TỔ TIÊN THIÊN CỔ 02/e (Vùng Đất Khởi Nguồn)
(ĐC sưu tầm trên NET)
Ly Kỳ Thánh Địa 40.000 Năm - Bí Ẩn Xung Quanh Vùng Đất Khởi Nguồn Của Dân Tộc Trong Lịch Sử Việt Nam
Nguồn gốc tộc người ở vùng đất Tổ
24/05/2013 09:38 SA
PhuthoPortal
- Suốt chiều dài tiền sử và lịch sử cổ đại, ở Phú Thọ có hai nhóm người
theo hai nhóm ngữ hệ là Việt Mường và Tày Thái cổ. Người Tày Thái cổ ở
dọc hai bờ sông Thao, đoạn sông Hồng từ Yên Bái về Việt Trì. Vì ngữ hệ
Tày Thái gọi sông này là Nậm Tao gọi theo tiếng Việt là sông Thao.
Ngày nay ở Phú Thọ còn nhiều địa danh được gọi theo tiếng Tày. Ở chân núi Hùng có nhiều khu ruộng còn gọi là nà theo
cách gọi của người Tày. Ở đây có xóm bản Pheo. Bản là địa điểm tụ cư
của người Tày như xóm của người Kinh. Xóm ấy xưa nay mọc đầy tre nên
người Tày khi xưa gọi là Bản Pheo. Nay người Kinh gọi là xóm Tre. Tộc
trưởng của bộ tộc lớn người Tày thời vua Hùng thứ 18 là Ma Khê, ở chân
núi Đọi Đèn, huyện Cẩm Khê. Ông Ma Khê sang lấy vợ ở bản Pheo, cạnh núi
Hùng ngày nay. Ở cạnh núi Hùng có ngọn núi Lỏn. Sau này người Kinh gọi
ngọn núi ấy là núi Út. Lỏn và Út đều có nghĩa là ngọn núi nhỏ nhất của
hai nhóm ngôn ngữ Việt Mường và Tày Thái cổ. Ông Ma Khê chống lại người
Tày của nước Âu Việt, được Hùng Vương phong là Phụ Quốc, làm thầy Vua.
Về sau ông cùng với Nguyễn Tuấn (Sơn Tinh) con rể của Vua Hùng bàn bạc
việc đánh giặc giữ nước. Khi Vua Hùng nhường ngôi cho Thục Phán chuyển
tên nước là Âu Lạc thì cha con Ma Khê bất hợp tác với triều đình mới,
trở về xây dựng trang ấp ở vùng thị xã Phú Thọ và Phù Ninh vì thế ở đây
có các động của người Man ở gọi là động Hoa Khê (thị xã Phú Thọ) và động Tiên
Du ở huyện Phù Ninh. Ở thị xã Phú Thọ nay vẫn có dấu tích của thành Mè
và chợ Mè. Mè và Mai là cách gọi chệch từ Ma. Họ Ma người Tày ở Phú Thọ
nay có nơi gọi là họ Mè hoặc họ Mai. Bộ tộc này về sau xẻ thành ba nhánh
ở Phú Thọ, Tuần Quán Yên Bái và Tuyên Quang. Nhánh ở Phú Thọ là nhánh
trưởng thờ cụ tổ Ma Khê. Người Tày ở Phú Thọ đã bị Kinh hóa. Nay họ ở
rải rác các nơi trong tỉnh. Có người vẫn giữ họ Ma như ông Ma Văn Thực,
tộc trưởng ở Việt Trì có cô con gái là ca sỹ Ma Thị Bích Việt. Những
người khác đổi sang họ Ma hoặc họ Mè.
Người
Việt Mường đông đúc tả ngạn sông Đà và ở xen kẽ với người Tày cổ ở hai
bờ sông Thao, sông Lô. Người ta còn thấy nhiều dấu tích của người Việt
Mường như các miếu Mường ở Thanh Ba và các địa danh còn gọi là động.
Trước
đó người Việt cổ gồm hai nhóm Việt Mường và Tày cổ, theo biển lùi đã
thiên đi theo sông nước khai phá vùng Trung Châu tạo ra vùng đồng bằng
Bắc Bộ. Ở đây do tiếp biến văn hóa với người từ trên xuống và từ biển
vào mà họ trở thành người Kinh. Về sau do phát triển, đất chật người
đông hoặc do có tội với làng nước mà lẻ tẻ từng nhóm người kinh lại “
bồng bế nhau nên nó ở non”. Đến thời trung đại, người kinh đã có đông
đúc ở Phú Thọ. Điểm cư trú của họ là kẻ, hương, giáp và làng. Để phân
biệt với các làng của người kinh, triều đình quy định gọi các điểm cư
trú của người bản xứ, người thiểu số là các Động man, Ở Phú Thọ còn thấy
các động Lăng Xương, động Trung Nghĩa, động Trúc Khê, động Khuất Lão...
Ở động nào có các họ Nguyễn, Đinh, Quách, Bạch , Hà, Phùng, Bùi, Lê,
Cao, vv.... Là nơi người Mường từng cư trú. Ở đâu có họ Ma , Mai, Mè là
nơi ở của người Tày xưa.
Nước
Văn Lang của các Vua Hùng do người Lạc Việt hay người Việt Mường làm
chủ. Có một bộ tộc người tày do Ma Khê làm tộc trưởng hậu thuẫn để chống
lại người Âu Việt do Thục Đế làm Vua từ phía Tây Bắc thường tràn xuống
cướp phá. Các Vua Hùng phải lấy Phong Châu Việt Trì làm Kinh Đô để chống
phá lại người Âu Việt. Có lúc thế giặc mạnh đẩy Vua Hùng phải lùi xa
xây Kinh thành ở Nghệ An để tập hợp lực lượng đuổi giặc ra khỏi bờ cõi
của mình. Chính vì nguyên nhân này mà những năm 60 của thế kỷ trước, do
chỉ dựa vào truyền thuyết dân gian giới sử học mới bàn cãi địa điểm kinh
thành Phong Châu hoặc ở Nghệ Tĩnh hoặc ở Việt Trì. Kinh thành Phong
Châu từng có ở Nghệ Tĩnh . Các Vua Hùng phải tập hợp lực lượng đưa quân
đánh đuổi quân giặc ra khỏi bờ cõi của mình, Vì Vua Hùng có trấn giữ
được thành Phong Châu thì mới giữ yên được bờ cõi của mình. Địa giới
nước Văn Lang thời ấy ở Tây Bắc có Phú Thọ, tỉnh Hòa Bình, các tỉnh miền
Trung Châu vào đến miền Thanh Nghệ.
Con
sông Đà chảy từ Lai Châu, Điện Biên, Sơn La xuống Hòa Bình, Việt Trì là
dòng nước chính đưa người Âu Việt xuống cướp phá của cải, nô lệ của
người Lạc Việt. Con sông Đà vì thế là con sông lưu giữ nhiều truyền
thuyết về thời kỳ nhà nước cổ đại Việt Nam.
Do vị trí quan trọng của nó mà ở đây còn truyền lại tới muôn đời sau
truyện tình Lạc Long Quân và Âu Cơ. Tương truyền bà sinh ra ở động Trung
Nghĩa ( Xã Trung Nghĩa , huyện Thanh Thủy ngày nay) . Lạc Long Quân một
lần tuần du qua đây dã gặp và đưa bà về Phong Châu kết làm chồng vợ. Bà
sinh bọc trứng, nở trăm con trai. Năm mươi người con theo bố về khai
phá vùng biển, năm mươi người con theo mẹ lên rừng, thuộc Văn Lang,
huyện Hạ Hòa , sát Yên Bái thuộc vùng đất của nước Âu Việt. Một người
con ở lại lập ra nhà nước Văn Lang, cố đô là thành Phong Châu, Việt Trì.
Đến
thời Vua Hùng Duệ Vương thứ 18, ở động Long Xương cũng huyện Thanh Thủy
có vợ chồng ông Nguyễn Cao Hành , lấy bà Đinh Thị Đen quê ở động Cao
Phong , Hòa Bình sinh ra Nguyễn Tuấn là người tài trí, lớn lên theo Vua
Hùng dẹp giặc. Ông là bộ tướng được vua yêu mến gả con gái là Ngọc Hoa
làm vợ. Tương truyền Nguyễn Tuấn có bố mẹ là người Việt Mường. Khi sinh
lại làm con nuôi bà Ma Thị Thần Nữ. Điều đó nói lên vùng đất này từng ở
xen kẽ hai nhóm tộc người Việt Mường và Tày Thái cổ.Truyền thuyết trên
càng chứng tỏ địa vực nơi của người Lạc Việt là Hòa Bình và Phú Thọ,
miền đất Tây Bắc của người Lạc Việt, giáp với nước Âu Việt ở mạn Sơn La,
Yên Bái.
Nguyễn
Tuấn sinh ra được mẹ nuôi người Tày là Ma Thị Thần Nữ đưa sang học Tiên
ông ở núi Tản Viên. Nguyễn Tuấn được tích hợp văn hóa của cả người Việt
Mường và người Tày Thái cổ. Vì thế ông được người việt sau này tôn thờ
là tứ bất tử trong thần điện Việt Nam.. Nguyễn Tuấn có công khuyên can vua cha nhường ngôi cho Thục Phán để tránh cho người Việt nạn đẩu rơi máu chảy.
Thục
Phán lên ngôi xây Loa Thành, lập hòn đá thề trên núi Nghĩa Lĩnh hứa đời
đời tôn thờ Vua Hùng làm Quốc tổ và lập miếu Lăng Xương ở động Lăng
Xương để thờ thánh mẫu Đinh Thị Đen và Thánh Tản Viên để ghi công đức
góp phần vào việc mình được yên vị ngồi trên ngôi vua của nước Âu Lạc.
Thực ra làm điều này Thục Phán muốn làm yên dân Lạc Việt ở buổi đầu
không dễ bề thuần phục.
Nạn
đầu rơi máu chảy hàng trăm năm, hàng nghìn năm trước đó được nhắc lại
rất ít. Ông cha ta đã cố quên đi bi kịch dai dẳng của hai liên minh bộ
tộc được coi là cùng tông giống nhà Hùng để hướng căm thù vào kẻ phương
Bắc luôn lăm le xâm lấn nước ta. Mối bi kịch của cuộc nội chiến ấy đã
được ông cha ta khôn khéo ký thác trong thiên tình sử Sơn Tinh, Thủy
Tinh với công chúa Ngọc Hoa> Lâu nay ta được biết chuyện Sơn Tinh
Thủy Tinh và các nhân vật lịch sử nhà Hùng, ngoài ra còn ngụ ý về tinh
thần chống lũ lụt của ông cha ta. Nhưng thực ra nó còn được ký thác tấn
bi kịch lịch sử cổ đại thời chiến tranh giữa nhà Hùng và nhà Thục.Cuộc
chiến tranh kéo dài hàng trăm hàng ngàn năm ấy đã làm cho nước mắt của
người Việt tràn ngập thành cả con sông Đà huyền thoại. Đó là cơn đau đẻ
quặn thắt từ thời tiền sử để sinh ra nhà nước cổ đại đầu tiên trong kho
chính sử của nhà nước cổ đại huyền sử.
Dọc
sông Đà còn lưu truyền rất nhiều chuyện Sơn Tinh đánh nhau với Thủy
Tinh mà chứng tích để lại chính là các mom sông, đầm bãi, gò núi... Sơn
Tinh Thủy Tinh chỉ là những hình tượng phúng dụ mà cốt lõi lịch sử gửi
gắm lại điều mà cả dân tộc đều muốn nhớ, muốn quên. Hơn nữa tập quán của
người Mường khắp nơi đặc biệt là ở Phú Thọ vẫn duy trì tục thờ tô tem,
tức là thờ Vật Tổ. Lịch sử nhân loại từng trải qua giai đoạn tạp hôn ,
mãi đến khi nhận thức được ra rằng ta là con cháu cùng bà mẹ sinh ra.
Khi ấy tổ chức xã hội đầu tiên của loài người ra đời. Khoa học gọi đó là
giai đoạn xã hội thị tộc tảo kỳ. Ở thời kỳ này con người mới chỉ biết
có mẹ, chưa biết có cha. Mà theo quan sát tự nhiên cộng với kinh nghiệm
con người cũng đã biết vạn vật sinh ra đều phải có hai yếu tố mà thành .
Đó là trời đất, sáng tối, mưa nắng... Sự quần hôn lúc ấy chưa thể coi
là yếu tố sinh sản mà chỉ để thỏa mãn bản năng đực cái. Những người cùng
dòng máu mẹ không còn được giao hoan với nhau . Thế là các thị tộc
trong bộ lạc giao ước với nhau: Đàn ông của thị tộc này sang giao hoan
với đàn bà của thị tộc kia . Do chưa nhân thức được vì giao hoan mà sinh
sản , con người lại mới chỉ biết mẹ, chưa biết cha là ai, thế là to tem
giáo ra đời. Mỗi bộ lạc có một vật tổ riêng. Ngày nay họ Hà người Mường
Phú Thọ thờ con cuốc là vật tổ của mình. Họ Đinh Công lại thờ con liếu
điếu. Họ Cao thì thờ con Khỉ. Một họ Cao khác lại thờ con Chim Chào
mào... Người ta vẽ vật tổ gọi là tờ tranh họ. Khi có người chết tờ tranh
họ được để trên chốc quan tài cùng bát cơm quả trứng và cây đũa bông.
Khi hạ huyệt lấp đất đền đâu tờ tranh họ được nâng lên theo đến dây.
Cuối cùng tranh họ được cắm trên chốc mộ phần. Người ta không giết mổ ăn
thịt vật tổ. Khi vật tổ chết chôn cất như người. Nhà giàu xưa còn làm
ma con vật tổ như làm ma người. Từ khi đã biết rõ bố mình là người cụ
thể nào thì tín ngưỡng tô tem cũng chỉ còn rớt lại ở các tộc người thiểu
số. Ngày nay người mường vùng Đất Tổ giải thích vật tổ là con vật đã
từng cứu giúp tổ tiên họ thoát chết. Khi giặc lùng sục, Vật tổ đã bay từ
bụi rậm ra làm cho giặc tin trong đó không có người lẩn trốn. Việc thờ
cúng vật tổ là để tả ơn. Khắp các ngõ ngách của vùng mường đều thờ vật
tổ, và giải thích tương tự như trên. Vùng Mường Phú Thọ, Hòa Bình lại ở
sát với người Âu Việt. Người Âu Việt thường xuyên xuống đây cướp phá.
Đền khi hai nhà nước Âu Việt và lạc Việt hợp nhất thì giặc không
còn được định danh mà nó được ám chỉ như là giặc phương Bắc, phương Tây.
Chỉ rõ truyền thuyết về loài tre cụt ngọn ở đỉnh núi Lưỡi Hái huyện
Thanh Sơn được truyền lại là do Vua Hùng bẻ làm tên nỏ bắn Thục Đế (Vua
của nước Âu Việt). Hoặc truyền thuyết về Thành Hoàng, làng Sơn Vi (Lâm
Thao) kể chuyển mộc xanh tướng quân khi hóa đã âm phù bày kể cho Tản
Viên Sơn Thánh phải đuổi giặc lên đến Mộc Châu Sơn La mới phá tan được
âm mưu của giặc. Đó là những truyền thuyết hiếm hoi định rõ cuộc chiến
tranh cổ đại ấy
Nói
về tấn bi khịch lịch sử ấy ông cha ta hoặc đã ký thác trong thiên tình
sử Sơn Tinh - Ngọc Hoa, Thủy Tinh và được gửi gắm vào việc thờ vật tổ
của người Mường. Việc thờ vật Tổ vừa giữ được tàn tích của tô tem giáo
vừa thông báo cho muôn đời sau biết ông cha ta đã từng qua nạn binh đao
đầu rơi máu chảy.
Lần
lại lịch sử qua tài liệu dân tộc học khảo cổ và văn hóa dân gian sẽ hé
lộ rõ ràng hơn về nguồn gốc tộc người ở vùng Đất Tổ của cả nước./.
Nguyễn Hữu NhànDiện tích nước Việt cổ lớn gấp 10 lần ngày nay
- Trần Hưng
- •
- Thứ hai, 13/08/2018 • 223.3k lượt xem
Vùng
đất phía Bắc của người Bách Việt từng lên đến tận phía Nam sông Dương
Tử (hay Trường Giang), tới khu vực Hồ Động Đình (tức tỉnh Hồ Nam, Hồ Bắc
của Trung Quốc ngày nay). Việc này không chỉ được ghi nhận lại trong
các truyền thuyết mà còn nằm trong những chứng tích của lịch sử.
Truyền thuyết
Theo
Lĩnh Nam Chích Quái (huyền sử) thì ông nội của Lạc Long Quân là Đế Minh
(cháu 3 đời của Thần Nông) sinh ra con cả là Đế Nghi. Khi Đế Minh đi
tuần thú phương Nam thì gặp và cưới con gái bà Vụ Tiên sinh ra Lộc Tục.
Ngay từ tấm bé Lộc Tục đã thể hiện rất thông minh và đoan chính.
Đế
Minh rất ngạc nhiên trước tư chất thông minh và tài trí của Lộc Tục nên
muốn chọn làm người nối ngôi, thế nhưng Lộc Tục lại muốn nhường ngôi
cho anh mình là Đế Nghi.
ADVERTISEMENT
Cuối
cùng Đế Minh quyết định truyền ngôi cho con trưởng Đế Nghi làm vua
phương Bắc, và cho Lộc Tục làm vua phương Nam, lấy sông Dương Tử làm
giới tuyến. Ông tế cáo trời đất trên Thiên đài rằng: “Trước đất trời
nguyện rằng: Nam, Bắc cương thổ có khác. Nam không xâm Bắc. Bắc không
chiếm Nam. Kẻ nào phạm lời nguyền thì chết dưới đao thương”.
Từ
đấy phía Bắc sông Dương Tử do Đế Nghi cai quản, phía Nam sông Dương Tử
do Lộc Tục cai quản. Lộc Tục khi lên ngôi Vua lấy hiệu là Kinh Dương
Vương, năm 2879 TCN đặt quốc hiệu là Xích Quỷ, biên giới phía Bắc tới
Động Đình Hồ, phía Nam giáp với nước Hồ Tôn, phía Tây giáp với Ba Thục,
phía Đông giáp với biển Nam Hải.
Như
vậy theo sự phân chia vào thời đấy thì biên giới phía Bắc của người Việt
lên đến Động Đình Hồ (phía Nam sông Dương Tử), bao gồm cà các tỉnh của
Trung Quốc ngày nay như Hồ Bắc, Hồ Nam, Giang Tây, Quảng Tây, Quảng
Đông, v.v.
Nếu
tính diện tích thì Bắc giáp Động Đình Hồ vĩ tuyến 29 Bắc, phía Nam giáp
nước Hồ Tôn (Chiêm Thành sau này) vĩ tuyến 11 Nam, phía Tây giáp Ba
Thục (tỉnh Tứ Xuyên) kinh tuyến 105 Đông, phía Đông giáp bể Nam Hải,
kinh tuyến 118 Đông. Tổng cộng diện tích của Xích Quỷ khoảng 2.900.000
km2.
Khi vua Kinh Dương
Vương mất, con trai là Lạc Long Quân lên nối ngôi, lập ra nhà nước Văn
Lang. Khi ấy, biên giới của Bách Việt vẫn được vẹn toàn.
Trong
khi đó, dù hậu nhân sau này đã mở mang bờ cõi về phía Nam, nhưng
lại mất đi phần đất phía Bắc, nên diện tích Việt Nam bây giờ là 331.698
km2 (tính cả diện tích trên biển), chỉ bằng khoảng 1/10 so
với trước kia. Dẫu đây chỉ là huyền sử thì không phải ngẫu nhiên mà các
địa danh lại xuất hiện trong huyền sử. Một số nhà nghiên cứu cho rằng
huyền sử này đã diễn tả lại một cuộc di dân của người Việt cổ về phương
Nam, cũng như sự kết hợp và chia tách của hai chủng Việt cổ lớn thời bấy
giờ.
Hai Bà Trưng khôi phục giang sơn
Cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng vào năm 40 SCN đã giành được thắng lợi và lấy lại nguyên vẹn lãnh thổ nước Việt cổ.
Hai Bà Trưng cùng các nữ tướng quả cảm của mình đánh đuổi quân Hán
đến tận Động Đình Hồ, một nữ tướng là Trần Thiếu Lan đã tử trận tại
sông Thẩm Giang. Đây là con sông nối với Hồ Động Đình. Sách thời nhà
Nguyễn có ghi chép rằng: “Các sứ thần triều Lý, Trần, Lê đi sứ sang Trung Quốc, khi qua nơi đây đều có sắm lễ vật đến cúng miếu thờ bà Trần Thiếu Lan.”
Khi
giành được giang sơn, Hai Bà Trưng giao cho nữ tướng Phật Nguyệt chức
Tổng trấn khu hồ Động Đình – Trường Sa. Năm 1979, giáo sư Trần Đại Sỹ
tìm thấy tại thư viện bảo tồn di tích cổ ở tỉnh Hồ Nam (tỉnh thủ phủ
phía Nam Động Đình Hồ, Trung Quốc) có ghi chép trận đánh Động Đình Hồ
như sau: “Quang Vũ nhà Hán sai Phục ba tướng quân Tân tức hầu Mã
Viện. Long nhượng tướng quân Thận hầu Lưu Long đem quân dẹp giặc. Vua Bà
sai nữ tướng Phật Nguyệt tổng trấn hồ Ðộng đình. Mã Viện, Lưu Long bị
bại. Vua Quang Vũ truyền Nhị thập bát tú nghênh chiến, cũng bị bại. Nữ
vương Phật Nguyệt phép tắc vô cùng, một tay nhổ núi Nga mi, một tay nhổ
núi Thái sơn, đánh quân Hán chết, xác lấp sông Trường giang, hồ Ðộng
đình, oán khí bốc lên tới trời”.
Giáo
sư Trần Đại Sỹ từng tới Trung Quốc để tìm hiểu về lịch sử cuộc chiến
giữa Hai Bà Trưng và quân Hán, thấy rất nhiều tỉnh đều thờ Vua Bà, nhiều
nhất là tỉnh Hồ Nam (khu vực Động Đình Hồ), nhưng không ai còn nhớ Vua
Bà là ai.
Khi ông đến đến Côn Minh, giáo sư sử học Đoàn Văn ở đây cho hay: “Trong
truyền thuyết dân gian nói rằng hồi đầu thế kỷ thứ nhất có trận đánh
giữa quân vua Bà với quân Hán tại Bồ lăng. Nay Bồ lăng nằm trên lãnh thổ
Tứ Xuyên, chỗ ngã ba sông Trường giang và Ô giang.”
Giáo
sư Trần Đại Sỹ đến bến Bồ Lăng thuộc huyện Bồ Lăng, tỉnh Tứ Xuyên,
Trung Quốc để tìm hiểu. Tại đây giáo sư được Sở du lịch hướng dẫn đến
miếu thờ 3 vị thần, tướng của Vua Bà. Nhưng bản thân họ cũng không biết
Vua Bà và 3 vị tướng này cụ thể là ai, chỉ cho biết vua Bà là người nổi
lên chống tham quan thời Hán, cả vùng đó đều có đạo thờ Vua Bà.
Miếu
thờ có rất nhiều câu đối, nhưng cuộc cách mạng văn hóa của Trung Quốc
đã hủy gần hết các câu đối này. May mắn là ba câu đối vẫn còn tồn tại
tới ngày nay.
Phía trước cửa miếu có câu đối rằng:
Khẳng khái, phù Trưng, thời bất lợi,Ðoạn trường, trục Ðịnh, tiết… can vân.
Nghĩa là:
Khẳng khái phù vua Trưng, ngặt thời của Ngài không lâu.Ðuổi được Tô Ðịnh, nhưng đau lòng thay, phải tự tận…
khí tiết ngút từng mây.
khí tiết ngút từng mây.
Phía trong miếu có câu đối:
Giang thượng tam anh phù nữ chúa,Bồ Lăng bách tộc khốc thần trung.
Nghĩa là:
Trên sông Trường giang, ba vị anh hùng phò tá nữ chúa,Tại bến Bồ lăng, trăm họ khóc cho các vị thần trung thành.
Những
tư liệu này cho thấy biên giới người Việt thời Hai Bà Trưng phía bắc
tới Động Đình Hồ (phía Nam sông Dương Tử), phía Tây tới tận Ba Thục (tức
tỉnh Tứ Xuyên ngày nay).
Trải
qua ngàn năm Bắc thuộc, người Việt dồn dần xuống phía Nam để tránh sự
cai trị hà khắc, khiến khu vực phía Bắc người Hoa Hạ ngày càng đông hơn.
Năm
938, Ngô Quyền lãnh đạo người Bách Việt đánh bại quân Nam Hán, làm chủ
lại các vùng đất của nước Việt. Tuy nhiên một dải đất lớn phía Bắc là
Nam Hải, Tượng Quận, Quế Lâm đã bị bỏ qua, và diện tích nước Việt nhỏ
hơn trước. Sau này dù bờ cõi đã được mở rộng về phía Nam, nhưng diện
tích ngày nay chỉ bằng hơn 1/10 so với trước đây.
Truyền thuyết không cách xa sự thực
Trong bài viết có tựa đề “Thử tìm lại biên giới cổ của Việt Nam” trên
diễn đàn Lý Học Đông Phương, vốn là bài diễn văn tiếng Pháp của giáo sư
Trần Đại Sỹ đọc trong dịp khai giảng niên khóa 1991-1992 tại Viện
Pháp – Á, được dịch giả Tăng Hồng Minh đăng tải, giáo sư Trần Đại Sỹ đã
nhắc tới nhiều luận điểm khẳng định biên giới Việt cổ nằm ở hồ Động
Đình. Những luận điểm này được đích thân giáo sư Trần Đại Sỹ khảo cứu và
viếng thăm thực địa, trong đó nổi bật là:
1
– Núi Ngũ lĩnh trong truyền thuyết về Đế Minh xác thực nằm ở Trường Sa,
Hồ Nam. Ngoài ra tại tỉnh này còn có rất nhiều các di tích được nhắc
tới của tộc Việt như: hồ Động Đình, núi Tam Sơn, sông Tương, Thiên đài,
Tương đài, cánh đồng Tương.
2
– Thiên đài mà Đế Minh tế cáo trời là có thật, nằm gần bên bờ Tương
Giang. Trên đỉnh này có một ngôi chùa nhỏ, bên trong còn có nhiều chứng
tích về Hai Bà Trưng và trận Động Đình. Ngoài ra giáo sư Trần Đại Sỹ còn
tìm thấy một tài liệu mang tên “Thiên đài di sự lục” tại thư viện Hồ Nam, trong đó miêu tả rõ rằng Thiên đài thờ vua Đế Minh và vua Kinh Dương.
3
– Cánh đồng Tương là nơi mà Lạc Long Quân và Âu Cơ đã hẹn nhau tái hội
mỗi năm một lần là có thật. Giáo sư Trần Đại Sỹ kết luận rằng cánh đồng
Tương chính là vùng trũng phía Tây Ngạn, giới hạn phía Bắc là hồ
Động Đình, Nguyên Giang. Phía Nam là Linh Lăng, Hành Giang. Phía Tây là
vùng Chiêu Dương, Lãnh Thủy. Nhưng nay cánh đồng Tương chỉ còn khu vực
tứ giác: Tương Giang, Nguyên Giang, Liên Thủy, Thạch Khê Thủy.
Cùng với một số luận điểm vững chắc khác, giáo sư Trần Đại Sỹ đi đến kết luận rằng:
Biên
giới cổ của nước Việt, với các triều đại Hồng Bàng, Âu Lạc, Lĩnh Nam,
phía Bắc quả tới hồ Ðộng Đình, phía Tây giáp Tứ Xuyên.
Vậy là diện tích nước Việt cổ thực sự lớn gấp 10 lần ngày nay.
Ghi chú: Nước
Việt cổ và người Việt cổ là khác so với nước Việt và người Việt hiện
nay. Người Việt hiện nay chỉ là một nhánh của người Việt cổ.
Trần Hưng
Nguyễn Văn Tuấn - Cung Ðình Thanh - Nguyễn Ðức Hiệp |
Một vài ghi chép thêm về văn minh cổ và nguồn gốc dân tộc Việt Nam
I.
Có lẽ, phát biểu
rằng thế kỷ 21 là thế kỷ của văn hóa chắc không quá đáng, bởi vì một
khuynh hướng chung hiện nay là các quốc gia trên thế giới đang (hay sắp)
qui tụ với nhau thành nhiều nhóm dựa trên văn hóa, mà không dựa trên ý
thức hệ (như Chủ nghĩa Cộng sản và Chủ nghĩa Tư bản trong thời gian
qua). Trong thế kỷ 21, người ta sẽ hỏi "Anh là ai", thay vì "Anh thuộc
phe nào" trong thế kỷ vừa qua. Tức là một sự chuyển biến về nhận dạng từ
ý thức hệ sang văn hóa.
Nhưng câu hỏi "Chúng
ta là ai" tuy đơn giản, câu trả lời thì không đơn giản chút nào. Tổ tiên
chúng ta xuất phát từ đâu, họ đến Việt Nam bằng cách nào, vẫn còn là
những vấn đề khoa học, đòi hỏi nhiều nghiên cứu về di truyền học, khảo
cổ học, và ngôn ngữ học. Từ thập niên 60 thế kỷ trước, nhiều người, nhất
là giới trẻ, đã khao khát muốn tìm về nguồn gốc dân tộc. Nhiều đoàn thể
đã tự chọn cho mình cái mục tiêu "về nguồn". Đến khi chiến tranh trên
quê hương chấm dứt năm 1975, rồi cả triệu người phải bỏ nước ra đi, sự
khao khát tìm về cội nguồn trong những người xa quê hương này lại có
phần gia tăng, dù người ta đã phải vất vả nhiều hơn cho cuộc sống mới.
Nhưng khi tìm trong
cổ sử Việt, về đời sống tinh thần của người xưa, để thực hiện việc về
nguồn này, người ta chỉ gặp một cảnh hoang sơ: ngoài một số truyền
thuyết, và những lời răn thực tế trong tục ngữ ca dao, những tác phẩm để
lại, phần lớn do người ngoại quốc viết, thường đã bị khoa học ngày nay
vượt qua từ lâu, không kể một số không ít đã được sáng tác với dụng ý
xuyên tạc sự thực, bôi bác nguồn gốc dân tộc, hạ thấp giá trị văn hóa cổ
truyền. Trong cảnh tiêu sơ đến thảm hại đó, cũng đã xuất hiện vài quyển
sách có thiện ý muốn viết lại cho trung thực nguồn gốc dân tộc mình (1).
Nhưng được thực hiện trong hoàn cảnh tư liệu thiếu thốn, các sách này
chưa đạt được mục đích, vả cũng đã nhanh chóng bị khoa học ngày nay vượt
qua. Ở trong nước, nhờ có đội ngũ những nhà biên khảo khoa học xã hội
đông đảo, có những cơ quan chuyên nghiên cứu về triết học, văn hóa và
khoa học xã hội có tổ chức, nên có được nhiều biên khảo chuyên ngành và
công phu hơn. Nhất là về phương diện khảo cổ, từ thập niên 60 (thế kỷ
trước), ngành này đã đạt được những kết quả vô cùng ngoạn mục. Nhưng
những tác phẩm nghiên cứu có hệ thống và khoa học vẫn còn cực kỳ ít,
ngoại trừ tập một vài tác phẩm mới xuất bản gần đây (2). Đặc biệt về
phương diện triết học tư tưởng, nhiều hội nghị đã được triệu tập, nhưng
vẫn đi đến kết luận hết sức lạ lùng là: trong hoàn cảnh tài liệu hiện
tại, còn quá sớm để có thể hình thành một tác phẩm loại này(3).
Trong bối cảnh như
vậy, chúng tôi, một nhóm tư nhân rất thiếu phương tiện, nhưng đã quyết
tâm làm việc trong hoàn cảnh thiếu thốn, không có tài trợ từ bất cứ
nguồn nào, đã tự cho mình trách nhiệm góp phần trong việc soạn thảo
những tài liệu cung ứng cho khát vọng tìm về cội nguồn, mà chúng tôi
biết trước là rất khó khăn, này. Một tập san mang tên Tư Tưởng, với mục
đích phi thương mại, chỉ lưu hành trong nhóm thân hữu và các nhà biên
khảo có lòng với văn hóa dân tộc, sống rải rác khắp mọi nơi trên thế
giới, đã được phát hành từ đầu năm 1999 để làm cây cầu nối những ai muốn
thực hiện con đường tìm về cội nguồn. Đến nay Tập san đã ra được 19 số.
Cách đây không lâu,
Giáo sư Stephen Oppenheimer, một nhà nghiên cứu y học nhưng từng nghiên
cứu về thời tiền sử, có xuất bản quyển sách "Eden in the East" bàn về
văn minh Đông Nam Á. Cuốn sách làm chấn động giới nghiên cứu tiền sử
Đông Nam Á. Nhận thấy quyển sách có tầm quan trọng đặc biệt đối với việc
tìm hiểu nguồn gốc dân tộc, nên một người trong nhóm chúng tôi (Gs. Tiến
sĩ Nguyễn Văn Tuấn) có viết một bài điểm sách, và nhân đó, đưa đề nghị
"Đặt lại vấn đề nguồn gốc dân tộc và văn minh Việt Nam" đăng trên Tập
San Tư Tưởng số 15 tháng 8 năm 2001. Bài điểm sách đã được nhiều tạp chí
trong và ngoài nước in lại, và chúng tôi đã nhận được khá nhiều góp ý
cũng như phê bình. Vấn đề đặt ra được sự hưởng ứng nồng nhiệt của nhiều
người ở trong cũng như ngoài nước. Trong số những tác giả đã khai triển
thêm đề tài này bằng những bài phê bình hết sức xây dựng, Tác giả Nguyễn
Quang Trọng, trong bài "Về nguồn gốc dân tộc Việt Nam và ?Địa đàng ở
phương Đông? của ppenheimer" (Hợp Lưu, số 64) là đáng bàn thảo thêm, và
đó cũng là đề tài chính của bài viết này của chúng tôi.
Chúng tôi cám ơn tác
giả Nguyễn Quang Trọng và các tác giả khác đã bỏ công viết những bài
thảo luận có giá trị về vài điều mà chúng tôi đã nêu ra một cách vắn tắt
trong bài điểm sách. Bởi bài viết trước của chúng tôi nằm trong dạng
"điểm sách", nên chúng tôi không có cơ hội khai triển thêm những điều đã
phát biểu. Trong bài này, chúng tôi muốn trình bày thêm một vài quan
điểm chung quanh những ý kiến của tác giả Nguyễn Quang Trọng, và chắc
cũng là ý kiến của một số bạn đọc quan tâm khác. Cố nhiên, có một số
điểm chúng tôi sẽ không đề cập đến, không phải vì chúng tôi đồng ý (hay
không đồng ý) với tác giả, mà chỉ vì muốn hạn chế trong phạm vi những
điều có liên quan đến bài điểm sách của chúng tôi.
II.
Trước hết, chúng tôi
muốn bàn và phát triển thêm những điểm trong bài viết của Nguyễn Văn
Tuấn mà tác giả Nguyễn Quang Trọng cho rằng có thể gây ngộ nhận :
Thứ nhất, về giả thuyết người Hòa Bình tràn
lan về phía Nam (Indonesia), lên hướng Bắc (Trung Hoa) và sang hướng Tây
(Thái Lan), tác giả Nguyễn Quang Trọng, tuy không bác hẳn, nhưng tỏ vẻ
không đồng ý với quan điểm này vì có hàm ý văn hóa Hòa Bình (Bắc Việt)
còn trẻ hơn các văn hóa kể trên. Dụng cụ đá ở Hòa Bình có niên đại trẻ
hơn dụng cụ đá ở Úc Châu, và "Theo tôi (NQT), chữ ?người Hòa Bình? dùng
cho các di tích ở nơi khác không có nghĩa là người Hòa Bình - Bắc Việt -
vào thời điểm đó (7.000 đến 12.000 năm trước) đã tràn lan đến những nơi
khác như Thái Lan, Indonesia, Úc, Trung Hoa".
Thực ra, niên đại
văn hóa Hòa Bình là một vấn đề đương đại, vì cho đến nay các nhà nghiên
cứu vẫn chưa nhất trí. Cụm từ "Văn hóa Hòa Bình" được giới khảo cổ học
chính thức công nhận từ ngày 30-01-1932, do đề xuất của Madeleine
Colani, sau khi đã được Đại hội các nhà Tiền sử Viễn Đông họp tại Hà Nội
thông qua. Khởi thủy, cụm từ này được dùng để nói đến nền văn hóa cuội
được ghè đẽo trên khắp chu vi hòn cuội để tạo ra những dụng cụ từ thời
đá cũ đến thời đá mới (Choppers, hay chopping tools). Qua thời gian, tất
nhiên cụm từ này đã được đề nghị mang những tên khác nhau và có những ý
nghĩa cũng khác nhau. Lúc đầu, nó chỉ nói về nền văn hóa có khoảng không
gian là Bắc phần Việt Nam, và khoảng thời gian không quá 5.000 năm trước
đây (4). Nhưng khoảng không gian lẫn thời gian trên được nới rộng dần.
T. M. Matthews có lẽ là người đầu tiên đã đem Văn hóa Hòa Bình vượt khỏi
lãnh thổ Việt Nam đến các vùng Đông Nam Á, và rồi người ta nói đến Văn
hóa Hòa Bình ở Miến Điện, Kampuchia, Lào, Mã Lai Á, Sumatra, Thái Lan,
Ần Độ, Tứ Xuyên ... Nhưng có lẽ không ai mở rộng ảnh hưởng của Văn hóa
Hòa Bình bằng Gs. W. G. Solheim II. Về không gian, ông đã đưa Văn hóa
Hòa Bình, phía Đông Bắc đến Phi Luật Tân, Nhật Bản, phía Tây đến Thái
Lan, phía Nam đến tận Úc Đại Lợi và phía Bắc bao trùm cả hai nền văn hóa
cổ của Trung Hoa là Ngưỡng Thiều (Yan Shao) và Long Sơn (5). Về thời
gian, ông không định rõ, nhưng tuyên bố không ngạc nhiên nếu thấy việc
thuần hóa cây lúa nước đã có tại Hòa Bình từ 15.000 năm trước Công
Nguyên, và những dụng cụ đá mài có lưỡi bén tìm thấy ở Bắc Úc Châu có
tuổi khoảng 20.000 năm trước Công Nguyên đo bằng C14 có nguồn gốc từ nền
Văn hóa Hòa Bình. Đấy là chưa kể đến dự phóng của ông về niên đại Hòa
Bình lên đến 50.000 năm trước khi ông viết "Đông Nam Á và tiền sử học
thế giới" đăng trong Viễn Cảnh Châu Á, tập XIII năm 1970 (6). Riêng
trong phạm vi nước Việt Nam ngày nay, Văn hóa Hòa Bình được khoa học
khảo cổ phân chia thành ba thời kỳ:
• Hòa Bình sớm hay Tiền Hòa Bình, có niên
đại tiêu biểu là di chỉ Thẩm Khuyên (32.100 ± 150 trước Công Nguyên
(TrCN)), Mái Đá Điều, Mái Đá Ngầm (23.100 ± 300 TrCN).
• Hòa Bình giữa hay Hòa Bình chính thống,
tiêu biểu bởi di chỉ Xóm Trại (18.000 ± 150 BC), Làng Vành (16.470 ± 80
TrCN).
• Hòa Bình muộn, tiêu biểu bằng di chỉ ở
Thẩm Hoi (10.875 ± 175), Sũng Sàm (11.365 ± 80 BP, BLn - 1541/I).
Tính cách rộng lớn
và phức tạp của Văn hóa Hòa Bình đã đến độ có đề nghị đổi tên Văn hóa
Hòa Bình thành Phức hợp Kỹ thuật Hòa Bình (7). Chúng tôi đồng ý cụm từ
"Văn hóa Hòa Bình" nay được dùng để chỉ nền văn hóa đá mới có đặc tính
chung rộng khắp tại Đông Nam Á, Bắc lên đến Nhật Bản, Nam xuống tận Úc
Châu, và không nhất thiết nó phải phát xuất từ Hòa Bình, Việt Nam. Nhưng
văn hóa thiên di theo con người, và gần đây đã có dữ kiện di truyền học
cho thấy có lẽ người Đông Nam Á, gần gốc Phi Châu hơn Đông Bắc Á và
người Việt Nam có lẽ là sắc dân cổ nhất của Đông Nam Á (chúng tôi sẽ bàn
thêm về điểm này trong phần sau).
Thứ hai, có phải kỹ thuật làm đồ đồng thau
(dụng cụ, vũ khí) của cư dân Đông Sơn có trình độ cao nhất, nhì thế
giới? Tác giả Nguyễn Quang Trọng không đồng ý với phát biểu này của
chúng tôi, ông cho rằng trình độ đúc đồng của cư dân Đông Sơn (từ 700
năm trước CN về sau) quả rất cao, nhưng không thể nói là cao hơn các nơi
khác, nhất là những nơi này đã có kỹ thuật đúc đồng xưa hơn Đông Sơn rất
nhiều. Tác giả nêu một thí dụ về kỹ thuật đúc đồng ở Sanxingdai (Bắc
Trung Hoa) cổ hơn Đông Sơn mấy ngàn năm, Thái Lan, xưa hơn Đông Sơn
1.000 năm, và ở các nơi khác như Irak, Ai Cập, vùng Cận Đông cũng sớm
hơn Đông Sơn rất nhiều.
Rất tiếc là tác giả
không dẫn chứng được những niên đại chính xác ("mấy ngàn năm" là mấy
ngàn? Sớm hơn là sớm như thế nào?), và nguồn gốc của những dữ kiện được
nêu ra. Nhưng chúng ta cứ giả thiết kỹ thuật đồng của những nơi này đã
có trước mấy ngàn năm, cái niên đại 700 năm trước CN (mà ông gắn cho là
niên đại của văn minh Đông Sơn) đi nữa, thì cũng không chắc đã có trước
kỹ thuật của văn minh Đông Sơn, bởi một lẽ giản dị, niên đại 700 trước
CN chỉ là niên đại của Đông Sơn trễ, Đông Sơn trẻ nhất.
Như sẽ được dẫn
chứng dưới đây, Văn hóa Đông Sơn kể từ thời Phùng Nguyên cho đến nay,
vẫn có thể coi là nền văn hóa đồng thau có niên đại xưa nhất so với niên
đại văn hóa đồng thau ở các nơi khác trong vùng Đông Nam Á và Đông Bắc
Á. Bốn nhà nghiên cứu có uy tín khác viết về Văn hóa Đông Sơn đầu tiên ở
Việt Nam là V. Gouloubew, R.H. Geldern, B. Karlgrenvà O. Jansé, đều lầm
khi cho nền văn minh độc đáo này có nguồn gốc ngoại lai, từ nơi khác
truyền đến. Người thì cho nó bắt nguồn từ Trung Hoa; người đi xa hơn,
cho nó bắt nguồn từ văn minh Hallstatt ở Ấu Châu, truyền qua vùng thảo
nguyên Ấu Á, đến Trung Hoa trước khi truyền vào Đông Sơn (8). Có người
lại dựng lên một nguồn gốc xa xôi từ văn minh Mycèle Hi Lạp và theo một
hành trình rất nhiêu khê qua trung gian các nền văn minh Trung Ấu, rồi
Trung Á, đến đây mới chia hai ngả, một theo đường Tế Xuyên, Vân Nam
truyền vào Việt Nam, và một theo lưu vực sông Hà, sinh ra văn hóa đồng
thau đời nhà Thương ở Trung Hoa (9). Những nhận xét này tuy có tính ngạo
mạn, nhưng có thể hiểu được, bởi lúc đó chưa phát hiện được những nền
văn hóa đồng thau nội địa xưa hơn và là tiền thân của văn hóa đồng thau
ở Đông Sơn, kể từ Phùng Nguyên, nên các nhà nghiên cứu trên cứ nghĩ, văn
hóa đồng thau tìm thấy ở Đông Sơn, là văn hóa đồng thau duy nhất tại
Việt Nam. Thực ra, đồng thau tìm thấy ở Đông Sơn chỉ là giai đoạn chót
của một nền văn hóa đồ đồng đã có lâu đời ở Việt Nam kể từ Phùng Nguyên.
Hơn nữa, thời đó khoa học chính xác chưa tiến bộ, văn minh Tây phương
đang hồi cực thịnh, văn minh đồng thau Đông Sơn lại quá rực rỡ, chứng tỏ
nó phát xuất từ một nền văn minh tối cổ cực kỳ cao. Những nhà nghiên cứu
gốc Tây phương này, có thể do niềm tự tôn làm lu mờ sự khách quan của
mình, nên không thể ngờ một nền văn minh lớn, đã để lại những di vật
hoành tráng như vậy lại do tổ tiên những người mà dưới mắt họ, thấy đang
bị ngoại bang đô hộ, sống lam lũ, nghèo khổ, thiếu văn minh - đã sáng
chế ra!
Nhưng sự hiểu lầm đó
đến nay đã thuộc về dĩ vãng, ít nhất là sau Hội nghị Quốc tế họp ở
Berkeley bàn về Nguồn gốc văn minh Trung Hoa năm 1978, mà các bản tham
luận, sau khi các dữ kiện được kiểm nghiệm, so sánh với ý kiến của các
học giả khác, đã được xuất bản năm 1980 (10). Cho đến lúc này (tức
1980), người ta thấy đồ đồng Đông Sơn có niên đại xưa nhất (đồ đồng tìm
thấy được ở Tràng Kênh thuộc Văn hóa Phùng Nguyên có niên đại C14 = 1425
± 100BC [BLn - 891] so với đồ đồng cổ nhất của Trung Hoa ở Anyang có
niên đại C14 = 1300 BC theo Anderson hay 1384 BC theo Lichi) (11); đồ
đồng Đông Sơn cũng có kỹ thuật cao nhất vì đã biết pha với chì khiến hợp
kim có độ dai bền đặc biệt (hợp kim đồng ở Thái Lan hay nhiều nơi khác
có thể pha chế đồng với sắt, thiếc, antimoin như Đông Sơn nhưng không có
chì) (12).
Có lẽ Nguyễn Quang
Trọng đã hiểu đồ đồng Đông Sơn theo nghĩa hẹp là đồ đồng tìm thấy ở làng
Đông Sơn, Thanh Hóa. Tuy đồ đồng tìm thấy ở đây đầu tiên, nhưng tuổi của
nó không phải sớm nhất mà trẻ nhất trong nền văn hóa mang tên Đông Sơn.
Người ta đã chứng minh được nó là hậu duệ của những sản phẩm đồng từ
Phùng Nguyên, Đồng Đậu, Gò Mun trước khi đến vùng Đông Sơn, Thanh Hóa.
Bốn nền văn hóa này, mỗi nền văn hóa có những nét độc đáo riêng, nhưng
cùng thuộc một chủng tộc làm chủ. Chúng kế thừa nhau một cách chặt chẽ,
liên hệ với nhau một cách khắng khít. Bởi vậy khoa học ngày nay gọi
chúng một tên chung là Văn hóa Đông Sơn. Như trên đã nói, Đông Sơn là
nơi tìm ra đồ đồng ở Việt Nam đầu tiên nhưng lại là giai đoạn sau cùng
của văn minh đồng thau này, kéo dài hơn 2.000 năm, khởi đầu từ Phùng
Nguyên khoảng 4.000 năm cách ngày nay (C14 Gò Bông = 1850 ? 60 BC [BLn -
3001]).
Đây là một hiểu lầm
đến nay thì không còn nhiều người mắc phải và cũng không tai hại như sự
hiểu lầm ở điểm 3 dưới đây mà nhiều nhà nghiên cứu về cổ học Việt Nam
còn đang lúng túng chưa có câu giải đáp minh bạch.
Thứ ba, về đồ gốm Việt Nam xuất khẩu khắp
Đông Nam Á, đến tận Malanesia, trước khi có ảnh hưởng của Ần Độ, tác giả
Nguyễn Quang Trọng viết "tôi e rằng có sự nhầm lẫn về điểm này", vì theo
tác giả, "Hòa Bình là văn hóa không có đồ gốm, hay có rất ít vào thời kỳ
cuối (Bắc Sơn)". Có lẽ tác giả viết như thế vì ông đã căn cứ vào mẫu đồ
gốm tìm được ở Hang Đắng thuộc rừng Cúc Phương, có niên đại C14 = 7.665
năm trước đây, mà các nhà khảo cổ Việt Nam cho thuộc thời kỳ Văn hóa Bắc
Sơn hay Văn hóa Hòa Bình muộn. Viết như thế là rất thận trọng, cũng
giống như sự thận trọng của những nhà khảo cổ học Việt Nam, những người
đã đích thân đào những di tích khảo cổ trên đất nước mình và khai quật
được những di vật - ở đây là đồ gốm - và khi định niên đại thì những gốm
này, ngay cả những gốm cổ nhất, cũng có niên đại trẻ hơn niên đại của
gốm ở các nơi khác (Nhật Bản, Trung Hoa, Thái Lan, cả một số những đảo
Thái Bình Dương), nghĩa là những nơi mà những ngành khác đã chứng minh
được do người thuộc văn hóa Hòa Bình di cư đến đem theo cả văn hóa của
mình.
Sự bất lực không
giải thích được điều mâu thuẫn này dẫn đến những hiểu lầm đáng tiếc. Gốm
là một di vật rất quan trọng nếu không muốn nói là quan trọng nhất trong
ngành khảo cổ, vì nó phản ảnh rõ nhất, đầy đủ nhất nếp sống, tư duy, nói
chung, văn hóa của người xưa. Vậy thì, dù các ngành khoa học khác cho
thấy người thuộc văn hóa Hòa Bình có thể là nguồn gốc của nhân loại Đông
Á, mà gốm Hòa Bình lại có niên đại trẻ hơn gốm các nơi khác cũng sẽ làm
cho nguồn gốc nhân loại Đông Á từ người thuộc văn hóa Hòa Bình trở thành
có tì vết!
Chính vì hiểu rõ sự
quan trọng của gốm trong vấn đề giải thích đời sống tiền sử và sự mâu
thuẫn có tính sinh tử này mà chúng tôi đã cố công tìm hiểu. Và chúng tôi
nghĩ là chúng tôi đã tìm ra được câu trả lời cho vấn đề khó khăn này
bằng bài "Gốm cổ tại Việt Nam và vai trò của nó trong văn hóa tiền sử",
đăng trong Tập San TƯ TƯỞNG số 12 tháng 2 năm 2001. Những ý kiến đã giúp
chúng tôi tìm được câu giải đáp, ngoài những di vật khảo cổ rất phong
phú mới tìm thấy ở Việt Nam và Nam Trung Hoa trong những năm gần đây,
trước hết, phải kể đến kiến giải của GS. W. G. Solheim II, khi ông giả
thiết gốm Văn Thừng, đặc trưng của gốm Hòa Bình phải có niên đại 15.000
năm cách ngày nay dù ông chưa có trong tay tài liệu để chứng minh. Tiếp
đến, ý kiến của GS. S. Oppenheimer trong sách "Địa đàng tại phương Đông"
giả thiết về một sự hiện hữu của vùng Sundaland coi như nguồn gốc của
nhân loại Đông phương, có thể của cả thế giới. Rồi thuyết về ngôn ngữ
học của nhà ngữ học Johana Nichols và các nhà ngôn ngữ mới khác chứng
minh ngôn ngữ Đông Nam Á Austronesian và Austro - Asiatic từ miền biển,
miền thấp, ngược các con sông tiến lên miền cao, miền núi, chứ không
phải từ miền núi xuôi xuống miền biển theo dọc dòng sông (13). Quan
trọng nhất là các bằng chứng về di truyền học khẳng định rằng nguồn gốc
người Hiện Đại (Homo Sapiens - Sapi-ens) từ Đông Phi Châu đến Đông Nam
Á, rồi từ đó mới thiên di đi các nơi khác (14).
Việc tìm hiểu về đời
sống tiền sử, đời sống thời chưa có chữ viết, chúng ta không thể chỉ
trông cậy vào một ngành khảo cổ học mà phải phối hợp các ngành đó để
tiếp cận sự thực. Và một khi những lý thuyết này có điều gì chồng chéo,
mâu thuẫn nhau thì bổn phận của nhà viết cổ sử, các nhà phân tích nói
chung phải so sánh, cân nhắc và thực hiện một sự tổng hợp các khoa ngành
một cách thận trọng. Nếu sự tổng hợp này vẫn còn khó khăn để rút ra một
kết luận, phải biết trong trường hợp này khoa học nào nói tiếng nói
quyết định. Ngày nay, di truyền học DNA, tuy sinh sau đẻ muộn, nhưng có
độ chính xác cao nhất, và thường nói tiếng nói quyết định khi những mâu
thuẫn trong những ngành cổ học khác không giải quyết được vấn đề. Có lẽ
cũng nên nói thêm về một điểm nhỏ, Nguyễn Quang Trọng đã nói đến là gốm
Lapita nổi tiếng nhất Đông Nam Á tìm được ở các đảo Thái Bình Dương, cụ
thể đó là vùng bờ biển phía Tây đảo New Caledonia. Không thấy Stephen
Oppenheimer hay Peter Bellwood đề cập đến trong các thuyết "Chuyến tầu
nhanh, chậm" hay "chuyến tầu nhanh" của ông là do từ gốm Phùng Nguyên mà
ra. Chúng tôi xin nói ngay rằng gốm Phùng Nguyên không phải là gốm cổ
nhất ở Việt Nam (Phùng Nguyên nay thuộc vùng Vĩnh Phú, sâu trong đất
liền). Những gốm cổ nhất, sau Hang Đắng, là gốm tìm thấy ở bờ biển từ Hạ
Long, Cái Bèo, Đa Bút, Quỳnh Văn vào đến Bầu Tró, Sa Huỳnh. Đây là một
điều trái với qui luật bình thường của khảo cổ, như đã trình bày trong
bài viết trên nên xin miễn nói lại ở đây. Chỉ xin nhấn mạnh rằng khảo cổ
học đã chứng minh được gốm Lapita mà Nguyễn Quang Trọng nói ở trên có
nguồn gốc từ gốm trong hang động ở Thường Xuân (Thanh Hóa), Quỳ Châu
(Nghệ An), Xóm Thân (Quảng Bình), là con đẻ của các gốm Đa Bút, Quỳnh
Văn, Bầu Tró nói ở trên (15).
Thứ tư, về quê hương của kỹ thuật trồng lúa
mà chúng tôi phát biểu là ở quanh vùng Đông Nam Á đã được giới khoa học
trên thế giới bàn luận đến từ lâu, đã tạm thời đi đến kết luận trong đại
hội bàn về nguồn gốc dân tộc Trung Hoa ở Berkeley như nói ở trên. Riêng
Tập San TƯ TƯỞNG cũng đã nhiều lần bàn đến, cụ thể là trả lời mục Bạn
Đọc Góp Ý trong TƯ TƯỞNG số 12 (trang 27 - 28). Chúng tôi xin không bàn
vào chi tiết nữa. Trong phần trên, Nguyễn Quang Trọng có nhắc đến bữa
cơm tiền sử nấu với gạo của lúa mọc hoang tìm thấy ở hang Diaotonghuan
13.000 năm trước, và một số địa danh đã biết thuần hóa lúa nước từ 9.000
năm trước trở lại đây. Chúng tôi mong sẽ có dịp bàn lại về vấn đề này. Ở
đây, chỉ xin nói ngay vào chủ đề điều 4, rằng đề tài này hầu như đã được
giới khoa học quốc tế, kể cả khoa học gia hàng đầu Trung Hoa đồng thuận
: quê hương lúa nước ở vùng Đông Nam Á.
Quê hương lúa nước ở
vùng Đông Nam Á là một sự thực, dù còn nhiều chi tiết cần tìm hiểu, bàn
luận thêm. Nay nếu cứ đem những tiểu tiết che lấp đại thể thì vấn đề chỉ
thêm rối rắm. Ngay sự thực trước mắt ngày nay cũng cho thấy người Hoa
Hán ăn mì, người Hoa Nam, cả Nhật Bản, Đại Hàn và các dân Đông Nam Á
khác ăn gạo.
Chính thuyết trình
viên người Trung Hoa, GS. Te-Tzu-Chang, phát biểu trước hội nghị quốc tế
cũng trình bầy rõ, xét theo lịch sử Trung Hoa, lúa mạch là thực phẩm
chính từ thời tiền sử đến nhà Chu, lúa tắc, mạch và đậu nành là thực
phẩm thời Xuân Thu - Chiến Quốc, lúa nước chỉ là thực phẩm phổ biến tại
Trung Hoa từ đời Hán về sau. Như vậy, phải chăng ông đã khẳng định lúa
nước thuộc văn hóa phương Nam, chỉ trở thành thực phẩm chính ở Trung Hoa
khi đất đai phương Nam thuộc tộc Bách Việt đã sát nhập vào Trung Hoa
(16).
Ngay cả tác giả
Nguyễn Quang Trọng sau khi đã nêu ra một số những địa danh từ Trường
Giang trở về Nam có niên đại lúa nước xưa hơn vùng châu thổ sông Hồng,
cũng xác nhận người Cổ Việt, nhưng đây là U Việt ở vùng Cối Kê (Hemedu
ngày nay) đã dậy Hoa Hán trồng lúa nước (chứ không phải dân Lạc Việt ở
châu thổ sông Hồng, mà di vật liên quan đến lúa nước tìm được ở Sũng Sàm
mới chỉ không quá 3.500 năm cách ngày nay). Mặt khác, ông lại quay sang
phía Tây để phát biểu di tích hạt lúa ở Thái Lan tuy xưa hơn ở Việt Nam,
nhưng không xưa bằng ở Nam Trường Giang (ông không tin vào niên đại C14
= 9260 - 7620 BP đã dẫn trong sách của S. Oppenheimer), nên quê hương
lúa nước không phải ở Thái Lan. Những con số tác giả nêu ra đều có cơ
sở. Có điều ông không để ý đến yếu tố quan trọng nhất là toàn bộ đồng
bằng Bắc Việt ngày nay đã bị nhận chìm dưới làn nước biển suốt từ 8.000
năm đến 5.000 năm trước đây (5.500 năm trước nước biển mới bắt đầu rút).
Đấy là nói đồng bằng ngày nay. So với đồng bằng sông Hồng từ 18.000 năm
đến khoảng 30.000 năm trước đây, nó nhỏ hơn nhiều. Lúc ấy, nước biển
thấp hơn ngày nay 130m, châu thổ sông Hồng xưa (cứ gọi như vậy) kéo dài
đến tận đảo Hải Nam. Vậy nếu lúa nước có được thuần hóa thì di tích phần
lớn đã bị hủy hoại (ở phần nước biển đã rút trả lại đất đai như ta thấy
ngày nay) hay hãy còn ở sâu dưới lòng biển (ở phần vẫn bị nước biển tràn
ngập). Việc không tìm ra di vật lúa nước có niên đại tối cổ (cổ hơn ở
phần đất nay là Trung Hoa hay Thái Lan) cũng như việc không tìm ra di
vật gốm tối cổ, ngoài lý do nó bị nước biển tàn phá, còn có thể vì nền
khảo cổ của ta còn non trẻ lại thiếu phương tiện, nước ta trước đây có
chiến tranh lại không quan tâm đến việc kêu gọi các nhà khảo cổ quốc tế
tới thực hiện việc thám quật khảo cổ như các nước lân cận, chứ không hẳn
vì không có.
Vả lại, dù quê hương
cây lúa ở Thái Lan, ở Nam Trường Giang, hay ở châu thổ sông Hồng, vấn đề
quê hương của kỹ thuật trồng lúa nước ở quanh vùng Đông Nam Á cũng vẫn
đúng, chẳng có gì phải đặt dấu hỏi, đặt nghi vấn cho một sự thực đã được
khoa học và dư luận quốc tế chấp nhận như vậy. Theo thiển ý, lý giải như
vậy mới không trái với kết quả nghiên cứu di truyền học, hải dương học,
ngôn ngữ học như đã trình bày. Và như vậy tưởng mới là tiếp cận sự thực
(17).
Thứ năm, về câu phát biểu của chúng tôi
rằng trước khi tiếp xúc với người Hán, tổ tiên chúng ta có một nền văn
minh rất cao, nếu không muốn nói là cao nhất Đông Nam Á. Thực ra, tổ
tiên chúng ta với tổ tiên những người vùng Đông Nam Á, nếu xét tự nguồn
gốc thì cũng chỉ là một. Tổ tiên chúng ta và tổ tiên những người thuộc
các nước vùng Đông Nam Á chỉ coi như khác nhau trong thời gian sau này
mà thôi. Nguyễn Quang Trọng đặt câu hỏi đúng "Thế nào là văn hóa (văn
minh) cao nhất Đông Nam Á?" Bởi riêng từ văn minh cũng đã có nhiều nghĩa
mà cho đến nay vẫn chưa có nghĩa nào được mọi người cùng chấp nhận, vậy
làm sao có thể chấp nhận thế nào là văn minh cao nhất? Nương theo lý
luận của tác giả, đại khái ta có thể nói văn minh Tây phương (Western
civilization) là cao nhất. Chẳng thế mà suốt hơn bốn thế kỷ qua, nền văn
minh này đã thực hiện được những tiến bộ khoa học rất ngoạn mục, chinh
phục các phần đất khác trên thế giới, bắt dân các nơi đó làm nô lệ cho
họ. Nhưng cũng chính nền văn minh này là nguyên nhân của những cuộc
chiến triền miên (thế chiến I, thế chiến II) có thể đưa nhân loại đến
chỗ diệt vong. Trong trường hợp này thì văn minh nhất lại đồng nghĩa với
man rợ nhất. Nay, nếu lấy tiêu chuẩn của những nhà viết văn minh cổ sử
mà xét, thì một xã hội được coi là văn minh khi có được những sáng chế
đưa nhân loại thoát khỏi thời kỳ mông muội. Ba sáng chế quan trọng nhất
trong tiêu chuẩn này là sự phát minh ra kỹ thuật thuần hóa lúa nước, kỹ
thuật hàng hải và kỹ thuật xây dựng đô thị (18). Và theo cái chuẩn này
thì những ngưới chủ nhân của Văn hóa Hòa Bình, như các mục trên đã đề
cập, được hiểu là những người phát xuất từ Đông Nam Á, tổ tiên của người
Bách Việt, đáng gọi là có nền văn minh cao nhất thời ấy, nghĩa là thời
mà nhân loại mới bước từ đời sống mông muội sang đời sống văn minh.
Đó mới chỉ nói đến
nền văn minh vật chất, chưa nói đến văn minh tinh thần. Khảo về văn minh
tinh thần, về triết học tư tưởng của người cổ Việt, thì hiện tại, gần
như chưa có ai nói tới một cách có hệ thống. Những tư tưởng Đông phương
rất cao thâm như Nho, Lão, Phật . đều nói là hoặc của người Trung Hoa,
hoặc của người Ần Độ, không có gì là của tổ tiên người Việt. Nhưng nếu
đã khẳng định bằng di truyền học DNA, ngôn ngữ học, hải dương học, khảo
cổ học, dân tộc học, tập tục truyền thống học... rằng người Hòa Bình,
tức người Bách Việt ở Đông Nam Á đã có sớm nhất và là nguồn gốc của văn
minh Đông phương thì cũng phải khẳng định tư tưởng đầu tiên, nền văn
minh tinh thần đầu tiên của nhân loại Đông phương cũng do người Hòa Bình
này khởi động. Điều này đến nay không có văn bản nào nói như vậy vì từ
khi con người sáng chế được ra chữ viết đủ để ghi chép lại thành sách,
người thuộc Đại tộc Bách Việt đã mất độc lập về tay người Hoa Hán, vì
vậy những văn minh văn hóa của người Bách Việt, nếu có, (và chắc phải
có), đều đã trở thành văn minh Trung Hoa. Nằm trong khung "văn minh" đó,
tư tưởng của người Cổ Việt cũng đã được mang nhãn hiệu Trung Hoa cả. Tuy
nhiên, vẫn còn có nhiều thứ như di vật khảo cổ, văn minh truyền khẩu,
tập tục truyền thống . nếu biết "đọc" chúng, biết khai thác thì chúng sẽ
cho ta biết nền văn hóa, văn minh tinh thần đó gốc gác nó từ đâu, nội
dung chân chính của nó như thế nào. Nay chỉ nói về hoa văn trên trống
đồng Đông Sơn, nếu biết giải mã, ta sẽ thấy chúng thuộc một nền văn minh
tinh thần rất cao, gần với văn minh hậu nguyên tử, văn minh lượng tử như
điều Giáo sư F. Capra đã nói đến (19). Nhưng đó không phải là đối tượng
của đề tài này. Nói như vậy chỉ để làm cơ sở để phát biểu rằng, trước
khi tiếp xúc với người Hoa Hán, quả người Hòa Bình, tổ tiên chúng ta đã
có một nền văn minh rất cao. Còn việc nghi ngờ văn minh này không chắc
là "cao nhất", bằng cớ là đã bị người Hoa Hán đánh thua vì họ có kỹ
thuật quân sự dựa trên văn minh đồ sắt cao hơn văn minh đồng thau của tổ
tiên ta thì lại là một vấn đề khác. Nó không hề phủ định đã có thời tổ
tiên ta có nền văn minh cao nhất.
III.
Bây giờ, chúng tôi
muốn phát biểu vài điều về vấn đề nguồn gốc dân tộc Việt. Phải nói ngay
rằng đây là một vấn đề phức tạp, vì chúng ta vẫn còn thiếu thốn dữ kiện
khoa học liên quan đến người Việt để phát biểu một cách khẳng định. Vì
thế, người ta vẫn còn suy đoán, và có khi suy đoán thiếu cơ sở. Có thể
nói hai giả thiết phổ thông liên quan đến vấn đề này: một là giả thiết
[có lẽ chiếm đa số quần chúng] cho rằng người Việt có nguồn gốc từ người
Trung Hoa; và giả thiết hai [có lẽ phần thiểu số] cho rằng người Việt có
nguồn gốc từ Mã Lai (tức là kết luận của Bình Nguyên Lộc). Chúng tôi cho
rằng cả hai giả thiết này đều cần phải xét lại, bởi một lý do đơn giản:
hai giả thiết đó thiếu dữ kiện khoa học làm cơ sở, và chưa được phản
nghiệm.
Giả thiết về nguồn
gốc Mã Lai của dân tộc Việt phần lớn dựa vào các dữ kiện khảo cổ và ngôn
ngữ. Những dữ kiện về đặc tính cơ thể và các chỉ số nhân trắc (như màu
da, xương, sọ, khuôn mặt, v.v..) từng được dùng làm các đơn vị thông tin
để nghiên cứu nguồn gốc dân tộc và sự tiến hóa của loài người. Nhưng các
đặc tính này thay đổi theo thời gian, và chịu ảnh hưởng vào môi trường
sinh sống. Chẳng hạn như chiều cao của con người trong vòng 200 năm qua
đã tăng một cách đáng kể do những cải thiện về dinh dưỡng và môi trường
sinh sống. Ngay cả cấu trúc xương cũng thay đổi theo thời gian và môi
trường. Do đó các đặc tính nêu trên không phải là những thông tin lý
tưởng cho việc nghiên cứu lịch sử di truyền của con người.
Những dữ kiện về
ngôn ngữ cũng có nhiều khiếm khuyết, vì mức độ tương đương về từ ngữ
không thể nói lên một cách đầy đủ khuynh hướng di cư của các sắc dân.
Ngay cả việc xác định mức độ tương đồng từ ngữ giữa các ngôn ngữ cũng là
một vấn đề mang tính kỹ thuật mà các nhà nghiên cứu vẫn chưa đồng ý về
phương pháp làm. Vả lại, sự tương đồng giữa các ngôn ngữ có thể là một
hằng số mang tính văn hóa, chứ không hẳn do các cơ chế sinh học và di
truyền. Nói tóm lại, những bằng chứng khảo cổ và ngôn ngữ không phải là
những loại thông số đáng tin cậy để xác định nguồn gốc dân tộc.
Trong quá khứ, giới
khảo cổ học và nhân chủng học dựa vào các bằng chứng về khảo cổ, xương,
hóa thạch, v.v. để phát triển lý thuyết, nhưng những đối tượng này hàm
chứa nhiều hạn chế thông tin về tiến hóa, vì mối quan hệ phức tạp giữa
môi trường và tiến hóa. Hậu quả của sự tập trung vào các đối tượng như
thế trong một thời gian dài đã làm cho chúng ta xao lãng các dữ kiện cho
chúng ta nhiều thông tinhơn: đó là gien (20). Không giống như xương sọ,
những thay đổi trong gien thường xảy ra theo những qui luật mà chúng ta
hiểu khá rõ, và vì thế gien và các đặc điểm của gien, như tầng số gien,
cấu trúc DNA, phân phối gien, v.v... cho chúng ta những thông tin cực kỳ
quí giá về sự tiến hóa của con người. Ngày nay, những tiến bộ phi thường
trong ngành di truyền học và sinh học phân tử (molecular biology) trong
mấy năm gần đây đã cung cấp cho ngành nhân chủng học một phương tiện cực
kỳ quan trọng trong việc xác định lịch sử tiến hóa của con người và mối
liên hệ giữa các dân tộc. Giá trị của di truyền học trong việc truy tầm
nguồn gốc dân tộc đã được đánh giá cao về mức độ tin cậy. Di truyền học
là một cửa sổ để chúng ta nhìn lại quá khứ của chúng ta.
Tuy nhiên, những
nghiên cứu về di truyền học trong người Việt còn cực kỳ khiêm tốn, nếu
không muốn nói là không đáng kể. Trong thời gian khoảng 10 năm trở lại
đây, đã có một số bằng chứng, tuy gián tiếp, nhưng cũng đủ để chúng ta
có lý do để xem xét lại lịch sử tiến hóa của dân tộc Việt. Những bằng
chứng này là:
• Trong một nghiên cứu trên 103 người ở Hà
Nội, các nhà nghiên cứu Việt - Pháp phân tích DNA trong hai gien (HLA-DR
và DQB1), và so sánh kết quả này với các sắc dân thuộc châu Đại Dương
(Oceania) và Đông Á. Sau khi ước tính khoảng cách di truyền (genetic
distance) giữa các sắc dân, các nhà nghiên cứu kết luận rằng cấu trúc di
truyền của hai gien này trong người Việt gần với người Thái và người
Hoa. Các nhà nghiên cứu này kết luận rằng dữ kiện của họ phù hợp với giả
thuyết người Việt có nguồn gốc từ người Trung Hoa và Thái-Nam Dương
(21). Tuy nhiên, sau khi xem xét kỹ phần phương pháp nghiên cứu, chúng
tôi cho rằng kết luận này rất có thể không đúng, vì : (a) nghiên cứu này
chỉ dựa vào hai gien mà thôi (con người có khoảng 35 đến 39 ngàn gien),
và với những yếu điểm của mtDNA, các ước đoán về khoảng cách di truyền
không ổn định; (b) ngay cả trong bài báo các nhà nghiên cứu không xây
dựng được một cây di truyền nào, và cũng chẳng phân tích phát sinh chủng
loại thì không thể phán đoán về chiều hướng di cư hay nguồn gốc dân tộc
được.
• Khoảng hai năm sau, các nhà nghiên cứu
này lại tiến hành một nghiên cứu khác trên 50 người cũng ở Hà Nội, và
cũng qua dùng kỹ thuật PCR (polymerase chain reaction) họ phân tích 6
"restriction enzymes", và ghi nhận khoảng cách di truyền (22) giữa người
Việt và người Hoa rất thấp (chỉ 0.0022), nhưng giữa người Việt và Ần Độ
thì tương đối cao hơn (0.0468), có nghĩa là quan hệ giữa giống người
Việt và Hoa gần nhau hơn so với quan hệ Việt và Ần (23). Nghiên cứu
nàycũng có những yếu điểm như nghiên cứu trình bày phần, tức là số lượng
gien quá ít (trong trường hợp này chỉ có một gien), và tác giả cũng
không tính toán mức độ biến thiên của chỉ số khoảng cách di truyền, nên
không thể nào phát biểu khoảng cách giữa Việt - Hoa gần hơn khoảng cách
giữa Việt - Ần. Thực ra, sau khi tính toán lại, chúng tôi thấy hai
khoảng cách di truyền (Việt - Hoa và Việt - Ần) không có sự khác biệt
đáng kể (non-significant)! Tuy nhiên, một nghiên cứu khác trên 5 gien
trong nhiễm sắc thể Y trong hai nhóm dân: Bắc Á (Bắc Trung Quốc, Nhật,
Hàn Quốc, và Mông Cổ), và Nam Á (Nam Dương, Phi Luật Tân, Thái, và Việt
Nam) cho thấy người Việt gần với các nhóm dân Bắc Á (nhất là Hàn Quốc)
hơn là các nhóm dân Nam Á (24)! Chúng ta biết rằng, qua nghiên cứu của
Giáo sư Chu (14), người Hoa phía Bắc Trung Quốc có cấu trúc di truyền
khác với người Hoa phía Nam Trung Quốc. Do đó, phát hiện này quả rất khó
giải thích. Càng khó giải thích hơn nữa khi phần lớn những người Việt
trong nghiên cứu này là cư dân ở Hà Nội, tức gần miền Nam Trung Quốc.
• Trong một nghiên cứu dùng mtDNA,
Ballinger và đồng nghiệp (24) ghi nhận rằng chỉ số biến thiên (trong di
truyền học gọi là Fvalue) trong người Việt cao nhất trong các sắc dân
vùng Đông Nam Á. Tuy nhiên, các tác giả kết luận một cách mơ hồ rằng các
dữ kiện này cho thấy "người Á châu có nguồn gốc từ nhóm dân Nam Mông"
(nguyên văn : "The greatest mtDNA diversity and the highest frequency of
mtDNA with HpaI/HincII morph 1 were observed in the Vietnamese
suggesting a Southern Mongoloid origin of Asians") (25). Thực ra, các dữ
kiện mà tác giả trình bày không cho phép họ kết luận như thế, bởi vì họ
chỉ 7 nhóm dân Á châu mà thôi, và cũng chỉ nghiên cứu trên vài mẫu gien
rất nhỏ. Nhưng qua số liệu của các nhà nghiên cứu này, chúng tôi có thể
phát biểu rằng trong hai gien mà họ nghiên cứu, người Việt có lẽ là một
sắc dân cổ nhất trong vùng Đông Nam Á.
• Năm 1998, Giáo sư Chu và đồng nghiệp
(thuộc Trường Đại học Texas (14)) phân tích 15 đến 30 mẫu "vi vệ tinh"
DNA (microsatellites) để thử nghiệm sự khác biệt di truyền trong 24 nhóm
dân từ nhiều tỉnh khác nhau ở Trung Quốc, 4 nhóm dân vùng Đông Nam Á
(hai thuộc thổ dân Mỹ, một thuộc thổ dân Úc châu, và một thuộc Tân
Guinea), 4 nhóm dân da trắng (Caucasian), và 3 nhóm dân Phi châu. Bằng
một phương pháp phân tích thống kê có tên là "phân tích phát sinh chủ?g
loại" (Phylogenetic analysis)", một số kết quả đáng ghi nhận như sau:
(i) hai nhóm dân có
sự khác biệt rõ ràng nhất là Phi châu và các dân không thuộc Phi châu;
(ii) tất cả các nhóm
dân Đông Nam Á "tập hợp" thành một nhóm, và nhóm dân có đặc tính di
truyền gần họ nhất là người thổ dân Mỹ châu, kế đến là thổ dân Úc châu,
và Tân Guinea (Những kết quả này cũng phù hợp với thời gian định cư ở Úc
châu (khoảng 60,000 đến 50,000 năm trước đây, và thời gian định cư ở Mỹ
châu (từ 30,000 đến 15,000 năm trước đây);
(iii) các nhóm dân
miền nam Trung Quốc phân phối thành ba nhóm, gọi là S1, S2, và S3 (ngoại
trừ nhóm S2 là người Hán từ tỉnh Henan, phần còn lại (S1 và S3) gồm các
sắc dân trong vùng Yunnan); và
(iv) các sắc dân
miền bắc Trung Quốc phân phối thành hai nhóm, gọi là N1 và N2. Nhóm N1
gồm 6 sắc dân nói tiếng Altaic, một nhóm Hán tộc miền bắc từ tỉnh
Yunnan. Nhóm N2 gồm 4 sắc tộc thiểu số có lịch sử sinh sống lâu đời ở
miền bắc, trong đó có một sắc tộc từ tỉnh Ninxia [6].
Từ những phát hiện
trên, chúng ta có thể đặt ra một số mô hình để giải thích, nhưng mô hình
thích hợp với dữ kiện của Giáo sư Chu và đồng nghiệp là các dân tộc miền
Bắc Á được tiến hóa từ các dân tộc Đông Nam Á châu. Các dữ kiện liên
quan đến răng, sọ [26-27] cũng nhất quán với mô hình này. Do đó, Giáo sư
Chu và đồng nghiệp kết luận rằng: "Tổ tiên của các nhóm dân Đông Á ngày
nay có nguồn gốc từ Đông Nam Á."
• Nhưng nghiên cứu của Giáo sư Chu và đồng
nghiệp có một điểm yếu, đó là họ dựa vào vi vệ tinh DNA, một chất liệu
di truyền rất "nhạy" (sensitive) và dễ bị đột biến (mutation [28]). Để
khắc phục nhược điểm này, một nhóm nghiên cứu khác đã tiến hành một
nghiên cứu độc lập và qui mô hơn để xác định nguồn gốc Đông Nam Á của
dân tộc Trung Hoa. Nhóm nghiên cứu Mỹ - Trung Quốc phân tích DNA trong
nhiễm sắc thể Y [29] trong các nhóm dân Hán (thuộc 22 tỉnh của Trung
Quốc), 3 nhóm dân Đông Bắc Á (Buryat, Đại Hàn, và Nhật Bản), 5 nhóm dân
Đông Nam Á (Cambốt, Thái Lan, Mã Lai, Batak, và Java), và 12 nhóm dân
ngoài Á châu (3 nhóm từ Phi châu, 3 từ Mỹ châu, 2 từ Ấu châu, và 4 từ
châu Đại dương). Các nhà nghiên cứu ghi nhận rằng mức độ biến thiên đa
hình thái (polymorphic variation) trong các nhóm dân Đông Nam Á cao hơn
trong các nhóm dân thuộc vùng Bắc Á. Điều này có nghĩa là các sắc dân ở
Đông Nam Á có một quá trình định cư lâu dài hơn là các nhóm dân Bắc Á.
Dùng các phương pháp phân tích di truyền quần thể (population genetics),
các nhà nghiên cứu kết luận rằng con người thời đó đã di cư từ Phi châu
sang đến Đông Nam Á [30] vào khoảng 60 ngàn năm về trước, và sau đó đã
di chuyển lên phía Bắc Á (kể cả Trung Quốc ngày nay) và Siberia [29].
Ngoài ra, còn có bằng chứng di truyền cho thấy các nhóm dân Polynesians
cũng có nguồn gốc từ Đông Nam Á [31].
Những dữ kiện di
truyền học mà chúng tôi tóm lược trên đây tuy chưa hoàn toàn đầy đủ để
chúng ta khẳng định nguồn gốc dân tộc Việt, nhưng đủ để chúng ta phát
biểu rằng: xác suất mà người Việt có nguồn gốc [hay di dân] từ Trung
Quốc là cực kỳ thấp, nếu không muốn nói là con số gần zêrô.
Bây giờ chúng tôi
muốn nhân cơ hội này để bàn thêm vài điều chung quanh vấn đề nguồn gốc
dân tộc và văn minh Việt Nam. Theo Nguyễn Quang Trọng, dân Đài Loan ở
trên núi, ít bị Hán hóa, có thể coi như nhóm dân tiêu biểu cho người nói
tiếng Nam Đảo vì họ còn giữ được gien nguyên thủy và còn sống theo văn
hóa cổ. Mặt khác, những cư dân sống ở vùng Phúc Kiến, Kim Môn, Quảng
Đông, Bắc Việt có thể cũng cùng một gốc với dân cổ Đài Loan này, và quê
hương của họ có thể là thềm lục địa chung quanh đã bị biển tràn ngập. Vì
vậy, [tác giả viết] "tại sao không thể xem vùng thềm biển này, trước khi
hồng thủy đến, là một trung tâm văn hóa lớn của dân nói tiếng Nam Đảo".
Dữ kiện ông đưa ra để minh chứng cho thuyết này là chày đập vỏ cây cho
mềm để làm khố che thân đã tìm được ở bờ biển Nam Trung Hoa từ Hồng Kong
đến Bắc Việt. Về điểm này chúng tôi cũng đã từng đề nghị, ngoài vùng đất
Sundaland, đồng bằng Nanhailand, châu thổ sông Hồng xưa, là trung tâm
văn minh Đông Nam Á thời đó, cũng có thể là nguồn gốc của văn minh toàn
cầu (32). Có điều chúng tôi không khẳng định đây là trung tâm văn hóa
của dân nói tiếng Nam Đảo (Austronesian) vì chúng tôi nghĩ, cũng như W.
Solheim II, dân thời đó còn nói chung tiếng Austric chưa chia hai Nam
Đảo và Nam Á.
Về quá trình tiến
triển dân tộc Việt, Tác giả Nguyễn Quang Trọng đưa ra vài đề nghị rất
đáng bàn thêm, mà theo cách hiểu của chúng tôi, như sau :
Bước 1: Người
cổ thiên di từ Phi Châu đến Đông Nam Á, khi gặp biển Đông ngăn chặn, họ
chia theo hai hướng : một lên phía Bắc đến sống ở miền Nam Trung Hoa, và
càng ngày càng tiến về Bắc đến tận Mông Cổ; một đi về phía Nam đến thềm
Sunda, khi đó còn nối liền lục địa với các đảo phía Nam, đến tận Úc
Châu. Tất cả đều là người chủng tộc Australoid (da đen, tóc quăn, mũi
to...)
Bước 2: Lớp
di dân lên phía Bắc Đông Á, đổi dần nhân dạng vì môi trường lạnh, gió,
ít nắng. Khoảng 15.000 năm trước giống này lai với chủng Altaic thiên di
từ Tây Á đến đổi thành chủng Bắc Mongoloid (da trắng vàng, mắt hí, tóc
thẳng ...)
Bước 3: Chủng
Bắc Mongoloid này bành trướng về phía Nam lai với chủng Australoid vào
khoảng giữa đất Trung Hoa (nay) để tạo thành chủng Nam Mongoloid (da
ngăm đen, tóc gợn sóng ...) Theo tác giả, chủng lai Nam Mongoloid này
chính là tổ tiên của người Cổ Việt, Khmer, Thái, Miến, Mã Lai, Nam
Dương, cả những người ở hải đảo Thái Bình Dương.
Bước 4: Xin
trích nguyên văn của tác giả: "Trên đất Việt Nam, vào thời đồ đá, cư dân
thuộc chủng Australoid ban đầu nói cùng tiếng gốc Austric, dần dần phân
thành hai nhóm dân nói tiếng khác nhau theo vùng họ ở, vì cách sinh sống
khác nhau. Nhóm nói tiếng tiền Nam Á sống phía trong lục địa, trú trong
hang động vùng cao (văn hóa Hòa Bình). Nhóm thứ hai nói tiếng tiền Nam
Đảo, sống vùng đồng bằng ven biển, vào lúc ấy mức biển thấp, vùng này
lan ra xa ngoài đường biển hiện tại trên vịnh Bắc Việt do thềm lục lài
thoai thoải. Tại vùng vịnh Bắc Việt, dọc từ bờ biển Móng Cái tới Quảng
Ngãi qua đến đảo Hải Nam", và ông kết luận : "Trong chừng mực nào đó,
vùng vịnh Bắc Việt, kể cả (đảo) Hải Nam có thể xem là lãnh thổ của một
phần tổ tiên người Việt, thuộc thành phần nói tiếng Nam Đảo, từ 15 ngàn
năm trước ! Văn hóa Hạ Long và các văn hóa tiền Nam Đảo khác sau đó đã
góp phần quan trọng vào sự hình thành văn hóa và con người Việt Nam".
Bước 5: Bắt
đầu từ thời đá mới, dân nói tiếng Nam Á trong đất liền và dân nói tiếng
Nam Đảo dọc bờ biển đều tăng nhanh nên cùng tràn về châu thổ các sông.
Sự hợp chủng của hai sắc dân này có lẽ xẩy ra khoảng 4.000 năm cách ngày
nay. Và tác giả đặt câu hỏi phải chăng sự gặp gỡ này đưa đến truyền
thuyết Lạc Long Quân Nam Đảo từ phía biển lên và Ấu Cơ Nam Á từ vùng núi
xuống, và đi đến kết luận : "Như vậy Tiên Ấu Cơ Nam Á và Rồng Lạc Long
Quân Nam Đảo là tổ tiên Lạc Việt lẫn Bách Việt (phía Nam Trường Giang),
và những Viêm Đế, Thần Nông của huyền thoại Hán xa xưa, nếu có, có lẽ
không dính dáng đến tổ tiên tộc Việt". Cũng theo tác giả: "Cuộc phối hợp
văn hóa hoàn tất vào thời Đông Sơn tạo thành một văn hóa chung cho cư
dân bản địa".
Bước 6: Cũng
xin trích nguyên văn : "Như đã nói ở trên, cuộc sống chung này tương đối
hòa bình vì các di tích khai quật cho thấy tại Đồng Đậu, cư dân ?đột
nhiên? biết chế tạo vũ khí. Để tự vệ ? Để giải quyết những tranh chấp về
quyền lợi và ảnh hưởng ? Từ đó đưa đến những khủng hoảng mất mát chia
lìa (năm mươi con theo cha, năm mươi con theo mẹ ?) hoặc đến lúc suy vi
sau thời kỳ sung mãn". Và để kết luận, ông cho rằng người dân Việt đã
lai nhiều suốt thời tiền sử và trong thời Hoa thuộc, nhưng văn hóa Việt
thành hình từ văn hóa bản địa của những tộc nói tiếng tiền Nam Á trong
lục địa và tiền Nam Đảo vùng thềm lục địa nên giữ được độc lập quốc gia
trong khi toàn vùng Trường Giang đều bị Hán hóa.
Trong những giai
đoạn này, ba giai đoạn sau có nhiều điều khó hiểu cần bàn lại, nhiều chỗ
hình như chưa được thống nhất, và về thời gian hình như có nhiều chỗ
chồng chéo. Có điểm chúng tôi đồng ý (ba giai đoạn đầu), và cũng đã từng
chủ trương như vậy, nhưng cũng có điểm chúng tôi không đồng ý.
Nguyễn Quang Trọng
giả thiết người Đông Nam Á đi ra hải đảo Thái Bình Dương hay lên phía
Bắc đều thuộc chủng Australoid (da đen, tóc quăn, mũi to), rồi vì sống
trong môi trường lạnh, gió, ít nắng ở miền Bắc, họ biến đổi nhân dạng
với chủng Altaic mà dần dần thành chủng Bắc Mongoloid (tóc thẳng, mắt
hí, da vàng trắng). Chủng Bắc Mongoloid này khi bành trướng về phương
Nam một lần nữa lại lai với chủng Australoid đã sống trước ở đó mà tác
giả gọi là giữa đất Trung Hoa, để thành người Nam Mongoloid (da ngăm
đen, tóc dợn sóng ...). Theo tác giả, đây là tổ tiên của người Việt,
Khmer, Thái, Miến, Mã Lai, Nam Dương, cả những người ở hải đảo Thái Bình
Dương. Điều này cũng tương đồng với một giả thiết mà các nhà nghiên cứu
về nguồn gốc người Trung Hoa đã tranh cãi nhau về ba mô hình (33):
• Mô hình 1: Giả thiết người Hoa Nam là từ
Hoa Bắc di xuống pha trộn với dân bản địa mà hình thành.
• Mô hình 2: Ngược lại, giả thiết người Bắc
Trung Hoa là hậu duệ của người phương Nam.
• Mô hình 3: Dân cư ở cả hai miền tiến hóa
và phát triển độc lập.
Như đã thấy, Nguyễn
Quang Trọng theo mô hình 1. Mô hình này có ưu điểm là nó có vẻ phù hợp
với bản đồ ngôn ngữ ở Trung Quốc, đã một thời được nhiều nhà ngôn ngữ
học công nhận. Chúng tôi sẽkhông đi vào chi tiết bởi nó rất phức tạp mà
cũng không cần thiết. Nhưng qua phân tích DNA của nhóm Giáo sư Chu (mà
chúng tôi đề cập trên đây), mô hình này không còn thích hợp nữa. Nói một
cách khác, các dữ kiện di truyền học cho thấy tổ tiên của những người
nói tiếng Altaic từ Đông Á đã di cư vào Á châu từ ngã Đông Nam chứ không
phải từ ngả Trung Á (14). Nghiên cứu của các nhà nhân chủng học uy tín
khác Lugi Luca Cavallli-Sforza (Đại học Stanford), Li Yin (Đại học
Stanford và nhiều học giả khác cũng nhất quán với mô hình này (34).
Liên quan đến sự
khác biệt về đặc tính cơ thể (người hải đảo da sậm, tóc quăn, trong khi
người sống trong lục địa có da vàng, tóc đen, không quăn), chúng tôi
thấy có vài điều cần thảo luận như sau:
Thứ nhất, không có gì chứng minh được người
Australoid da đen, tóc quăn, mũi to đã lên phía Bắc đến tận Mông Cổ ngày
nay. Nếu tại đất nay thuộc lãnh thổ Bắc phần Việt Nam, trong 70 xương sọ
mà ta sưu tầm được cho đến ngày nay, 38 xương sọ thuộc thời Đồ Đá (cũng
không xác định được niên đại rõ ràng), phần lớn do học giả Pháp tìm ra
trước 1945 (29 sọ trên 38 cái) cho là thuộc chủng Australoid,
Indonesian, Malanesian Ẫ và 32 sọ, đa số do học giả Việt tìm thuộc thời
Đồng Sắt ngược lại, phần lớn là chủng Mongoloid vào những năm chưa có sự
chứng minh ngược lại của di truyền học, đã một thời là nguyên nhân cho
thuyết nguồn gốc người Việt tại đất liền là do cư dân hải đảo Thái Bình
Dương di cư vào (35).
Chúng ta không thấy
bảng xương sọ tương tự như ở Trung Quốc. Những xương cốt thường được nói
đến nhiều nhất và được coi là tổ tiên của người Trung Hoa là 3 bộ xương
do J. Anderson tìm được ở Chu Khẩu Điếm (Chou-Kon-Tien). Thời đó, vì
thiếu những phương tiện khoa học đo đạc chính xác nên có người đã cho
xương này là tổ tiên của người Hoa có từ rất xa xưa! Sau này nhờ có
phương tiện định tuổi bằng C14, Noel Bernard đã chứng minh được niên đại
của xương đó chỉ là 16.922 năm trước CN (2k - 136-0; Bernard 1980) (36).
Cũng có người chứng minh được đó chẳng phải là xương của một gia đình vì
ở ba tầng lớp khác nhau trong hang (Weiderich, 1939), lại thuộc ba chủng
khác nhau và chẳng liên hệ gì đến người Trung Hoa hiện nay cả (Wu, 1961)
(27). Sở dĩ có hiện tượng đó vì phương pháp cổ điển để tìm chủng tộc và
niên đại của các sọ thời trước chỉ là phương pháp so sánh (so cái chưa
biết với mẫu đã biết gốc tích). Trong trường hợp đó, giá trị của các kết
luận rất tương đối. Xương cốt cổ đào được nhiều nhất ở Yang-Shao là
xương thuộc chủng Nam Mongoloid, giống với người Hoa hiện đại mà cũng
giống cả với người Việt và các chủng Đông Nam Á khác. Vậy lấy gì để
khẳng định người Australoid da đen, tóc quăn, mũi to đã di cư đến tận
cực Bắc Trung Hoa ngày nay ?
Thứ hai, giả thiết người Australoid đến Bắc
Đông Á, rồi vì sống trong môi trường lạnh, gió, ít nắng nên dần dần thay
đổi nhân dạng là cho con người thay đổi hình dạng chỉ do yếu tố môi sinh
ngoại tại. Thực sự, muốn có sự thay đổi hình dạng phải có sự đột biến di
truyền (28). Đó là một sự kiện sinh học xẩy ra trong tế bào, do sự tương
tác giữa môi trường và sinh học. Giả thiết rằng người Australoid lai với
người Altaic (các dân tiêu biểu là Buryat, Yakut, Uyghur, Mãn Châu, Hán,
Đại Hàn, Nhật) thì lại càng khó hiểu vì người Altaic, theo di truyền học
đã chứng minh cũng do người Đông Nam Á di lên chứ không phải từ Trung Á
đi lại như trên vừa trình bầy. Có thể họ lai với một sắc dân đến muộn
hơn từ Trung Á và Ấu Châu, như sẽ nói rõ hơn ở sau, nhưng đó là chuyện
xẩy ra về sau khi băng hà lần cuối cùng đã tan.
Thứ ba, chủng Bắc Mongoloid vì nhu cầu bành
trướng, tràn xuống phương Nam, gặp chủng Australoid đã cư ngụ sẵn nơi
đây, lai giống mà thành người Nam Mongoloid. Đây là tổ tiên của chủng
Bách Việt. Ý kiến này rất mới, chỉ tiếc tác giả đã không đưa dữ kiện
chứng minh để có thể kiểm nghiệm lại một cách khoa học. Mặt khác, những
dữ kiện khoa học có được đến ngày hôm nay hình như không hỗ trợ cho giả
thiết của tác giả. Về phương diện di truyền học, phân tích di truyền của
Giáo sư J. Y. Chu và đồng nghiệp, cộng với nhiều phân tích DNA gần đây
như trên vừa trình bầy, đã cho thấy ngược lại phát biểu của Nguyễn Quang
Trọng rằng người Nam Mongoloid đã từ Đông Nam Á, phía Nam Trung Hoa,
bành trướng lên phía Bắc. Nói rõ hơn, người Hoa Bắc là hậu duệ của người
Hoa Nam. Cây hệ di truyền từ cuộc nghiên cứu của Giáo sư Chu cũng cho
thấy đã không có sự hợp chủng giữa dân Hoa Nam (Nam Mongoloid) với dân
Altaic. Chỉ có sự hợp chủng giữa dân Altaic với các dân cư đến muộn hơn
từ Trung Á và Ấu Châu, sau thời băng hà cuối cùng (15.000 trở lại đây).
Về phương diện khảo cổ học, hầu hết xương cốt tìm thấy được ở văn hóa
Ngưỡng Thiều đều thuộc chủng Nam Mongoloid, giống người Trung Hoa hiện
đại, cũng giống với những người hiện đại tại các quốc gia Đông Nam Á
khác, đặc biệt ở Việt Nam. Không thấy dấu hiệu hợp chủng có tính toàn
diện giữa Bắc Mongoloid và Australoid như Nguyễn Quang Trọng phát biểu.
Nói tóm lại, qua các
dữ kiện di truyền học gần đây, tuy còn hạn chế (vì những nghiên cứu về
di truyền học trong vùng Đông Nam Á, nhất là với người Việt, còn ít),
nhưng chúng tôi thấy có thể phát biểu rằng người hắc chủng từ Phi Châu
di cư đến Đông Nam Á lục địa, khi tiếp cận biển Đông, thì một phần đi
thẳng ra các hải đảo Thái Bình Dương và Úc Châu, lúc đó vẫn còn là hắc
chủng; phần khác trụ lại tại Đông Nam Á, ở địa điểm đâu đó, có thể là
lưu vực con sông nay mang tên sông Hồng, vì may đã hội đủ cơ duyên nên
có đột biến di truyền, và do đó, từ giống hắc chủng (da ngăm, tóc xoăn)
đã biến đổi thành giống hoàng chủng (da vàng, tóc đen, sợi thẳng). Từ
đó, họ mới bắt đầu di chuyển lên hướng Bắc, nay là đất Trung Hoa. Giả
thiết của chúng tôi dựa trên ba cơ sở như sau :
Một, mực nước biển lên xuống. Trước thập
niên 60 thế kỷ trước, người ta chỉ biết có độ 5 thời kỳ bằng hà (nước
biển xuống), gián băng (nước biển tăng), nhưng ngày người ta đã biết
được có đến 20 kỳ trong khoảng 2 triệu năm qua. Riêng trong hậu kỳ
Pleistocène khoảng từ 125.000 năm đến 10.000 năm trước ngày nay, nghĩa
là khi loài người Hiện Đại (Homo Sapiens Sapiens) đã xuất hiện thì mực
nước biển ở Đông Nam Á cũng đã 5 lần lên xuống. Những lần xuống đó là
vào khoảng 115.000 năm, 90.000 năm, 55.000 năm, 35.000 năm và lần cuối
cùng 18.000 năm cách ngày nay (37). Ở 90.000 năm trước khi nước biển
xuống thì người Hiện Đại chưa đến vùng Đông Nam Á. Họ đến khoảng 60.000
năm trước đây, vậy khi nước biển xuống khoảng 55.000 năm trước, chính là
lúc người Hiện Đại Đông Nam Á đất liền bắt đầu thiên di ra các hải đảo
Nam Thái Bình Dương, vì lúc đó nước biển cạn dần, đã nổi lên những triền
đất nối liền với đại lục. Vậy gần như người Hiện Đại từ Đông Phi Châu
thiên di đến Đông Nam Á đã có dịp tiến thẳng ra hải đảo vì khí hậu thích
hợp và vì thuận đường lui tới. Lúc đó họ vẫn còn thuộc dân hắc chủng.
Khảo cổ học đã có dấu tích của người Hiện Đại ở Úc Châu, khoảng 50.000
năm trước đây, ở New Guinéa 40.000 năm .
Hai, điều kiện môi trường và khí hậu. Người
Hiện Đại Đông Phi tiến được ra hải đảo Thái Bình Dương nhưng lại chưa
thể tiến ngay lên phía Bắc vì lúc đó miền Bắc đang trong thời băng hà.
Không khí chỉ ấm dần từ 40.000 năm trước cho đến 21.000 năm trước lại
bắt đầu thời kỳ băng hà cuối cùng thường gọi là băng hà Wurm. Sau lần
băng hà cuối cùng này, không khí ấm lại dần cho đến nay khoảng từ 15.000
năm trước (34). Chính trong thời kỳ ấm lại giữa hai khoảng băng hà (-
400.000 đến - 21.000 năm) người Hiện Đại đã tiến lên phía Bắc là đất
Trung Hoa ngày nay. Khảo cổ học cho thấy dấu tích của họ ở đại lục
khoảng 35.000 năm trước, ở Đài Loan khoảng - 30.000, họ vượt eo biển
Beringa khoảng - 30.000 (lúc đó nước biển xuống như trước lần biển xuống
cuối cùng nên eo biển đã thành một giải đất liền). Ta thấy dấu tích
người Hiện Đại ở bờ biển Tây Mỹ Châu khoảng - 30.000. Họ là tổ tiên của
văn hóa Maya, còn dấu vết ở Nam Mỹ ngày nay (38). Tất cả những điều trên
đã được khoa di truyền hiện đại ngày nay xác định là đúng : người da đỏ
ở Mỹ Châu, người thổ dân ở Úc Châu có yếu tố di truyền giống với người
Đông Nam Á, và Đông Á (đều thuộc chủng Nam Mongoloid) và khác với người
Bắc Á (thuộc Bắc Mongoloid).
Ba, hội đủ tính đột biến di truyền. Về điểm
này, còn cần thêm nhiều phân tích, nhiều chứng cớ, mới có thể trở thành
một giả thuyết có tính khoa học. Tuy nhiên, khảo cổ học đã chứng minh
được những người thiên di lên phía Bắc, cả những người sang Mỹ Châu,
không còn hay còn rất ít yếu tố hắc chủng. Không thể kết luận họ lên
phía Bắc vì lạnh, vì ánh sáng mặt trời hay nhiều gió mà biến đổi đi như
vậy (như từ da đen, tóc xoăn thành da vàng hay trắng, tóc thẳng, mũi
nhọn), dù không ai phủ nhận môi trường bên ngoài có làm thay đổi hình
dạng con người. Nhưng để thay đổi cả hình dáng, màu da, râu tóc một cách
triệt để như da đang đen trở thành trắng hay vàng, tóc đang quăn trở
thành thẳng, mắt đang nâu trở thành xanh . thì phải có sự thay đổi nhiễm
sắc thể DNA trong gien mà giới di truyền học gọi là có sự đột biến di
truyền. Sinh học phân tử cho chúng ta biết rằng đột biến di truyền là
một quá trình chậm, do nhiều yếu tố (trong đó có yếu tố môi trường, như
tia sáng mặt trời, và tiến hóa) gây nên. Đột biến DNA dẫn đến nhiều thay
đổi (và bệnh tật), trong đó có cả những thay đổi về hình dáng cơ thể như
tóc, tai, da, mắt.
Tác giả Nguyễn Quang
Trọng cho rằng vào thời kỳ Đồ Đá (không minh định đá cũ, đá giữa hay đá
mới) dân Cổ Việt lúc ấy thuộc chủng Australoid nói tiếng Austric vì cách
sinh sống khác nhau, dần dần phân chia thành hai nhóm: nhóm nói tiếng
Nam Á (Austro-Asiatic) sống trên đất liền và nhóm nói tiếng Nam Đảo
(Austranesia) sống ở vùng đồng bằng ven biển. Bắt đầu thời đá mới, trước
là vì nhu cầu dân số gia tăng, sau vì biển tiến, hai tộc đã phân chia,
lại cùng tìm về đồng bằng các sông nay thuộc Bắc Việt, sống đan xen với
nhau và kết hợp lại với nhau. Tác giả đã ví sự kết hợp này, mà ông gọi
là kết hợp yếu tố văn hóa Biển - Lục Địa, với chuyện Ấu Cơ kết hợp với
Lạc Long Quân, một cuộc kết hợp êm thắm vì là kết hợp giữa hai tộc người
vốn cùng một chủng tộc và một ngôn ngữ. Chuyện đó xẩy ra vào khoảng
4.000 năm cách ngày nay và ông kết luận "Cuộc phối hợp văn hóa hoàn tất
vào thời Đông Sơn (850 trước CN đến 280 sau CN), tạo thành một văn hóa
chung cho cư dân bản địa". Về điểm này, chúng tôi xin được nhắc lại quan
điểm của chúng tôi đã phát biểu trước đây.
Thứ nhất, vào thời điểm trước khi có nạn
Đại hồng thủy cuối cùng (từ 18.000 năm trước, nước biển bắt đầu dâng mỗi
năm 1cm, đến 8.000 năm trước nước biển đột ngột dâng cao nhận chìm toàn
bộ đồng bằng Nanhailand đến tận Việt Trì ngày nay), dân cư đồng bằng
Nanhailand còn thống nhất, nói tiếng Austric chứ chưa chia làm hai
Austronesian và Austro-Asiatic.
Thứ hai, vào lúc này (từ 18.000 năm đến
khoảng 50.000 năm trước) chắc đã có sự đột biến di truyền, và người nói
tiếng Austric ấy chắc đã là da vàng, tóc thẳng mà khảo cổ học gọi là Nam
Mongoloid, chứ không còn da đen, tóc quăn, mũi rộng thuộc Hắc chủng, mà
khảo cổ học gọi là Australoid. Sự đột biến di truyền xẩy ra vào thời
điểm nào thì còn cần có thêm những cuộc sưu khảo, nhất là những thí
nghiệm về di truyền học DNA mới có thể khẳng định được.
Thứ ba, khi nước biển dâng, chia Đông Nam Á
ra thành Đông Nam Á hải đảo và Đông Nam Á đất liền thì lúc đó người nói
tiếng Austric cũng bắt đầu chia hai : phần ở hải đảo và ven biển nói
tiếng Austronesian và phần ở sâu trong lục địa nói tiếng Austro-Asiatic.
Thứ tư, chỉ khi nước biển bắt đầu rút
(khoảng 5.500 năm cách ngày nay), trả dần lại đồng bằng sông Hồng mới
thì người đã di tản đi nơi khác vì nạn Đại hồng thủy nay mới đổ về tái
htiết đồng bằng này, và đó cũng là thời kỳ dựng nước Văn Lang. Lạc Long
Quân Nam Đảo và Ấu Cơ Nam Á kết hợp với nhau vào lúc này. Và đây là điểm
khác biệt giữa chúng tôi với tác giả. Lạc Long Quân gặp Ấu Cơ khoảng từ
5.500 năm trước, từ lúc nước biển bắt đầu lui chứ không phải vào 4.000
năm trước đây khi biển tiến. Nhưng tại sao Lạc Long Quân và Ấu Cơ lại
chia lìa, người đem 50 con lên núi, người đem 50 con xuống biển? Sự chia
lìa đó xẩy ra vào lúc nào? Truyền thuyết chỉ nhắc lại lời Lạc Long Quân:
"Ta là giống Rồng, nàng là giống Tiên, ở lâu với nhau không được, nay
phải chia ly". Dù có nói thêm một câu: "Hữu sự bảo cho nhau biết, đừng
quên". Cái thông điệp mà truyền thuyết đómuốn gửi đi, qua câu nói của
Lạc Long Quân, vẫn còn là một bí ẩn.
Nói tóm lại, về vấn
đề nguồn gốc dân tộc Việt Nam, đã đến lúc chúng ta đặt vấn đề với giả
thiết Bắc xuống Nam, và nghiêm túc thử nghiệm giả thiết Nam lên Bắc.
Thực ra, chúng ta cũng chẳng còn quyền lựa chọn nào khác vì khoa học,
nhất là khoa di truyền học, đã lựa chọn dùm chúng ta: Khởi thủy, người
Hiện Đại (Homo Sapiens - Sapiens) từ Đông Phi đến Đông Nam Á; rồi từ đó
họ tiến lên phía Bắc. Sau vì có sự phối hợp với chủng từ Tây Bắc xuống,
họ hợp thành cái cốt lõi của dân sống ở Trung Quốc ngày nay. Đó là giai
đoạn Nam lên Bắc. Giai đoạn này khoảng từ sau 40.000 năm cách ngày nay
cho đến 3.000 năm cách ngày nay thì Trung Hoa bắt đầu có loạn Xuân Thu
Chiến Quốc. Đến khi nhà Tần thống nhất lục quốc, nhất là từ khi nhà Hán
cai trị Trung nguyên, những dân thuộc Đại tộc Bách Việt ở các nước lưu
vực sông Dương Tử xuôi về Nam, không chịu sự đồng hóa của người Hoa Hán
đã di dần về phương Nam. Một số những người thuộc nhóm này đã sát nhập
với dân Lạc Việt. Giai đoạn này kéo dài cũng cả ngàn năm, nhưng những
thiên di từ đời Tần đến đời Đông Hán (khoảng 300 năm trước CN đến 100
năm sau CN) có lẽ là quan trọng hơn cả. Chúng tôi tin rằng đó là một
phần của kết luận về nguồn gốc dân tộc Việt Nam.
Cung
Ðình Thanh
Nguyễn văn Tuấn Nguyễn Ðức Hiệp
Tài liệu tham khảo
và chú thích:
1. Nguyễn Khắc Ngữ,
"Nguồn gốc Dân tộc Việt Nam", Nhóm Nghiên cứu Sử Địa Việt Nam xuất bản,
Montréal: 1985; Bình Nguyên Lộc, "Nguồn gốc Mã Lai của Dân tộc Việt
Nam", Nhà xuất bản Lá Bối, Sài Gòn: 1971.
2. Gần đây mới thấy
có "Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam" của Trần Ngọc Thêm - Nhà xuất bản
Thành Phố Hồ Chí Minh, tháng 3/2001.
3. Đọc "Một số vấn
đề lý luận về Lịch sử Tư tưởng Việt Nam", sách lưu hành nội bộ, Hà Nội:
1984 - Ủy ban Khoa học Xã hội Việt Nam, Viện Triết học xuất bản.
4. Phạm Huy Thông,
"Năm mươi năm tìm hiểu văn hóa Hòa Bình", Khảo cổ học, số 1 & 2/1984.
5. W. G. Solheim II,
"Thắp sáng lại quá khứ bị lãng quên", Tạp chí National Geographic số
tháng 3/1971, bản dịch của Hoài Văn Tử & Vĩnh Như, trong Tập San TƯ
TƯỞNG số 2, tháng 4/1999.
6. W. G. Solheim II
- Bài đã dẫn [5].
7. Ngô Thế Phong
,"Dấu vết văn hóa Hòa Bình ở Đông Nam Á", Khảo cổ học, số 1 & 2/1984.
Chữ Phức hợp Kỹ thuật Hòa Bình (Techno-complex) là đề nghị của C. F.
Gorman, học trò của W. G. Solheim II. Xem thêm "The Hoabinhnian and
after : subsistence pattern in S.A. during the Latest Pleistocene and
Early Recent periods" - Word Archaeology 2: 300-320, 171; "Hoabinhnian:
A pebble-teal complex with Early Plant association in S.A.", Science, CL
XIII No.3868, 14 Feb 1969.
8. Higham C, "The
Bronze Age of Southeast Asia", Cambridge University Press, 1966.
9. R. H. Geldern,
"Research on Southeast Asia : Problems and Suggestions", American
Anthropologist, No.4, New York, 1996.
10. David N.
Keightly (biên tập), "The Origins of Chinese Civilization", University
of California Press, Berkeley, Los Angeles: 1983.
11. Li Chi, "The
Beginnings of Chinese Civilization", Seattle: 1957.
12. I. R. Solin
Khanov, 1979 : 37. Theo Trịnh Sinh, "Những hiện vật đồng đỏ trong văn
hóa Đông Sơn", Khảo cổ học số 1/1992; "Nhận dạng trống giả cổ", Khảo cổ
học, số 4/1997. Đọc thêm "The Cradle of the East" của Ping-Ting- Ho,
phần Appendix I", "Excavation at Non Nok Tha, Northeastern Thailand,
1968", Interim Report, Asia Perapective XIII (1970), p.139; "Early
Bronze in Northern Thailand", 1968 của W.G. Solheim II.; "Further
Evidence to Support the Hypothesis of Indigenous Origins of Metallurgy
in Ancient China" do Noel Barnard đọc trong Hội nghị Berkeley 1978 và in
trong The Origins of Chinese Civilization - University of California
Press, 1980.
13. "It will use the
big rivers as language conduct, but the direction of dipersal is the
exact reverse of the Himalaya centrifugal radiation hypothesis" -
"Linguistic Diversity in Space and Time" - Johana Nicols, trích theo
Eden in the East, trang 138-139.
14. J. Y. Chu và
đồng nghiệp, "Genetic relationship of populations in China", Proc. Natl.
Acad. Sci, USA 95, 11763-11768, 1998.
15. Cung Đình Thanh,
"Gốm cổ tại Việt Nam và vai trò của nó trong văn hóa tiền sử", Tập San
TƯ TƯỞNG số 12 tháng 2/2001.
16. Đọc "The Origins
and Early Cultures of The Cereal Grains and Food Legumes" của Te-Tzu
Chang, Chương 3 trong "The Origins of Chinese Civilization" - sđd [10].
17. Cung Đình Thanh,
"Khái niệm về biển tiến ở Việt Nam" và bài "Sự thuần hóa cây lúa nước và
ảnh hưởng của nó đối với tư duy người Việt Cổ", Tập San TƯ TƯỞNG số 3,
tháng 7/1999.
18. Trích Eden in
the East (trang 70-71) của Stephen Oppenheimer: "The prime "home" the
most likely of rice - where climatically, the least manipulation is
required to grow it - are in tropical Indo-China down to the Malay
border Burma Bangladesh and the extreme South coast of China" - Peter
Bellwood - "The Prehistory of Southeast Asia and Oceania" - Collins,
Auckland, 1978; "Rice, though, was clearly pivotal t the Neolithic
stay-athome mainland Indo-China from a very early stage, that is, if the
Sakai cave findings are confirmed we now have a strange new image :
Instead of the sinocentric model with the Chinese inventing rice
cultivation, we have Austro- Asiatic speaking "Southern Barbarians" from
Indo-China teaching the knowhow about rice to the Chinese".
19. Fritjof Capra,
"The Tao of Physics", Fontana Paperbacks, London, 1983.
20. Con người được
cấu tạo bằng nhiều tỷ tế bào. Tất cả các tế bào đều có cấu trúc giống
nhau: trong mỗi tế bào đều có một cái nhân (nucleus) nằm chính giữa. Cái
nhân này có chứa những chất liệu di truyền mà ta thường gọi là DNA (viết
tắc từ chữ deoxyribonucleic acid). Mỗi nhân thường có hàng triệu DNA.
DNA gồm có bốn mẫu tự (yếu tố hóa học): A (adeline), C (cytosine), G
(guanine), và T (thymine). Một mảng DNA tạo thành một gien. Và nhiều
gien tạo thành một bộ di truyền hay nhiễm sắc thể, còn gọi là
chromosome. Con người có 23 nhiễm sắc thể.
21. A. Vu-Trieu và
đồng nghiệp, "HLA-DR and DQB1 DNA polymorphisms in a Vietnamese Kinh
population in Ha Noi", Tập san European Journal of Immunogenetics, năm
1997, bộ 24, trang 345-356.
22. Khoảng cách di
truyền (hay còn gọi là genetic distance) là một thông số di truyền học
đo lường mức độ khác nhau giữa các nhóm dân. Chỉ số này có giá trị tối
thiểu là 0 (tức hai nhóm dân giống nhau về mặt di truyền), và giá trị
tối đa là 1 (tức hai nhóm dân hoàn toàn khác nhau).
23. R. Ivanova và
đồng nghiệp, "Mitochondrial DNA polymorphism in the Vietnamese
population", Tập san European Journal of Immunogenetics, năm 1999, bộ
26, trang 417-422.
24. W. Kim và đồng
nghiệp, "Y chromosomal DNA variation in East Asian populations and its
potential for inferring the peopling of Korea", Tập san Journal of Human
Genetics, năm 2000; bộ 45, trang 76-83.
25. S. W. Ballinger
và đồng nghiệp, "Southeast Asian mitochondrialDNA analysis reveals
genetic continuity of ancient Mongoloid migration," Tập san Genetics,
năm 1992, bộ 130, trang 139-45.
26. C. G. Turner,
"Major features of Sundadonty and Sinodonty, including suggestions about
East Asian microevolution, population history, and late Pleistocene
relationships with Australian aboriginals", Tập san American Journal of
Physical Anthropology, năm 1990; bộ 82, trang 295-317.
27. T. Hanihara,
"Population prehistory of east Asia and the Pacific as viewed from
craniofacial morphology: the basic populations in east Asia, VII",
American Journal of Physical Anthropology, năm 1993, bộ 91, trang
173-87.
28. Đột biến
(mutation) là một sự kiện sinh học xảy ra ở trong tế bào. Gien được cấu
trúc bằng một chuỗi DNA gồm 4 mẫu tự A, G, C, T. Khi một chuỗi DNA bị
thay đổi, tức đột biến (chẳng hạn như từ GCAATGGCCC thành GCAACGGCCC)
thì các đặc tính sinh học liên quan đến gien, chẳng hạn như mật độ
xương, có thể bị thay đổi.
29. Bing Su và đồng
nghiệp, "Y-chromosome evidence for a northward mi-gration of modern
humans into eastern Asia during the last Ice Age," American Journal of
Human Genetics, năm 1999, bộ 65, trang 1718-1724.
30. Yuehai Ke và
đồng nghiệp, "African origin of modern humans in East Asia: a tale of
12000 Y chromosomes," Science, năm 2001, bộ 292, trang 1151-1153.
31. Bing Su và đồng
nghiệp, "Polynesian origins: insights from the Y chromosome," Tập san
Proceedings of the National Academy of Science (USA), năm 2000, bộ 97,
trang 8225-8228.
32. Xin đọc bài "Các
Vua Hùng dựng nước Văn Lang", Tập San TƯ TƯỞNG số 13, tháng 4/2001, trg
7.
33. Alberto Piazza,
"Human evolution: towards a genetic history of China", Nature, Vol. 395,
No. 6703, 1998.
34. Li Yin và đồng
nghiệp, "Distribution of halstypes from a chromosome 21 region
distinguishes multiple prehistoric human migrations", Proc. Natl. Acad.
Sci. USA, Vol. 96, pp. 3796-3800, 1999.
35.
Kwang-Chih-Chang, "The Archaeology of Ancient China", New Haven, Conn:
1968.
36. Barnard Noel,
"Radiocarbon Dates and Their Significance in the Chinese Archaeological
Scene: A list of 420 Entries from Chinese", Sources Published up to
Close of 1979, Canberra.
37. Hà Văn Tấn dẫn
theo Chapell (1987 - 83), "Năm lần nước biển lên xuống ở Đông Nam Á thời
hậu kỳ Pleistocène", Khảo cổ học, số 1/1992; và "Sự biến chuyển từ
Pleistocène đến Holocène ở Đông Nam Á" cũng cùng số. Cũng có thể xem
thêm Tập San TƯ TƯỞNG các số 2, 3, 4, 7, 12, 13, 18.
38. Dẫn theo "The
Cambridge Encyclopedia of Human Revolution", Cambridge University Press.
|
Nhận xét
Đăng nhận xét