phong chỉ là thứ nghề giả tạo mà không giỏi thật sự, không làm nghề thật sự thì “chết như không”.
Ông Ẩn rút ra kết luận rằng: “Bình phong phải là một cái nghệ thuật, phải sống thật với nghề, phải giỏi, không thể ghép vô đóng giả được. Bác sĩ giỏi cứu được người bệnh, mới có quan hệ thân được”.
Cũng chính bởi không thể đóng giả, đội lốt nên Phạm Xuân Ẩn, trong tư cách nhà báo vừa từ Mỹ về và đang làm việc cho Việt Tấn Xã đã không thể từ chối việc dạy báo chí cho các điệp viên của Trần Kim Tuyến. Không những thế, ông còn tỏ ra nhiệt tình với công việc khi yêu cầu Trần Kim Tuyến phải nói cho các điệp viên hiểu rằng vỏ bọc rất quan trọng. Đó có lẽ cũng là một góc độ cho thấy ông đã hóa thân vào vỏ bọc của mình thành công như thế nào.
Khánh Nam






Thăm bảo tàng chuyên về điệp viên Liên Xô tại Mỹ

Hà Linh |






Thăm bảo tàng chuyên về điệp viên Liên Xô tại Mỹ
Giấy tờ tùy thân của các điệp viên.

Một viện bảo tàng mới mở tại New York (Mỹ) được coi là nơi duy nhất trên thế giới chỉ trưng bày về hoạt động của lực lượng tình báo KGB (Liên Xô).

Một viện bảo tàng mới mở tại New York (Mỹ) được coi là nơi duy nhất trên thế giới chỉ trưng bày về hoạt động của lực lượng tình báo KGB (Liên Xô).
Tờ Guardian (Anh) đưa tin viện bảo tàng này hiện trưng bày 3.500 hiện vật do người thiết kế Julius Urbaitis bỏ công sức sưu tập trong suốt 30 năm qua trên khắp thế giới.
Thăm bảo tàng chuyên về điệp viên Liên Xô tại Mỹ - Ảnh 1.
Súng son môi "nụ hôn của thần chết" là súng ngụy trang dưới dạng son môi có đạn cỡ 4,5mm.






Thăm bảo tàng chuyên về điệp viên Liên Xô tại Mỹ - Ảnh 2.
Các điệp viên từng sử dụng dụng cụ đánh giày gắn camera để chụp ảnh tài liệu, cơ sở quân sự, sân bay…
Thăm bảo tàng chuyên về điệp viên Liên Xô tại Mỹ - Ảnh 3.
Nhân viên KBG đã mang theo máy ghi âm dạng dây để thu lại những cuộc đối thoại hoặc nghe lén.
Thăm bảo tàng chuyên về điệp viên Liên Xô tại Mỹ - Ảnh 4.
Mô phỏng về văn phòng của KGB.
Thăm bảo tàng chuyên về điệp viên Liên Xô tại Mỹ - Ảnh 5.
Chiếc radio do thám Oriol được thiết kế với kích cỡ rất nhỏ để dễ dàng di chuyển và ngụy trang. Thiết bị này hoạt động với tần số vào khoảng 3MHz đến 30MHz.







Thăm bảo tàng chuyên về điệp viên Liên Xô tại Mỹ - Ảnh 6.
Máy mật mã Fialka.
Thăm bảo tàng chuyên về điệp viên Liên Xô tại Mỹ - Ảnh 7.
Điện thoại đặc biệt đảm bảo không bị nghe lén.
Thăm bảo tàng chuyên về điệp viên Liên Xô tại Mỹ - Ảnh 8.
Khách đến bảo tàng có cơ hội được xem video về nơi giam giữ và phương pháp thẩm vấn của KGB.
Thăm bảo tàng chuyên về điệp viên Liên Xô tại Mỹ - Ảnh 9.
Tiền thân của KGB là lực lượng cảnh sát mật Okhrana thành lập từ năm 1881 dưới thời Nga hoàng Nicholas II.
Thăm bảo tàng chuyên về điệp viên Liên Xô tại Mỹ - Ảnh 10.
KGB chính thức thành lập năm 1954 tại Moskva.
theo Báo Tin tức
Xem tiếp...

KÝ ỨC CHÓI LỌI 116

(ĐC sưu tầm trên NET)

Chuyện chưa kể về Lữ đoàn 316 Đặc công

Phương Anh Linh |

Chuyện chưa kể về Lữ đoàn 316 Đặc công
Các chiến sĩ Lữ đoàn 316 Đặc công Biệt động Sài Gòn sau trận đánh chiếm cầu Rạch Chiếc.

Ít ai biết, những ngày tháng Tư lịch sử năm ấy, đơn vị Z23 thuộc Lữ đoàn 316 Đặc công Biệt động Sài Gòn đã có trận đánh chiếm cầu Rạch Chiếc đầy cam go và ác liệt.


Lữ đoàn “luồn sâu, đánh hiểm”
Càng gần đến dịp Lễ kỷ niệm Ngày Giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước, Đại tá Nguyễn Văn Tàu (bí danh Tư Cang), nguyên Chính ủy Lữ đoàn 316 Đặc công Biệt động Sài Gòn, lại càng bận rộn hơn với lịch gặp mặt các hội cựu chiến binh, không chỉ ở TP.HCM mà còn ở các tỉnh thành lân cận như Long An, Bình Dương hay Bà Rịa – Vũng Tàu quê ông.
Kể về những năm tháng tham gia kháng chiến, giọng của vị Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân Tư Cang vẫn rất hào hùng.
Để phục vụ cho Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, ngày 20/3/1974, Lữ đoàn 316 Đặc công Biệt động Sài Gòn trực thuộc Bộ Chỉ huy Quân giải phóng miền Nam Việt Nam chính thức được thành lập. Lữ đoàn được tổ chức thành nhiều tiểu đoàn và phân đội, gọi tắt là Z.
Theo Đại tá Tư Cang, trước ngày 30/4/1975, nhiệm vụ Bộ Chỉ huy Chiến dịch Hồ Chí Minh giao cho Lữ đoàn 316 khi ấy là phải phân ra đi đầu các cánh đại quân, phát huy sở trường ngón đòn biệt động “luồn sâu đánh hiểm”, đánh trước vào một số mục tiêu quan trọng trong thành phố như Bộ Tổng tham mưu Quân lực Việt Nam Cộng hòa, Sân bay Tân Sơn Nhất, Tổng Nha Cảnh sát, Dinh Độc Lập, Biệt khu thủ đô…
Kế hoạch những ngày sát giờ “G” đã có một chút thay đổi. Khi ấy, Lữ đoàn 316 Đặc công Biệt động Sài Gòn được giao nhiệm vụ chính là đánh chiếm và giữ cho được một số cây cầu trọng yếu xung quanh Sài Gòn để mở đường cho các cánh quân giải phóng cùng xe pháo tiến vào thành phố.
Tuy vậy, trong nội thành, Lữ đoàn 316 còn phải cử một đội biệt động đánh chiếm Bộ Tổng Tham mưu Quân lực Việt Nam Cộng hòa nhằm làm tê liệt tổ chức chỉ huy của địch ngay từ phút đầu.
Ác liệt trận đánh chiếm cầu Rạch Chiếc
Theo trí nhớ của Đại tá Tư Cang, thời điểm ấy là 3 giờ sáng 27 tháng Tư năm 1975, các chiến sĩ biệt động của đơn vị Z23 và Tiểu đoàn 81 đã nổ súng đúng giờ theo kế hoạch. Đúng giây phút đó, các chiến sĩ biệt động đã bất ngờ tràn lên mặt cầu và nhanh chóng chiếm được đầu cầu phía Đông.
Trận chiến diễn ra ác liệt hơn khi bên ta tràn lên chiếm bốt gác bê tông ở phía Bắc cây cầu. Mặc dù so với bên địch rất chênh lệch về lực lượng và trang bị vũ khí, nhưng các chiến sĩ với tinh thần cảm tử truyền thống của biệt động đặc công đã chiến đấu rất anh dũng.
Trong khi đó, tiểu đoàn 4 Thủ Đức báo cáo đã chiếm được cầu Sài Gòn, cây cầu dài nhất và gần trung tâm Sài Gòn nhất.
Sau một giờ đồng hồ, đơn vị Z23 đã chiếm được cầu Rạch Chiếc. Lúc này, theo lệnh chỉ huy, các chiến sĩ đặc công biệt động phải trụ lại trên cầu để đánh phản kích, quyết thực hiện nhiệm vụ được giao là giữ cầu chờ xe tăng của đại quân tiến vào thành phố.
Súng vẫn nổ dai dẳng trên cầu Rạch Chiếc đến chiều 28 tháng Tư, khi quân địch tăng cường lực lượng buộc các chiến sĩ biệt động Z23 phải tạm thời rút ra vài trăm mét cố thủ trên bờ rạch.
Ngày hôm ấy, Đại tá Tư Cang cùng với các đồng chí trong Ban Chỉ huy và Ban Tác chiến Lữ đoàn luôn túc trực bên máy vô tuyến điện để theo dõi, chỉ đạo chiến đấu. Trong lúc chiến sự đang căng thẳng, Đại tá Tư Cang nhận được một mảnh giấy ngụy trang trong xâu nem chua báo về từ nội thành.
Nội dung cho biết nội bộ phía Việt Nam Cộng Hòa đang rối loạn, có tranh luận gay gắt giữa hai phái chủ chiến và chủ hòa trong Chính phủ Dương Văn Minh. Thậm chí tướng lĩnh thuộc chiến đoàn đặc nhiệm bảo vệ thành phố Sài Gòn hoang mang chưa nhận nhiệm vụ chỉ huy.
Trong tình thế “nước sôi lửa bỏng”, chiều 28 tháng Tư, Đại tá Tư Cang nhận được một bức điện khẩn từ cấp trên với nội dung ngắn gọn nhưng là sự chờ đợi của biết bao chiến sĩ: “Giờ “G” cho toàn mặt trận: 0 giờ ngày 29 tháng Tư”. Ngay lập tức, Ban Tác chiến Lữ đoàn nhanh chóng thảo bức điện phổ biến giờ “G” cho các đơn vị và động viên tinh thần các chiến sĩ.
Chuyện chưa kể về Lữ đoàn 316 Đặc công - Ảnh 1.
Cầu Rạch Chiếc ngày nay.
Đối với đội biệt động đánh chiếm Bộ Tổng Tham mưu Quân lực Việt Nam Cộng hòa, bức điện gửi cho đồng chí Bảy Vĩnh thêm ý kiến chỉ đạo:
“Giờ “G” cấp trên phổ biến cho toàn mặt trận là như vậy nhưng việc đánh chiếm Bộ Tổng Tham mưu Quân lực Việt Nam Cộng hòa là một nhiệm vụ đặc biệt quan trọng. Rút kinh nghiệm hồi Mậu Thân 1968, anh chú ý tình hình thật sát, hợp đồng theo tiếng súng, chọn thời cơ để tiến công. Sớm quá, lực lượng dễ bị tiêu hao trước khi đại quân vào tới. Muộn quá thì không cần tới phân đội của chúng ta nữa và do đó cũng không hoàn thành được nhiệm vụ…”.
Tại chiến trường cầu Rạch Chiếc, phải đến đêm 29 tháng Tư, sau khi tổ chức lại lực lượng, các chiến sĩ đặc công biệt động Z23 đã bất ngờ tiến đánh khiến những người bên kia chiến tuyến bỏ chạy.
Đơn vị chốt giữ cầu cho đến khi chiếc xe tăng đi đầu thuộc Lữ đoàn 203 binh đoàn Hương Giang qua cầu, tiến vào Sài Gòn lúc 9 giờ 30 phút sáng 30 tháng Tư. Để rồi sau đó, lá cờ chiến thắng của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam đã tung bay trên nóc Dinh Độc Lập vào lúc 11 giờ 30 phút sáng hôm ấy.
Giờ đây, khi nói về Lữ đoàn 316 Đặc công Biệt động Sài Gòn, Đại tá Tư Cang đánh giá, những chiến công của đơn vị là những dấu mốc quan trọng, góp phần tô điểm cho toàn bộ bức tranh Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử.
Sau chiến tranh, Lữ đoàn đã rút gọn thành Trung đoàn 316 thuộc Bộ Tham mưu - Quân khu 7, sau đó đơn vị còn tham gia Chiến tranh biên giới Tây Nam và bảo vệ biên giới phía Bắc trước khi giải thể vào cuối năm 1980, hoàn thành vẻ vang sứ mệnh lịch sử.
Trong căn nhà nhỏ, Đại tá Tư Cang hồ hởi khoe, với những thành tích oai hùng ấy, Lữ đoàn 316 Đặc công Biệt động Sài Gòn một thời ông giữ chức vụ Chính ủy được Nhà nước trao tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân vào tháng 4/2015. Trong đó có 7 cá nhân được tuyên dương Anh hùng.
Được thành lập vào ngày 20/3/1974 với mục tiêu tham gia tiến công giải phóng Sài Gòn, chỉ hơn 1 năm sau ngày ra đời, Lữ đoàn 316 Đặc công Biệt động Sài Gòn đã lập nhiều chiến công thầm lặng, góp phần vào công cuộc giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.
theo Infonet

QĐ 1 thọc sâu giải phóng Sài Gòn và trận đánh ngoài kế hoạch: Kết cục hết sức bất ngờ!

Đại tá Nguyễn Khắc Nguyệt |
QĐ 1 thọc sâu giải phóng Sài Gòn và trận đánh ngoài kế hoạch: Kết cục hết sức bất ngờ!
Ảnh minh họa.

Tiểu đoàn trưởng Nguyễn Như Hoạt ngồi trên 1 xe tăng T-54 dẫn đầu đội hình. Đến một ngã ba, anh hỏi người dẫn đường: "Đi đường nào?" thì té ngửa bởi câu trả lời: "Tôi không biết!".

Trong chiến tranh, những bản kế hoạch được lập ra dù có chi tiết đến đâu song cũng không thể lường được hết những tình huống sẽ xảy ra trong thực tế. Và chính những tình huống ngoài kế hoạch ấy đôi khi mang lại những kết cục hết sức bất ngờ.
Bản kế hoạch hoàn hảo
Trong Chiến dịch Hồ Chí Minh, Quân đoàn I đảm nhiệm hướng tiến công từ phía Bắc vào Sài Gòn với mục tiêu chủ yếu là đánh chiếm Bộ Tổng Tham mưu và khu các Bộ Tư lệnh binh chủng của quân đội VNCH.
Để hoàn thành nhiệm vụ được giao, Bộ tư lệnh Quân đoàn quyết định sử dụng Sư đoàn 320B được tăng cường binh khí kỹ thuật tiến công trên hướng chủ yếu của Quân đoàn, tổ chức đột phá thọc sâu vào giải phóng Sài Gòn, đánh chiếm Bộ tổng tham mưu, khu Bộ tư lệnh các binh chủng ở Gò Vấp và chi khu Gia Định.
QĐ 1 thọc sâu giải phóng Sài Gòn và trận đánh ngoài kế hoạch: Kết cục hết sức bất ngờ! - Ảnh 1.
Trên hướng tiến công thứ yếu, quân đoàn sử dụng Sư đoàn 312 được tăng cường binh khí kỹ thuật tiến công chia cắt, ngăn chặn, bao vây cô lập tiến tới tiêu diệt Sư đoàn 5 VNCH, không cho chúng co cụm hoặc rút chạy về Sài Gòn.
Bộ tư lệnh Quân đoàn nhấn mạnh: "Cả hai hướng tiến công đều hỗ trợ cho nhau, cùng thống nhất một mục đích thực hiện nhiệm vụ chính của Quân đoàn là đánh nhanh, đánh mạnh, táo bạo thọc sâu đánh chiếm các mục tiêu chủ yếu được phân công trong thành phố Sài Gòn".
Về phía Sư đoàn 320B, sư đoàn trưởng Lưu Bá Xảo quyết định:
Sử dụng một phần lực lượng của Trung đoàn 27 kết hợp với bộ đội địa phương tiến công các cứ điểm phòng thủ vòng ngoài, thực hiện mở cửa để đưa lực lượng thọc sâu vào chiến đấu theo hai hướng.
QĐ 1 thọc sâu giải phóng Sài Gòn và trận đánh ngoài kế hoạch: Kết cục hết sức bất ngờ! - Ảnh 2.
Bộ đội Tăng Thiết giáp huấn luyện chiến đấu binh chủng hợp thành.
Hướng chủ yếu: Sử dụng Trung đoàn 48 được tăng cường xe tăng, xe bọc thép và được hỏa lực cấp trên chi viện tổ chức thành mũi thọc sâu bằng cơ giới, có nhiệm vụ phối hợp với đơn vị bạn nhanh chóng thọc sâu vào nội đô đánh chiếm Bộ Tổng tham mưu quân đội VNCH.
Toàn bộ lực lượng thọc sâu ngồi trên các phương tiện cơ giới. Đơn vị dẫn đầu đội hình là Tiểu đoàn 1 do tiểu đoàn trưởng Nguyễn Như Hoạt - Anh hùng LLVTND chỉ huy ngồi trên xe tăng, xe thiết giáp và một số ô tô. Tổng số phương tiện cơ giới của hướng này là gần 200 xe.
Hướng thứ yếu: Sử dụng Trung đoàn 27 được tăng cường xe tăng, xe thiết giáp và được hỏa lực cấp trên chi viện tiến công quân địch ở Búng, Lái Thiêu rồi đột nhập nội đô đánh chiếm khu các Bộ Tư lệnh binh chủng ở Gò Vấp và Chi khu quân sự Gia Định.
Phương châm chung của các mũi hướng thọc sâu là vòng tránh, bỏ qua các mục tiêu nhỏ lẻ để hướng đến mục tiêu chủ yếu. Khi không thể vòng tránh thì sử dụng một lực lượng thích hợp tiêu diệt địch, còn đại bộ phận lực lượng vẫn nhanh chóng cơ động đánh chiếm mục tiêu chủ yếu.
Nói chung, đây là một kế hoạch khá hoàn hảo, đã được Bộ Tư lệnh quân đoàn và các cơ quan dày công xây dựng. Nếu thực hiện đúng, mũi thọc sâu của Trung đoàn 48 sẽ không phải đánh trận nào ở tuyến phòng thủ vòng ngoài mà sẽ dồn toàn bộ lực lượng để đột nhập nội đô và đánh chiếm mục tiêu Bộ Tổng Tham mưu VNCH.
QĐ 1 thọc sâu giải phóng Sài Gòn và trận đánh ngoài kế hoạch: Kết cục hết sức bất ngờ! - Ảnh 4.
Bộ đội Tăng Thiết giáp huấn luyện chiến đấu.
Tình huống ngoài dự kiến
Sau khi thực hiện cuộc hành quân "Thần tốc" vượt gần 2.000 km từ Ninh Bình vào có mặt tại miền Đông Nam Bộ để tham gia Chiến dịch Hồ Chí Minh, một trong những khó khăn đối với cán bộ, chiến sĩ Quân đoàn I là phải tác chiến trên một địa bàn mới lạ, không thông thuộc địa hình, đường sá.
Để giải quyết khó khăn này, Bộ Chỉ huy Miền đã bố trí các đồng chí cán bộ, chiến sĩ người địa phương dẫn đường cho quân chủ lực cơ động. Đội hình hướng thọc sâu của Trung đoàn 48 được một chiến sĩ Biệt động thành dẫn đường.
Đêm 28.4.1975, đội hình thọc sâu bắt đầu xuất phát. Tiểu đoàn trưởng Nguyễn Như Hoạt ngồi trên 1 chiếc xe tăng T-54 dẫn đầu đội hình. Khi đến một ngã ba, anh hỏi người dẫn đường: "Đi đường nào?" thì té ngửa bởi câu trả lời: "Tôi không biết!".
Tiểu đoàn trưởng Hoạt hỏi cho rõ thêm thì được biết: "Là biệt động thành, chỉ biết đường nội đô, còn ngoài này thì chịu!". Thật là một tình huống oái oăm, dẫn đường lại không biết đường. Tình huống ngoài kế hoạch đầu tiên đã xuất hiện.
Sau khi xem xét kỹ trên bản đồ, ngoài thực địa và báo cáo cấp trên, Tiểu đoàn trưởng Hoạt chọn con đường bên trái. Đó là một con đường có vẻ tốt hơn, đủ khả năng cơ động cho xe tăng, xe cơ giới các loại.
Tuy nhiên, không ai nghĩ việc lựa chọn con đường đó đã dẫn đội hình tới thẳng Chi khu quân sự Tân Uyên. Bọn địch ở đây đã tiếp đón mũi thọc sâu rất nhiệt tình, 1 xe tăng K63-85 trúng tên lửa chống tăng bốc cháy, các chiến sĩ trên xe đều hy sinh. Hỏa lực địch còn làm một số bộ binh bị thương.
QĐ 1 thọc sâu giải phóng Sài Gòn và trận đánh ngoài kế hoạch: Kết cục hết sức bất ngờ! - Ảnh 5.
Các chiến sĩ biệt động Sài Gòn trong ngày chiến thắng.
Không thể vòng tránh, không thể bỏ qua, chỉ còn một lựa chọn duy nhất: Đánh để mở thông đường. Và trận đánh ngoài kế hoạch đã nổ ra.
Sau khi tạm dừng tìm vị trí ẩn nấp tránh hỏa lực địch, qua điện đài tiểu đoàn trưởng Hoạt đã thống nhất phương án tác chiến trong đơn vị và báo cáo cấp trên, đồng thời đề nghị hỏa lực cấp trên chế áp quân địch.
Sau khoảng 10 phút hỏa lực chuẩn bị - trong đó có cả pháo cao xạ 37mm hạ nòng bắn thẳng, Tiểu đoàn 1 của Trung đoàn 48 chia thành 3 mũi đồng loạt xung phong đánh chiếm chi khu. Tiểu đoàn trưởng Nguyễn Như Hoạt ngồi trên xe tăng trực tiếp chỉ huy chiến đấu trên hướng chính diện.
Lúc này, phía VNCH đưa máy bay đến chi viện. Chúng sà xuống ném các loại bom vào đội hình mũi thọc sâu ở phía sau. Tuy nhiên, chúng đã không còn làm chủ bầu trời. Những loạt đạn cao xạ thẳng căng và tên lửa phòng không vác vai A72 đã đánh bật chúng lên cao, hầu hết bom đạn rơi vào chỗ trống.
Sau khoảng 40 phút chiến đấu, quân ta đã hoàn toàn làm chủ chi khu quân sự Tân Uyên, đánh tan Tiểu đoàn bảo an 316, bắt sống tiểu đoàn trưởng và 35 tên khác, thu 25 xe quân sự, 2 pháo 105mm cùng nhiều trang bị khác. Và điều quan trọng nhất: Đường về giải phóng Sài Gòn đã thông!
Ngay lập tức, đội hình mũi thọc sâu tràn lên nhằm thẳng hướng Sài Gòn và trưa 30.4.1975, họ đã làm chủ cơ quan Bộ Tổng Tham mưu quân VNCH như kế hoạch đã đề ra.
Những tình huống xảy ra ngoài kế hoạch thường là hết sức bất ngờ. Tuy nhiên, nếu cán bộ chiến sĩ có bản lĩnh vững vàng, được rèn luyện thường xuyên thì cũng không phải là điều gì quá đáng ngại.
(Ghi theo lời kể của Trung tướng Nguyễn Như Hoạt, Anh hùng LLVTND, nguyên tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 1, Trung đoàn 48, Sư đoàn 320B)
theo Trí Thức Trẻ

Xe tăng Việt Nam vừa hành quân 2.000 km đã đánh thắng oanh liệt: Điều kỳ diệu xảy ra

Đại tá Nguyễn Khắc Nguyệt |
Xe tăng Việt Nam vừa hành quân 2.000 km đã đánh thắng oanh liệt: Điều kỳ diệu xảy ra
Lữ đoàn xe tăng 203 huấn luyện chiến đấu. Ảnh minh họa.

Đưa xe tăng vào tham gia chiến đấu trên chiến trường miền Nam là niềm mơ ước thường trực của các lãnh đạo tại Đại bản doanh cũng như của Binh chủng Tăng Thiết giáp (TTG).

Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta, chiến trường B2 là chiến trường xa hậu phương nhất nên việc tiếp tế gặp rất nhiều khó khăn. Đặc biệt, việc đưa các trang bị vũ khí có trọng lượng lớn như xe tăng, xe thiết giáp vào đó lại còn khó khăn hơn nữa.
Phải đến cuối tháng 3 năm 1972, những đơn vị xe tăng đầu tiên của Quân đội nhân dân Việt Nam mới có mặt tại chiến trường này sau khi vượt gần 2.000 km đường dã chiến. Điều kỳ diệu là vừa có mặt, các chiến sĩ xe tăng đã được giao nhiệm vụ chiến đấu ngay và đã chiến thắng oanh liệt trong trận Lộc Ninh.
Ước mơ đã trở thành hiện thực
Với những ưu thế về hỏa lực, sức cơ động và khả năng phòng hộ, xe tăng luôn được đánh giá là lực lượng đột kích quan trọng, nhiều khi là chủ yếu của lục quân.
Vì vậy, đưa xe tăng vào tham gia chiến đấu trên các chiến trường miền Nam là niềm mơ ước luôn thường trực trong tiềm thức các lãnh đạo tại Đại bản doanh cũng như của Binh chủng Tăng Thiết giáp (TTG).
Xe tăng Việt Nam vừa hành quân 2.000 km đã đánh thắng oanh liệt: Điều kỳ diệu xảy ra - Ảnh 1.
Tuy nhiên, vì nhiều lý do - cả nguyên nhân khách quan và chủ quan, việc đưa xe tăng vào chiến trường gặp rất nhiều khó khăn.
Chưa có điều kiện biến ước mơ thành hiện thực song cấp trên vẫn quyết định đưa hàng trăm cán bộ, chiến sĩ xe tăng (XT) hành quân bộ vào B2 từ giữa những năm 60 với hai nhiệm vụ: chuẩn bị chiến trường và nếu có điều kiện thì lấy xe địch đánh địch.
Song song với đó, ở hậu phương, sau khi đánh thắng trận đầu ở Làng Vây (2.1968), đặc biệt là sau chiến dịch phản công Đường 9 - Nam Lào thì việc đưa xe tăng vào chiến trường đã được xúc tiến mạnh hơn.
Tháng 11 năm 1971, Tiểu đoàn XT 297 nhận lệnh hành quân vào B3 (Tây Nguyên). Tiếp đó, hai tiểu đoàn 20 và 21 lần lượt nhận lệnh hành quân vào B2 (Miền Đông Nam Bộ). Thời gian tiếp theo, một số đơn vị nữa tiếp tục lên đường vào B1 (Khu Năm) và bổ sung cho B2, B3.
Xe tăng Việt Nam vừa hành quân 2.000 km đã đánh thắng oanh liệt: Điều kỳ diệu xảy ra - Ảnh 2.
Lữ đoàn xe tăng 203 huấn luyện chiến đấu. Ảnh minh họa.
Sau hơn 3 tháng hành quân, vượt gần 2.000 km đường quân sự làm gấp với bao đèo cao, sông sâu dưới sự ngăn chặn quyết liệt của không quân Mỹ, cuối tháng 3 năm 1972, những đơn vị đầu tiên của Tiểu đoàn XT 20 đã đến vị trí tập kết tại phía tây căn cứ Lộc Ninh.
Vậy là ước mơ đưa xe tăng vào chiến trường miền Nam - kể cả nơi xa xôi nhất như B2 đã trở thành hiện thực.
Tham gia đánh trận then chốt mở màn chiến dịch - Đoạt cờ "Đánh giỏi"
Thời điểm đầu năm 1972, trên chiến trường miền Đông Nam Bộ có 2 hướng chính mà quân lực Việt Nam cộng hòa (VNCH) hết sức quan tâm và tăng cường phòng thủ. Đó là hướng Đường 22 từ Campuchia qua Tây Ninh về Sài Gòn và hướng Đường 13 từ Campuchia qua Lộc Ninh, Bình Long về Sài Gòn.
Phối hợp với các mặt trận khác trong cuộc Tổng tiến công chiến lược năm 1972, Bộ Tư lệnh Miền quyết định mở chiến dịch Nguyễn Huệ với mục tiêu đề ra là giải phóng một phần các tỉnh Binh Long, Phước Long, Tây Ninh làm nơi đóng trụ sở của Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam (CHMNVN).
Đồng thời, đây sẽ là bàn đạp uy hiếp Sài Gòn từ hướng Bắc và Tây Bắc.
Căn cứ vào tình hình mọi mặt Bộ Tư lệnh chiến dịch quyết định tiến công địch trên hai hướng. Trong đó, hướng Đường 13 là hướng chủ yếu, hướng đường 22 là hướng thứ yếu. Trận then chốt mở đầu chiến dịch sẽ là trận tiến công căn cứ Lộc Ninh.
Căn cứ Lộc Ninh nằm trên một quả đồi, cách thị trấn Lộc Ninh khoảng 800 mét. Lực lượng VNCH đồn trú ở đây gồm có Sở chỉ huy Chiến đoàn 9, Chi khu quân sự Lộc Ninh, trận địa pháo hỗn hợp, sân bay dã chiến. Tổng quân số khoảng hơn 1.000.
Xe tăng Việt Nam vừa hành quân 2.000 km đã đánh thắng oanh liệt: Điều kỳ diệu xảy ra - Ảnh 4.
Lữ đoàn xe tăng 409 (Quân khu 1) huấn luyện chiến đấu.
Đặc biệt, hệ thống công sự ở đây khá kiên cố, có nhiều hầm bê-tông cốt thép. Xung quanh căn cứ có 5 - 6 lớp rào thép gai xen kẽ bãi mìn chống bộ binh.
Ngoài ra, bảo vệ vòng ngoài căn cứ còn 13 đồn lẻ và có sự chi viện của không quân, pháo binh từ căn cứ Hồng Tâm và Thiết đoàn 1 từ căn cứ Hoa Lư. Đánh giá chung, căn cứ Lộc Ninh là một cụm cứ điểm rất mạnh, quân đông, hệ thống công sự vật cản rất kiên cố, vững chắc.
Để đảm bảo chắc thắng cho trận mở đầu then chốt của chiến dịch, mặc dù xe tăng T-54 chưa vào đến nơi song Bộ Tư lệnh chiến dịch Nguyễn Huệ vẫn quyết định sử dụng Sư đoàn bộ binh 5 chủ lực của Miền được tăng cường Đại đội XT10, Đại đội cao xạ tự hành (CXTH) 52 cùng một số phân đội hỏa lực khác tiến công căn cứ này vào ngày 5.4.1972.
Ngoài ra, để tạo điều kiện thuận lợi cho trận đánh, Bộ Tư lệnh Miền còn tổ chức các đòn đánh nghi binh bên hướng Đường 22, đồng thời bố trí lực lượng đón lõng phục kích quân địch từ căn cứ Hoa Lư về chi viện cho Lộc Ninh.
Vừa hành quân một chặng đường dài vào đến nơi đã nhận lệnh đi chiến đấu, cán bộ chiến sĩ Tiểu đoàn xe tăng 20 đã chấp hành nghiêm chỉnh mệnh lệnh cấp trên, bắt tay ngay vào tiến hành công tác chuẩn bị chiến đấu.
Một mặt, cán bộ các cấp tham gia đi trinh sát thực địa, một mặt cán bộ chiến sĩ ở nhà trần lưng ra làm công tác kỹ thuật, hiệu chỉnh vũ khí, bổ sung nhiên liệu, đạn dược, đảm bảo cho 9 xe tăng T-54 và 3 xe cao xạ tự hành ZSU-57-2 đều tham gia chiến đấu được.
Có một khó khăn là khi tổ chức cho trưởng xe, lái xe đi trinh sát đường cơ động thì mọi ngả đường đều gặp địch nên bộ đội xe tăng phải đắp bàn cát và tổ chức hiệp đồng với nhau ngay tại vị trí tập kết. Mặc dù vậy, trận đánh vẫn diễn ra theo đúng kế hoạch.
Ngày 5.4.1972, Trung đoàn 2 của Sư đoàn bộ binh 5 bắt đầu tiến công và thực hiện vây lấn địch trong căn cứ.
Ngày 6.4.1972, Thiết đoàn 1 VNCH từ căn cứ Hoa Lư cơ động về giải vây cho Lộc Ninh rơi vào bẫy phục kích, bị tiêu diệt gọn. Trung tá Nguyễn Đức Dương, Thiết đoàn trưởng bị bắt sống.
Đêm 6.4, rạng ngày 7.4, xe tăng cơ động từ vị trí tập kết lên tuyến triển khai. Máy bay AC130 lên không kích chặn đường. Đại đội CXTH 52 nổ súng bắn rơi 1 máy bay AC130, đảm bảo xe tăng đến đích đúng thời gian quy định.
Đúng 5 giờ sáng ngày 7.4.1972, tận dụng kết quả vây lấn của Trung đoàn 2 và hỏa lực chuẩn bị của pháo binh, Trung đoàn BB 3 và Đại đội XT10, Đại đội CXTH52 đồng loạt tiến công trên 2 hướng vào căn cứ Lộc Ninh.
Hết sức bất ngờ vì sự xuất hiện của xe tăng Quân giải phóng (QGP), tinh thần binh lính VNCH "xuống đến gót chân" nên nhanh chóng tan rã.
Vì vậy, chỉ sau hơn 2 giờ chiến đấu QGP đã làm chủ hoàn toàn căn cứ Lộc Ninh, tiêu diệt và bắt sống hơn 1.000 tên địch - trong đó có Đại tá Nguyễn Công Vĩnh, chỉ huy trưởng Chiến đoàn 9.
Trận Lộc Ninh là trận đánh hiệp đồng binh chủng quy mô lớn đầu tiên ở chiến trường miền Đông Nam Bộ đã thắng lợi rực rỡ, mở ra một trang sử mới trong hoạt động tác chiến tại chiến trường này.
Riêng Đại đội XT10, sau trận này được Bộ chỉ huy Miền tặng cờ "ĐÁNH GIỎI".
theo Trí Thức Trẻ

Tình huống hy hữu trên đường xuất kích của xe tăng VN: Trúng mìn - Số "đen" thì phải chịu!

Đại tá Nguyễn Khắc Nguyệt |
Tình huống hy hữu trên đường xuất kích của xe tăng VN: Trúng mìn - Số "đen" thì phải chịu!
Lữ đoàn xe tăng 201 tham gia diễn tập hiệp đồng quân binh chủng với Sư đoàn bộ binh 3, Quân khu 1. Ảnh minh họa: Dangcongsan.vn

Tráng từ từ mở mắt ra rồi nhỏm dậy, lẩm bẩm: "Xe tôi bị mìn phải không anh?". Toàn xác nhận rồi nhắc Trường: "Vào xe xem có cậu nào làm sao không?"

Lệnh hành quân cấp tốc...
Tại chân Động Truồi, sau khẩu lệnh "Dỡ cố định!", cả 5 xe tăng của Đại đội xe tăng 4, Lữ đoàn 203 nhanh chóng chặt, tháo dây cố định và ném tất cả những gì vướng víu trong xe, ngoài xe xuống vệ đường.
Các pháo hai Khoái và Lực được giao nhiệm vụ trông giữ đồng đồ này. Dỡ cố định xong, toàn đại đội nhanh chóng xuất kích lên chiếm "tuyến triển khai".
Đội hình đại đội thành một hàng dọc. Đi đầu là xe 386 của Đại đội trưởng Bùi Quang Thận, tiếp đó là 381 của trung đội trưởng Trung đội 1 Mai Hồng Trị, 380 của trưởng xe Nguyễn Đình Luông, 387 của trung đội trưởng Trung đội 2 Phạm Xuân Tráng, cuối cùng là 390 của chính trị viên Vũ Đăng Toàn.
Con đường 14 đoạn này nhỏ hẹp như một con đường độc đạo, chỉ vừa hai băng xích xe tăng nhưng các xe vẫn không giảm tốc độ vì pháo hỏa chuẩn bị đã bắt đầu rồi.
Tình huống hy hữu trên đường xuất kích của xe tăng VN: Trúng mìn - Số đen thì phải chịu! - Ảnh 1.
Húc đổ cổng Dinh Độc Lập, xe tăng QGP đánh chiếm mục tiêu quan trọng bậc nhất.
... nhưng "số nhọ"
Dỡ cố định chậm hơn một chút nên hai xe 387 và 390 chạy sau đội hình chính hơi xa. Trong khi xe 386 và hai xe của trung đội Một bắt đầu rẽ lên sườn đồi thì xe của Tráng mới đến khúc cua cách đó gần năm trăm mét, Tráng giục lái xe Thanh: "Chạy nhanh lên chứ! Sao bỏ xa đội hình thế kia?".
Tình huống hy hữu trên đường xuất kích của xe tăng VN: Trúng mìn - Số đen thì phải chịu! - Ảnh 2.
Lái xe Thanh nghiến răng tống số bốn và tăng ga, chiếc xe lao đi phăm phăm, ngay cả khi vào cua nó cũng chỉ hơi giảm tốc độ. Bỗng tất cả trước mắt Thanh tối sầm, một tiếng nổ dữ dội vang lên ngay dưới bụng xe, Thanh cảm thấy không thể điều khiển được chiếc xe nữa và gục đầu xuống kính lái.
Vừa giục lái xe tăng tốc độ xong, trưởng xe Tráng nhổm hẳn người chống hai tay lên cánh cửa trưởng xe để quan sát. Bỗng có một mãnh lực nào đó hất tung anh lên và ném xuống buồng truyền động phía sau.
Từ phía sau chính trị viên Vũ Đăng Toàn thấy một quầng bụi trùm kín xe Tráng, anh biết xe 387 đã vướng mìn nên giục lái xe Tập tăng tốc độ. Xe vừa dừng đằng sau xe 387 Toàn đã hô: "Tất cả xuống xe xem bên 387 có ai việc gì không?".
Tình huống hy hữu trên đường xuất kích của xe tăng VN: Trúng mìn - Số đen thì phải chịu! - Ảnh 3.
Những người lính trên xe tăng 390 và 843 là cán bộ chiến sĩ thuộc lực lượng giải phóng có mặt sớm nhất ở Dinh Độc Lập ngày 30/4/1975. Ảnh: Francoise Demulder, Bảo tàng LSQS.
Toàn và pháo hai Trường là những người xuống xe đầu tiên. Cả hai giật mình khi thấy Tráng nằm bất động trên buồng truyền động, còn hai chiến sĩ công binh bị hất khỏi xe đang rên rỉ bên vệ đường. Trèo lên xe Toàn vỗ mạnh vào vai Tráng: "Tráng! Tráng! Tỉnh lại đi!"
Tráng từ từ mở mắt ra rồi nhỏm dậy, lẩm bẩm: "Xe tôi bị mìn phải không anh?". Toàn xác nhận rồi nhắc Trường: "Vào xe xem có cậu nào làm sao không?".
Pháo hai Trường chui vào trong xe. Trong buồng chiến đấu khói bụi chưa tan hết nhưng vẫn nhìn thấy pháo thủ Phong đang nằm gục đầu trên hộp điều khiển pháo, pháo hai Thành ngồi dựa lưng vào thành xe, còn lái xe Thanh gục đầu vào kính lái, cả ba đều bất tỉnh nhân sự.
Trường vội lay gọi Thành, rồi Phong. Cả hai đều mở mắt nhưng ngơ ngác không hiểu điều gì đã xảy ra. Lúc này cả lái xe Tập, pháo thủ Nguyên cũng đã trèo lên xe và đang kéo lái xe Thanh ra ngoài.
Phải mất mấy phút cả xe 387 mới định thần lại được. Nhìn xuống mặt đường dưới bụng xe thấy hai cái hố nằm cạnh nhau. Thì ra đây là một cặp 2 quả mìn chứ không phải một quả riêng lẻ.
Cặp mìn "đúp" đã làm bay cả trục bánh dẫn hướng và hơn chục mắt xích, sức mạnh của nó làm bật khóa cửa an toàn nên cả Thanh, Thành và Phong đều bị sức ép. Phong còn bị cửa an toàn đập vào làm gẫy xương cẳng chân. Riêng có Tráng bị hơi thuốc nổ hất ra ngoài nhưng chỉ bị choáng nhẹ.
Nhìn lên trời không thấy hỏa lực chuẩn bị nữa Toàn vội nói: "Tớ phải đi ngay. Tráng ở đây lo khắc phục và đưa anh em đi viện nhé!". Ngay sau đó xe 390 tìm đường vòng tránh vượt lên tham gia chiến đấu.
Sau khi xe 390 đi khỏi, trưởng xe Tráng vội tổ chức đưa Thành và Phong đi quân y, "cũng may có một số anh em công binh đi cùng chứ nếu không chẳng biết trông cậy vào ai" Tráng thầm nghĩ.
Tình huống hy hữu trên đường xuất kích của xe tăng VN: Trúng mìn - Số đen thì phải chịu! - Ảnh 5.
Từ trái qua phải,Vũ Đăng Toàn, Ngô Sĩ Nguyên, Lê Văn Phượng, Nguyễn Văn Tập bên xe tăng 390 đang trưng bày tại Dinh Thống Nhất.
Đưa thương binh đi xong xuôi, trưởng xe Tráng bảo lái xe Thanh: "Nghiên cứu xem có khắc phục được không?"
Sau cơn choáng lúc đầu giờ lái xe Thanh đã tỉnh hẳn, cậu ta chui xuống gầm xe quan sát và phát hiện ra hai cái hố. Thì ra đây là hai quả mìn chôn khá gần nhau, khi xích xe đè lên quả này nổ đã kích nổ cả quả thứ hai ở giữa bụng xe nên mới bẻ gãy khóa cửa an toàn được.
Về mặt lý thuyết thì trong trường hợp này có thể không cần đến bánh dẫn hướng mà nối xích vòng qua bánh chịu nặng cũng có thể cơ động tạm thời được để đưa xe về vị trí trạm kỹ thuật sẽ khắc phục sau. Đã được học về điều đó nên lái xe Thanh quyết định sẽ làm như vậy.
Thanh chui vào xe ấn nút khởi động. Thấy động cơ vẫn làm việc cậu phấn khởi lắm và bảo Tráng: "Bây giờ ta nối xích qua bánh chịu nặng thứ nhất là vẫn có thể chạy được!". Tráng lập tức đồng ý.
Thế là hai anh em cởi trần ra cắt xích, nối xích mất gần một tiếng thì xong. Băng xích bên trái không có bánh dẫn hướng trông thật buồn cười, "y như thằng cụt chân", Thanh nghĩ bụng vậy.
Sau khi nhìn ngó trước sau, Tráng xoa hai bàn tay lấm lem dầu mỡ vào nhau và bảo: "Tiến lên, lùi lại một tý xem có điều khiển được không?". Sau đó anh ra trước đầu xe để chỉ huy.
Thanh nổ máy, vào số rồi cho xe tiến lên độ ba mét thì dừng lại gật gật đầu ra ý tốt. Tráng cũng gật đầu rồi xoè bàn tay ra đẩy về phía sau. Thanh gài số lùi, thả ly hợp, cậu kéo cần lái thử xem xe có chuyển hướng theo không, cái đầu cậu ta vẫn gật gà gật gù ra chiều đắc ý lắm.
Bỗng "ầm" một tiếng, một đụn khói từ phía sau xe bốc lên trùm kín chiếc xe, hơi thuốc nổ đẩy Tráng nằm ngã ngửa "tênh hênh" xuống mặt đường. Lái xe Thanh mặt tái mét, cậu không hiểu đầu cua tai nheo ra làm sao nữa.
Đến lúc khói đã tan, hai anh em cũng đã trấn tĩnh được mới dám lò mò ra phía sau quan sát: cả cái bánh chủ động và gần chục miếng xích đã bị quẳng đi đâu mất. Ngay chỗ đó là một cái hố toang hoác đang ngún khói.
Thủ phạm gây ra tiếng nổ và làm bay bánh chủ động của xe là quả mìn thứ ba. Ngồi phịch xuống mặt đường đầy bụi Tráng ngao ngán than: "Đúng là số ăn mày! Ba xe kia nó đi trước có sao đâu, đến xe mình thì lại bị. Đã thế lại bị những ba quả thì còn gì là xe nữa?"
Thật là "may hơn khôn! Số đã nhọ rồi thì phải chịu thôi". Nhưng quả thật cũng là một tình huống hy hữu: Vẫn con đường độc đạo đó, 3 xe 386, 381, 380 đi trước không sao mà xe thứ tư lại bị. Và không chỉ 1 quả!
theo Trí Thức Trẻ

Đầu xuân 1975, quân ta giải phóng miền Nam, thống nhất hoàn toàn Tổ quốc

B.T sưu tầm, SGK Sử 9 |
Đầu xuân 1975, quân ta giải phóng miền Nam, thống nhất hoàn toàn Tổ quốc

Tận dụng ưu thế và thời cơ có lợi cho cách mạng, Bộ Chính trị quyết định mở một loạt chiến dịch mùa xuân năm 1975, tiến tới thống nhất đất nước.

Chủ trương, kế hoạch giải phóng hoàn toàn miền Nam
Cuối năm 1974 đầu năm 1975, trong tình hình so sánh lực lượng ở miền Nam thay đổi mau lẹ có lợi cho cách mạng, Bộ Chính trị Trung ương Đảng đề ra kế hoạch giải phóng hoàn toàn miền Nam trong hai năm 1975 và 1976.
Kế hoạch giải phóng đề ra là hai năm, nhưng Bộ Chính trị lại nhấn mạnh: "Nếu thời cơ đến vào đầu hoặc cuối năm 1975, thì lập tức giải phóng miền Nam trong năm 1975". Bộ Chính trị cũng phân tích rõ sự cần thiết tranh thủ thời cơ đánh thắng nhanh để đỡ thiệt hại về người và của cho nhân dân, giữ gìn tốt cơ sở kinh tế, công trình văn hoá..., giảm bớt sự tàn phá của chiến tranh.
Đầu xuân 1975, quân ta giải phóng miền Nam, thống nhất hoàn toàn Tổ quốc - Ảnh 1.
Bộ chỉ huy chiến dịch Hồ Chí Minh Xuân 1975
Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1975
Thực hiện kế hoạch giải phóng miền Nam, ta tập trung chủ lực mạnh với vũ khí, kĩ thuật hiện đại, mở chiến dịch quy mô lớn ở Tây Nguyên – địa bàn chiến lược quan trọng. Trong trận then chốt mở màn ở Buôn Ma Thuột ngày 10 - 3 - 1975, ta đã nhanh chóng giành thắng lợi. Ngay 12 - 3 - 1975, địch phản công định chiếm lại Buôn Ma Thuột, nhưng không thành. Hệ thống phòng thủ của địch ở Tây Nguyên rung chuyển. quân địch mất tinh thần, hàng ngũ rối loạn.
Ngày 14 - 3 - 1975, địch rút toàn bộ quân khỏi Tây Nguyên về giữ vùng duyên hải miền Trung. Trên đường rút chạy, chúng bị quân ta truy kích tiêu diệt. Đến ngày 24 - 3 - 1975, Tây Nguyên hoàn toàn được giải phóng.
Đầu xuân 1975, quân ta giải phóng miền Nam, thống nhất hoàn toàn Tổ quốc - Ảnh 2.
Lược đồ chiến dịch Tây Nguyên
Nhận thấy thời cơ chiến lược đến nhanh, hết sức thuận lợi ngay khi chiến dịch Tây Nguyên đang tiếp diễn, Bộ Chính trị có quyết định kịp thời thực hiện kế hoạch giải phóng Sài Gòn và toàn miền Nam, trước tiên tiến hành chiến dịch giải phóng Huế - Đà Nẵng.
Ngoy 21 - 3, quân ta đánh thẳng vào căn cứ địch ở Huế, chặn các đường rút chạy của chúng, hình thành thế bao vây địch trong thành phố. Đúng 10 giờ 30 ngày 25 - 3, quân ta tiến vào cố đô Huế; đến ngày 26 – 3, giải phóng thành phố và toàn tỉnh Thừa Thiên.
Đầu xuân 1975, quân ta giải phóng miền Nam, thống nhất hoàn toàn Tổ quốc - Ảnh 3.
Quân giải phóng tiến vào cố đô Huế
Cùng thời gian này, quân ta tiến vào giải phóng thị xã Tam Kì, Quảng Ngãi, Chu Lai... tạo thêm một hướng uy hiếp Đà Nẵng từ phía nam.
Đầu xuân 1975, quân ta giải phóng miền Nam, thống nhất hoàn toàn Tổ quốc - Ảnh 4.
Lược đồ chiến dịch Huế - Đà Nẵng
Đà Nẵng, thành phố lớn thứ hai ở miền Nam, một căn cứ quân sự liên hợp lớn nhất của Mĩ và quân đội Sài Gòn, rơi vào thế cô lập. Sáng 29 – 3, quân ta từ ba phía bắc, tây, nam tiến thẳng vào thành phố. Đến 3 giờ chiều, toàn bộ thành phố Đà Nẵng được giải phóng.
Đầu xuân 1975, quân ta giải phóng miền Nam, thống nhất hoàn toàn Tổ quốc - Ảnh 5.
Các đơn vị thần tốc tiến về giải phóng Xuân Lộc, mở cửa ngõ phía đông Sài Gòn
Trước khi bắt đầu chiến dịch giải phóng Sài Gòn (mang tên chiến dịch Hồ Chí Minh), quân ta tiến công Xuân Lộc và Phan Rang – những căn cứ phòng thủ trọng yếu của địch bảo vệ Sài Gòn từ phía đông.
Đầu xuân 1975, quân ta giải phóng miền Nam, thống nhất hoàn toàn Tổ quốc - Ảnh 6.
Lược đồ chiến dịch Hồ Chí Minh
Trước việc tuyến phòng thủ bị chọc thủng (Phan Rang 16 - 4, Xuân Lộc 21 - 4), nội bộ Mĩ và quân đội Sài Gòn càng thêm hoảng loạn. Ngày 18 - 4 Tổng thống Mĩ ra lệnh di tản hết người Mĩ khỏi Sài Gòn Ngày 21 – 4, Nguyễn Văn Thiệu tuyên bố từ chức Tổng thống.
5 giờ chiều 26 - 4, chiến dịch Hồ Chí Minh bắt đầu. Năm cánh quân cùng lúc vượt qua tuyến phòng thủ vòng ngoài của địch tiến vào trung tâm Sài Gòn, đánh chiếm các cơ quan đầu não của chúng.
Đầu xuân 1975, quân ta giải phóng miền Nam, thống nhất hoàn toàn Tổ quốc - Ảnh 7.
Xe tăng quân giải phóng tiến vào Dinh Độc lập ngày 30 – 4 – 1975
10 giờ 45 phút ngày 30 - 4, xe tăng của ta tiến thẳng vào Dinh Độc lập, bắt sống toàn bộ Chính phủ Trung ương Sài Gòn, Tổng thống Việt Nam Cộng hòa Dương Văn Minh đã phải tuyên bố đầu hàng không điều kiện. 11 giờ 30 phút cùng ngày, lá cờ cách mạng tung bay trên nóc tòa nhà Phủ Tổng thống, báo hiệu sự toàn thắng của chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử.
Sau giải phóng Sài Gòn, lực lượng vũ trang và nhân dân các tỉnh còn lại, thừa thắng nhất tề đứng lên tiến công và nổi dậy. Đến ngày 2 - 5, tỉnh cuối cùng ở miền Nam được giải phóng là tỉnh Châu Đốc. Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1975 kết thúc thắng lợi.
Đầu xuân 1975, quân ta giải phóng miền Nam, thống nhất hoàn toàn Tổ quốc - Ảnh 8.
Lược đồ cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1975
Ý nghĩa lịch sử, nguyên nhân thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước (1954 - 1975)
Ý nghĩa lịch sử
Cuộc kháng chiến chống Mĩ, cứu nước thắng lợi đã kết thúc 21 năm chiến đấu chống Mĩ và 30 năm chiến tranh giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945; chấm dứt ách thống trị của chủ nghĩa đế quốc ở nước ta. Trên cơ sở đó, hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước, thống nhất đất nước.
Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mĩ, cứu nước mở ra kỉ nguyên mới cho lịch sử dân tộc – kỉ nguyên đất nước độc lập, thống nhất, đi lên chủ nghĩa xã hội.
Thắng lợi của nhân dân ta, thất bại của đế quốc Mĩ đã tác động mạnh đến tình hình nước Mĩ và thế giới, là nguồn cổ vũ to lớn đối với phong trào cách mạng thế giới, nhất là đối với phong trào giải phóng dân tộc.
Đầu xuân 1975, quân ta giải phóng miền Nam, thống nhất hoàn toàn Tổ quốc - Ảnh 9.
Nhân dân Sài Gòn mít tinh mừng đất nước thống nhất
Thắng lợi đó "Mãi mãi được ghi vào lịch sử dân tộc ta một trong những trang chói lọi nhất, một biểu tượng sáng ngời về sự toàn thắng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng và trí tuệ con người, đi vào lịch sử thế giới như một chiến công vĩ đại của thế kỉ XX, một sự kiện có tầm quan trọng quốc tế to lớn và có tính thời đại sâu sắc".
Nguyên nhân thắng lợi
Cuộc kháng chiến chống Mĩ, cứu nước thắng lợi nhờ có sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng với đường lối chính trị, quân sự độc lập, tự chủ, đường lối tiến hành đồng thời cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam.
Nhân dân ta ở hai miền đoàn kết nhất trí, giàu lòng yêu nước, lao động cần cù, chiến đấu dũng cảm vì sự nghiệp giải phóng miền Nam, xây dựng và bảo vệ miền Bắc, thống nhất nước nhà. Hậu phương miền Bắc không ngừng lớn mạnh, có khả năng đáp ứng kịp thời các yêu cầu của cuộc chiến đấu ở hai miền.
Thắng lợi đó là nhờ có sự phối hợp chiến đấu, đoàn kết giúp đỡ nhau trong đấu tranh chống kẻ thù chung của ba dân tộc ở Đông Dương; sự đồng tình, ủng hộ, giúp đỡ to lớn của các lực lượng cách mạng, hoà bình, dân chủ trên thế giới, nhất là của Liên Xô, Trung Quốc và các nước xã hội chủ nghĩa khác.
Xem tiếp...