Dai Chung la su suy ngam cua toi ve cuoc doi, xa hoi, nhan sinh
TỔ TIÊN THIÊN CỔ 06/b (Thời dựng nước)
Nhận đường liên kết
Facebook
X
Pinterest
Email
Ứng dụng khác
-
(ĐC sưu tầm trên NET)
HÙNG VƯƠNG Dựng Nước VĂN LANG Vào Lúc Nào - Cương Vực Xích Quỷ So Với Văn Lang Ra Sao
Nội dung: Nước Văn Lang được hình thành vào khoảng năm 2879 TCN và kết
thúc vào năm 258 TCN (tức là thế kỷ thứ III TCN) bởi An Dương Vương Thục
Phán.
Sự ra đời của nước Văn Lang dù còn sơ khai và có phần sớm khi trong xã
hội phân hóa chưa sâu sắc (như do tác động mạnh mẽ của yêu cầu thuỷ lợi
và chống ngoại xâm thúc đẩy cho sự ra đời sớm) nhưng đã đánh dấu một
bước phát triển mạnh mẽ có ý nghĩa thời đại của lịch sử Việt Nam- mở đầu
thời đại dựng nước và giữ nước đầu tiên của dân tộc.
Thời đại Hùng Vương tồn tại khoảng 2000 năm trước công nguyên tính tới nay gọi là 4000 năm văn hiến. Chia làm hai thời kỳ: Thời kỳ bộ lạc khoảng từ thế kỷ 10 trước công nguyên trở về trước, ứng với văn hóa Đồng Đậu – Phùng Nguyên. Thời kỳ dựng nước Văn Lang khoảng từ thế kỷ 10 trước công nguyên đến giữa thế kỷ 3 trước công nguyên ứng với văn hóa Gò Mun – Đông Sơn. Nước Văn Lang thời xưaLịch sử hình thành và phát triển nước Văn Lang
Thời kỳ đầu dựng nước Văn Lang có 18 đời vua Hùng
Vương (năm 2879 tới năm 258 tr. Công nguyên) chia làm hai giai đoạn :
giai đoạn đầu gồm nhà nước Văn lang và nhà nước Âu Lạc. Thời đại Hùng Vương với 18 triều đại tức 18 Chi kéo
dài 2.581 năm. Chi Hùng Vương đầu tiên là Chi Cán có hiệu vua Kinh Dương
Vương húy là Lộc Tục với số năm giữ vương quyền là 86 (từ 2879-2794 tr.
CN). Sách Việt Nam sử lược của Trần Trọng Kim chép rằng :”Cứ theo tục
truyền thì vua Đế Minh cháu ba đời của vua Thần Nông đi tuần thú phương
Nam đến núi Ngũ Lĩnh (thuộc tỉnh Hố Nam – Trung Quốc) gặp một nàng tiên
lấy nhau đẻ ra người con tên là Lộc Tục. Sau Đế Minh truyền ngôi cho con
trai trưởng là Đế Nghi lam vua phương Bắc và phong cho Lộc Tục làm vua
phương Nam, xưng là Kinh Dương Vương, quốc hiệu là Xích Quỹ.” Bờ cõi
nước Xích Quỷ bấy giờ Bắc giáp Động Đình hồ (tỉnh Hồ Nam), phía Nam giáp
nước Hồ Tôn (nước Chiêm Thành), phía Tây giáp Ba Thục (tỉnh Tứ Xuyên),
phía Đông giáp biển Nam Hải.
Vẫn theo Việt Nam sử lược và Sổ tay Báo cáo viên năm 2005, Chi thứ
hai là Chi Khan hiệu vua là Lạc Long Quân (2793-2525) húy Sùng Lãm lấy
con gái vua Đế Lai tên là Âu Cơ và đẻ ra một lần được một trăm người con
trai rồi chia đôi, kẻ lên núi người xuống biển. Khoa Khảo cổ học, Dân
tộc học và Tiền sử đã giúp cho các nhà nghiên cứu sử học xác định dân
Bách Việt thời thượng cổ đã sinh tụ dàn trải khắp đất nước Trung Hoa,
trước ở Hoa Bắc rồi vượt sông Hòang Hà xuống sinh tụ ở Hoa Nam sau khi
bị Hán tộc đánh đuổi đi và nhà nước Văn Lang được thành lập có cương vực
như lãnh thổ Bắc Bộ ngày nay kể luôn cả tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An.Nước Văn Lang
do 15 bộ lạc hợp thành là: Văn Lang, Giao Chỉ, Việt Thường, Vũ Ninh,
Quân Ninh, Gia Ninh, Ninh Hải, Lục Hải, Thanh Tuyền, Cửu Đức, Chu Diên,
Tân Xương, Bình Văn, Kê Từ, Bắc Đái (theo VSL).Kinh đô là Phong Châu
(nay thuộc tỉnh Vĩnh Phú và có đền thờ các vua Hùng). Các vua Hùng thay
nhau làm chủ đất nước đầu tiên của dân Việt (Lạc Việt), tới đời thứ 18
là vua cuối cùng thuộc Chi Quý hiệu Hùng Duệ Vương húy Huệ Lang (408-258
Tr. CN).
Vào khoảng năm 218 (tr.CN) cuối đời Hùng Vương thứ 18, Tần Thủy Hoàng
sau khi tiêu diệt 6 nước ở Hoa Bắc, Hoa Trung (Tề, Sở, Yên, Hàn, Triệu,
Ngụy, Tần) đã đưa quân tràn xuống phía Nam đánh chiếm tiếp Hoa Nam
thuộc vùng Lĩnh Nam (ta có sách ghi chép các sự kiện huyền thoại trong
sách “Lĩnh nam trích quái”) gồm các tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây rồi xâm
phạm nước Văn Lang (không có người lạnh đạo – có thể vua Hùng 18 đã qua
đời nhưng không người thay thế) do tướng Đồ Thư lãnh đạo 50 vạn quân.
Cuộc kháng chiến (vào rừng đánh du kích) của nhân dân Văn lang với quân
xâm lược nhà Tần kéo dài từ năm 214 đến năm 208 (Tr.CN) thì châm dứt do
Tần Thủy Hoàng qua đời. Thời gian này, dân Lạc Việt (nước Văn Lang) liên
kết với dân Tây Âu do Thục Phán (một thủ lĩnh nước Thục, nay thuộc tỉnh
Tứ Xuyên, di cư tới đất Âu Lạc nắm lấy cơ hội – theo nhà nghiên cứu
Bình Nguyên Lộc) lãnh đạo chống quân xâm lược phương Bắc nên đã chuyển
sang nước Âu Lạc ra đời với tên vua tự xưng là An Dương Vương (257-207
tr.CN) đóng đô ở Cổ Loa, nay thuộc huyện Đông Anh, Hà Nội. Về Mô hình xã hội nước Văn Lang
– Đứng đầu đất nước là vua Hùng thế lập cha truyền con nối.
– Giúp việc bên cạnh vua có các quan Lạc hầu (gọi là Hồn)
– Lạc tướng là chức quan cai quản một bộ (tức bộ lạc cũ).
– Dưới Lạc tướng là chức Bồ chính đứng đầu các làng, bản.
– Dân gọi là Lạc dân – Lạc dân làm kinh tế gia đình nộp tỷ lệ nhỏ sản
phẩm cho Nhà nước Văn Lang. Nghề chính là cấy lúa nước kết hợp với chăn
nuôi trâu bò, lợn gà, đánh cá, săn bắn. Ngoài ra còn có các nghề thủ
công như làm gốm, chế tác đồ đá, đan lát tre nứa, đan lưới, dệt vải, nấu
đúc đồng, rèn sắt, đóng thuyền, sản xuất đồ gỗ, đồ mỹ nghệ v.v… Đã xuất
hiện một bộ phận làm nghề buôn bán đổi chác.
– Có một tỷ lệ nhỏ nô tỳ (gọi là xảo xứng thần bộc nữ lệ) phục vụ gia
đình quí tộc trong nhà nước Văn Lang. Ở nước ta không thiết lập chế độ
chiếm hữu nô lệ, đại đa số dân trong nước là dân tự do tức Lạc dân. Quan
hệ giữa Vua Hùng và Lạc dân rất gần gũi “cùng cày ruộng, cùng tắm sông,
cùng săn bắn, cùng xem hội” sử cũ gọi là “đời hồn nhiên” (Lĩnh Nam
chích quái thế kỷ 15).
Căn cứ vào lời tâu của Mã Viện lên vua nhà Hán về tình hình Âu Lạc
trước khi nhà Hán xâm lược và đô hộ nước ta, có thể nói, bấy giờ nhà
nước Văn Lang đã có pháp luật để điều chỉnh xã hội. Sách “Hậu Hán thư”
viết: luật của người Việt so sánh với luật Hán hơn mười điều. Cũng có
thể “luật Việt” mà sách Hậu Hán thư ghi theo lời tâu của Mã Viện là một
thứ luật tục (tập quán pháp chứ chưa phải là luật pháp thành văn). Sách
thường ghi cư dân nước ta bấy giờ là người Lạc Việt và quốc hiệu là Văn
Lang do vua Hùng đặt. Đời sống vật chất nước Văn Lang:
– Ăn: Lương thực chủ yếu là gạo tẻ, gạo nếp nấu cơm;
bữa ăn có thịt, cá, cua, lươn, ốc, ếch, rau, dưa, cà, kiệu. Gia vị dùng
hành, tỏi, gừng, riềng, nghệ, ớt và nhiều loại rau thơm. Đã biết làm
nhiều loại bánh kẹo, quốc tục là bánh dày, bánh chưng. Rượu dùng cúng
lễ, cưới xin. tiệc ngọc, đãi khách.
– Ở: Kiểu nhà sàn là chủ yếu. Cung điện lầu các của vua cũng làm theo lối gác sàn.
– Mặc: Vải còn hiếm. Ngày thường nữ mặc váy ngắn và
yếm che ngực, nam đóng khô cởi trần. Ngày hội nữ mặc áo và váy dài, nam
mặc áo và quần dài, đầu chít khăn cài lông chìm, tay đeo vòng, cổ đeo
hạt chuỗi, tai đeo hoa.
– Đời sống tinh thần:
Tín ngưỡng trời đất, núi sông, thần lúa, tổ tiên, linh hồn người qua đời và các vật thiêng khác.
Cư dân thích trang trí nhà cửa đồ dùng, thích đồ trang sức, rất yêu văn
nghệ ca hát nhảy múa. Nhạc cụ có sáo, nhị, kèn, trống, chiêng, cồng, mõ,
đàn bầu. Ca dao tục ngữ và chuyện kể đã phát triển.
– Về quốc phòng:
Lực lượng quân sự có quân thường trực và quân hương dũng (dân binh), vũ
khí có gậy, tay thước, giáo, lao, nồ, rìu chiến, dao găm. Hành quân đĩ
bộ hoặc đi thuyền, các vị tướng cưỡi ngụa hoặc voi. Trường huấn luyện
quân sĩ đặt ở cẩm Đội (Thụy Vàn).
– Về ngoại giao:
Phương lược ngoại giao của các Vua Hùng là mềm dẻo thân thiện và bảo vệ
chủ quyền. Đời Chu Thành Vương, vua sai đem biếu con chim trĩ trắng, vua
Chu biếu lại cỗ xe chỉ Nam*. Song đa cự tuyệt gay gắt và chuẩn bị đối
phó khi Việt Vương Câu Tiễn muốn ép làm chư hầu.”
– Kinh đô nước Văn Lang:
Triều Hùng Vương đóng đô à thành Văn Lang (nay là Việt Trì). Tập truyền rằng:
– Cung điện nhà vua dựng ở gò Làng cả thôn Việt Trì (khu Mì Chính).
– Tháp Lọng (Kim Đức) là nơi các Lạc Hầu ở.
– Cẩm Đội (Thụy Vân) đặt trường huấn luyện quân sĩ.
– Nông Trang là nơi đặt kho thóc của nhà vua.
– Chợ Lú là chợ mua bán lúa gạo.
– Đồng Lú Minh Nông là xứ đồng vua dạy dân cấy lúa nước.
– Gò Tiên Cát là nơi dựng lầu kén chồng cho công chúa Ngọc Hoa và xẩy ra câu chuyện Sơn Tinh – Thủy Tinh.
– Xứ đồng Hương Trầm hoàng tử Lang Liêu trồng lúa nếp thơm, làm bánh dày, bánh chưng.
– Lầu Thượng, Lầu Hạ là khu lầu các vợ con vua ố.
– Thậm Thình là tiếng tượng thanh nhắc lại làng đó đã có lần giã gạo mấy ngày đêm, dâng vua.
– Làng Khang Phụ, làng cổ Tích có mộ của các vua Nước Văn Lang dù còn ở hình thức sơ khai và có phần
sớm với sự phân hoá xã hội chưa sâu sắc nhưng đã đánh dấu một bước phát
triển có ý nghĩa thời đại của lịch sử Việt Nam – mở đầu thời đại dựng
nước và giữ nước của dân tộc.
Vào khoảng các thế kỉ VIII - VII TCN, ở vùng đồng bằng ven các sông lớn thuộc Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ ngày nay.
1. Nhà nước Văn Lang ra đời trong hoàn cảnh nào?
Vào
khoảng các thế kỉ VIII - VII TCN, ở vùng đồng bằng ven các sông lớn
thuộc Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ ngày nay, đã dần dần hình thành những bộ
lạc lớn, gần gũi nhau về tiếng nói và phương thức hoạt động kinh tế, sản
xuất phát triển. Trong các chiềng, chạ, một số người giàu lên, được bầu
làm người đứng đầu để trông coi mọi việc ; một số ít nghèo khổ, phải
rơi vào cảnh nô tì. Mâu thuẫn giữa người giàu và người nghèo đã nảy sinh
và ngày càng tăng thêm.
Việc mở rộng nghề nông trồng lúa nước ở vùng đồng bằng ven các con sông lớn gặp nhiều khó khăn.
Vì vậy, cần phải có người chỉ huy đứng ra tập hợp nhân dân các làng bản chống lại lụt lội, bảo vệ mùa màng.
Đất đai ở các vùng không giống nhau nên cuộc sống của người dân cũng khác nhau.
Các làng bản có giao lưu với nhau nhưng cũng có xung đột.
Xung
đột không chỉ xảy ra giữa người Lạc Việt với các tộc người khác mà còn
giữa các bộ lạc Lạc Việt với nhau, cần phải giải quyết các cuộc xung đột
đó để sống yên ổn ổn. Nhà nước Văn Lang đã ra đời trong hoàn cảnh phức
tạp nói trên.
Sử cũ viết: “Hùng Vương lên ngôi, đặt tên nước là Văn Lang, chia nước làm 15 bộ, đóng đô ở Bạch Hạc (Việt Trì - Phú Thọ)”
3. Nhà nước Văn Lang được tổ chức như thế nào?
Sử
cũ viết: “Hùng Vương lên ngôi, đặt tên nước là Văn Lang, chia nước làm
15 bộ, đóng đô ở Bạch Hạc (Việt Trì - Phú Thọ)”. Vua giữ mọi quyền hành
trong nước, “các bộ đều thần thuộc". Đặt tướng văn là Lạc hầu, tướng võ
là Lạc tướng. Con trai vua là Quan lang, con gái vua là Mị nương". “Đời
đời cha truyền con nối, đều gọi là Hùng Vương”.
Đứng
đầu các bộ là Lạc tướng. Đứng đầu các chiềng, chạ là Bồ chính. Trong
chiềng, chạ, những người già được tôn trọng, thường giúp Bồ chính giải
quyết việc sản xuất, chia phần ruộng cày cấy, giải quyết các mối bất hòa
của dân làng.
Nhà nước Văn Lang chưa
có luật pháp và quân đội. Khi có chiến tranh, vua Hùng và các Lạc tướng
huy động thanh niên trai tráng ở các chiềng, chạ tập hợp lại, cùng
chiến đấu.
TRUYỀN THUYẾT VỀ NHÀ NƯỚC VĂN LANG RA ĐỜI NHƯ THẾ NÀO?
Mỗi dân tộc, mỗi quốc gia đều có cách giải thích khác nhau về nguồn gốc
loài người. Nếu dân tộc Việt Nam có "Lạc Long Quân và Âu Cơ", thế giới
có muôn vàn câu chuyện khác để kể...Truyền thuyết về Bàn Cổ (Trung
Quốc), Truyền thuyết về thần Atum (Ai Cập), Truyền thuyết về âm thanh
khởi thủy (Hindu), Truyền thuyết về Izanagi và Izanami (Nhật Bản),
Truyền thuyết về người khổng lồ Ymir (Thần thoại Bắc Âu)...
Còn đây là Truyền thuyết Lạc Long Quân và Âu Cơ (Việt Nam):
Theo truyền thuyết Việt Nam, Lạc Long Quân và Âu Cơ là tổ phụ và tổ mẫu
của người Việt. Tương truyền, Âu Cơ là con gái của vua Đế Lai. Trong
khi đi tuần thú phương Nam, ông đã để Âu Cơ lại trên một cái động. Khi
Lạc Long Quân đi đến đây thì thấy nàng xinh đẹp nên đã đem lòng yêu mến
và cưới về làm vợ. Lạc Long Quân và Âu Cơ ăn ở với nhau được chừng
hơn một năm thì sinh hạ được một cái bọc, cho đó là điềm chẳng lành nên
vất ra ngoài đồng. Bảy ngày sau, bọc ấy nở thành một trăm cái trứng, mỗi
trứng lại nở thành một người con trai. Lạc Long Quân bèn đón về nhà
nuôi, chẳng cần cho bú mớm mà các con người nào cũng tự lớn, trí dũng
song toàn, ai trông thấy cũng đều kính phục, cho là đàn con phi thường.
Nhưng, Lạc Long Quân cứ ở mãi dưới Thủy phủ, khiến cho mẹ Âu Cơ cứ phải
chịu cảnh lẻ loi, cho nên, cũng muốn trở về đất Bắc. Khi mẹ con Âu Cơ
dắt díu nhau về đến biên giới, Hoàng đế hay tin, lấy làm lo sợ, bèn sai
quân ra canh giữ các cữa ải, vì thế, mẹ Âu Cơ không thể về Bắc được, đêm
ngày cứ gọi Lạc Long Quân rằng:
Bố ơ nơi nào, Mà sao nỡ để, Mẹ con buồn đau.
Lạc Long Quân liền về, gặp Âu Cơ ở Tương Dã, Âu Cơ vừa khóc vừa nói rằng:
- Thiếp vốn người phương Bắc, cùng chàng ăn ở với nhau mà sinh hạ được
trăm đứa con trai, giờ chẳng biết nương tựa vào đâu mà nuôi nấng chúng
được, vậy, thiếp xin theo chàng, xin chàng đừng ruồng bỏ, làm cho thiếp
làm kẻ không chồng, các con thành kẻ không cha, thực là đau khổ lắm. Lạc Long Quân nói:
- Ta giống rồng, đứng đầu các loài dưới nước, còn nàng giống tiên, làm
người trên đất. Tuy âm dương khí tụ mà sinh con nhưng không sao đoàn tụ
được vì hai giống tương khắc như nước với lửa, thật khó bề bền lâu. Nay,
đành phải chia li, ta mang năm mươi con trai về thủy phủ và chia cho
chúng cai trị các nơi, còn năm mươi người con theo nàng ở lại trên đất,
chia nước mà cai trị. Khi lên ngàn hay xuống nước, có việc thì phải gắn
bó với nhau mà làm, chớ rời bỏ nhau.
Cả trăm người con trai cùng
nghe theo rồi cùng nhau tạm biệt. Âu Cơ và năm mươi người con trai đến
đất Phong Châu, tức vùng huyện Bạch Hạc, cùng nhau tôn người con trưởng
lên làm vua, xưng hiệu là Hùng Vương và đặt tên nước là Văn Lang.
Nước ấy, về phía đông thì giáp Nam Hải, về phía nam thì giáp nước Hồ Tôn
( nay là nước Chiêm Thành ), về phía tây thì giáp nước Ba Thục, còn
phía bắc thì giáp Động Đình. Nước chia thành mười lăm bộ, gồm:
Giao Chỉ Châu Diên Ninh Sơn Phúc Lộc Việt Thường Ninh Hải Dương Tuyền Quế Dương Vũ Ninh Y Hoan Cửu Chân Nhật Nam Chân Định Quế Lâm Tượng Quận
Vua sai các em chia cai trị. Dưới vua có các chức quan văn võ gọi là
Lạc Tướng. Con trai của vua thì gọi là Quan Lang, con gái của vua thì
gọi là Mỵ Nương, chức Tư Mã thì gọi là Bồ Chính, kẻ nô bộc thì gọi là
Trâu, nô tì thì gọi là Tinh và các quan khác thì gọi là Khối. Các chức
đời đời cha truyền con nối, gọi là Phụ Đạo. Vua truyền ngôi cho nhau đều
lấy hiệu là Hùng Vương chứ không thay đổi".
Lời bàn: Lạc Long
Quân và Âu Cơ, tiên rồng kỳ ngộ, vậy mà mối tình trần tục làm sao! Bạn
đang băn khoăn về sự huyền bí đến độ phi lí chung quanh chuyện mẹ Âu Cơ
sinh hạ bọc trăm trứng chăng? xin bạn chớ bận tâm, bởi vì có cổ tích nào
lại không bồng bềnh trong những chi tiết hư ảo đại loại như thế?
Người bốn phương muôn thuở vẫn thân ái gọi nhau là đồng bào, tình ruột
thịt chung bọc trứng Âu Cơ ngàn năm còn đó. Dân tộc Việt Nam được coi là
con Rồng cháu Tiên cũng từ đó mà ra.
Lòng người xưa lấp lánh tỏa sáng mãi trong sử cũ bạn có thấy không? ----- Nguồn tham khảo: Việt sử giai thoại I... #AdmB41
Cho đến nay, sử sách đều thừa nhận quốc hiệu đầu tiên của nước ta
là Văn Lang. Văn Lang tương ứng với thời kỳ các vua Hùng, và được gọi
chung là Thời đại Hồng Bàng. Do nguồn gốc dân tộc ta là Lạc Việt, nên
sau này có thành ngữ “Con Lạc cháu Hồng”, hay “dòng giống Lạc Hồng”…
Theo sách “Lĩnh Nam chích quái” thì nước Văn Lang đông giáp Nam
Hải, tây tới Ba Thục, bắc tới Động Đình hồ, nam tới nước Hồ Tôn (Chiêm
Thành). Chia nước làm 15 bộ (còn gọi là quận) là Việt Thường, Giao Chỉ,
Chu Diên, Vũ Ninh, Phúc Lộc, Ninh Hải, Dương Tuyền, Lục Hải, Hoài Hoan,
Cửu Chân, Nhật Nam, Chân Định, Văn Lang, Quế Lâm, Tượng Quận
Theo bộ “Đại Việt Sử ký Toàn thư” thì Văn Lang có 15 bộ tương tự
như được nêu trong Lĩnh Nam chích quái nhưng tên gọi các bộ có khác một
ít: Giao Chỉ, Chu Diên, Vũ Ninh, Phúc Lộc, Việt Thường, Ninh Hải, Dương
Tuyền, Lục Hải, Vũ Định, Hoài Hoan, Cửu Chân, Bình Văn, Tân Hưng, Cửu
Đức và Văn Lang là bộ nơi vua đóng đô.
Như vậy, cả huyền thoại (Lĩnh Nam chích quái) lẫn sử thành văn (Đại
Việt sử ký toàn thư) đều thừa nhận và giới thiệu về nước Văn Lang. Tuy
nhiên, từ lâu tôi thường tự hỏi: Vậy thì thực chất nước Văn Lang ở đâu?
Đặt ra câu hỏi ấy, có thể các bạn cho rằng tôi “ấm ớ”. Nhưng hãy
đọc lại đi, nước Văn Lang có địa giới cương vực như Lĩnh Nam chích quái
nói, tức là “bắc tới hồ Động Đình”, tức là gồm phần đất Nam Trung Quốc,
bao gồm Quảng Đông, Quảng Tây, Giang Tây, Phúc Kiến, Hồ Nam, Quý Châu và
đảo Hải Nam bây giờ của Trung Quốc.
Địa danh Động Đình hồ còn liên quan với địa danh gọi là Núi Ngũ
Lĩnh, đó là 5 ngọn núi chia Trung Hoa thành 2 khu vực Nam và Bắc. Ngũ
Lĩnh cách Động Đình Hồ vài trăm dặm về phía Nam. Cho nên, sử cũ tự nhận
phần đất của người Việt là Lĩnh Nam.
Sau này, cương vực có thay đổi, đến đời Triệu Đà lập nước Nam Việt,
thì phần biên giới nước Nam Việt có co lại, chỉ gồm đại bộ phận Quảng
Đông, Quảng Tây và Nam Quý Châu ngày nay (và Bắc Việt Nam ngày nay).
Theo các nhà sử học, đặc biệt là ông Trần Đại Sỹ đã đi điền dã tại Nam
Trung Hoa, ông khẳng định rằng, khởi nghĩa Hai Bà Trưng chính là xảy ra
trên phần đất nước Nam Việt cũ, lan lên cả phần đất giáp Hồ Động Đình,
nơi địa giới của người Bách Việt. Tại các tỉnh Nam Trung Hoa, đều có đền
thờ Vua Bà chống quân Hán.
Tóm lại: Nước Văn Lang theo quan niệm sử Việt, là phần đất phát
tích của các bộ tộc Bách Việt, trong đó có bộ Văn Lang, mà thủ lĩnh là
Hùng vương đóng đô ở Phong Châu. Khi đó, Hùng vương là tộc trưởng hùng
mạnh nhất đã chinh phục và hàng phục các bộ tộc khác ở phía Nam núi Ngũ
Lĩnh (Trung Quốc). Âm vang của nước Văn Lang còn phản chiếu qua nước Nam
Việt của Triệu Đà, và cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng nhằm “phục quốc”
dựng lại nước Văn Lang. Các cụ tổ Việt Nam vẫn coi Triệu Đà là nhà nước
đầu tiên của Việt Nam. (Chú ý rằng: Cách dạy lịch sử từ trước đến nay có
2 sai phạm chính: 1/ Bỏ qua nguồn gốc một thời nhà Triệu, từ đó khiến
cho đại đa số học sinh học sử chỉ lầm tưởng rằng cuộc khởi nghĩa Hai Bà
Trưng chỉ diễn ra ở Bắc Việt Nam. 2/ Nước Văn Lang không phải nhà nước
cai quản phần đất thuộc bộ Văn Lang. Bộ Văn Lang ở Phong Châu chỉ là 1
trong 15 bộ của nước Văn Lang rộng lớn.
Hậu quả của việc diễn đạt lịch sử không chân thực, khiến cho chúng
ta không hiểu nổi mấy sự kiện sau: 1/ Đại cáo Bình Ngô của Nguyễn Trãi,
câu mở đầu ghi rõ: “Từ Triệu, Đinh, Lê, Lý, Trần xây nền độc lập…” Nhà
Triệu là nhà nước cai quản phần đất Bắc Việt Nam ngày nay, đối kháng với
nhà Hán. 2/ Vua Quang Trung có lý để tính chuyện đòi đất Quảng Đông,
Quảng Tây đối với nhà Thanh 3/ Hai Bà Trưng hy sinh ở đâu? Chiếm 65
thành của nhà Hán ở đâu, nếu chỉ có Bắc Việt Nam sao có 65 thành…”
Ai là người “sợ” thuyết về nước Văn Lang và nước Nam Việt? Dĩ nhiên
là những nhà chính trị có đầu óc Đại Hán rất không muốn người Việt nào
nhận tổ tông mình xuất phát từ núi Ngũ Lĩnh, không muốn ai đi Quảng Châu
mà lại nghĩ đây là thủ đô xưa của nhà nước dân tộc Việt. Thực sự, do
biến thiên của lịch sử, mà các tộc người hùng mạnh đã không ngừng chinh
phạt, mở rộng bờ cõi, sáp nhập dân cư. Dân tộc Hán đã xâm nhập chiếm đất
và đồng hóa nhiều dân tộc trong Bách Việt, đó là phần sự thật không thể
chối cãi trong lịch sử của họ. Chỉ có Lạc Việt là tự hào đã giữ lại
danh xưng Việt trong quốc hiệu của mình, tự hào là tộc Việt duy nhất còn
tồn tại không bị Hán hóa đến mất tên.
2. Con người của nước Văn Lang?
Theo sử liệu, nước Văn Lang tổ chức nhà nước có Lạc hầu, Lạc tướng,
quan địa phương Bồ Chính, có con gái vua gọi là Mỵ Nương, con trai vua
gọi là Lang (Quan Lang). Sản xuất chủ yếu là lúa nước, săn bắn, đi
thuyền, đồ sinh hoạt có cày, trống đồng, vũ khí là rìu, cung tên.
Điều đáng nói là sinh hoạt tinh thần: tục xăm mình, ăn trầu, nhuộm răng đen, mẫu hệ và thờ cúng tổ tiên.
Tục xăm mình còn được sử thành văn ghi chép, đến thời Trần các vua
đều xăm mình, đến Trần Anh tông mới bỏ. Ăn trầu, nhuộm răng đen thì thế
hệ U60 còn nhìn thấy các cụ ăn trầu nhuộm răng. Mẫu hệ thì mất sớm nhất,
theo làn sóng Hán hóa, do Trung Quốc đô hộ. Cuộc khởi nghĩa Hai Bà
Trưng là một minh chứng về một thời mẫu hệ còn sót lại. Chắc rằng, ngay
cả ở nước Nam Việt, thì nhà nước theo phụ hệ kiểu phong kiến Hán, nhưng
dân chúng vẫn là mẫu hệ. Như vậy, cho đến nay, chỉ còn lại tục thờ cúng
tổ tiên là sót lại, trong sinh hoạt tinh thần của người Việt cổ. Việc
thờ cúng tổ tiên cũng kèm theo tập quán thờ cúng các thần thiên nhiên,
đa thần giáo.
Trích Lĩnh Nam chích quái: "Hồi quốc sơ, dân không đủ đồ dùng, phải
lấy vỏ cây làm áo, dệt cỏ gianh làm chiếu, lấy cốt gạo làm rượu, lấy
cây quang lang, cây tung lư làm cơm (có chỗ viết là uống), lấy cầm thú,
cá, ba ba làm mắm, lấy rễ gừng làm muối, cầy bằng dao, trồng bằng lửa.
Đất sản xuất được nhiều gạo nếp, lấy ống tre mà thổi cơm. Bắc gỗ làm nhà
để tránh hổ sói. Cắt tóc ngắn để dễ đi lại trong rừng rú. Đẻ con ra lấy
lá chuối lót cho nằm, có người chết thì giã cối làm lệnh, người lân cận
nghe tiếng đến cứu. Chưa có trầu cau, việc hôn thú giữa nam nữ lấy gói
đất làm đầu, sau đó mới giết trâu dê làm đồ lễ, lấy cơm nếp để nhập
phòng cùng ăn, sau đó mới thành thân."
Đó là ghi chép của một người Nho học soạn sách Lĩnh Nam chích quái,
theo quan điểm Nho Trung Quốc nhìn về tập tục của người Việt cổ. Đọc
đoạn này, ta có thể hình dung ra người Việt cổ của nước Văn Lang: mặc
quần áo bằng vỏ cây, dùng gạo nếp nương, cất rượu nếp, ở nhà sàn, cắt
tóc ngắn. Chi tiết “giã cối làm lệnh”, nhiều nhà nghiên cứu cho rằng đó
là động tác đánh trống đồng, dùng chày. Còn “việc hôn thú lấy gói đất
làm đầu” thì ngày nay còn cãi nhau xem đó là cái gì… Nhiều bài báo cho
biết, vùng Vĩnh Phúc vẫn còn những làng có tục ăn đất, có thể đó là chìa
khóa giải mã việc “hôn thú lấy gói đất làm đầu” chăng?
B. Hùng vương
1. Hùng vương hay Lạc vương
Trong bộ sử chính thức đầu tiên của Đại Việt do Lê Văn Hưu viết, có
nói đến Hùng vương và nguồn gốc dân tộc Việt, tuy nhiên, bộ sử này đã
thất truyền. chỉ còn lại hình bóng trong các bộ sử “Đại Việt sử ký toàn
thư” do Ngô Sĩ Liên biên soạn. Theo đó, Hùng vương là triều đại phong
kiến đầu tiên của nước ta: “Đế Minh sinh ra Lộc Tục, Lộc Tục sinh ra Lạc
Long Quân. Lạc Long Quân và vợ là Âu Cơ sinh được 100 người con trai,
50 người theo mẹ lên núi cùng suy tôn người con cả lên làm vua, hiệu là
Hùng Vương, đặt tên nước là Văn Lang, đóng đô ở Bạch Hạc - Phú Thọ”
Triều đại Hùng vương kết thúc năm 258 trước Công nguyên, bị Thục Phán An
Dương Vương đánh đổ.
Xét về dân tộc học, thì Hùng vương làm vua trong cương vực của
người Lạc Việt. Trong “triều đình” Hùng vương, quan văn gọi là Lạc hầu,
quan võ là Lạc tướng, quan địa phương là Bồ Chính. Từ tư liệu này, mà có
học giả cho rằng, thực chất vua không phải là “Hùng vương”, mà phải là
“Lạc vương”
Đến đây, phải mở ngoặc một chút. Các cụ ta chép sử, ngay cả Lê Văn
Hưu hay Ngô Sĩ Liên, thì đều tham khảo sử liệu của người Trung Quốc. Mà
người Trung Quốc, khi đến miền đất mới, thì ghi lại (phiên âm) tiếng nói
bằng thứ chữ của họ. Giả sử khi đó, tại đất của Hùng vương, có thứ chữ
bản địa như nòng nọc, thì người Trung Quốc đô hộ cũng đã tiêu diệt rồi,
cho nên sau này, chúng ta chỉ có thể tham khảo sử liệu của cha ông mình
từ chính kho sách của Trung Quốc. Các học giả theo “thuyết Lạc vương”,
cho rằng, ban đầu người Hán viết chữ Lạc vương, trong đó chữ Lạc là 雒. Nhưng người Hán đời sau hoặc người Việt, đã đọc nhầm mặt chữ Lạc thành chữ Hùng 雄. Do
mặt chữ Lạc và Hùng gần giống nhau, chỉ khác bộ bên trái. Vả lại, nghĩa
chữ Hùng cũng đẹp, Hùng là hùng tráng, là giống đực mạnh mẽ, đồng âm
với từ Hùng chỉ con gấu. Từ đó mà hậu thế Đại Việt gọi Lạc vương là Hùng
vương.
Xét về logic và về dân tộc học, thì người Việt thờ phụng Lạc vương
là ông tổ mới chính xác và có nhiều ý nghĩa. Một nguyên nhân khác, là sử
liệu không hề tìm thấy bất cứ chữ “Hùng” nào trong suốt quá trình lịch
sử của dân tộc Lạc Việt. Vô lý vua thì Hùng vương, mà quan lại là Lạc
hầu, Lạc tướng. Hùng cũng không phải là họ, để có thể gọi một triều đại
(như Lý, Trần, Lê) mà là danh xưng của mấy nghìn năm triều đại, vậy phải
là Lạc vương (vua của người Lạc) mới đúng. Do chữ Hùng vương được chấp
nhận lâu rồi, nên chúng ta cứ gọi cụ tổ là các vua Hùng
2. Hùng vương là Vua Khun.
Giáo sư sử học Trần Quốc Vượng, trong một bài báo, đã đặt ra giả
thuyết về chữ Hùng. Giáo sư cho rằng, khi Trung Hoa có xã hội phong kiến
tập quyền là nhà Hạ, nhà Thương, thì ở đất phía Nam của người Lạc Việt,
chưa có nhà nước kiểu như vậy, mà chỉ có các bộ lạc. Trong số các bộ
lạc của người Lạc Việt, tất nhiên có một ông tộc trưởng lớn nhất được
các tộc trưởng khác tôn sùng. Mà tộc trưởng, tiếng bản địa phát âm là
“Khun” hay na ná như thế. Khi người Hán đô hộ, họ coi ông tộc trưởng to
nhất kia như là vua của người Lạc Việt, và gắn vào chữ “vương”. Chữ Hán
không có chữ nào tương tự như “khun”, nên họ phải dùng chữ “Hùng”. Và,
thế là có chữ “Hùng vương” để chỉ tộc trưởng của các tộc trưởng người
Lạc Việt.
3. Hùng vương và Tráng vương.
Một giả thuyết, có vẻ yếu hơn, thì cho rằng, xa xưa có bộ tộc Hùng,
nằm trong khối các bộ tộc Việt. Bởi vì ngay cả khi nhà Hán hùng mạnh,
thì phía Nam Trung Hoa vẫn còn nhà nước Nam Việt của Triệu Đà. Phần đất
đó, cơ bản là nơi sinh sống của các bộ tộc Việt, gọi chung là Bách Việt.
Trong đó, người Việt Nam sau này tự nhận là hậu duệ của Lạc Việt. Thật
ra, phải là Lạc Việt và Tây Âu Việt. Vì khi Thục Phán đánh xong Hùng
vương, thì lập nước Âu Lạc, là hỗn cư của Lạc Việt và (Tây) Âu Việt.
Trong số các bộ tộc Việt, có bộ tộc gọi là Hùng Việt, và có ông vua Hùng
thật sự. Lý luận này cho rằng trong số các bộ tộc Việt, nếu bộ tộc nào
phát triển, lập nên nhà nước thì mới có vua lấy tên dân tộc mình làm
danh xưng. Không có Bộc vương (của Bộc Việt), không có Mân Vương (của
Mân Việt), nhưng lại có Kinh Dương vương (Dương Việt).
Lý luận này có một tư liệu, là hiện nay vùng Quảng Tây còn bộ tộc
gọi là Tráng (giống như Nùng ở Việt Nam). Chữ Tráng khác xa mặt chữ
Hùng, nhưng nghĩa “tráng” gần như hùng tráng. Đó cũng là dấu vết có tính
sử liệu. Mặt khác, người Nùng hiện nay cư trú trên phần đất mà theo
truyền thuyết. 50 người con Lạc Long Quân lên núi. Tâm lý dân tộc khiến
cho đại đa số người tự nhận là con cháu Lạc vương, Hùng vương khó chấp
nhận rằng cụ tổ của mình chính là dân tộc Nùng. Đây cũng chỉ là một giả
thuyết nêu ra bàn cho hết nhẽ mà thôi.
Lĩnh Nam chính quái
thì tôi chưa đọc hết, nhưng Đại Việt sử ký toàn thư thì đọc nhiều rồi.
Các sự kiện lịch sử cũng liên kết. Tôi thấy cũng hơi rối. Rốt cuộc đất
mình ngày xưa đến đâu. Đến hồ động đình hay chỉ miền bắc hiện nay. Thời
Việt vương Câu Tiễn có phải của ta không. Mà nếu Triệu Đà là một phần
của ta sao lại cất quân đánh ta? Xác nhà sử học nên nghiên cứu lại và
phổ biến rộng rãi nội dung này.
Không có Nhà Nước
Văn Lang nào hết, cũng chẳng có Hùng Vương. Tất cả chỉ là một đống huyền
thoại được nhập nhằng rồi gọi thành cổ sử.
Chỉ có duy nhất nhà nước Âu Lạc là vương quốc chính danh đầu tiên
của người Việt. Cần phân biệt sử liệu với những di chỉ chính xác, với
các lới truyền tụng, tự ý thêm bớt của huyền thoại.
Cảm ơn trang này đã cho chúng tôi được tham giáy kiến.
Đã từ mấy năm nay chúng tôi nghiên cứu lại một số vấn đề về ngôn ngữ
học tiếng Việt hiện đại nhất là các từ Hán Việt cổ sử. Có thể nhận thấy
rằng, tiếng và chữ của ta đã bị sử dụng thành một hệ thống âm thanh
khác khi đọc chữ tượng hình của tổ tiên. Khi vùng đất của Đại Việt rơi
vào tay nhà Minh Thanh thì chính sách ngôn ngữ đã làm đảo lộn tất cả.
Loại chữ tượng hình có thể được đọc bằng loại âm thanh của một ngôn ngữ
rất gần tiếng Việt về hình thái, hệ thống âm vị, cấu tạo âm tiết, cấu
trúc cú pháp thì đương nhiên sẽ không hề gặp khó khăn gì. Chính vì vậy,
dân Việt Mường ở những vùng đất này đã mất hết tiếng nói, văn hóa và mất
luôn cả nguồn gốc. Bao nhiêu thời gian thì hoàn thành được công việc
đồng hóa này? Xin đưa ra một con số rắt khiêm tốn là chỉ cần sau 30 năm
là có thể không còn tiếng nói mẹ đẻ nữa. Chữ viết thì không học là mù
luôn. Khi tra cứu trên google.dich thì dịch Việt - trung là khó khăn
nhất. Đương nhiên, phương pháp nghiên cứu của chúng tôi đã phần nào tìm
được con đường di chuyển tín hiệu ngôn ngữ và phát hiện một điều cực kì
kinh ngạc về tên của Hùng Vương, Lạc Vương, Văn Lang. Chúng tôi sẽ hy
vọng được gửi đến mọi người khi hoàn thành nghiên cứu.
Khoảng thế kỉ VII TCN, các vua Hùng đã dựng nên nhà nước đầu tiên trên lãnh thổ nước ta. Đó là nhà nước Văn Lang.
Quốc hiệu Văn Lang có ý nghĩa như thế nào? Đó là câu hỏi mà mỗi người
con đất Việt muốn tìm hiểu khi nhìn lại cội nguồn dân tộc. Bản đồ Nước Văn Lang năm 500 TCN
Hiện tại, ít nhất có ba cách giải thích khác nhau về ý nghĩa của quốc hiệu Văn Lang:
Cách thứ nhất cho rằng: Vì tổ tiên ta có tục xăm mình nên khi lập
quốc mới nhân đó mà đặt quốc hiệu là Văn Lang. Cơ sở thực tiễn của cách
giải thích này nằm ngay trong tính phổ biến của tục xăm mình từng tồn
tại trước và cả sau thời Hùng Vương hàng ngàn năm. Sách Đới Kí của Trung
Quốc gọi nước ta thời Hùng Vương là “Điêu Đề” cũng không ngoài ý nghĩa
này (Điêu nghĩa là chạm, xăm; đề là cái trán. Điêu Đề là xăm hình vào
trán. Thực ra lúc bấy giờ, dân ta không chỉ xăm hình vào trán).
Vì tổ tiên ta có tục xăm mình nên khi lập quốc mới nhân đó mà đặt
quốc hiệu là Văn Lang. Cơ sở thực tiễn của cách giải thích này nằm ngay
trong tính phổ biến của tục xăm mình từng tồn tại trước và cả sau thời
Hùng Vương hàng ngàn năm. Sách của Trung Quốc gọi nước ta thời Hùng
Vương là cũng không ngoài ý nghĩa này ( nghĩa là chạm, xăm; là cái trán.
Điêu Đề là xăm hình vào trán. Thực ra lúc bấy giờ, dân ta không chỉ xăm
hình vào trán).
Cách thứ hai cho rằng: Vì tổ tiên ta có tục nhuộm răng và ăn trầu nên
mới có tên nước là Văn lang. Những người chủ trương theo cách này giải
thích: hai chữ “tân lang” (nghĩa là cây cau) nói trại ra thành Văn Lang.
Cơ sở thực tiễn của cách giải thích thứ hai này chính là tính phổ biến
và sự trường tồn của tục nhuộm răng và ăn trầu. Tuy nhiên, “tân lang” là
từ gốc Hán mà từ gốc Hán chỉ mới xuất hiện ở nước ta bắt đầu từ thời
Bắc thuộc, tức là sau sự khai sinh của Văn Lang rất nhiều thế kỉ. Vì
vậy, cách giải thích này xem ra khó có thể thuyết phục được nhiều người.
Vì tổ tiên ta có tục nhuộm răng và ăn trầu nên mới có tên nước là Văn
lang. Những người chủ trương theo cách này giải thích: hai chữ (nghĩa
là cây cau) nói trại ra thành Văn Lang. Cơ sở thực tiễn của cách giải
thích thứ hai này chính là tính phổ biến và sự trường tồn của tục nhuộm
răng và ăn trầu. Tuy nhiên, là từ gốc Hán mà từ gốc Hán chỉ mới xuất
hiện ở nước ta bắt đầu từ thời Bắc thuộc, tức là sau sự khai sinh của
Văn Lang rất nhiều thế kỉ. Vì vậy, cách giải thích này xem ra khó có thể
thuyết phục được nhiều người.
Cách thứ ba cho rằng: Văn Lang có nghĩa là cộng đồng người lập nghiệp
bên lưu vực những con sông. Chỗ dựa chủ yếu của những người chủ trương
giải thích theo cách này là kết quả nghiên cứu của ngành Ngữ âm học lịch
sử. Theo đó thì:
Văn Lang có nghĩa là cộng đồng người lập nghiệp bên lưu vực những con
sông. Chỗ dựa chủ yếu của những người chủ trương giải thích theo cách
này là kết quả nghiên cứu của ngành . Theo đó thì:
1. Văn là người, nhóm người, tộc người, cộng đồng người,…
2. Lang là sông, đồng nghĩa với giang, với xuyên (trong âm Hán – Việt),
với khoảng (trong tiếng Lào) và với kông (trong tiếng Khmer).
Ghép lại, Văn Lang có nghĩa là cộng đồng người lập nghiệp bên lưu vực những con sông.
Lập luận của những người chủ trương giải thích theo cách thứ ba được
củng cố thêm bởi kết quả của hàng loạt những cuộc khai quật khảo cổ dọc
theo lưu vực sông Hồng và sông Mã. Bởi lẽ này, cách giải thích thứ ba
được nhiều người tán thành nhất.
BẢN CHẤT CỦA PHÁP LUẬT THỜI NHÀ NƯỚC VĂN LANG
Trong truyền thuyết dân gian có những
câu: Vua truyền rằng…, vua ban rằng… Những mệnh lệnh đó được đảm bảo
thực hiện bằng cả sự cưỡng chế nên đó là luật pháp. Cũng theo truyền
thuyết dân gian, những lệnh miệng của vua thưởng được sứ giả truyền đi
các nơi. Ở các cấp chính quyền địa phương, hình thức pháp luật khẩu
truyền thống được dùng để giải quyết những vụ việc cụ thể hoặc đột xuất,
như thăng quan bãi chức, xử tội, tổ chức chống giặc…
Trong điều kiện tổ chức nhà nước còn
đơn giản, việc điều hành bộ máy nhà nước còn chưa phức tạp, khi mà uy
tín của vua và quý tộc quan liêu còn lớn thì hình thức pháp luật khẩu
truyền chắc chắn là có hiệu lực và phổ biến. Ngay đến cả sau này, trong
thời kì phong kiến, tuy luật pháp thành văn được phát triển nhưng hình
thức pháp luật khẩu truyền vẫn xuất hiện thưởng ngày từ vua chúa, quan
lại.
- Pháp luật thành văn: Mặc dù hiện nay
vẫn chưa rõ thời đại Hùng Vương đã có chữ viết hay chưa, nên cũng chưa
biết là thời bấy giở có pháp luật do bộ máy cai trị ban bố hay không.
Tuy nhiên, có thể giả định rằng, khi phạm vi lãnh thổ của nhà nước đã
được mở rộng hơn nhiều so với các thị tộc, bộ lạc thì nhất định phải có
cách thức thể hiện và truyền mệnh lệnh của ngưởi chỉ huy bằng các dấu
hiệu đặc thù, ngắn gọn và cụ thể. Các hình thức biểu hiện đó có thể rất
phong phú, sinh động và đó sẽ là đề tài thú vị cho sự nghiên cứu để tìm
lởi giải đáp.
Về nội dung pháp luật của nhà nước
Văn Lang-Âu Lạc cũng chỉ được phản ánh một cách gián tiếp, mơ hồ trong
truyền thuyết dân gian và thư tịch cổ, trong đó, giữa luật lộ và phong
tục tập quán còn chưa được phân định rõ nét. Tuy nhiên, qua các truyền
thuyết dân gian và thư tịch cổ có thể thấy một số loại quan hệ cơ bản
trong xã hội đã được pháp luật điều chỉnh như:
Về quan hệ hôn nhân gia đình và chế
độ hôn nhân một vợ một chồng, các truyền thuyết Sơn Tinh-Thuỷ Tinh, Tiên
Dung, Chử Đồng Tử, Trầu cau… cho thấy, hôn nhân được cử hành qua hôn
lễ, con gái được cưới về nhà chổng và cũng đã có việc thách cưới, ngưởi
con gáicũng có vai trò chủ động trong hôn nhân và vẫn được tôn trọng
trong gia đình… Về quan hệ tài sản, qua tài liệu khảo cứu về mộ táng,
ngưởi chết cũng được chia tài sản, điều đó chứng tở ngưởi sống khi ra ở
riêng đã được phân chia tài sản. về quan hệ sở hữu ruộng đất, ruộng đất
thuộc quyền sở hữu chung của cả công xã, còn các thành viên chỉ có quyền
chiếm hữu và sử dụng, về hình phạt, ngưởi phạm trọng tội có thể bị phạt
lưu đày, sau khi thụ hình xong có thể được phục hồi quyền lợi (truyền
thuyết Mai An Tiêm) hoặc có thể bị giết chết (truyền thuyết Mỵ Châu –
Trọng Thuỷ)…
Tóm lại, Nhà nước Văn Lang-Âu Lạc đã
có pháp luật nhưng đó là hình thức pháp luật sơ khai và chủ yếu là tập
quán pháp, còn mang đậm tàn dư của chế độ nguyên thuỷ và như Việt sử
lược nhận xét, đó là xã hội có “phong tục thuần hậu chất phác”.
Quảng Bình trong thời kỳ Văn Lang-Âu Lạc
Theo thư tịch và truyền thuyết,
với sự phát triển toàn diện của các cộng đồng dân cư trong thời đại đồ
đồng, đất nước ta bước vào thời kỳ nước Văn Lang, thời kỳ các Vua Hùng
của lịch sử Việt Nam.
Nhà nước Văn Lang được thành lập trên
cơ sở thống nhất các bộ lạc Lạc Việt do nhu cầu trị thuỷ, phát triển
kinh tế, văn hoá xã hội và cùng chống ngoại xâm. Trong các bộ lạc Lạc
Việt có bộ lạc Văn Lang hùng mạnh hơn cả và thủ lĩnh Văn Lang đã đóng
vai trò lịch sử, đứng ra thống nhất các bộ lạc Lạc Việt thành lập nhà
nước Văn Lang. Người đứng đầu nhà nước Văn Lang sử cũ gọi là Hùng Vương
(Vua Hùng) và các đời vua của nhà nước Văn Lang kế tục đều được mang
danh hiệu đó. Lãnh thổ của những cư dân Lạc Việt của nhà nước Văn Lang
là miền Bắc Việt Nam.
Theo sử cũ và truyền thuyết, bấy giờ có khoảng 15 bộ lạc Lạc Việt sinh
sống chủ yếu ở miền trung du và châu thổ. Hàng chục bộ lạc Âu Việt sinh
sống chủ yếu ở tại miền Việt Bắc. Ở nhiều nơi, người Âu Việt và Lạc Việt
sống xem kẻ với nhau và sống cạnh những thành phần dân cư khác".
Theo sự phân chia bộ lạc dưới thời kỳ Văn Lang, Quảng Bình thuộc bộ
Việt Thường, một bộ ở phía nam trong 15 bộ lạc của Nhà nước Văn lang.
Những cư dân của Nhà nước Văn Lang sống chủ yếu nhờ vào trồng trọt
đặc biệt là nghề trồng lúa nước. Do yêu cầu của việc canh tác lúa nước
các công trình trị thuỷ, các công trình tưới tiêu được quan tâm xây
dựng. Cùng với nghề trồng lúa, trồng dâu nuôi tằm và chăn nuôi, nghề thủ
công cũng hình thành và phát triển, đặc biệt là nghề luyện kim đồng
thau. Điển hình của thời đại đồng thau, gắn với việc hình thành Nhà nước
Văn Lang là thời đại đồng Đông Sơn. Đồ đồng Đông Sơn rất phong phú về
thể loại và chủng loại, bao gồm công cụ, vũ khí, đồ trang sức, dụng cụ
gia đình với nhiều hoa văn trang trí độc đáo.
Bấy giờ, cư dân Văn Lang ở Quảng Bình đã biết kế thừa, phát huy những
thành tựu văn hoá của các thời kỳ trước để bước vào thời kỳ đồng thau
nhằm mục đích phát triển kinh tế trồng trọt. Sau thời kỳ đồ đá mới, bước
vào giai đoạn sơ kỳ kim khí, những di tích khảo cổ học ở Khương Hà, Cổ
Giang, Quảng Lưu, Long Đại, Thanh Trạch... chứng tỏ sự kế tiếp của các
thời kỳ văn hoá khá rõ nét. Người ta tìm thấy đồ đồng Đông Sơn ở Quảng
Bình với nhiều loại mũi tên đồng, rìu đồng, lưỡi giáo, cán dao găm, thố
đồng, đồ trang sức bằng đồng và cả trống đồng ở nhiều di chỉ khảo cổ học
khác nhau.
Dấu tích đồ đồng đã phát hiện tại di chỉ Cồn Nền (Quảng Trạch) chứng
tỏ kỹ thuật đúc đồng của cư dân Văn Lang ở Quảng Bình lúc này là phát
triển ở trình độ cao. Trống đồng Phù Lưu (Quảng Trạch) và một số trống
đồng mới phát hiện trên địa bàn Quảng Bình là loại trống đồng được đúc
bằng những chiếc khuôn kín hai hay nhiều mang, một kỹ thuật đặc trưng
của trống đồng Đông Sơn. Đặc biệt, khuôn đúc rìu đồng lưỡi lệch (lưới
xéo) tìm thấy ở Hoá Hợp (Minh Hoá) có hai mang làm bằng đá sa thạch với
kỹ thuật tinh xảo, chứng tỏ những dụng cụ, vũ khí đồ đồng Đồng Sơn của
Quảng Bình đã được đúc tại chỗ.
Công việc luyện kim và đúc đồng đòi hỏi phải có trình độ tổ chức và
kỹ thuật cao, nhất là đối với những hiện vật phức tạp như trống đồng Phù
Lưu, thố đồng Thanh Trạch. Việc tổ chức luyện kim là một quá trình phức
tạp đòi hỏi phải được chuyên môn hoá và phân công lao động. Chính vì
vậy cùng với sự ra đời của việc luyện kim và đúc đồng nghề này đã trở
thành một nghề sản xuất độc lập, tách khỏi nông nghiệp. Do nhu cầu cuộc
sống đòi hỏi và dưới tác động trực tiếp của nghề luyện kim, đúc đồng các
nghề thủ công khác như làm đồ gốm, đồ gỗ, đan lát, đệt vải, làm đồ
trang sức đều có sự phát triển so với giai đoạn trước. Đặc biệt ở Quảng
Bình vào thời kỳ này nghề làm đồ trang sức phát triển. Nhiều loại hạt
chuỗi vòng tay bằng đá quý bên cạnh vòng tay, vòng nhẫn làm bằng đồng
được phát hiện ở nhiều địa điểm Văn hoá Đông Sơn ở Quảng Bình. Ở Quảng
Bình còn tìm được nhiều đồ trang sức làm bằng thuỷ tinh như các loại
vòng tay, hạt chuỗi và khuyên tai có mấu.
Nhờ có kinh tế nông nghiệp và thủ công nghiệp phát triển, đời sống
của các cư dân Văn Lang trên đất Quảng Bình được cải thiện, đời sống
tinh thần của cư dân phong phú hơn. Với các loại trang sức phong phú về
thể loại, chất liệu, chứng tỏ cư dân ở đây đã chú ý đến cuộc sống tinh
thần, thị hiếu thẩm mỹ. Những hoa văn, hình ảnh trên bình gốm, rìu đồng,
thố đồng Bàu Khê, trống đồng Phù Lưu đã phản ảnh tư duy, khả năng thẩm
mỹ, trình độ hội hoạ và điêu khắc của người dân ở đây không thua kém cư
dân Văn Lang ở các nơi khác.
Đời sống tinh thần còn phản ánh trên những hình ảnh sinh hoạt văn
hoá, sinh hoạt chung của tập thể cộng đồng. Các phong tục tập quán như
tục ăn trầu, nhuộm răng, xăm mình được lưu giữ trong một thời gian dài ở
Quảng Bình, chứng tỏ cư dân ở đây cũng như nhiều nơi khác của nước Văn
Lang có chung một bản sắc văn hoá truyền thống của thời đại. Tuy vậy, do
điều kiện địa lý đặc thù, bộ Việt Thường ở phía nam của nước Văn Lang,
nên cư dân Văn Lang ở trên mảnh đất này có những sắc thái riêng biệt.
Trên lãnh thổ của miền Bắc Việt Nam ngày nay bên cạnh bộ tộc Lạc Việt
của nhà nước Văn Lang còn có bộ tộc Âu Việt cùng chung sống. Nước Văn
Lang vào cuối thế kỷ thứ III trước công nguyên, kinh tế đã phát triển
hơn trước, dân số đông hơn, lãnh thổ được mở rộng. Đó cũng là thời kỳ
phong kiến phương bắc có những bước phát triển mới. Thời Chiến quốc (481
- 221 trước công nguyên) kết thúc và nhà Tần đã thống nhất được toàn
Trung Quốc. Tần Doanh Chính lên ngôi hoàng đế (Tần Thuỷ Hoàng). Với tư
tưởng "bình thiên hạ", chủ nghĩa bành trướng phát triển, nhà Tần âm mưu
mở rộng các cuộc chiến tranh xâm lược xuống phía nam.
Trước tình hình đó, sự tồn tại riêng lẻ của một bộ tộc không đủ sức
đối phó với nạn ngoại xâm. Trên cơ sở nền tảng kinh tế đã phát triển và
do nhu cầu chống xâm lược, sự hợp nhất giữa những bộ tộc gần nhau về địa
vực, về dòng máu, về trình độ phát triển kinh tế, văn hoá là một nhu
cầu lịch sử, tất yếu khách quan. Đó là cơ sở của sự hợp nhất giữa hai bộ
tộc Lạc Việt và Âu Việc dẫn đến sự ra đời của nhà nước Âu Lạc.
Vào cuối thế kỷ III trước công nguyên, nhân việc suy yếu của triều
đại Hùng Vương cuối cùng, Thục Phán, một thủ lĩnh của Âu Việt ở miền núi
đã tiến đánh kinh đô Văn Lang (miền Lâm Thao, Bạch Hạc, tỉnh Vĩnh Phú)
dựng nước Âu Lạc, xưng là An Dương Vương và dời đô về Cổ Loa. Nước Âu
lạc ra đời là sự kế tục và phát triển cao hơn của quốc gia Việt Nam đầu
tiên là nước Văn Lang - trên cơ sở ý thức dân tộc đã phát triển ở tầm
cao mới. Hai thành phần dân tộc Lạc Việt và Âu Việt được thống nhất, hai
lãnh thổ của người Âu Việt ở miền núi và Lạc Việt ở miền xuôi được hợp
nhất. Sự thống nhất đó làm cho Âu Lạc mạnh hơn.
Kinh tế văn hoá của nhà nước Âu Lạc tiếp tục phát triển trên cơ sở
những thành quả của hai bộ tộc Âu Việt và Lạc Việt và của nền văn hoá
Văn Lang. Nông nghiệp được phát triển trên miền châu thổ Bắc Bộ phì
nhiêu, trù phú. Thủ công nghiệp có bước phát triển, trên cơ sở đồ đồng
Đông Sơn cùng với kỹ thuật đồng thau, người Âu Lạc đã bắt đầu có kỹ
thuật rèn sắt. Ngoài nghề luyện kim, nghề gốm, nghề dệt, nghề mộc phát
triển thêm, người Âu Lạc đã có thêm nghề làm gạch, ngói. Việc giao lưu
kinh tế phát triển mạnh theo các đường sông và đường biển. Đời sống văn
hoá của cư dân Âu Lạc đã có bước phát triển mới.
Trên cơ sở phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội, kỹ thuật quốc phòng
của người Âu Lạc đã có bước phát triển nhảy vọt với các loại vũ khí,
điển hình là loại vũ khí được thần thánh hoá trong truyền thuyết "Nỏ
thần". Thục Phán cũng đã cố gắng tăng cường khả năng phòng thủ. Ông đã
cho xây dựng kinh đô - thành Cổ Loa và tăng cường quân đội thường trực
của nhà nước Âu Lạc để chuẩn bị đối phó với các cuộc xâm lược từ phương
bắc.
Thực hiện ý đồ bành trướng xâm lược, Nhà Tần đã tổ chức nhiều cuộc
chiến tranh đánh phá xuống phía nam. Khi quân Tần đánh vào đất Việt đã
bị người Âu Việt và Lạc Việt anh dũng đánh trả. Người Âu Lạc đã tổ chức
cuộc kháng chiến bền bỉ, lâu dài hàng chục năm chống quân xâm lược Tần.
Hàng chục vạn quân Tần bị tiêu diệt, chủ tướng Tần là Đồ Thư bị giết.
Trong cuộc kháng chiến đó nhân dân các bộ tộc của nước Âu Lạc đã đoàn
kết tập hợp dưới ngọn cờ của An Dương Vương cùng chống kẻ thù chung.
Năm 207 trước công nguyên, Triệu Đà, một viên quan của nhà Tần chiếm
ba quận Nam Hải, Quế Lâm và Tượng lập nên nước Nam Việt và xưng vương.
Sau khi Nhà Tần sụp đổ, nhà Hán nắm quyền thống trị ở Trung Quốc, Triệu
Đà quy phục triều Hán.
Sau khi lập nước Nam Việt, Triệu Đà, đã nhiều lần phát động cuộc
chiến tranh xâm lược Âu Lạc. Nhưng với ý chí quật cường, và tinh thần
thượng võ của người Âu Việt và Lạc Việt, với lòng yêu nước và tinh thần
dân tộc ngày càng được củng cố và phát triển, nhân dân Âu Lạc đã đánh
bại các cuộc tiến công xâm lược của kẻ thù.
Triệu Đà biết không thể thắng được Âu Lạc về quân sự đã xin cầu hoà
với An Dương Vương. Triệu Đà cho con là Trọng Thuỷ cầu hôn với Mỵ Châu,
con gái của An Dương Vương và ở rể tại nước Âu Lạc. Chính trong thời
gian đó Trọng Thuỷ đã học cách chế nỏ và phá nỏ, một loại vũ khí lợi hại
của người Âu Lạc; do thám tình hình quân sự rồi về nước báo cho Triệu
Đà đem quân tiến đánh. Nước Âu Lạc mất vào tay Triệu Đà vào khoảng năm
179 trước công nguyên.
Theo Địa chí Quảng Bình
Văn Lang - Hùng Vương nguồn cội
GN - Lịch sử lập quốc của 18 đời vua Hùng trong mạch truyền
thống dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam đã kết tụ khí thiêng sông núi
tại đền Hùng, tỉnh Phú Thọ. Nhiều thế hệ cha ông đã luôn khẳng định sự phát
triển và thăng hoa kỳ diệu trên mảnh đất máu thịt này hàng bốn ngàn năm qua.
Quốc lễ giỗ Tổ Hùng Vương mùng 10-3
Không một người Việt Nam nào không
tự hào về tính lịch sử và truyền thống tổ tiên xây dựng nền móng độc lập, tự
chủ và mở mang bờ cõi từ thời đại các vua Hùng cho đến giai đoạn ngày nay. Nhà
nước Văn Lang của các vua Hùng là nhà nước phôi thai đầu tiên trong lịch sử dân
tộc, nhưng đã cố kết được lòng người, từ tình cảm cộng đồng dẫn đến ý thức cộng
đồng, thể hiện rõ tình đồng bào ruột thịt, đã bước đầu hiểu được mối quan hệ
giữa thiên nhiên và con người, thấy được sức mạnh của cộng đồng trong việc dẫn
thủy nhập điền, trao đổi sản phẩm và đấu tranh gìn giữ bản làng, đất nước. Cũng
trong thời đại Hùng Vương có hai truyền thuyết thể hiện tinh thần quật khởi của
người Lạc Việt được lan truyền mãi trong dân gian: Phù Ðổng Thiên Vương và Sơn
Tinh Thủy Tinh. Truyền thuyết Hùng Vương, dưới mắt nhiều
nhà nghiên cứu sử, dù có tính cách thần thoại, nhưng kể từ khi được ghi vào
chính sử trong Đại Việt sử ký toàn thư của Ngô Sĩ Liên năm 1479 dưới
triều vua Lê Thánh Tông, đã có tác động mạnh vào tâm lý người Việt Nam, trở
thành niềm tin, niềm tự hào về ngày Giỗ Tổ của dân tộc. Trong lịch sử thế giới,
chỉ có Việt Nam
chúng ta là quốc gia duy nhất có ngày Giỗ Quốc Tổ cho cả dân tộc. Trong lịch sử nước ta, truyền thuyết
(huyền thoại) Quốc Tổ Hùng Vương là mẫu số chung cho tất cả dân tộc cộng tồn
trên dải đất hình chữ S, thể hiện bản sắc và truyền thống người Việt. Tinh thần
đoàn kết dân tộc, sống với tình thương hài hòa giữa mọi sắc tộc dù có sự khác
biệt về tập quán, tín ngưỡng, hệ thống gia đình mẫu hệ hay phụ hệ nhưng luôn
luôn giữ vững ý chí bất khuất, cương quyết chống ngoại xâm, bảo vệ độc lập Tổ
quốc, toàn vẹn lãnh thổ, lãnh hải.
Hai ngàn năm lẻ, dân an lạc
Mười tám đời vua, nước thái hòa.
Thời đại Hùng Vương là thời đại mà dân
tộc Việt Nam
chúng ta có một quốc gia đa dân tộc, có cương vực và địa bàn lãnh thổ thống
nhất. Theo những sử liệu cổ nhất của Trung Quốc trước Tây lịch đến những sử
liệu Việt Nam thời đại phong kiến thì nước Văn Lang có 15 bộ, tương ứng với 15
khu vực sinh sống của các cộng đồng, của nhiều bộ tộc khác nhau nhưng cùng một
ý thức quốc gia thể hiện là Hùng Vương. Cương vực nước Văn Lang cụ thể như thế
nào thì cần nghiên cứu thêm nhưng rõ ràng là “Nước Văn Lang thời Hùng Vương đến
nước Âu Lạc thời An Dương Vương, rồi đến hai quận Giao Chỉ, Cửu Chân thời thuộc
Triệu và thuộc Hán, có thể xác định: Địa bàn của nước Văn Lang tương ứng với
vùng Bắc Bộ, Bắc Trung Bộ nước ta ngày nay và một phần phía Nam Quảng Đông,
Quảng Tây của Trung Quốc”. (Lịch sử Việt Nam, tập 1 - NXB Đại Học và
Giáo Dục Chuyên Nghiệp, Hà Nội - 1991). Trong hoàn cảnh
nửa lên non, nửa xuống bể, nhiều dân tộc anh em đã cùng chung sống và từ đó ý
thức xây dựng quốc gia, bảo vệ chủ quyền dân tộc đã dần hình thành. Lịch sử
chống ngoại xâm của dân tộc đã chứng minh, mỗi khi Tổ quốc lâm nguy thì các dân
tộc anh em đều cùng chung lưng sát cánh để bảo vệ Tổ quốc. Có thể nói, dân tộc
Việt Nam là một dân tộc có ý thức mạnh mẽ chống lại sự thống trị của ngoại
bang, và thực tế cha ông ta đã nỗ lực cởi bỏ ách nô dịch văn hóa trong hơn một
ngàn năm Bắc thuộc và sự chi phối của các thế lực xâm lược phương Tây. Ý nghĩa
thiêng liêng hàm tàng trong bề dày lịch sử nhiều nghìn năm đã hun đúc nên tinh
thần quật khởi bằng xương máu trong suốt quá trình dựng nước và giữ nước. Mỗi dịp kỷ niệm Lễ giỗ Quốc Tổ Hùng
Vương, mỗi người Việt Nam chúng ta luôn khắc ghi tinh thần dựng nước và giữ
nước trong khối đại đoàn kết dân tộc với niềm tự hào mang trong mình dòng giống
Lạc Hồng, tinh thần bất khuất, kiên cường chống lại các thế lực ngoại lai, đồng
thời ý thức xây dựng một nền văn hóa sáng tạo của người Việt Nam, đẩy lùi mọi
âm mưu đen tối gây chia rẽ bằng nhiều phương cách khác nhau, trong đó nô dịch
văn hóa là một trong những mối nguy hại cho thế hệ trẻ hôm nay, ngay cả trong
lĩnh vực tín ngưỡng tâm linh - tôn giáo.
Nhà nước Văn Lang, quá khứ lịch sử xa xôi, một nền văn
minh rực rỡ đã ẩn mình trong lòng đất sâu khảo cổ học cùng với một kho tàng văn
hóa dân gian cực kỳ phong phú. Nhà nước ấy đã được ghi lại trong các thư tịch
cổ, trong kho tàng truyền thuyết đã một thời in đậm trong tiềm thức của người
xưa nhưng lại có nguy cơ mờ nhạt dần trong tiềm thức của những thế hệ tương
lai. “Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương ở Phú Thọ” vừa được UNESCO cấp Bằng công
nhận Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại chính là sự tôn vinh
những đóng góp của dân tộc ta vào sự phong phú, đa dạng văn hóa trên bình diện
toàn cầu.
Trong bối cảnh đó, lời dặn dò của Hồ Chủ tịch với cán bộ, chiến sĩ Sư
đoàn 308 trước giờ tiếp quản thủ đô Hà Nội tại sân chùa Thiên Quang ở khu vực
đền Hạ năm 1954: “Các vua Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau
giữ nước” vẫn còn nguyên vẹn tính thời sự, mang hào khí của một bản Tuyên ngôn
Vệ quốc!Thích Thiện Bảo
Bản đồ lãnh thổ Việt Nam qua các thời kỳ
Bản đồ lãnh thổ Việt Nam qua các thời kỳ là sự biến đổi không gian
sinh tồn của người Việt Nam, thể hiện bởi các triều đại chính thống đã
được công nhận trong lịch sử Việt Nam. Mang tính chất rất phức tạp, lúc thì bị mất lãnh thổ về các nước khác, lúc lại chinh phục được những vùng lãnh thổ mới.
Nhìn chung lại vùng lãnh thổ cốt lõi nơi phát sinh ra người Việt hiện
nay là vùng châu thổ sông Hồng, sau nhiều thế kỷ đi chinh phục, đồng
hóa, khai khẩn mà lãnh thổ ngày nay đã trải dài đến tận đồng bằng sông
Cửu Long.
Trong bài viết này chúng tôi sẽ khái quát toàn bộ lãnh thổ Việt Nam
từ thời Hồng Bàng khoảng thế kỷ thứ 3 trước công nguyên cho đến ngày nay
Khoảng thế kỷ thứ III trước công nguyên một số sử liệu và huyền thoại
cho rằng vào đầu thời Hồng Bàng, bộ tộc người Việt có lãnh thổ rộng lớn
từ phía nam sông Dương Tử (Trung Quốc) đến tận vùng Thanh Hóa. Thực
chất các bộ tộc Việt phía Nam sông Trường Giang không có cùng sắc tộc,
chủng tộc và ngôn ngữ. Cái tên Bách Việt là chỉ chung cho các bộ tộc các
nhà nước phía Nam của Trung Nguyên
Nước Văn Lang
Nước
Văn Lang thuộc bộ tộc Lạc Việt đã hình thành trên vùng bình nguyên bao
gồm đồng bằng sông Hồng, đồng bằng sông Mã và đồng bằng Sông Lam.
Nước Âu Lạc
Sau
khi chiếm được Văn Lang, Thục Phán đã sát nhập Văn Lang vào đất của
mình, nước Âu Lạc có lãnh thổ từ phía nam sông Tả Giang (Quảng Tây,Trung
Quốc) kéo xuống tận dãy Hoành Sơn thuộc Hà Tĩnh ngày nay
Thời Bắc Thuộc
Nếu coi nhà Triệu (từ 207 đến năm 111 trước công nguyên) là một phần
của hệ thống phân chia lịch sử thời kỳ Bắc thuộc lần 1 thì lãnh thổ
nước Việt Nam thuộc nước Nam Việt của 5 đời vua nhà Triệu. Nam Việt xâm lược và đô hộ 179 – 111 TCN
Năm 111 trước công nguyên, nhà Triệu để mất nước về tay nhà Hán. Sau
đó lãnh thổ nước Nam Việt cũ bị chia thành 6 quận, đồng thời xác lập
thêm phần đất ở 3 quận mới là Nhật Nam, Chu Nhai, Đạm Nhĩ
Lãnh thổ của dân tộc Việt Nam thời kỳ này, trong sự cai quản của
chính quyền trung ương các triều đại Trung Hoa, tiến về phía nam đến
vùng Hà Tĩnh hiện nay, thỉnh thoảng các quan cai trị Giao Chỉ (hoặc Giao
Châu) tiến xuống phía nam đánh Chiêm Thành và đưa thêm vùng đất từ đèo
Ngang đến đèo Hải Vân vào cai trị nhưng không giữ được lâu vì sau đó
Chiêm Thành thường lấy lại được.
Nhà Hán xâm lược và đô hộ 111 TCN – 34 SCNLãnh thổ Giao Chỉ 40 TCN – 33 SCN
Nước Vạn Xuân
Vạn Xuân là quốc hiệu của Việt Nam trong một thời kỳ độc lập ngắn
ngủi thoát khỏi chính quyền trung ương Trung Hoa, dưới thời nhà Tiền Lý
và Triệu Việt Vương. Tháng 2 năm 544, sau khi đánh bại quân nhà Lương
(Trung Quốc), Lý Bí xưng là Hoàng đế và đặt tên nước là Vạn Xuân. Quốc
hiệu này tồn tại từ năm 544 đến năm 602, khi nhà Tùy đánh bại Lý Phật Tử
và đô hộ Việt Nam một lần nữa. Nước Vạn Xuân 554 – 602
Lãnh thổ Việt Nam Thời phong kiến tự chủ
Sau khi Khúc Thừa Dụ tự xưng là Tiết độ sứ của Tĩnh Hải quân năm 905,
Việt Nam bắt đầu thời kỳ độc lập tự chủ. lãnh thổ Tĩnh Hải quân gồm 12
châu
Tĩnh Hải Quân
Tĩnh Hải Quân 905Tĩnh Hải Quân 930Tĩnh Hải Quân 931Tĩnh Hải Quân 937
Việt Nam chính thức vào kỷ nguyên độc lập từ khi Ngô Quyền đánh bại
nhà Nam Hán vào năm 938. Tuy nhiên lãnh thổ bị co lại chỉ còn 8 châu:
Giao, Lục, Phúc Lộc, Phong, Trường, Ái, Hoan, Diễn. 4 châu bị nhà Nam
Hán chiếm là Thang, Chi, Vũ Nga và Vũ An. Tĩnh Hải Quân 938Tĩnh Hải Quân 944Tĩnh Hải Quân 966 – 967Tĩnh Hải Quân 967
Đại Cồ Việt
Năm 968, Đinh Tiên Hoàng đặt quốc hiệu trở lại sau hơn 400 năm, là Đại Cồ Việt Đại Cồ Việt 968Đại Cồ Việt 980Đại Cồ Việt 1010
Năm 1014, tướng nước Đại Lý là Đoàn Kính Chí đem quân vào chiếm đóng
châu Vị Long và châu Đô Kim (nay thuộc Tuyên Quang), vua Lý Thái Tổ sai
con là Dực Thánh Vương đi đánh dẹp, quân Đại Lý đại bại, nhân cơ hội đó
nhà Lý sáp nhập luôn khu vực ngày nay là Hà Giang vào Đại Việt. Lanh thổ Việt Nam thời Đại Cồ Việt 1014Lãnh Thổ Đại Cồ Việt 1048
Đại Việt
Sau đó Lý Thái Tổ đổi tên nước là Đại Việt năm 1054
Vào Năm 1069, vua Lý Thánh Tông nam tiến đánh nước Chiêm Thành và bắt được vua Chiêm lúc bấy giờ là Chế Củ (Jaya Rudravarman),
đem về kinh đô Thăng Long. Để được tha mạng vua Chiêm đã phải cắt các
vùng đất phía bắc của Chiêm Thành gồm ba châu là: Bố Chính, Ma Linh, Địa
Lý cho nước Đại Việt. Những châu ấy ngày nay ở địa phận các huyện Quảng
Ninh, Quảng Trạch, Bố Trạch, Tuyên Hoá, Lệ Thuỷ tỉnh Quảng Bình và
huyện Bến Hải tỉnh Quảng Trị. Lãnh thổ nước Đại Việt 1069
Năm 1159, nhân khi nước Đại Lý suy yếu, vua Lý Anh Tông và Tô Hiến
Thành đã tiến hành thu phục vùng đất của các tù trưởng dân tộc thiểu số
người Thái ở bắc Yên Bái, nam Lào Cai vào lãnh thổ Đại Việt. Nước Đại Việt 1159Nước Đại Việt 1225
Việt Nam thời nhà Trần năm 1306 vua nước Chiêm Thành là Chế Mân (Jaya Simhavarman)
đã cắt đất hai châu Ô và Rí cho vua Trần Anh Tông của Đại Việt để làm
sính lễ cưới Huyền Trân công chúa, vùng đất mà ngày nay là phía nam
Quảng Trị và Huế. Biên giới phía nam của Đại Việt lúc này tiến đến đèo
Hải Vân. Lãnh thổ Việt Nam thời nhà Trần 1306
Đại Ngu
Đại Ngu là quốc hiệu Việt Nam thời nhà Hồ (1400 – 1407). Quốc hiệu
Đại Việt được đổi thành Đại Ngu tháng 3 năm 1400 khi Hồ Quý Ly lên nắm
quyền Lãnh thổ nước Đại Ngu 1400Lãnh thổ nước Đại Ngu 1402
Vào cuối thế kỉ 14 nhà Trần bấy giờ đã sa sút, Hồ Quý Ly dần dần nắm
quyền kiểm soát cả triều đình, dùng những biện pháp thanh trừng những
đại thần trung thành với triều Trần. Hồ Quý Ly lên ngôi vua vào năm
1400, đặt quốc hiệu Việt Nam là Đại Ngu, ông thực hiện rất nhiều cải tổ
trong hệ thống chính trị và xã hội lúc bấy giờ. Nhưng do thực hiện quá
nhiều sự thay đổi trong thời gian ngắn, lại không được các cựu thần nhà
Trần và dân chúng ủng hộ, thêm tình hình kinh tế xã hội hoàn toàn suy
yếu vì nhiều nguyên nhân, nên đất nước rơi vào khủng hoảng trầm trọng.
Nhân cơ hội đó, năm 1406 nhà Minh ở Trung Quốc dùng chiêu bài phù
Trần diệt Hồ, nhà Minh mang quân sang xâm lược Đại Ngu. Nhà Hồ nhanh
chóng tsụp đổ hoàn toàn vào khoảng giữa năm 1407. Nước Đại Ngu lúc này
bị tiêu diệt hoàn toàn và bị sát nhập lãnh thổ vào Trung Quốc. Việt Nam
bị Trung Quốc đô hộ trở lại sau 500 năm độc lập tự chủ. 1407 nước Đại Ngu bị tiêu diệt và sát nhập vào lãnh thổ Đại Minh (Trung Quốc)
Khởi Nghĩa Lam Sơn
Vào năm 1418 Lê Lợi và các hào kiệt phất cờ cuộc khởi nghĩa Lam Sơn
tại vùng miền núi Thanh Hóa, ông tự xưng là Bình Định Vương, kêu gọi
người dân Việt Nam đồng lòng đứng lên đánh đuổi quân xâm lược nhà Minh
cứu nước. Lúc này lãnh thổ đất Việt chỉ còn Lam Sơn nay thuộc huyện Thọ
Xuân tỉnh Thanh Hóa. năm 1418 cuộc khởi nghĩa Lam Sơn dành lại được vùng lãnh thổ nay thuộc Huyện Thọ Xuân tỉnh Thanh Hóa
Vào năm 1424 cuộc khởi nghĩa Lam Sơn bắt đầu tiến vào phía Nam và
dành được những thắng lợi quan trọng. Đến cuối năm 1425, Lê Lợi đã làm
chủ toàn bộ đất đai từ Thanh Hóa trở vào Năm 1425 Lê Lợi đã làm chủ toàn bộ đất đai từ Thanh Hóa trở vào
Nhà Hậu Lê
Cuộc khởi nghĩa Lam Sơn dành thắng lợi đã thống nhất được toàn bộ
lãnh thổ Việt Nam. Lê Lợi lên ngôi vào năm 1428, tức là vua Lê Thái Tổ,
chính thức dựng lên nhà Hậu Lê. Do chiến công hiển hách đánh bại quân
Minh dành lại quyền tử chủ cho người Việt, ông trở thành một vị anh hùng
dân tộc trong lịch sử Việt Nam, tên tuổi được lưu truyền đến ngàn đời
sau Nước Đại Việt dành lại quyền tử chủ năm 1428
Năm 1471 vua Lê Thánh Tông mang 20 vạn quân nam tiến đánh vào kinh đô
Vijaya ( đất Bình Định ngày nay) nước Chiêm Thành, kinh đô Vijaya của
Chiêm Thành thất thủ. Vua Lê Thánh Tông đã sáp nhập vùng đất bắc Chiêm
Thành vào Đại Việt (ngày nay bao gồm ba tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình
Định).
Năm 1471 vua Lê Thánh Tông sát nhập thêm vùng đất phía bắc của Chiêm Thành
Năm 1478, sau khi thu phục tiểu vương quốc Bồn Man, vua Lê Thánh
Tông đã sát nhập vùng Sơn La, các huyện phía tây của Thanh Hóa, phía
tây Nghệ An và tỉnh Hủa Phăn của Lào ngày nay vào đất Đại Đại Việt Lãnh thổ Việt Nam vào năm 1479
Giai đoạn Nam – Bắc triều
Khoảng đầu kỷ 16, nhà Hậu Lê lúc này đã bắt đầu suy yếu. Một võ tướng
nhà Lê là Mạc Đăng Dung đứng ra trấn áp các cuộc nổi dậy, dần dần nắm
lấy quyền hành triều Lê. Mạc Đăng Dung đánh dẹp các lực lượng chống đối
nhà hậu Lê và đến 1527 thì phế truất Lê Cung Hoàng, lập ra nhà Mạc.
Lúc này có một võ tướng cũ của nhà Lê, là Nguyễn Kim lập một người
dòng dõi nhà Lê là Lê Duy Ninh đưa lên ngôi trên đất Sầm Châu (Lào ngày
nay), tức vua Lê Trang Tông. Sau nhiều lần tổ chức tấn công ngược về Đại
Việt không thành công, mãi tới năm 1539, Nguyễn Kim mới chiếm được
huyện Lôi Dương ở Thanh Hóa; sang năm sau tiến vào đất Nghệ An. Nhà Hậu
Lê bắt đầu xác lập chỗ đứng trở lại trên lãnh thổ Đại Việt. Nguyễn Kim chiếm lại được huyện Lôi Dương ở Thanh HóaNăm 1540 Nhà Hậu Lê xác lập chỗ đứng trở lại trên lãnh thổ Đại Việt
Năm 1545, Nguyễn Kim bị hàng tướng Dương Chấp Nhất đầu độc giết chết.
Con rể Nguyễn Kim là Trịnh Kiểm lên thay cầm quyền chỉ huy quân đội.
Năm 1554, Trịnh Kiểm lập hành dinh tại quê hương Biện Thượng, sau đó
điều quân đánh Thuận Hóa. Khi quân Lê – Trịnh tiến vào phía nam, các
quan lại nhà Mạc và các hào trưởng địa phương phần lớn đi theo. Tướng
Mạc ở Thuận Hóa là Hoàng Bôi mang quân ra đánh bị tử trận. Quân Mạc bị
đánh tan, nhà Lê – Trịnh lấy lại được Thuận Hóa và Quảng Nam.
Toàn bộ lãnh thổ Đại Việt chính thức chia làm 2 nửa: từ Ninh Bình trở
ra trong tay nhà Mạc, từ Thanh Hóa trở vào trong tay nhà Lê – Trịnh Năm 1554 lãnh thổ Đại Việt bị chia làm 2 nửa nhà Mạc phía Bắc, nhà Lê – Trịnh phía Nam
Nguyễn Hoàng xây dựng cơ đồ mở mang bờ cõi Đại Việt
Năm 1569, Nguyễn Hoàng là con trai của Nguyễn Kim và là em vợ của
Trịnh Kiểm ra Thanh Hóa yết kiến vua Lê Anh Tông, nộp quân lương giúp
Nam triều đánh nhà Mạc, rồi đến phủ Thái sư lạy mừng Trịnh Kiểm. Trịnh
Kiểm rất hài lòng, phong cho ông trấn thủ luôn đất Quảng Nam. Nguyễn
Hoàng làm Tổng Trấn Tướng Quân kiêm quản cả Xứ Quảng Nam và Xứ Thuận
Hóa. Lệ mỗi năm phải nộp thuế là 400 cân bạc, 500 tấm lụa. Năm 1569 Nguyễn Hoàng làm Tổng Trấn Tướng Quân cai quản cả Xứ Quảng Nam và Xứ Thuận Hóa
Năm 1611, do quân Chăm Pa tiếp tục quấy nhiễu vùng biên giới Hoa Anh,
Nguyễn Hoàng đã sai Văn Phong đi dẹp, quân Chăm Pa nhanh chóng bị đánh
bại trước lực lượng của chúa Nguyễn. Vua Po Nit của Chăm Pa phải rút
quân xuống phía Nam đèo Cả. Sau đó vùng đất Hoa Anh này được lập thành
phủ Phú Yên gồm hai huyện Tuy Hòa vàĐồng Xuân, giao cho Lương Văn Chánh
làm tham tướng, Văn Phong làm lưu thủ.
Cho tới khi ông mất, giang sơn họ Nguyễn trải dài từ đèo Ngang, Hoành
Sơn (nam Hà Tĩnh) qua đèo Hải Vân tới núi Đá Bia (Thạch Bi Sơn), gần
đèo Cả, bây giờ là vùng cực nam Phú Yên, giáp tỉnh Khánh Hòa. Diện tích 2
xứ Thuận Quảng rộng khoảng 45000 km² Năm 1611 đất họ Nguyễn đã trải dài đến vùng cực nam Phú Yên
Trịnh – Nguyễn phân tranh
Năm 1653, chúa Nguyễn Phúc Tần tiến chiếm vùng Khánh Hòa của Chiêm
Thành. Lấy sông Phan Rang làm ranh giới. Vùng phía Đông sông đến địa đầu
Phú Yên (vùngKauthara) đặt dinh Thái Khang. Phần phía Tây sông (vùng
Panduranga) vẫn thuộc về Chăm Pa. Năm 1653 chúa Nguyễn Phúc Tần chiếm được vùng Khánh Hòa của Chiêm Thành
Năm Mậu Tuất (1658) vua nước Chân Lạp mất rồi, chú cháu tranh nhau
ngôi vị, sang cầu cứu bên chúa Nguyễn. Chúa Nguyễn bấy giờ là chúa Hiền
sai quan đem 3.000 quân sang đánh ở Mỗi-xuy (nay thuộc tỉnh Đồng Nai)
bắt được vua nước ấy là Nặc-Ông-Chân đem về giam ở Quảng Bình một độ,
rồi tha cho về nước, bắt phải triều-cống và phải bênh vực người Việt
sang làm ăn ở bên ấy. Năm 1658 người Việt đã xuất hiện ở vùng đất Đồng Nai ngày nay
Năm KỷTỵ (1679) có quan nhà Minh là tổng binh trấn thủ đất Long Môn
(Quảng Tây) Dương Ngạn Địch, phó tướng Hoàng Tiến, tổng binh châu Cao,
châu Lôi, và châu Liêm (thuộc Quảng Đông) là Trần Thượng Xuyên,
phó-tướng Trần An Bình, không chịu làm tôi nhà Thanh, đem 3.000 quân
cùng 50 chiếc thuyền sang xin ở làm dân Việt Nam. Chúa Hiền nhân muốn
khai khẩn đất Chân Lạp, bèn cho vào ở đất Đông Phố (tức là đất Gia
Định). Bọn Ngạn Địch chia nhau ở đất Lộc Đã (tức là đất Đồng Nai), ở Mỹ
Tho (thuộc Tiền Giang), ở Ban Lân (thuộc Đồng Nai) rồi cày ruộng làm nhà
lập ra phường phố
Lúc này nhà Mạc ở phía bắc đã bị tiêu diệt hoàn toàn Lãnh thổ Đại Việt Năm 1679
Năm 1693, thời chúa Nguyễn Phúc Chu, tướng Nguyễn Hữu Cảnh tiến chiếm
và chính thức sáp nhập phần còn lại của vương quốc Chiêm Thành lập trấn
Thuận Thành nay là vùng đất Bình Thuận, Ninh Thuận ngày nay, tuy nhiên
chính quyền Đàng Trong vẫn dành cho người Chăm chế độ tự trị ở đây cho
đến năm 1832. Năm 1693, chúa Nguyễn Phúc Chu chính thức sáp nhập phần còn lại của vương quốc Chiêm Thành
Năm 1698, Nguyễn Hữu Cảnh lấy đất Nông Nại đặt làm phủ Gia Định, lập
đất Đồng Nai làm huyện Phước Long, dựng nên dinh Trấn Biên (lỵ sở nay là
thôn Phước Lư), lập xứ Sài Côn làm huyện Tân Bình, lập dinh Phiên Trấn
(quận sở nay gần Tân Đồn). Chính thức đưa khu vực các tỉnh miền Đông Nam
Bộ của Chân Lạp vào lãnh thổ Đàng Trong.
Năm 1699, Vũ Công Tuấn bị triều đình nhà Lê bắt và giết. Triều đình
đặt chức Lưu thủ ở Tuyên Quang, từ đó dòng dõi “Chúa Bầu” chấm dứt. Lãnh
thổ chúa Bầu chính thức sáp nhập vào đất nhà Lê-Trịnh
Năm 1708, Mạc Cửu (thương nhân người Hoa) người khai phá vùng đất Hà
Tiên, Kiên Giang (của Chân Lạp) xin nội thuộc chúa Nguyễn, chúa Nguyễn
phong chức Tổng binh cai quản
Cùng với việc mở rộng lãnh thổ trên đất liền, chính quyền Đàng Trong
lần lượt đưa người ra khai thác và kiểm soát các hòn đảo lớn và quần đảo
trên biển Đông và vịnh Thái Lan. Quần đảo Hoàng Sa được khai thác và
kiểm soát từ đầu thế kỷ 17, Côn Đảo từ năm 1704,Phú Quốc từ năm 1708 và
quần đảo Trường Sa từ năm 1711 Lãnh thổ Đại Việt năm 1708 khai phá đến vùng đất Hà Tiên – Kiên Giang ngày nay
Vào năm 1732, chúa Nguyễn Phúc Chú (Chúa Ninh) nhận đất dâng từ
vua nước Chân Lạp là Satha (Nặc Tha), lãnh thổ Đại Việt được mở
rộng thêm hai vùng đất mới là Peam Mesar (Mỹ Tho) và Longhôr (Vĩnh
Long). bản đồ lãnh thổ Việt Nam năm 1732
Từ năm 1736-1739, Mạc Thiên Tứ (con trai của Mạc Cửu) khai phá thêm
vùng đất Cà Mau, Bạc Liêu, Cần Thơ (của Chân Lạp) sát nhập những khu
vực này vào lãnh thổ phía Đàng Trong. Từ 1736 – 1739 Lãnh thổ Việt Nam mở rộng đến tận mũi Cà Mau như ngày nay
Năm 1755, vua Chân Lạp là Nặc Nguyên (Ang Tong) sau khi bị
chúa Nguyễn Phúc Khoát tức Vũ Vương đánh bại đã dâng vùng đất Tân An,
Gò Công (Long An, Tiền Giang ngày nay) để cầu hòa Năm 1755 sát nhập thêm Long An và Tiền Giang vào Lãnh thổ Đại Việt
Năm 1757, vua Nặc Nguyên chết, chú là Nặc Nhuận dâng 2 xứ Preah
Trapeang và Basac (vùng đất Trà Vinh và Sóc Trăng) để được chúa Nguyễn
Phúc Khoát phong làm vua Chân Lạp. Sau khi Nặc Nhuận chết, chúa Nguyễn
Phúc Khoát đã hỗ trợ Nặc Tôn (Outey II) lên ngôi và bảo vệ trước
sự tấn công của Xiêm La (Thái Lan), vua Nặc Tôn đã dâng vùng đất ngày
nay là Châu Đốc, Sa Đéc cho chúa Nguyễn.
Riêng Mạc Thiên Tứ, Nặc Tôn dâng năm phủ Hương Úc, Cần Bột, Trực Sâm,
Sài Mạt và Lình Quỳnh để đền ơn giúp đỡ. Mạc Thiên Tứ đem hết đất ấy
dâng cho Chúa Nguyễn. Chúa Nguyễn cho sảt nhập vào Hà Tiên trấn, giao
cho họ Mạc cai quản. bản đồ lãnh thổ Việt Nam vào năm 1757
Sau giai đoạn Trịnh Nguyễn phân tranh đât nước bị chia làm 2
thì vào năm 1771 cuộc khởi nghĩa Tây Sơn bùng phát bắt đầu từ
vùng đất Tây Sơn thuộc tỉnh Bình Định ngày nay Lãnh thổ Việt Nam vào năm 1771
Đến năm 1773 khởi nghĩa Tây Sơn dành được nhiều thắng lợi
quan trọng kiểm soát vùng đất từ Quảng Ngãi đến Bình Thuận. Lúc này
đất nước bị chia làm 3 những vẫn thuộc quyền quản lý của
người Việt Lãnh thổ Việt Nam bị chia làm 3 vào năm 1773
Cuối năm 1774 đầu năm 1775 quân Trịnh tiến vào Phú Xuân. Chúa
Nguyễn lúc này không chống nổi quân Trịnh phải bỏ chạy vào Quảng Nam.
Quân Trịnh chiếm toàn bộ Thuận Hóa. Lãnh thổ Việt Nam vào năm 1774
Quân Trịnh ở phía bắc đánh vào. Chúa Nguyễn không địch nổi hai kẻ
địch phải bỏ chạy vào Gia Định. Tây Sơn bèn đầu hàng Trịnh để đánh
Nguyễn. Năm 1777, Nguyễn Huệ đem quân vào đánh chiếm Gia Định, quân Tây
Sơn truy lùng gắt gao, cả Nguyễn Phúc Thuần và Nguyễn Phúc Dương cùng
một số quan lại đã bị bắt và bị giết. Vào năm này Chúa Nguyễn đã
mất hoàn toàn quyền kiểm soát ở Đại Việt bản đồ lãnh thổ Việt Nam 1777
Vào năm 1786 Do sự thuyết phục của Nguyễn Hữu Chỉnh, Nguyễn Huệ
quyết định đem quân ra Bắc đánhThăng Long để diệt họ Trịnh dù chưa được
lệnh của vua anh Nguyễn Nhạc.
Với danh nghĩa “Phù Lê diệt Trịnh”, Nguyễn Huệ sai Chỉnh làm tiên
phong Bắc tiến. Quân Trịnh rệu rã nhanh chóng thua trận, các danh tướng
phần nhiều nghe tin Phú Xuân thất thủ đã khiếp sợ, đến khi nghe quân Tây
Sơn kéo ra, đa số đã bỏ trốn. Chúa Trịnh không được lòng dân, bỏ thành
Thăng Long chạy, bị dân bắt đem nộp Tây Sơn. Trên đường áp giải,Trịnh
Tông tự sát. Lúc này Tây Sơn đã kiếm soát được gần như toàn bộ
lãnh thổ Việt Nam
Trong lúc Nguyễn Huệ bận đối phó với quân Thanh tại Bắc Hà
(1788-1789), vùng Gia Định dưới quyền Tây Sơn cũng không ổn định, quân
Tây Sơn bị cô lập trước dân chúng địa phương vốn có nhiều cảm tình với
Chúa Nguyễn nói chung và Nguyễn Ánh nói riêng, dần dần Nguyễn
Ánh lấy lại được vùng đất Nam Hà dẹp yên được vùng đất Gia
Định Lãnh thổ Việt Nam 1788
Nhà Nguyễn
Vào năm 1802 sau khi tiêu diệt được nhà Tây Sơn Nguyễn Ánh lên
ngôi vua, để tượng trưng sự thống nhất Bắc Nam, lần đầu tiên sau nhiều
năm, Nguyễn Ánh chọn niên hiệu là Gia Long, Gia lấy từ Gia Định và Long lấy từ Thăng Long 1802 Lãnh thổ Đại Việt được thống nhất sau nhiều năm bị chia cắt
Năm 1816, vua Gia Long chính thức cho cắm cờ, xác lập chủ quyền, giao
đội Hoàng Sa và đội Bắc Hải thay mặt quản lý hai quần đảoHoàng Sa và
Trường Sa. Trước đó khoảng 200 năm các chúa Nguyễn cũng đã lập đội Hoàng
Sa hằng năm đi ra các đảo tìm kiếm sản vật
Năm 1830, vua Minh Mạng sáp nhập vùng Tây Nguyên vào lãnh thổ Việt
Nam, tuy nhiên các bộ tộc người Thượng vẫn được quyền tự trị của mình
cho tới năm 1898 khi người Pháp trực tiếp tổ chức cai trị ở đây
Năm 1832 nhà Nguyễn bỏ chế độ tự trị của người Chăm ở trấn
Thuận Thành (Bình Thuận, Ninh Thuận ngày nay) chính thức sát nhập
vùng đất này vào lãnh thổ Việt Nam bản đồ lãnh thổ Việt Nam 1832
Vào năm 1835 Vua Minh Mạng cho thành lập Trấn Tây Thành
(Campuchia ngày nay) thời kỳ này lãnh Thổ Việt Nam vươn tới cực
đại tới tận Ai Lao, Chân Lạp Vào năm 1835 Lãnh thổ Việt Nam vươn tới cực đại
Việc đặt Trấn Tây Thành cùng với chính sách cai trị mất lòng dân
Chân Lạp của Vua Minh Mạng và quan lại đã gây hao binh tổn lương, tướng
sĩ mệt nhọc.
Năm 1841, vua Minh Mạng mất, Vua Thiệu Trị vừa lên thay. Thấy tình
hình Chân Lạp bất ổn mãi, nên nhân có lời tâu của Tạ Quang Cự xin bỏ đất
Chân Lạp, vua Thiệu Trị thuận ý, truyền cho quan quân Đại Nam rút quân
về giữ An Giang. Năm 1841 bỏ trấn Tây Thành
Thời kỳ bị Pháp xâm lăng và đô hộ
Năm 1859 thực dân Pháp đánh thành Gia Định Lãnh thổ Việt Nam năm 1859
Hòa ước Nhâm Tuất (1862) buộc triều đình nhà Nguyễn nhượng 3 tỉnh Nam
Kỳ là Biên Hòa, Gia Định, Mỹ Tho cho Pháp. Tiếp sau đó tỉnh Hà Tiên,
Châu Đốc, Vĩnh Long cũng bị sát nhập nốt vào lãnh thổ bảo hộ của Pháp. Lãnh thổ Việt Nam sau hòa ước Nhâm Tuất 1862Lãnh thổ Việt Nam sau hòa ước Nhâm Tuất 1862Lãnh thổ Việt Nam sau hòa ước Nhâm Tuất 1862
Năm 1870, Pháp ký với Campuchia hiệp định phân định biên giới. Đại Nam 1870
Năm 1874, Pháp ký với Việt Nam Hòa ước Giáp Tuất (1874) công nhận sự thống trị của Pháp với toàn Nam Kỳ.
Hòa ước Quý Mùi, 1883 được ký, Việt Nam mất một phần Trung Kỳ và toàn
bộ Bắc Kỳ vào tay Pháp. Việt Nam cũng mất quyền tự quyết về đối ngoại
vào tay Pháp Lãnh thổ Việt Nam sau hòa ước Quý Mùi, 1883
1884 Hòa ước Giáp Thân được ký, Việt Nam chính thức trở thành thuộc địa của Pháp bản đồ lãnh thổ Việt Nam qua các thời kỳ 61
Năm 1887 người Pháp nhân danh nước Bảo hộ triều đình Huế ký Hiệp ước
Pháp-Thanh nhường một dải đất cho nhà Thanh. Sông Dương Hà (sông An Nam
Giang) trước kia là đường biên giới nay lùi biên giới xuống phía nam,
lấy cửa sông Bắc Luân ở Hải Ninh (Móng Cái) làm địa giới. Việt Nam 1887
Liên Bang Đông Dương
Năm 1893, lúc này Pháp đã thành lập liên bang Đông Dương, dựa theo
địa hình đã cắt tỉnh Huaphanh (Hủa Phăn), Xiêng Khoảng giao về lãnh thổ
Lào (Ai Lao). Lãnh thổ Việt Nam 1893
1895, từ công ước Pháp-Thanh 1895đã đưa về phần lớn vùng đất Lai
Châu, Điện Biên và một phần Lào Cai ngày nay thuộc về xứ Bắc Kỳ còn một
phần đất ở bắc sông Bắc Luân thuộc về nhà Thanh. Sâm Châu và Xiêng
Khoảng bị cắt cho Lào. Lãnh thổ Việt Nam 1895
Năm 1893, hiệp ước Pháp-Xiêm (1893) theo đó nhượng toàn bộ vùng lãnh
thổ phía Đông sông Mê Kông cho Pháp, gạt bỏ lực lượng quân sự và những
ảnh hưởng của Xiêm tại vùng cao nguyên thượng sông Sêrêpôk. Vùng đất
nhượng lại này bao gồm cả tỉnh Stung Treng, năm 1899 địa khu Đắc Lắc
được thành lập từ Stung Treng. Năm 1904, Đắc Lắc được sáp nhập vào Việt
Nam. Năm 1904 Pháp sát nhập Đak Lac vào lãnh thổ Việt Nam
Đến 1905 thì sát nhập các tỉnh Tây Nguyên còn lại Việt Nam 1905
Lãnh thổ Việt Nam sau năm 1945
Đế quốc Việt Nam là tên chính thức của một chính phủ tồn tại 5 tháng trong lịch sử Việt Nam bản đồ lãnh thổ Việt Nam qua các thời kỳ 68
Nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa được thành lập vào ngày 2/9/1945 bản đồ lãnh thổ Việt Nam qua các thời kỳ 69
Từ 1954 đến 1975, Việt Nam bị chia đôi tại vĩ tuyến 17 sau hiệp định Giơ-ne-vơ bản đồ lãnh thổ Việt Nam qua các thời kỳ 70
30/4/1975 Lãnh Thổ Việt Nam hoàn toàn thống nhất như ngày nay Lãnh thổ Việt Nam ngày nay
Quần đảo Hoàng Sa
Việt Nam tuyên bố chủ quyền đối với Quần đảo Hoàng Sa, nhưng Hoàng Sa
nay đang bị Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa chiếm đóng từ sau Hải chiến
Hoàng Sa, 1974.
Quần Đảo Trường Sa
Hiện Quần đảo Trường Sa đang bị nhiều quốc gia trong khu vực tranh
chấp do có tiềm năng lớn về dầu khí và nguồn cá dồi dào. Việt Nam là
quốc gia nắm giữ nhiều đảo nhất. Các quốc gia đang tranh chấp chủ quyền
gồm: Việt Nam, Trung Quốc, Đài Loan,Philippines, Malaysia, Brunei.
MIỀN TÂY HOANG DẠI Ước gì một lần về thuở ấy miến Tây Sống lầy lội những tháng ngày hoang dại Súng cặp kè hông, nhong nhong lưng ngựa Phóng khoáng thảo nguyên, đạn nổ ì đùng Ta sẽ về, rủ em gái theo cùng Đem tình yêu vào vòng đấu súng Và ngã xuống trong một lần anh dũng Để mai này định nghĩa lại...thằng khùng! Đã khùng rồi thì xá chi anh hùng Của một thời tìm vàng sôi động Người người xô bồ tìm giàu sang cuộc sống Để lại điêu tàn, bắn giết mênh mông! Ta ước thế nghe có rùng rợn không? Trần Hạnh Thu NHẠC HUYỀN THOẠI CAO BỒI VIỄN TÂY
(ĐC sưu tầm trên NET) Bản tin 113 online cập nhật ngày 2/5: Truy tố 254 bị can bị trong đại án sai phạm lĩnh vực đăng kiểm 🔴 TRỰC TIẾP: Thời sự quốc tế 3/5 | Nga tuyên bố khai hỏa Iskander, hủy diệt hai pháo HIMARS Ukraine Tin tức thời sự mới nhất hôm nay | Bản tin sáng ngày 5-3-2024 MỘT CÕI ĐI VỀ (Sáng Tác: Trịnh Công Sơn) - KHÁNH LY OFFICIAL Miễn nhiệm chức vụ Chủ tịch Quốc hội đối với ông Vương Đình Huệ 9 giờ trước Khoảnh khắc tên lửa Nga công kích pháo HIMARS Ukraine 12 giờ trước Mong muốn Campuchia chia sẻ thông tin về Dự án kênh đào Funan Techo 10 giờ trước Gần 50 người chết trong vụ sập đường cao tốc ở Trung Quốc 10 giờ trước Lý do xuất khẩu của Trung Quốc sang Nga bất ngờ sụt giảm 8 giờ trước Ukraine nói Nga sản xuất tên lửa Zircon 'nhanh bất thường' 6 giờ trước Hàng chục nghìn người Gruzia tiến hành biểu tình lớn nhất từ trước tới nay 16 giờ trước Video 'rừng người' xem phương tiện chiến đấu bị Nga tịch thu ở chiến trường Ukraine 16 giờ trước U23 In...
I Only Want to Be with You - Dusty Springfield (Cover by Emily Linge) VẪN THẾ MÀ! Anh vẫn thế, trước sau vẫn thế mà Nhìn anh này, đừng nhìn phía trời xa Vẫn ngày ngày ra ngóng chờ trước của Đợi Nàng Thơ về tác hợp thi ca Tâm hồn anh có cửa đâu mà khóa Mà phải cùng em mở cánh cửa tâm hồn Anh tìm mãi nào thấy đâu ô cửa Toang hoác tứ bề, thông thống càn khôn* Còn trái tim anh vẫn êm đềm, yên ả Vẫn yêu quê hương, tổ quốc, con người Miền nhiệt đới khi thấy tim băng giá Chắc chắn là anh đã ngoẻo tự lâu rồi! Trần Hạnh Thu CT: * Trời đất
Nhận xét
Đăng nhận xét