TỔ TIÊN THIÊN CỔ 02/f (Thờ cúng tổ tiên))
(ĐC sưu tầm trên NET)
Khởi Nguyên Giai Đoạn Hồng Bàng Thị Và Tín Ngưỡng Thờ Quốc Tổ Hùng Vương
Hiện nay, trong giới nghiên cứu Sử học vẫn còn tồn tại quan điểm về việc
không sự tồn tại của giai đoạn Hồng Bàng thị - Tổ tiên của người Việt.
Họ cho rằng đây là giai đoạn hư cấu, hoàn toàn không có thực trong lịch
sử.
Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, bản sắc văn hóa của người Việt | ||
Trong
các hình thái tín ngưỡng dân gian, thờ cúng tổ tiên là một loại hình
tín ngưỡng cổ truyền mang tính phổ quát của người Việt Nam. Là người
Việt Nam thì " mọi người đều thờ cúng tổ tiên, mọi người đều thờ ông
bà”.
Thờ
cúng tổ tiên đã trở thành một tập tục truyền thống, có vị trí hết sức
đặc biệt trong đời sống tinh thần của dân tộc Việt Nam, là một trong các
thành tố tạo nên bản sắc văn hóa Việt Nam. Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên
rất giản dị: tin rằng tổ tiên mình là thiêng liêng, họ đi vào cõi vĩnh
hằng nhưng vẫn sống cạnh con cháu, họ phù hộ cho con cháu khi gặp tai
ách, khó khăn; vui mừng khi con cháu gặp may mắn, khuyến khích cho con
cháu khi gặp điều lành và cũng quở trách con cháu khi làm những điều tội
lỗi...
Ở
nước ta, thờ cúng tổ tiên không chỉ là tín ngưỡng phổ biến ở người Việt
- tộc người đa số - mà còn lưu giữ ở một vài tộc người khác như người
Mường, người Thái... Trải qua bao thăng trầm, biến cố của lịch sử, trong
khi nhiều tôn giáo, tín ngưỡng dân gian khác đã phải chịu cảnh long
đong, bị kết tội “mê tín dị đoan” nhưng tín ngưỡng thờ tổ tiên đã và vẫn
chiếm được vị trí thiêng liêng trong đời sống tinh thần của người Việt.
Ý thức “con người có tổ, có tông” được bảo tồn trong cõi tâm linh và
lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, dù họ sống trên tổ quốc mình
hay lưu vong nơi xứ người. Đặc biệt đây là hình thức tín ngưỡng được các
thể chế chính trị (Nhà nước) từ xưa đến nay trân trọng thừa nhận, dù
rằng với những mức độ khác nhau. Cùng với tiến trình lịch sử của dân
tộc, nó là sự bồi lắng, kết tụ những giá trị đạo đức quý báu của con
người Việt Nam.
1. Nguồn gốc của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên
Tín
ngưỡng thờ cúng tổ tiên xuất hiện từ khi nào? Cho đến nay có khá nhiều
các giả thuyết, nó được hình thành vào thời Bắc thuộc, cùng với những
ảnh hưởng của văn hóa Hán. Nhưng một số vấn đề được trao đổi: liệu thời
điểm ra đời có thể sớm hơn không, mối quan hệ giữa yếu tố bản địa và yếu
tố du nhập trong việc hình thành tín ngưỡng này diễn ra như thế nào?
chúng ta hãy tìm hiểu từ nền tảng văn hóa - xã hội của cộng đồng cư dân
Việt.
Cơ
sở quan trọng đầu tiên cho việc hình thành bất cứ tôn giáo tín ngưỡng
nào cũng là quan niệm tâm linh của con người về thế giới. Cũng như nhiều
dân tộc khác, người Việt xuất phát từ nhận thức “vạn vật hữu linh” -
mọi vật đều có linh hồn, và bắt đầu từ giới tự nhiên xung quanh mình. Vì
thế, loại thần cổ sơ nhất được người ta sùng là các nhiên thần, đặc
biệt là thần cây, thần núi, thần sông.... Bằng cách huyền thoại hóa, các
vị nhiên thần đã được mang khuôn mặt của con người (hiền hậu hay dữ
tợn), tâm lý của con người (vui mừng hay giận giữ). Có thể nói việc nhân
hóa các thần tự nhiên đã tạo ra một bước chuyển cho việc hình thành hệ
thống nhân hóa. Đây cũng chính là giai đoạn con người bắt đầu khám phá
về bản thân mình. Đến một thời điểm nào đó, mối quan hệ giữa cái hữu
hình và cái vô hình, nhất là cái sống và cái chết đã làm con người bận
tâm. Vẫn với quan niệm vật linh kể trên, họ tin rằng trong mỗi con người
đều có phần “hồn” và “vía”.
Không
có ý thức cao siêu về thiên đàng hay địa ngục của Kitô giáo hay thuyết
luân hồi chuyển kiếp đầu thai của đạo Phật, trong nhận thức dân gian,
thể xác và linh hồn vừa gắn bó, vừa tách biệt. Chúng gắn bó khi sống và
tách biệt khi chết, thể xác đã hòa vào cát bụi nhưng phần hồn vẫn tồn
tại chuyển sang sống ở một thế giới khác. Cõi âm ấy cũng có mọi nhu cầu
như cuộc sống dương gian. Theo quan niệm dân gian, chết cũng là một dạng
“sống”trong một môi trường khác.
Người
ta cho rằng nếu người chết không được cung cấp đầy đủ sẽ trở thành “ma
đói” lang thang, quấy nhiễu người sống. Các am chúng sinh lập ở cuối
làng, hay lễ Vu lan (rằm tháng bẩy) dành cho “thập chúng sinh” là những
biểu hiện mong muốn chia sẻ, an ủi những linh hồn bơ vơ, thiếu đói không
có người cúng tế. Một hiện tượng khá bí ẩn nhưng rất được con người tin
tưởng, đó là âm phủ, người chết phù trợ cho người sống
Mối
quan hệ giữa những người sống và những người chết cùng chung huyết
thống lại càng gắn bó hơn. Trong vòng hai, ba đời thì đó còn là những kỷ
niệm rất cụ thể và sâu sắc. Ông bà, cha mẹ dù qua đời nhưng vẫn luôn
hiện diện trong tâm tưởng của con cháu, và con cháu luôn cảm thấy trách
nhiệm cả về vật chất lẫn tinh thần đối với họ. Niềm tin vào cái chết
chẳng qua là một cuộc trở về gặp tổ tiên, ông bà và tổ tiên có thể sẽ
dõi theo, phù hộ độ trì cho con cháu, đã là cơ sở hình thành tín ngưỡng
thờ cúng tổ tiên.
Ở
Việt Nam, mặc dù tất cả các tộc người đều có quan niệm tổ tiên và một
số tộc người có những hình thức tôn thờ ở những mức độ khác nhau, theo
nhiều nhà nghiên cứu, các hình thức này, hoặc tục cúng người chết trong
tang lễ, cung cấp vật dụng khi chôn người chết, thờ một vài năm, hay lễ
bỏ mả... không đồng nhất với hình thức thờ cúng tổ tiên truyền thống của
người Việt (thờ cúng nối tiếp, lâu dài). Vì vậy, những nét tương đồng
của hình thức tín ngưỡng này chỉ nhận thấy rõ nhất ở một vài nước Đông
Nam Á, đặc biệt là Trung Quốc.
Xã
hội cổ truyền của người Việt cũng có những cơ sở kinh tế nhất định cho
việc hình thành và duy trì tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên. Trước hết đó là
nền kinh tế tiểu nông tự cung tự cấp. Đây chính là môi trường thuận lợi
cho sự xuất hiện tín ngưỡng đa thần. Xét về phương diện kinh tế, làng xã
Việt Nam
đã gần như một đơn vị độc lập và tương tự như thế, là tế bào của nó -
hộ gia đình nhỏ. Đây là nhân tố quan trọng gắn bó các thành viên của gia
đình cùng một thế hệ và giữa các thế hệ. Mở rộng ra, các gia đình cư
trú quần tụ theo họ, và nhiều họ tập hợp thành làng. Trước làng, con
người không tồn tại với tư cách cá nhân mà dưới danh nghĩa gia đình dòng
họ - những đơn vị huyết thống. Có thể nói nền kinh tế tiểu nông ấy là
mảnh đất thuận lợi cho việc củng cố và phát triển ý thức dân tộc cũng
như tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên ở làng xã.
Trong khía cạnh kinh tế có một điểm quan trọng tạo nên nét khác biệt trong tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên ở Việt Nam và Trung Hoa. Do đặc trưng khí hậu nhiệt đới nóng ẩm, gió mùa nên Việt Nam
sản xuất lúa nước theo truyền thống tiểu canh kết hợp với nuôi gia súc.
Vì vậy sản xuất không đòi hỏi tập trung nhân công theo quy mô lớn như ở
nơi sản xuất lúa mỳ khô, công cụ xản xuất cũng nhỏ, gọn, nhẹ, mọi thành
viên trong gia đình từ phụ nữ, trẻ em đều sử dụng dễ dàng. Kết hợp tất
yếu của quy trình này khiến người Việt gắn bó với gia đình, thường là
gia đình hạt nhân chặt hơn với dòng họ. Hầu như gia đình nào cũng có bàn
thờ tổ tiên (dù thờ chính hay thờ vọng) nhưng không phải dòng họ nào
cũng có từ đường.
Hình
thức tổ chức xã hội cũng là một yếu tố quan trọng cho việc hình thành
tín ngưỡng. Ở giai đoạn thị tộc phụ quyền, người đàn ông bắt đầu nắm giữ
quyền hành quản lý gia đình do họ đã có vai trò quan trọng trong hoạt
động kinh tế, vợ và con cái họ tuyệt đối phục tùng và tôn trọng cái uy
quyền đã được xác lập ấy, không chỉ khi họ còn sống mà cả khi họ đã qua
đời. Những đứa con mang họ cha đã kế tiếp ý thức về uy quyền, và phải
chăng các nghi thức ma chay, cúng tế tổ tiên cũng chính là “hình thức
phản ánh hoang đường quyền hành gia trưởng trong một gia đình”.
Như
vậy, tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên ra đời và duy trì trong những điều
kiện lịch sử - xã hội nhất định. Từ hình thức liên minh cộng đồng nguyên
thủy đến hình thức liên kết gia đình sơ khai theo trục huyết thống nam
đã là một chặng đường lịch sử khá dài. Theo con đường “ chung tộc danh
về phía bố”, các gia đình nhỏ liên kết lại với nhau thành họ. Đây là
loại đơn vị ngoại hôn vì các thành viên trong họ liên kết với nhau bằng
sợi dây huyết thống và cùng chung một vị thủy tổ.
Tín
ngưỡng thờ cúng tổ tiên ở người Việt đã hình thành, tồn tại và phát
triển trên cơ sở quan niệm tâm linh và một nền tảng kinh tế xã hội tư
tưởng khá bền vững. Có thể nói những yếu tố tâm linh có tính bản địa và
mộc mạc đã được thể chế hóa, hợp pháp hóa nhờ hệ tư tưởng Nho giáo và sự
ủng hộ của các vương triều. Chính vì vậy, tín ngưỡng này đã được bảo
tồn qua suốt tiến trình lịch sử nhiều biến động.
2. Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên là gì?
Tín
ngưỡng của tục thờ cúng tổ tiên là quan niệm về sự tồn tại của linh hồn
và mối liên hệ giữa người đã chết và người sống (cùng chung huyết
thống) bằng con đường hồn về chứng kiến, theo dõi hành vi của con cháu,
quở trách hoặc phù hộ cuộc sống của họ. Trong tín ngưỡng này đạo lý là
nội dung nổi trội.
Đạo
lý uống nước nhớ nguồn, một mặt con cháu bày tỏ lòng biết ơn đối với
các bậc sinh thành, lúc họ đã chết cũng như khi còn sống. Mặt khác, nó
cũng thể hiện trách nhiệm liên tục và lâu dài của con cháu đối với nhu
cầu của tổ tiên. Trách nhiệm được biểu hiện không chỉ trong các hành vi
sống (giữ gìn danh dự và tiếp tục truyền thống của gia đình, dòng họ,
đất nước) mà còn ở trong các hành vi cúng tế cụ thể. Một học giả nước
ngoài khi nghiên cứu về tín ngưỡng này ở nước ta đã nhận xét: “Các thành
viên trong gia đình kính dâng các đồ cúng lễ là tuyệt đối cần thiết để
cho linh hồn tổ tiên có được sự yên nghỉ thanh thản ở thế giới bên kia”.
Ở
đây cũng cần nhắc tới đặc trưng “duy tình” hơn “duy lý” của người Việt.
Mặc dù nhiều dân tộc phương Đông có tâm lý ứng xử duy tình, nhưng ở
người Việt, thái độ này biểu hiện rất rộng và thể hiện rất sâu sắc (
không chỉ đối với người đang sống mà cả với những người sắp chào đời
hoặc đã chết). Người ta luôn luôn chịu sự chi phối của quan niệm vừa
mong được nhận “phúc ấm của tổ tiên”, “sống vì mồ mả, ai sống vì bát
cơm”, vừa lo trách nhiệm để phúc lộc cho con cháu “phúc đức tại mẫu”,
“đời cha ăn mặn đời con khát nước”. Khi cúng lễ tổ tiên, một mặt con
người hướng về quá khứ, định hướng cho hiện tại (giáo dục truyền thống
gia đình, đạo lý làm người cho con cháu) và mặt khác đã chuẩn bị cho
tương lai. Đường dây thế hệ mà cũng là đường dây đạo lý sẽ luôn liên tục
nối tiếp, phát triển.
Thờ
cúng tổ tiên còn là hình thái tín ngưỡng có ý nghĩa lớn về mặt tổ chức
cộng đồng trong xã hội truyền thống. Sống trong xã hội, xét theo cả trục
dọc và trục ngang, con người không thể sống biệt lập, đơn độc. Theo
trục dọc phụ hệ, thờ cúng tổ tiên là sự nối tiếp liên tục các thế hệ:
ông bà - cha mẹ - bản thân. Mỗi con người phải có trách nhiệm thờ phụng
bốn đời trước: cao, tằng, tổ, khảo (kỵ, cụ, ông, bố) và họ cũng tin rằng
sẽ được con cháu bốn đời kế tiếp cúng giỗ. Theo trục ngang, thờ cúng tổ
tiên đã gắn bó con người trong mối liên kết dòng họ: họ cha, họ mẹ, họ
vợ (hoặc chồng). Với tư cách một tập thể - gồm cả người đang sống và
người đã chết gắn bó với nhau về huyết thống và thờ chung một thủy tổ,
dòng họ có sức mạnh đảm bảo giá trị tinh thần cho mỗi thành viên của nó
trong làng xã
Vai
trò tổ chức liên kết cộng đồng của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên còn rõ
hơn khi ta xem xét vấn đề thờ quốc tổ. Cả cộng đồng cư dân Việt Nam được
củng cố bởi niềm tin chung một cội nguồn “đồng bào”, đều là “con Lạc
cháu Hồng”. Và đó cũng chính là sức mạnh giúp cho dân tộc ta vững vàng
trước mọi sự đe dọa của giặc ngoại xâm “các vua Hùng đã có công dựng
nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ nước”.(Hồ Chủ Tịch). Suốt từ thế kỷ
XV, XVI đến nay, khi Hùng Vương được coi là quốc tổ, ý thức này đã đóng
một vai trò vô cùng quan trọng đối với đời sống tâm linh của dân tộc.
Thờ 18 vị Vua Hùng theo tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt
Tín
ngưỡng thờ cúng tổ tiên có nội dung bình dị và giàu tính thực tiễn,
không cực đoan như nhiều tôn giáo khác. Bởi thế nó dễ dàng được thế tục
hóa trở thành nếp sống, phong tục, bám rễ sâu trong tiềm thức của mỗi
người. Bằng việc thờ cúng tổ tiên, thế hệ trước nêu gương cho thế hệ sau
không chỉ vì trách nhiệm đối với các bậc sinh thành mà còn để giáo dục
dạy dỗ con cháu lưu truyền nòi giống. Giáo sư Đào Duy Anh cho rằng: “tế
tự tổ tiên là lấy sự duy trì chủng tộc làm mục đích”. Trong khi tế lễ,
lời khấn vái của họ cũng thật giản dị, rất thực tiễn: lời cầu xin che
chở, phù trợ cho cuộc sống hàng ngày của họ được bình yên, suôn sẻ.
Không biết sự cầu xin ấy hiệu quả như thế nào, nhưng trước hết, con
người cảm thấy thanh thản về mặt tâm linh, điểm tựa tinh thần quan trọng
cho cuộc sống. Trong sự thờ cúng này đã thực sự nảy sinh mối quan hệ
hai chiều: người chết cần đến sự cúng lễ của người sống để có thể yên ổn
ở thế giới bên kia, không thành “ma đói” lang thang, còn người sống chỉ
có thể an bình, thanh thản khi được che chở, phù trợ một cách bí ẩn của
người chết. Linh hồn các bậc tiền bối luôn luôn bên cạnh con cháu, mách
bảo cho họ và giúp đỡ họ có một cuộc sống tốt đẹp thuận hòa. Với những
mong muốn bình dị và niềm tin nguyên thủy chất phát, thờ tổ tiên được
coi là thứ tín ngưỡng “vừa tầm” với mọi lớp người cả về mặt nội dung đạo
lý và nghi thức thực hiện. Do đó, khả năng phổ biến trong không gian và
thời gian của tín ngưỡng này cũng là một điều dễ hiểu.
Các tôn giáo ngoại lai, để tồn tại được ở Việt Nam,
đã buộc phải dung hòa với thứ tín ngưỡng bản địa cắm rễ sâu trong tâm
thức người Việt – thờ cúng tổ tiên. Còn các tôn giáo xuất hiện nội sinh
trong nước như Cao Đài, Hòa Hảo ở miền Nam
cũng đã biết dựa trên cơ sở của đạo thờ cúng ông bà. Không chỉ các tôn
giáo, mà ngay cả trong các tín ngưỡng dân gian khác như tín ngưỡng thờ
thành hoàng, thờ Mẫu…, ta cũng thấy dấu vết tác động của tín ngưỡng thờ
tổ tiên ở sự biết ơn cội nguồn, biết ơn các đấng sinh thành. Bắt nguồn
từ tín ngưỡng thờ thần, người dân Việt thờ Mẫu (thờ mẹ) với mong muốn
kéo vị thần này gần với tín ngưỡng gia tộc, từ đó có mối đồng cảm gắn bó
như giữa người mẹ luôn che chở với đàn con của mình.
Có
thể nói, thờ cúng tổ tiên là một tín ngưỡng dân gian của dân tộc có
nguồn gốc từ xa xưa và mang đạo lý nhân ái uống nước nhớ nguồn trong
tiến trình lịch sử, nó đã được các hệ tư tưởng tôn giáo khác bổ sung
hoàn chỉnh để thể chế hóa thành một thứ đạo: Đạo tổ tiên - Đạo Ông Bà.
3. Nghi thức thờ cúng tổ tiên
Tổ tiên theo quan niệm của người Việt Nam,
trước hết là những người cùng huyết thống, như cha, mẹ, ông, bà, cụ, kỵ
v.v... là người đã sinh ra mình. Tổ tiên cũng là những người có công
tạo dựng nên cuộc sống hiện tại như các vị "Thành hoàng làng" các "Nghệ
tổ". Không chỉ thế, tổ tiên còn là những người có công bảo vệ làng xóm,
quê hương, đất nước khỏi nạn ngoại xâm như Trần Hưng Đạo đã thành "Cha"
được tổ chức cúng, giỗ vào tháng 8 âm lịch hàng năm. "Tháng 8 giỗ cha" ở
rất nhiều nơi trong cộng đồng người Việt. Ngay cả "Thành hoàng" của
nhiều làng cũng không phải là người đã có công tạo dựng nên làng, mà có
khi là người có công, có đức với nước được các cụ xa xưa tôn thờ làm
"thành hoàng". Tổ tiên trong tín ngưỡng của người Việt Nam còn là "Mẹ Âu
Cơ", còn là "Vua Hùng", là người sinh ra các dân tộc trong đại gia đình
Việt Nam.
Sự biết ơn và tưởng nhớ công lao là thể hiện đạo lý "uống nước nhớ nguồn" đối với tổ tiên.
Ảnh du khách đến dâng hương tại Đền Hùng
Thờ
cúng tổ tiên là hình thức tín ngưỡng mà thông qua nghi lễ thờ cúng nhằm
xác lập "mối liên hệ" giữa người sống với người chết, giữa người ở thế
giới hiện tại và thế giới tâm linh. Là sự thể hiện quan niệm về nhân
sinh của người Việt Nam: "sự tử như sự sinh, sự vong như sự tồn". Với người Việt Nam,
chết chưa phải là hết, tổ tiên lúc nào cũng ở bên cạnh người sống, "như
tại" trên bàn thờ mỗi gia đình, động viên, trợ giúp cho con cháu trong
cuộc sống thường ngày. Nếu như tôn giáo thường tuyệt đối hóa đời sống
tinh thần, hướng con người về thế giới siêu thoát, thì tín ngưỡng thờ
cúng tổ tiên, tuy có hướng con người về với quá khứ, song lại rất coi
trọng hiện tại và tương lai.
Đạo
lý biết ơn và tiếp tục nối dõi truyền thống tổ tiên chỉ trở thành nội
dung bên trong của tín ngưỡng khi đạo lý được bộc lộ thông qua các nghi
thức có tính chất huyền bí, thiêng liêng. Các nghi thức thờ cúng tổ tiên
ở nước ta tuy phần lớn phỏng theo nghi lễ Nho giáo, nhưng lại có những
yếu tố rất gần gũi với Phật giáo hay Đạo giáo. Mặt khác với tính chất
một tín ngưỡng dân dã, các hành vi lễ thức thường được thực hiện theo
tâm thức dân gian và cũng không hoàn toàn thống nhất ở các gia đình, các
địa phương.
Thời
gian cúng giỗ là những ngày húy kỵ của tổ tiên, những ngày lễ, tết
trong năm. Ngoài ra, việc cúng giỗ tổ tiên cũng được tổ chức vào những
ngày trong gia đình có sự kiện quan trọng như lấy vợ, làm nhà, tậu trâu,
thi cử, đi xa, nhà có người ốm đau... Thông qua nghi lễ thờ cúng, người
Việt Nam
gửi gắm tình cảm biết ơn đối với tổ tiên. "Ăn quả nhớ kẻ trồng cây" và
vì "Cây có gốc mới nở cành xanh ngọn, nước có nguồn mới bể rộng sông
sâu". Trong mỗi gia đình tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên dần dần trở thành
đạo lý "uống nước nhớ nguồn", thành "đạo hiếu". Đạo hiếu là cái gốc của
mỗi con người. Công cha, nghĩa mẹ như núi cao, nước nguồn cho nên phải
hiếu thảo với cha, mẹ khi còn sống, thành kính, biết ơn, tiếc thương khi
cha, mẹ khuất núi về với tổ tiên. Lòng hiếu thảo là giá trị đạo đức quý
báu trong tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt Nam.
Thờ cúng tổ tiên trong gia đình và gia tộc
Mang
đặc tính của cư dân nông nghiệp đa thần giáo, trong gia đình người ta
thường thờ phụng nhiều vị thần. Bên cạnh việc thờ tổ tiên, thờ Phật,
người ta còn thờ bà Cô, ông Mãnh (ông Hoàng) là những người thân thích,
chết trẻ, hoặc chết vào giờ linh thiêng. Ở một số gia đình, vị trí bàn
thờ được sắp xếp theo quy định, ví dụ thờ Thánh sư ở góc nhà, thờ Tiền
chủ ở bàn thờ đặt ngoài sân, thờ bà Cô, ông Mãnh ở cạnh thấp hơn bàn thờ
tổ tiên.... Trong các vị thần được thờ tại gia, thường không có vị thần
nào được sắp xếp ngang hàng với tổ tiên. Thông thường ban thờ được đặt
cao ở vị trí trang trọng nhất, gian chính giữa của nhà trên. Đây là điểm
khác biệt với một số dân tộc khác ở Đông Á. Ở Hàn Quốc người ta chỉ lập
bàn thờ và dán bài khi có việc cúng giỗ, ở Nhật Bản, vị trí trang trọng
nhất trong nhà dành thờ Thần đạo (Shinto) còn ban thờ tổ tiên lại lập ở
gian phụ.
Bàn thờ gia tiên được đặt ở vị trí trang trọng trong nhà
Việc
bài trí bàn thờ gia tiên thường không giống nhau, điều này phụ thuộc
vào quan niệm tâm linh và cả điều kiện kinh tế của gia chủ. Nhìn chung
bàn thờ gia tiên nào cũng có một số đồ thờ chủ yếu sau: bài vị, bát
hương, đĩa đèn, bình hoa, chén rượu, mâm đựng hoa quả…. Các gia đình
bình dân, đồ thờ thường được làm bằng gỗ hoặc sành sứ, còn các gia đình
giàu có thế nào cũng có đồ thờ tự bằng đồng. Bàn thờ gia tiên của ngành
trưởng phức tạp hơn ngành thứ, của chi trưởng phức tạp hơn chi thứ, gia
đình con thứ, con út chỉ thờ vọng nên bài trí bàn thờ cũng đơn giản hơn
con trưởng.
Với
trách nhiệm thờ phụng nhiều đời: cao, tằng, tổ, khảo, bàn thờ các gia
đình chi trưởng, ngành trưởng có đặt các tấm thần chủ được làm bằng gỗ
táo (với ý nghĩa cây táo sống nghìn năm) ghi rõ tên tuổi các vị tổ. Trên
bàn thờ ở các từ đường dòng họ còn có bài vị Thủy tổ của họ, bài vị có
sự chuyển dịch. Khi thờ cúng đến đời thứ năm thì thần chủ của đời này
được đem chôn, vì thế mới có câu “Ngũ đại mai thần chủ”. Các thần chủ
đời sau được chuyển lên bậc trên, và tấm thần chủ của ông mới nhất được
thay vào vị trí “khảo”. Như vậy, các gia đình chi thứ, ngành thứ, các vị
tổ đời thứ tư, thứ ba chỉ được thờ vọng, mà chủ yếu thờ hai đời gần
nhất (ông bà, cha mẹ).
Việc
thờ cúng tổ tiên tại gia đình thường được tiến hành quanh năm, xuất
phát từ quan niệm dù đã khuất nhưng linh hồn họ vẫn luôn ở bên cạnh con
cháu. Không chỉ cúng lễ trong các dịp quan trọng như tang ma, giỗ chạp,
cưới xin…, không chỉ trong những ngày lễ tiết như Tết nguyên đán, Thanh
minh, Hàn thực, Đoan ngọ…, các ngày Sóc(ngày mồng một), Vọng (ngày rằm)
theo chu kỳ tuần trăng, mà các vị tổ tiên còn được con cháu kính cáo mọi
chuyện vui buồn: sinh nở, ốm đau, thi cử, đỗ đạt, kiện cáo, bất hòa,
dựng vợ gả chồng… Con cháu còn kính mời các vị về hưởng thụ hoa trái đầu
mùa, lễ tạ tổ tiên khi có phúc, có lộc. Có thể nói trong tâm thức những
người sống tổ tiên là bất tử. Người Việt dâng hương, làm lễ cúng tổ
tiên để báo cáo và để cầu tổ tiên phù hộ, hay để tạ ơn khi công việc
thành công. Bản chất việc thờ cúng tổ tiên của người Việt là từ niềm tin
người sống cũng như người chết đều có sự liên hệ mật thiết và hỗ trợ
nhau. Con cháu thì thăm hỏi, khấn cáo tiền nhân. Tổ tiên thì che chở,
dẫn dắt hậu thế nên việc cúng giỗ là thực hiện mối giao lưu giữa cõi
dương và cõi âm.
Đồ
lễ trên bàn thờ cũng không quy định chặt chẽ lắm, tùy tâm nhưng điều cơ
bản phải là những thứ thanh khiết và được dành riêng. Bàn thờ tổ tiên
bao giờ cũng đặt ở trên cao, tại nơi trang trọng nhất trong nhà (gian
giữa đối với nhà một tầng, tầng trên cùng đối với nhà tầng). Trên bàn
thờ bày bát hương, chân đèn, bài vị hay hình ảnh người quá cố.Bàn thờ
được coi là những dấu vết còn lại của tín ngưỡng thờ mặt trời và thần
lửa. Chén nước trắng tinh khiết cũng được giải mã từ tục thờ thần nước
xa xưa. Có thể một triết lý quen thuộc của phương Đông cũng đã xuất hiện
ở đây: sự giao hòa âm dương. Bên cạnh chén nước, bình rượu (âm) cần đến
sự có mặt của hương lửa (dương). Cũng như khi hóa vàng (đốt mã), người
ta cho rằng phải đổ chén rượu hoặc nước lên đống tro thì người âm mới
nhận được lễ. Theo quan niệm dân dã, nén hương là chiếc cầu nối giữa tổ
tiên và con cháu, nó có khả năng chuyển tải lời thỉnh cầu của những
người sống và chính mùi thơm thanh cao của hương, hoa đã tạo ra được sự
giao hòa giữa người hai cõi.
Mâm ngũ quả và bánh trưng ngày tết thờ cúng tổ tiên (ảnh minh họa)
Sau
khi cúng giỗ, gia đình thường dọn thức ăn vừa cúng xong để cùng ăn, coi
như hưởng lộc của tiền nhân. Bạn bè thân thuộc cũng được mời đến dùng
bữa, tức là đi ăn giỗ.
Lễ
thức trong tang ma được coi là lễ thức quan trọng bậc nhất để đưa ông
bà, cha mẹ vừa mất về gặp tổ tiên và gia nhập vào hàng các vị tổ tiên
(những người vừa mới mất được lập bàn thờ riêng cho tới khi giỗ hết, cải
táng sạch sẽ mới được phép thờ chung với tổ tiên. Sau lễ tang ma, lễ
giỗ là nghi thức rất được chú trọng trong tâm lý người Việt.
Một biến thể của việc cúng giỗ là tục thờ "hậu" do nhà chùa hay đình
làng đảm nhiệm. Trong trường hợp này người quá cố đã cúng tiền hay
ruộng vào chùa hay đình để được hưởng lễ vật vào những ngày kỵ nhật.
Vì kính trọng tổ tiên, người Việt coi việc tang ma là trọng sự, gắn liền với việc thờ cúng tổ tiên.
Ngày
giỗ (kỵ nhật) là ngày kỷ niệm ngày mất của người thân trong gia đình
hàng năm thường được tính theo âm lịch (hay còn gọi là ngày ta). Trong
các ngày giỗ có ba ngày chú ý nhất: tiểu tường (giỗ đầu), đại tường (giỗ
hết), trừ phục (lễ cởi bỏ đồ tang). Các ngày giỗ thường kỳ trong các
năm sau được coi là cát kỵ (giỗ lành).
Trước
lễ Tiểu tường, nhiều gia đình còn làm lễ Tiên thường (cáo giỗ) nhằm xin
phép Thổ công để linh hồn người đã mất trở về gia đình nhận giỗ. Đồ lễ
cúng trong giỗ đầu và giỗ hết phải chuẩn bị rất chu đáo. Theo quy định
xưa, vào ngày giỗ đầu, trang phục tang lễ mũ gậy, áo xô lại được con
cháu mang ra mặc. Đồ mã được gửi cho người chết cũng theo quy định: ở lễ
tiểu đường đó là “mã biếu” vì người chết phải sử dụng để biếu các ác
thần mong tránh sự quấy nhiễu (dân gian quan niệm cõi âm như cõi trần), ở
lễ Đại tường và lễ Trừ phục (một ngày tốt được chọn sau lễ Đại tường để
đốt bỏ tang phục) đồ mã còn cần nhiều hơn: mọi vật dụng sinh hoạt cho
người chết ( quần áo, giầy dép, xe cộ), thậm chí cả các hình nhân bằng
giấy để xuống cõi âm phục vụ cho họ. Sau khi hóa (đốt) những đồ mã này,
đổ một chén rượu lên đống tàn vàng để vật mã trở thành vật thật, tiền
thật dưới cõi âm. Người ta còn hơ một chiếc đòn gánh, gậy trên ngọn lửa
hóa vàng, hoặc dựng một cây mía bên cạnh với lời giải thích “để các cụ
gánh vác về”.
Gia
tộc cũng có những qui định tín ngưỡng cho việc thờ cúng Thủy tổ dòng
họ. Mặc dù đã qua nhiều đời nhưng ngày giỗ họ vẫn được lưu truyền nhờ
việc ghi chép gia phả. Trong ngày giỗ Thủy tổ, tất cả con cháu trưởng
các chi, ngành, nhánh buộc phải có mặt. Các con cháu khác tùy vào hoàn
cảnh mà mang đồ tới góp giỗ. Lễ giỗ Tổ được tổ chức chu đáo và duy trì
đều đặn hàng năm.
Bên
cạnh các nghi lễ cúng tế trong gia đình và gia tộc còn phải kể thêm vào
hệ thống nghi thức tế lễ tổ tiên một hình thức Tảo mộ. Ngoài việc đắp
thêm mộ trong ba ngày (sau khi người thân chết), các gia đình, dòng họ
thường đi thăm mộ, cúng tế sửa sang mồ mả vào dịp Tết Thanh minh tháng
ba. Việc cúng tế tại mộ thường diễn ra đơn giản hơn nhiều so với cúng
tại nhà, nhưng trước khi cúng trước mộ người thân người ta phải khấn cáo
xin phép thổ công. Thăm nom sang sửa mồ mả tổ tiên, một mặt là hình
thức thể hiện lòng hiếu thảo của con cháu, mặt khác bởi quan niệm mồ mả
vô cùng quan trọng đối với cuộc sống của cả gia đình, gia tộc. Người
Việt cho rằng, nếu vị trí đặt mồ mả không tốt, hướng không đúng thì con
cháu làm ăn sẽ lụi bại, không thể nào phát triển được.
Lễ giỗ tổ Hùng vương
Nghi
thức tế tự của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên gồm ba bộ phận, thứ nhất là
tế tự tại gia đình, thứ hai tế tự tại làng xóm (chủ yếu là tín ngưỡng
thờ Thành hoàng) và thứ ba tế tự quốc gia. Người Việt luôn tôn thờ công
đức của cha ông, tộc họ, những người đã khuất cùng huyết thống, đồng
thời tôn thờ tất cả những người có công với nước, với xóm làng, những
anh hùng dân tộc, anh hùng văn hóa. Cũng trong hệ thống ấy, với người
Việt Nam tự bao đời nay ngày giỗ tổ Hùng vương luôn được coi trọng, đó
là sự tưởng nhớ, là sự trở về với cội nguồn của dân tộc. Từ truyền
thuyết bào thai trăm trứng đến sự tích Hùng Vương, người Việt đã dựng
lên cho ông Tổ của mình một lý lịch hoàn chỉnh, có cả ngày mất (kỵ).
Theo Toan Ánh, “trước đây hàng năm tại đền vua Hùng ở làng Cổ tích, phủ
Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ, có tổ chức quốc tế và có đại diện của triều đình
tới đứng chủ tế trong ngày giỗ. Dân chúng các nơi kéo về đền Hùng lễ tổ
và ngay cả các tỉnh cũng có tế vọng vua Hùng”. Vì thế, đó là ngày giỗ
quan trọng nhất của người Việt Nam:
Dù ai đi ngược về xuôi
Nhớ ngày giỗ Tổ mùng Mười tháng Ba
Lễ giỗ tổ Hùng Vương tại Đền Hùng năm 2010
Mùng
Mười tháng Ba hàng năm đã trở thành ngày giỗ của vua Hùng, thành ngày
hội tụ con cháu khắp mọi miền đất nước hướng về đất Tổ. Có thể nói ngày
giỗ tổ Hùng Vương là sự phát triển cao có tính chất trìu tượng hóa ý
thức về cội nguồn, bắt rễ sâu xa tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên ở làng xã,
trong gia đình và gia tộc. Triết lý cội nguồn trên phạm vi quốc gia ấy
cũng đã đóng góp một phần quan trọng trong việc củng cố về mặt lý luận
cho sự liên kết các quan hệ máu mủ thân tộc. Nhà và nước, nước và nhà,
nước mất thì nhà tan, nước giàu thì dân mạnh. Chính vì thế tín ngưỡng
thờ cúng tổ tiên của người Việt Nam từ gia đình, dòng họ đến Tổ quốc đã
không ngừng được giữ gìn bảo tồn qua các bước thăng trầm của lịch sử,
bất chấp mọi mưu đồ, xâm lược đồng hóa của giặc ngoại xâm.
Trong
các hệ thống tín ngưỡng tôn giáo bản địa của nước ta thì tín ngưỡng thờ
cúng tổ tiên được coi là quan trọng bậc nhất. Ở đó ta thấy được niềm
tin của con người vào một thế giới bên kia, nơi có một cuộc sống giống
như thế giới mà chúng ta đang sống. Thông qua các nghi lễ thờ cúng con
người mong muốn có được sự che trở, giúp đỡ của tổ tiên, lúc nào trong
tâm tưởng họ tổ tiên cũng luôn theo sát. Chính niềm tin đó đã giúp họ
sống tốt hơn, có thể vượt qua mọi khó khăn trong cuộc sống, đồng thời
cũng giúp mọi người xích lại gần nhau hơn. Mỗi dịp giỗ chạp là lúc những
người trong gia đình dòng họ có điều kiện để gặp gỡ thăm hỏi nhau, tạo
thêm sự thân thiết đoàn kết, gắn bó.
Tín
ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt Nam trong quá trình hình thành,
tồn tại của nó đã góp phần tạo ra những giá trị đạo đức truyền thống như
lòng hiếu thảo, lòng nhân ái, tính cộng đồng, tính cần cù, sáng tạo,
lòng hiếu học, lòng yêu nước. Vì thế tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên như đã
khái quát trên có thể nói là vĩnh hằng cùng với sự tồn tại và phát triển
của dân tộc. Hiếu với tổ tiên, ông, bà, cha, mẹ còn được nâng lên cao
hơn, đẹp hơn, đó là "hiếu với dân, với nước". Trong đời sống xã hội hiện
đại, đã có thời kỳ người ta nghĩ đơn giản rằng xã hội càng phát triển,
khoa học kỹ thuật càng tiến bộ thì con người càng bớt đi niềm tin vào
thế giới vô hình, con người sẽ sống tỉnh táo hơn, khoa học hơn. Có lẽ
điều này chỉ đúng một phần, vì thế khi thế giới càng chia nhỏ rành mạch,
con người càng mở rộng tầm nhìn thì những khoảng trống, những điều chưa
thể giải thích càng lớn. Đó là điều bí ẩn của thế giới tâm linh, đặc
biệt là mối liên hệ ràng buộc vô hình nào đó giữa những người cùng dòng
máu. Vì thế càng ngày tín ngưỡng thờ cũng tổ tiên càng có vai trò quan
trọng trong đời sống tâm linh của mỗi người Việt Nam,
nó là một trong những nhân tố góp phần quan trọng để bảo tồn và duy trì
văn hóa truyền thống. Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên là một tập tục mang
đậm nét văn hoá của người Việt.
Tài liệu tham khảo
1. Trương Thìn, Nghi lễ thờ cúng tổ tiên đền chùa miếu phủ, Nxb Hà Nội
2. Trần Ngọc Thêm, Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam, Nxb TP Hồ Chí Minh
3. Linh mục Vũ Kim Chính, SJ Giáo sư Đại học Công giáo Phụ nhân, Đài loan, Ông bà tổ tiên
Đinh Kiều Nga
|
So sánh phong tục thờ cúng tổ tiên của Việt Nam, Nhật Bản, Hàn Quốc
Sự tương đồng và khác biệt
trong việc thờ cúng tổ tiên ở ba nước giúp cho ta thấy rõ hơn về sự đa
dạng, phong phú trong tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên trên thế giới.
>> Nguồn gốc và bản chất của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên |
.
Tổ tiên theo quan niệm của người Việt
Nam, trước hết là những người cùng huyết thống, như cha, mẹ, ông, bà,
cụ, kỵ v.v… là người đã sinh ra mình. Tổ tiên cũng là những người có
công tạo dựng nên cuộc sống hiện tại như các vị “Thành hoàng làng” các
“Nghệ tổ”. Không chỉ thế, tổ tiên còn là những người có công bảo vệ làng
xóm, quê hương, đất nước khỏi nạn ngoại xâm như Trần Hưng Đạo đã thành
“Cha” được tổ chức cúng, giỗ vào tháng 8 âm lịch hàng năm. “Tháng 8 giỗ
cha” ở rất nhiều nơi trong cộng đồng người Việt. Ngay cả “Thành hoàng”
của nhiều làng cũng không phải là người đã có công tạo dựng nên làng, mà
có khi là người có công, có đức với nước được các cụ xa xưa tôn thờ làm
“thành hoàng”. Tổ tiên trong tín ngưỡng của người Việt Nam còn là “Mẹ
Âu Cơ”, còn là “Vua Hùng”, là người sinh ra các dân tộc trong đại gia
đình Việt Nam.
Thờ cúng tổ tiên còn là hình thái tín
ngưỡng có ý nghĩa lớn về mặt tổ chức cộng đồng trong xã hội truyền
thống. Sống trong xã hội, xét theo cả trục dọc và trục ngang, con người
không thể sống biệt lập, đơn độc. Theo trục dọc phụ hệ, thờ cúng tổ tiên
là sự nối tiếp liên tục các thế hệ: ông bà – cha mẹ – bản thân. Mỗi con
người phải có trách nhiệm thờ phụng bốn đời trước: cao, tằng, tổ, khảo
(kỵ, cụ, ông, bố) và họ cũng tin rằng sẽ được con cháu bốn đời kế tiếp
cúng giỗ. Theo trục ngang, thờ cúng tổ tiên đã gắn bó con người trong
mối liên kết dòng họ: họ cha, họ mẹ, họ vợ (hoặc chồng). Với tư cách một
tập thể – gồm cả người đang sống và người đã chết gắn bó với nhau về
huyết thống và thờ chung một thủy tổ, dòng họ có sức mạnh đảm bảo giá
trị tinh thần cho mỗi thành viên của nó trong làng xã.
Cho đến nay, tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên
vẫn còn tồn tại phổ biến ở nhiều khu vực, nhiều quốc gia trên thế giới,
đặc biệt là ở các quốc gia phương Đông, nó đóng một vai trò quan trọng
trong đời sống tâm linh của nhiều dân tộc, nhiều tộc người. Mặc dù vậy,
việc đánh giá vai trò, ý nghĩa của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên trong
từng giai đoạn lịch sử, cũng như ở mỗi quốc gia lại không giống nhau.
Ngay việc nhìn nhận thờ cúng tổ tiên là một phong tục, một tin ngưỡng
hay một tôn giáo vẫn chưa có sự thống nhất. Hiện nay, vẫn có nhiều cách
gọi khác nhau đối với loại hình tín ngưỡng này.
Thông thường tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên được hiểu theo hiểu theo hai nghĩa:
*Nghĩa hẹp: Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên
là việc thờ cúng tổ tiên, ông bà, cha mẹ những người có cùng huyết thống
đã mất để tưởng nhớ công sinh thành, nuôi dưỡng.
* Nghĩa rộng: Tín ngưỡng thờ cúng tổ
tiên không chỉ có thờ cúng tổ tiên cùng huyết thống trong gia đình, họ
tộc, mà còn mở rộng ra thờ cả tổ tiên của làng xã (thành hoàng làng, tổ
nghề…), đất nước (Vua Hùng….): “Đạo thờ cúng tổ tiên được hiểu theo
nghĩa rộng, không chỉ thờ những người có công sinh dưỡng đã khuất, nghĩa
là những người có cùng huyết thống, mà thờ cả những người có công với
cộng đồng làng xã, đất nước”[1].
Cũng như nhiều quốc gia phương Đông
khác, ở Việt Nam và Hàn Quốc, Nhật Bản tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên đều
tồn tại ở ba cấp độ: gia đình – làng xã – quốc gia với mức độ đậm nhạt
khác nhau. Ở bài viết này, tác giá chỉ xin đề cấp tới vấn đề tín ngưỡng
thờ cúng tổ tiên theo nghĩa hẹp, ở ba quốc gia Việt Nam, Nhật Bản và Hàn
Quốc thông qua hai vấn đề chính là hình thức thờ cúng và những thời
điểm thờ cũng chính…
1. Những hình thức thờ cúng tổ tiên cơ bản
Thờ cúng tổ tiên là hình thức tín ngưỡng
mà thông qua nghi lễ thờ cúng nhằm xác lập “mối liên hệ” giữa người
sống với người chết, giữa người ở thế giới hiện tại và thế giới tâm
linh. Là sự thể hiện quan niệm về nhân sinh của người Việt Nam: “sự tử
như sự sinh, sự vong như sự tồn”. Với người Việt Nam, chết chưa phải là
hết, tổ tiên lúc nào cũng ở bên cạnh người sống, “như tại” trên bàn thờ
mỗi gia đình, động viên, trợ giúp cho con cháu trong cuộc sống thường
ngày. Nếu như tôn giáo thường tuyệt đối hóa đời sống tinh thần, hướng
con người về thế giới siêu thoát, thì tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, tuy
có hướng con người về với quá khứ, song lại rất coi trọng hiện tại và
tương lai.
Mang đặc tính của cư dân nông nghiệp đa
thần giáo, trong gia đình người ta thường thờ phụng nhiều vị thần. Bên
cạnh việc thờ tổ tiên, thờ Phật, người ta còn thờ bà Cô, ông Mãnh (ông
Hoàng) là những người thân thích, chết trẻ, hoặc chết vào giờ linh
thiêng. Ở một số gia đình, vị trí bàn thờ được sắp xếp theo quy định, ví
dụ thờ Thánh sư ở góc nhà, thờ Tiền chủ ở bàn thờ đặt ngoài sân, thờ bà
Cô, ông Mãnh ở cạnh thấp hơn bàn thờ tổ tiên…. Trong các vị thần được
thờ tại gia, thường không có vị thần nào được sắp xếp ngang hàng với tổ
tiên. Thông thường ban thờ được đặt cao ở vị trí trang trọng nhất, gian
chính giữa của nhà trên.
Việc bài trí bàn thờ gia tiên thường
không giống nhau, điều này phụ thuộc vào quan niệm tâm linh và cả điều
kiện kinh tế của gia chủ. Nhìn chung bàn thờ gia tiên nào cũng có một số
đồ thờ chủ yếu sau: bài vị, bát hương, đĩa đèn, bình hoa, chén rượu,
mâm đựng hoa quả…. Các gia đình bình dân, đồ thờ thường được làm bằng gỗ
hoặc sành sứ, còn các gia đình giàu có thế nào cũng có đồ thờ tự bằng
đồng. Bàn thờ gia tiên của ngành trưởng phức tạp hơn ngành thứ, của chi
trưởng phức tạp hơn chi thứ, gia đình con thứ, con út chỉ thờ vọng nên
bài trí bàn thờ cũng đơn giản hơn con trưởng.
Với trách nhiệm thờ phụng nhiều đời:
cao, tằng, tổ, khảo, bàn thờ các gia đình chi trưởng, ngành trưởng có
đặt các tấm thần chủ được làm bằng gỗ táo (với ý nghĩa cây táo sống
nghìn năm) ghi rõ tên tuổi các vị tổ. Trên bàn thờ ở các từ đường dòng
họ còn có bài vị Thủy tổ của họ, bài vị có sự chuyển dịch. Khi thờ cúng
đến đời thứ năm thì thần chủ của đời này được đem chôn, vì thế mới có
câu “Ngũ đại mai thần chủ”. Các thần chủ đời sau được chuyển lên bậc
trên, và tấm thần chủ của ông mới nhất được thay vào vị trí “khảo”. Như
vậy, các gia đình chi thứ, ngành thứ, các vị tổ đời thứ tư, thứ ba chỉ
được thờ vọng, mà chủ yếu thờ hai đời gần nhất (ông bà, cha mẹ).
Ở Nhật Bản: Như ta chúng ta đã biết, đạo
Shinto (thần đạo) là tín ngưỡng bản địa của Nhật Bản. Đạo Shinto thờ
bách thần và có tác động mạnh mẽ đến đời sống tâm linh của người Nhật
Bản. Ngay trong các nghi thức thờ cúng của Shinto cũng bao gồm cả tục
thờ cúng tổ tiên. Có những ý kiến của các chuyên gia cho rằng: đạo
Shinto là sự biến thái của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên trước đó. Có thể
nhận thấy, tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của Nhật Bản mang màu sắc của
Thần đạo nhưng ở mức độ đậm nhạt khác nhau. Bên cạnh tín ngưỡng bản địa
đó, người Nhật Bản rất coi trọng việc thờ cúng tổ tiên và trong nhà mỗi
gia đình Nhật đều có đặt ban thờ để tưởng nhớ và thờ cúng tổ tiên, ông
bà đã mất.
Trong các ngôi nhà truyền thống của Nhật
Bản bao giờ cũng đặt một gian Bustrudan ở giữa. Đây là gian phòng để
thờ Phật nhưng người Nhật cũng đặt một ban thờ để thờ cúng tổ tiên.
Ngoài việc thiết lập các ban thờ tại gia, hầu hết các gia đình Nhật Bản
có gửi tro cốt của những người đã khuất tại chùa. Do đó, bên cạnh việc
thực hiện nghi thức cúng tế tổ tiên tại nhà họ cũng tổ chức làm lễ cúng
tại chùa. Các nghi thức cúng tế tổ tiên tại chùa được các nhà sư thực
hiện dựa trên yêu cầu của thân chủ. Tại các gia đình, vào ngày giỗ, họ
dâng đồ cúng và đọc kinh trước ban thờ Phật và ban thờ tổ tiên.
Do người Nhật có đặc trưng là cùng một
lúc theo nhiều tôn giáo, nên trong cuộc đời của mỗi cá nhân, họ đều tham
gia vào những hành vi tôn giáo khác nhau. Chẳng hạn, khi mới sinh ra,
họ được cha mẹ đưa đến đền thờ Thần đạo làm lễ để hiến cho các vị thần;
khi trưởng thành họ cũng làm lễ tại các đền thờ Thần đạo; khi thành hôn
họ tổ chức theo nghi lễ Thần đạo, nhưng ngày cưới lại được chọn theo
quan niệm của Đạo giáo; ứng xử giữa các thành viên trong gia đình lại
theo quy tắc của Nho giáo; khi mất đi, họ tổ chức tang ma theo nghi thức
của Phật giáo. Người đã mất được đặt một pháp danh theo đạo Phật và
được ghi trên bài vị được đặt ở gian Butsuda của mỗi gia đình. Sau 49
ngày, gia đình làm lễ cử tang và từ lúc này, người vừa khuất được xếp
vào hàng ngũ của các vị tổ tiên. Từ đó, người ta làm lễ giỗ hàng năm,
cho đến lễ giỗ thứ 33 thì họ không thực hiện nghi thức cúng tế người đó
nữa. Theo quan niệm của người Nhật, sau 33 lần giỗ, người chết đã đi vào
cõi vĩnh hằng.
Ở Hàn Quốc: sau khi triều đại Koryo sụp
đổ và triều đại Shoson được thiết lập vào năm 1932, tín ngưỡng thờ cúng
tổ tiên thực sự có sự biến đổi mạnh mẽ. Cũng bắt đầu từ đó, cuộc sống
của người dân Hàn Quốc được chỉ đạo bởi các nguyên tắc của Tống Nho.
Những nguyễn tắc của Tống Nho đã ổn định luật lệ xã hội, coi trọng sự
hiếu thảo với cha mẹ và lấy đó làm đức tính cơ bản, đặc biệt, các quy
tắc đó nhấn mạnh phép tắc trong mối quan hệ xã hội và luôn đề cao việc
thờ cúng tổ tiên trong mỗi gia đình.
Những hình thức thờ cúng mà qua đó thể
hiện sự tưởng nhớ, tôn kính đối với tổ tiên được người Hàn gọi chung là
Chesa. Các nghi lễ này mang trọn giá trị tinh thần của người Hàn Quốc,
nó nhấn mạnh trật tự từ trên xuống dưới, từ người đã chết đến những
người nối dõi; là sự xác nhận quan hệ huyết thống giữa người sống và
người chết.
Căn cứ vào hình thức và đối tượng được thờ cúng của người Hàn, có thể thia làm ba hình thức thờ cúng tổ tiên cơ bản sau:
– Kije: nghi lễ nhằm tưởng nhớ những người mới mất.
– Ch’arye: lễ tưởng nhớ những người thân
trong gia đình đã mất. Nghi lễ này được thực hiện vào buổi sáng của
những ngày lễ đặc biệt nào đó.
– Myojje: lễ tưởng nhớ bên mộ. Nghi lễ này được thực hiện khi tiến hành thăm viếng mộ tổ tiên, ông bà.
Trong các loại nghi lễ trên, lễ Keji và
Ch”arye thường được tổ chức long trọng, cầu kì tại nhà. Vào ngày đó,
người ta phải dâng đồ cúng lên tổ tiên một cách cung kính, chu đáo. Việc
sắp xếp đồ lễ trên ban thờ đòi hỏi phải có một trật tự nhất định. Chẳng
hạn, những đồ hoa quả có màu đỏ phải xếp riêng ở phía Đông, đến những
hoa quả có màu trắng phải xếp ở phía Tây của bàn thờ. Tiếp theo đó là
một hàng thức ăn, rồi đến hoa quả, rau, cháo đặc và một số loại thịt cá.
Cuối cùng là những bát cơm, hoặc đôi khi là cháo cùng với thìa và đũa.
Phía trước bàn thờ bày đồ cúng là một bàn để bát nhang và trước bát
nhanh là khay rượu.
Nghi lễ Keji là lễ giỗ tổ tiên. Theo lệ
cũ, nghi lễ này được thực hiện theo quy cách truyền thống, nghĩa là thực
hiện vào nửa đêm trước ngày giỗ. Chỉ có một số tổ tiên được thờ cúng
trong lễ Keji.
Lễ Ch’arye là nghi lễ tưởng nhớ tổ tiên ở
bốn thế hệ gần nhất, nghĩa là từ đời thứ tư trở lại đến ông bà bố mẹ.
Từ đời thứ năm được cúng tế tại mộ hàng năm. Đồ cúng trong nghi lễ này
cũng giống như lễ Keji. Nghi lễ này được thực hiện vào sáng sớm của
những ngày lễ đặc biệt. Phần lớn gia đình chỉ thực hiện lễ này hai lần
trong năm: vào dịp tết năm mới và tết trung thu. Tuy nhiên, cũng có
những gia đình thực hiện nghi lễ này vào ngày thức ăn lạnh (105 ngày sau
Đông Chí) và ngày 5 tháng 5 âm lịch hàng năm.
Vật thờ cúng chủ đạo trong hai lễ trên
là một tấm bảng gỗ gọi là Shinjju, nhưng ngày nay, người ta thường thay
vào đó là một tờ giấy có sẵn gọi là Chibang – trên đó có ghi họ tên,
chức vụ, vị trí của người được cúng tổ tiên. Tờ giấy này được dán lên
tường hoặc một tấm đá phía sau ban thờ và sẽ được hóa vào cuối buổi lễ.
Ngoài hai lễ trên được làm tại gia đình
với sự cầu kì, phức tạp thì còn có lễ Myoje. Nghi lễ này được thực hiện
trước phần mộ của người đã khuất vào dịp tháng 10 âm lịch. Trước kia, lễ
Myojje là lễ hội quan trọng mang tầm cỡ quốc gia và người thường mất
nhiều thời gian cho lễ này. Ngày nay, việc đi thăm mộ tổ tiên vào dịp lễ
Chusok đã trở thành một tập quán mới. Trong nghi lễ này, họ chỉ dâng
cúng tổ tiên một số đồ ăn đơn giản cùng với rượu.
2. Những thời điểm thờ cúng tổ tiên
2.1. Có thể
nói tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên luôn được người Nhật Bản tôn kính và coi
trọng. Tuy có nhiều nét tương đồng với Trung Quốc, Hàn Quốc hay Việt
Nam, nhưng việc cúng tế ở Nhật Bản cũng có những nét riêng biệt, việc
cúng tế tổ tiên thường xuyên diễn ra; ở Nhật Bản do đặc điểm tôn giáo,
tín ngưỡng riêng của mình mà lễ cúng tổ tiên chỉ được hiện vào một dịp
nhất định trong năm. Cho đến nay, người dân Nhật Bản thường tập trung
tiến hành nghi thức cúng tế tổ tiên vào nhiều dịp nhưng bài viết chỉ đề
cập đến 3 dịp quan trọng nhất trong năm như:
Ngày giỗ: không như các nước phương Tây
là coi trọng ngày sinh, hầu hết các nước ở khu vực Đông Nam Á và Bắc Á
lại coi trọng ngày mất của những người thân trong gia đình, dòng họ. Vì
thế, ngày mất được chọn là ngày giỗ để tưởng nhớ về tổ tiên đã khuất.
Theo nhiều tài liệu ghi chép lại, tục cúng tổ tiên Nhật Bản đã có từ
lâu, nhưng nó được tiến hành khá đơn giả, không phức tạp, cầu kì và thời
gian đầu của tục thờ cúng tổ tiên hầu hết các nghi thức cúng tế đều
mang tính chất của đạo Shinto: “Ở Nhật Bản việc cúng giỗ trong gia đình
rất đơn giản, nhưng cũng rất trang nghiêm. Vào ngày giỗ, mọi người trong
gia đình phải tắm rửa sạch sẽ, làm lễ tẩy uế bằng cách vẩy nước
(mishoghi)[2] hoặc khua một cành cây xanh (sakagi) hoặc khua đũa thờ
(musa). Những động tác này làm ở ngoài cửa. Không lập các đàn tế cầu kỳ
như ở Trung Hoa, có chăng chỉ là một tấm bài vị ghi tên cha mẹ, tổ tiên
đã mất hoặc bầy một chậu cây, một phiến đá tượng trưng cho những kỉ niệm
về người đã khuất”[3].
Tuy nhiên, khi Phật giáo được du nhập
vào Nhật Bản, các nghi thức cúng tế của đạo Phật cũng đã ảnh hưởng đến
các nghi lễ giỗ tổ tiên của người Nhật. Lúc này, lễ giỗ tổ tiên không
chỉ được tiến hành tại nhà mà đôi khi có thể được làm tại chùa. Đây là
một sự thay đổi lớn so với trước kia.
Những lễ vật thờ cúng dành cho nghi lễ
cúng tế trong ngày giỗ tổ nói chung thường có cơm trắng, gạo, hoa quả,
nước, muối, các đồ hải sản. Cũng có những vùng họ cúng cá, chim, gà. Tất
cả những con vật này đều còn sống. Theo tục lệ, người Nhật không sát
sinh trong ngày giỗ tổ tiên. Họ quan niệm, máu là sự ô uế, do đó, trong
các nghi thức cúng tế tuyệt đối không sát sinh.
Ngày Tết: Ngày tết cổ truyền của Nhật
Bản diễn ra vào những ngày đầu thàng giêng âm lịch. Đây là dịp diễn ra
lễ hội lớn nhất trong năm và quan trọng nhất với mỗi gia đình Nhật Bản.
Đó cũng là dịp để các thành viên trong gia đình có điều kiện đoàn tụ,
sum họp. Vào thời điểm trước Tết, tại các đền thờ Shinto, các vị thầy tu
làm lễ thanh tẩy những uế tạp của năm cũ cho dân chúng, còn trong mỗi
ngôi nhà, chủ nhân của chúng lại dọn dẹp, trang hoàng lại cho mới hơn.
Trong mối gia đình, người ta cũng làm lễ thanh tẩy nhưng mang tính chất
tượng trưng. Ngoài ra, họ còn cắm những cành thông lên cổng và bện những
dây rơm hoặc giấy treo trên lối vào nhà.
Đêm giao thừa là thời khắc quan trọng
của ngày Tết, những người trong gia đình tập trung lại và tưởng nhớ đến
ông bà tổ tiên và những người thân đã mất. Vào đêm giao thừa, theo
truyền thống, các gia đình Nhật Bản cũng sắm sửa một mâm lễ thật thịnh
soạn với món chủ đạo là các món nướng đặc biệt và bánh mạch nha
(O-mochi), cùng với một số đồ lễ khác. Người chủ gia đình đặt mâm gỗ
trước ban thờ và khấn mời tổ tiên về ăn Tết với con cháu. Sau khi cúng
xong, mọi người cùng thưởng thức các món ăn và trò chuyện vui vẻ cho đến
giờ trừ tịch[4] mới thôi. Và cũng như người Việt Nam, Hàn Quốc, Trung
Quốc, người Nhật Bản vẫn tin tưởng rằng với khả năng thần bí và siêu
nhiên tổ tiên của họ sẽ luôn phù trợ cho con cháu của mình được hạnh
phúc, may mắn trong năm mới.
Lễ hội Obon: Theo quan niệm của Phật
giáo thì lễ Obon là dịp xá tội vong nhân, là lúc cửa ngục âm phủ mở để
các vong hồn được về thăm người thân nơi trần thế. Vì thế, ở những nơi
chịu ảnh hưởng của văn hóa Phật giáo như Nhật Bản, Hàn Quốc, Việt Nam
….người dân đều rất coi trọng việc tổ chức nghi lễ cúng vong hồn người
đã khuất trong gia đình, dòng họ.
Lễ Obon được tiến hành trong khoảng thời
gian từ ngày 13 -17 tháng 7 âm lịch hàng năm. Vào dịp này, các gia đình
đốt lửa hoặc treo đèn lồng trước lối vào để dẫn các linh hồn biết lối
về. Lễ Obon tiến hành tại các gia đình mang tính chất thờ cúng tổ tiên
nhiều hơn là lễ xá tội vong nhân: “Linh hồn được cúng tế trong lễ Obon
trước hết là tổ tiên, nhất là linh hồn những người mới khuất và những
hồn ma không có người thân chăm sóc”[5]. Tuy vậy, ở mỗi địa phương lại
có sự tổ chức lễ Obon khác nhau. Về cơ bản, lễ Obon cũng mang ý nghĩa
như lễ năm mới, cũng là thời gian mời thần, Phật và tổ tiên về nhà; là
dịp chủ nhân tiến hành các nghi thức cúng tế và thết đãi của vị thần,
vong linh tổ tiên những món ăn ngon theo truyền thống với thái độ tôn
kính và thân tình. Tuy lễ hội Obon có liên quan đến cái chết, vong hồn…
nhưng lại được tổ chức đón các linh hồn bằng màn múa hát nhộn nhịp do
các đoàn biểu diễn các trò diễn dân gian của địa phương trình diễn.
Trong dịp này, các gia đình Nhật Bản dọn
dẹp sạch sẽ và bày biện trên đó các đồ lễ, gia chủ còn làm cỗ mời đón
tổ tiên ở gian Butsudan tại nhà. Vào ngày này, các thành viên trong gia
đình còn đi thăm mộ của ông bà tổ tiên và người thân, họ dọn cỏ và trồng
hoa mới cho các ngôi mộ.
Lễ tiễn hồn là nghi thức cuối cùng của
lễ hội Obon. Người ta đốt lửa tiễn trước cổng nhà, thả đồ cúng và cả
những cây đèn lồng xuống sông, biển. Mọi người đều tin rằng các linh hồn
sẽ theo ánh sáng của các đèn lồng tìm về miền cực lạc.
2.2.Tín ngưỡng
bản địa của người Hàn Quốc là đạo Shaman. Theo quan niệm của người Hàn
Quốc thì các vị thần Shaman ngự trị khắp nơi trong căn nhà của họ: “các
thần bay lượn khắp xung quanh và là một phần quan trọng trong cuộc sống
của người Hàn giống như gạo và Kim chi”[6]. Hàng ngày, người Hàn Quốc
vẫn làm lễ Kosa để thờ cúng các vị thần, cầu xin họ ban phúc. Việc cúng
tế tổ tiên ở Hàn Quốc lại chỉ mang tính tưởng nhớ nên nó diễn ra không
thường xuyên mà chỉ được thực hiện ở một số dịp nhất định trong năm như:
Ngày giỗ: ở Hàn Quốc, ngày là lễ giỗ
được gọi là Kije, được thực hiện đúng ngày mất với mục đích tưởng nhớ
người đã mất. Trước đây, nghi lễ này được thực hiện vào nửa đêm trước
ngày giỗ. Ngày nay, có rất nhiều gia đình đã chuyển sang làm giỗ vào
sang sớm. Vào ngày ngày giỗ, các gia đình Hàn Quốc làm mâm cỗ cúng thịnh
soạn.Trên bàn thờ bày biện các món ăn đặc biệt, hoa quả trước bài vị
của người của người đã mất. Điều đặc biệt của nghi lễ này là người thực
hành nghi lễ là những người đàn ông trong gia đình (kể con rể cũng được
thực hành các nghi thức cúng tế trong nhà vợ). Sau khi hành lễ xong, mọi
thành viên trong gia đình cùng tập trung ăn uống.Người Hàn Quốc quan
niệm rằng: khi ăn uống những thức ăn dùng để cúng ông bà tổ tiên sẽ luôn
được tổ tiên phù hộ, và gặp may mắn.
Ngày Tết cổ truyền:là thời điểm quan
trọng nhất đối với người dân Hàn Quốc.Vào ngày này, họ làm lễ Cha’rye để
tưởng nhớ về tổ tiên của gia đình. Họ chuẩn bị mọi thứ rất công phu và
được bày biện lên ban thờ theo một quy tắc nhất định.Buổi lễ kết thúc
khi người đàn ông cuối cùng hành lễ xong. Sau đó gia đình cùng thụ lễ và
nói chuyện về truyền thống tốt đẹp của gia đình. Trong dịp Tết cổ
truyền này, người dân Hàn Quốc cũng tổ chức viếng mộ tổ tiên. Nếu như lễ
cúng tổ tiên tại nhà thường để cúng tổ tiên ở bốn đời gần nhất, từ đời
thứ năm trở về trước được cúng tại mổ tổ mỗi năm một lần.
Ngày thức ăn lạnh (Hansic): là ngày thứ
105 sau ngày Đông chí, thường rơi vào khoảng đầu tháng 3 âm lịch. Vào
ngày này, người Hàn Quốc chuẩn bị đồ cúng như rượu, hoa quả, rau, bánh,
gạo, thịt, cá và nhiều loại thức ăn nữa để cúng tổ tiên.
Ngày 15 tháng 7 âm lịch: được coi là
ngày trở về của các linh hồn đã khuất. Ở Việt Nam, Nhật Bản gọi là ngày
xá tội vong nhân, trong tiếng Hàn cũng có nghĩa tương tự như vậy.
Ngày rằm tháng tám: Chusok – lễ hội mùa
trăng): là dịp thờ cúng tổ tiên lớn nhất trong năm của người dân Hàn
Quốc. Vào dịp này, mọi người đi làm xa đều cố gắng thu xếp công việc
quay trở về gia đình để tham nghi lễ thờ cúng tổ tiên. Đây là dịp để mọi
người tập trung tại nhà người con trai trưởng và tổ chức một bữa tiệc
lớn nhằm kỉ niệm một vụ mùa bội thu và quan trọng hơn cả là tưởng nhớ
đền tổ tiên vì họ đã phù hộ cho con cháu trong năm qua.Trong ngày đầu
tiên của dịp lễ, người ta sẽ dâng lên tổ tiên những sản phẩm của vụ mùa
vừa thu hoạch. Họ thành kính dâng lên tổ tiên những đồ cúng bằng rượu,
hoa quả, bánh chay và những loại hạt mới được thu hoạch như hạt dẻ, táo,
hồng, và lê…Một loại bánh đặc trưng nhất trong ngày lễ này là bánh bột
gạo hình bán nguyệt Songp’yon. Loại bánh này được làm từ gạo mùa mới xay
nhỏ, mịn, mềm. Bên trong bánh có nhân đậu đỏ, vừng, hạt dẻ và được hấp
trên lá cây thông mới hái.
Cũng trong dịp này, người Hàn Quốc cũng
đi thăm viếng mộ, tỏ lòng thành kính với tổ tiên bằng việc dâng đồ cúng
và thực hành nghi thức vái tạ. Vào dịp này, người ta còn tổ chức tu sửa
mộ với mong muốn làm đẹp, sạch sẽ nơi an nghỉ của tổ tiên.
2.3. Trong tục
thờ cúng tổ tiên, người Việt coi trọng việc cúng giỗ vào ngày mất (còn
gọi là kỵ nhật) thường được tính theo âm lịch (hay còn gọi là ngày ta).
Họ tin rằng đó là ngày con người đi vào cõi vĩnh hằng. Không chỉ ngày
giỗ, việc cúng tổ tiên còn được thực hiện đều đặn vào các ngày mồng một
(còn gọi là ngày sóc), ngày rằm (còn gọi là ngày vọng), và các dịp lễ
Tết khác trong một năm như: Tết Nguyên đán, Tết Hàn thực, Tết Trung thu,
Tết Trùng cửu, Tết Trùng thập… Những khi trong nhà có việc quan trọng
như dựng vợ gả chồng, sinh con, làm nhà, đi xa, thi cử…, người Việt cũng
dâng hương, làm lễ cúng tổ tiên để báo cáo và để cầu tổ tiên phù hộ,
hay để tạ ơn khi công việc thành công. Bản chất việc thờ cúng tổ tiên
của người Việt là từ niềm tin người sống cũng như người chết đều có sự
liên hệ mật thiết và hỗ trợ nhau. Con cháu thì thăm hỏi, khấn cáo tiền
nhân. Tổ tiên thì che chở, dẫn dắt hậu thế nên việc cúng giỗ là thực
hiện mối giao lưu giữa cõi dương và cõi âm.
Ngày giỗ (kỵ nhật) là ngày kỷ niệm ngày
mất của người thân trong gia đình hàng năm thường được tính theo âm lịch
(hay còn gọi là ngày ta). Trong các ngày giỗ có ba ngày chú ý nhất:
tiểu tường (giỗ đầu), đại tường (giỗ hết), trừ phục (lễ cởi bỏ đồ tang).
Các ngày giỗ thường kỳ trong các năm sau được coi là cát kỵ (giỗ lành).
Trước lễ Tiểu tường, nhiều gia đình còn
làm lễ Tiên thường (cáo giỗ) nhằm xin phép Thổ công để linh hồn người đã
mất trở về gia đình nhận giỗ. Đồ lễ cúng trong giỗ đầu và giỗ hết phải
chuẩn bị rất chu đáo. Theo quy định xưa, vào ngày giỗ đầu, trang phục
tang lễ mũ gậy, áo xô lại được con cháu mang ra mặc. Đồ mã được gửi cho
người chết cũng theo quy định: ở lễ tiểu đường đó là “mã biếu” vì người
chết phải sử dụng để biếu các ác thần mong tránh sự quấy nhiễu (dân gian
quan niệm cõi âm như cõi trần), ở lễ Đại tường và lễ Trừ phục (một ngày
tốt được chọn sau lễ Đại tường để đốt bỏ tang phục) đồ mã còn cần nhiều
hơn: mọi vật dụng sinh hoạt cho người chết ( quần áo, giầy dép, xe cộ),
thậm chí cả các hình nhân bằng giấy để xuống cõi âm phục vụ cho họ. Sau
khi hóa (đốt) những đồ mã này, đổ một chén rượu lên đống tàn vàng để
vật mã trở thành vật thật, tiền thật dưới cõi âm. Người ta còn hơ một
chiếc đòn gánh, gậy trên ngọn lửa hóa vàng, hoặc dựng một cây mía bên
cạnh với lời giải thích “để các cụ gánh vác về”.
Đây là một lễ vô cùng quan trọng, bởi
nhớ đến ông bà tổ tiên là đã thể hiện lòng thành kính với vong linh
người đã khuất, không phụ thuộc vào việc làm giỗ lớn hay nhỏ. Chỉ với
chén nước, quả trứng, nén hương cũng giữ được đạo hiếu.
Sau khi cúng giỗ, gia đình thường dọn
thức ăn vừa cúng xong để cùng ăn, coi như hưởng lộc của tiền nhân. Bạn
bè thân thuộc cũng được mời đến dùng bữa, tức là đi ăn giỗ.
Bên cạnh các nghi lễ cúng tế trong gia
đình và gia tộc còn phải kể thêm vào hệ thống nghi thức tế lễ tổ tiên
một hình thức Tảo mộ. Ngoài việc đắp thêm mộ trong ba ngày (sau khi
người thân chết), các gia đình, dòng họ thường đi thăm mộ, cúng tế sửa
sang mồ mả vào dịp Tết Thanh minh tháng ba. Việc cúng tế tại mộ thường
diễn ra đơn giản hơn nhiều so với cúng tại nhà, nhưng trước khi cúng
trước mộ người thân người ta phải khấn cáo xin phép thổ công. Thăm nom
sang sửa mồ mả tổ tiên, một mặt là hình thức thể hiện lòng hiếu thảo của
con cháu, mặt khác bởi quan niệm mồ mả vô cùng quan trọng đối với cuộc
sống của cả gia đình, gia tộc. Người Việt cho rằng, nếu vị trí đặt mồ mả
không tốt, hướng không đúng thì con cháu làm ăn sẽ lụi bại, không thể
nào phát triển được.
* * *
Qua việc tìm hiểu về tín ngưỡng thờ cúng
tổ tiên ở ba nước Việt Nam, Nhật Bản và Hàn Quốc có thể thấy rằng: tín
ngưỡng thờ cúng tổ tiên giữa ba nước có những điểm tương đồng và khác
biệt. Đó là việc để cao tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, bởi nó thể hiện đạo
lí nhớ về tổ tông, nguồn cội của mỗi con người. Song việc thờ cúng ở
Nhật Bản và Hàn Quốc lại không diễn ra thường xuyên như ở Việt Nam mà
chỉ được thực hiện ở những dịp nhất định trong năm (như ngày giỗ, ngày
xá tội vong nhân, rằm trung thu…). Trong việc thực hiện các nghi thức
cúng tế lại có nét tương đồng ở chỗ: những người tham gia thực hành nghi
lễ chủ yếu là nam giới, tuy nhiên, ở Việt Nam, người con rể thường
không tham gia nghi thức cúng tế tổ tiên tại nhà vợ như ở Hàn Quốc. Việc
bài trí trên bàn thờ tại Việt Nam có phần giản đơn hơn so với Hàn Quốc
và Nhật Bản. …
Tóm tại, Sự tương đồng và khác biệt
trong việc thờ cúng tổ tiên ở ba nước giúp cho ta thấy rõ hơn về sự đa
dạng, phong phú trong tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên trên thế giới.
Theo VŨ HOA NGỌC / VIỆN VĂN HÓA NGHỆ THUẬT QUỐC GIA VIỆT NAMtri
Nguồn gốc và bản chất của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên
Thờ cúng tổ tiên là một hiện
tượng mang tính lịch sử – xã hội, tồn tại phổ biến ở nhiều nước trên
thế giới, trong đó có Việt Nam.
Bài viết của tác giả Trần Đăng Sinh – giảng viên triết học, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội.
Mặt tốt của hiện tượng này là ở chỗ, nó
nhắc thế hệ những người đang sống phải nhớ đến nguồn, “ăn quả nhớ người
trồng cây”, biết kính trọng, phụng dưỡng ông bà, cha mẹ lúc sinh thời
và thờ phụng khi mất. Sự thanh cao, tinh khiết của nó đã trở thành đạo
lý, lẽ sống, trở thành nét đẹp trong truyền thống văn hoá của nhiều dân
tộc. Song, nó cũng là sự phiền toái, nặng nề khi mang màu sắc mê tín, dị
đoan, vụ lợi. Trong lịch sử và trong cuộc sông hiện tại, nó đã ảnh
hưởng không nhỏ tới đời sống của con người. Các học giả trong nước và
ngoài nước đã có nhiều ý kiến xung quanh hiện tượng thờ cúng tố tiên
này. Đây là một loại hình tín ngưỡng hay tôn giáo? hay chỉ là một tập
tục, thói quen, một hoạt động mang tính văn hoá, đạo đức?… Để có cơ sở
khoa học đánh giá hiện tượng này, cần phải làm rõ nguồn gốc và bản chất
của nó.
Trước hết, chúng ta hãy làm rõ nội hàm của khái niệm tổ tiên và thờ cúng tổ tiên.
Tổ tiên là khái niệm dùng để chỉ những
người có cùng huyết thống nhưng đã mất như cụ, kỵ, ông, bà, cha, mẹ… –
những người đã có công sinh thành và nuôi dưỡng, có ảnh hưởng lớn đến
đời sống vật chất và tinh thần của thế hệ những người đang sống.
Tổ tiên trong xã hội nguyên thuỷ có
nguồn gốc là tổ tiên tôtem giáo của thị tộc bộ lạc. Tổ tiên tôtem giáo
thời kỳ thị tộc mẫu hệ là những vật trong tự nhiên, có mối quan hệ mật
thiết với con người và khi được thần thánh, thiêng liêng hoá thì được
coi là tôtem (vật tổ) của thị tộc, bộ lạc. Thời kỳ thị tộc phụ hệ, tổ
tiên là những người đứng đầu thị tộc, bộ lạc như tù trưởng, thủ lĩnh
quân sự… đầy quyền uy.
Tổ tiên trong xã hội có giai cấp được
thể hiện đầy đủ hơn. Họ thường là những người giữ địa vị chủ gia đình,
gia tộc đã mất, có quyền thừa kế và di chúc tài sản được luật pháp và xã
hội thừa nhận.
Trong quá trình phát triển của lịch sử,
khái niệm tổ tiên cũng có sự biến đổi, phát triển. Nó không còn chỉ bó
hẹp trong phạm vi huyết thống – gia đình, họ tộc… mà đã mở rộng ra phạm
vi cộng đồng, xã hội. Sự hình thành và phát triển của các quốc gia, dân
tộc thường gắn liền với tên tuổi của những người có công tạo dựng, giữ
gìn cuộc sống của cộng đồng. Họ là những anh hùng, danh nhân mà khi sống
được tôn sùng, kính nể, khi mất được tưởng nhớ, thờ phụng trong các
không gian tôn giáo. Ở Việt Nam, họ là những tổ sư tổ nghề, thành hoàng
làng, anh hùng dân tộc, danh nhân văn hoá…
Thờ cúng tổ tiên là hoạt động có ý thức
của con người, là tổng thể phức hợp của ý thức về tổ tiên, biểu tượng về
tổ tiên và nghi lễ thờ phụng.
Thờ là yếu tố thuộc ý thức về tổ tiên,
là tình cảm biết ơn, tưởng nhớ, hướng về cội nguồn, quá khứ. Thờ tổ tiên
là sự thể hiện lòng thành kính, biết ơn, tưởng nhớ tổ tiên, đồng thời
cũng là sự thể hiện niềm tin vào sự che chở, bảo hộ, trợ giúp của tổ
tiên. Cơ sở của sự hình thành ý thức về tổ tiên là niềm tin về linh hồn
tổ tiên còn sống, có thể che chở, phù hộ độ trì cho con cháu. Biểu tượng
về tổ tiên là hình ảnh về những người tài giỏi, có công, có đức. Trên
bàn thờ tổ tiên thường có bài vị, tượng, ảnh được bày đặt cầu kỳ, trang
trọng.
Cúng là yếu tố mang tính nghi lễ, là sự
thực hành một loạt động tác (khấn, vái, quì, lạy ) của người gia trưởng,
tộc trưởng. Đó là hoạt động dưới dạng hành lễ và được qui định bởi quan
niệm, phong tục, tập quán của mỗi cộng đồng, dân tộc. Thờ và cúng là
hai yếu tố có tác động qua lại và tạo nên chỉnh thể riêng biệt – đó là
sự thờ phụng tổ tiên . Sự “thờ”, “tôn thờ” là nội dung, còn hoạt động
cúng” là hình thức biểu đạt của nội dung thờ cúng.Ý thức tôn thờ, thành
kính, biết ơn, tưởng nhớ, hy vọng sự trợ giúp của tổ tiên là nội dung
cốt lõi, là cái chủ yếu khiến sự thờ phụng tổ tiên thành tín ngưỡng thờ
cúng tổ tiên. Nếu không có “nhờ” mà chỉ có “cúng” thì sự thờ phụng tổ
tiên không có “hồn thiêng”, không có sức hấp dẫn nội tại dễ thành nhạt
nhẽo và do vậy, không thể là tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên. Sự “cúng” tuy
chỉ là hình thức biểu đạt, song nó tôn vẻ linh thiêng, huyền bí, mờ ảo
và tạo nên sức hấp dẫn. Nó chính là chất kết dính, tạo nên màu sắc thoả
mãn niềm tin của chủ thể thờ cúng.
Trong xã hội nguyên thuỷ, ý thức về tổ
tiên là một yếu tố của ý thức xã hội nguyên thuỷ, phản ánh sự bất lực
của con người trước sức mạnh của tự nhiên.
Về sau, cùng với lực lượng tự nhiên là
lực lượng mang tính xã hội, như sự áp bức, bóc lột giai cấp… luôn thống
trị lên cuộc sống hàng ngày của con người. Bế tắc trong cuộc sống hiện
thực, con người tìm sự giải thoát trong cuộc sống tinh thần. Cùng với
các biểu tượng về thần linh, biểu tượng về tôtem đã xuất hiện trong thời
kỳ thị tộc mẫu hệ. Đặc điểm chủ yếu của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên
trong thời kỳ này là việc thờ tổ tiên tôtem giáo.
Sang thời kỳ thị tộc phụ hệ, tín ngưỡng
thờ cúng tổ tiên phản ánh sự thay đổi trong phân công lao động xã hội.
Người đàn ông giữ vai trò chủ đạo trong đời sống kinh tế. Họ là những
người vừa có quyền lực thế tục, vữa có uy tín, được quyền nắm giữ việc
thờ cúng các thần, trong đó có tổ tiên đã chết. Đối tượng thờ cúng thời
kỳ này được chuyển từ tổ tiên tôtem sang tổ tiên thật, cùng huyết thống
đã chết.
Như vậy, có thể xem nguồn gốc xã hội sâu
xa mang tính khách quan của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên là ở tính hạn
chế của lực lượng sản xuất và kèm theo đó là sự hạn chế, tù túng trong
quan hệ kép giữa con người với tự nhiên và giữa con người với con người
trong xã hội. Còn nguồn gốc trực tiếp, mang tính xã hội của nó là sự
phân hoá xã hội mà hệ quả của sự phân hoá ấy là việc đề cao vai trò của
người đứng đầu trong gia đình – thị tộc. Những người này, dựa vào uy tín
của mình để củng cố và thiêng liêng hoá sự thờ cúng tổ tiên đã có manh
nha trong thời kỳ thị tộc mẫu quyền. Trong xã hội có giai cấp, sự áp
bức, bóc lột giai cấp, sự bất công xã hội đã khiến cho con người không
có lối thoát hiện thực phải đi tìm sự trợ giúp của tổ tiên cũng là những
nguồn gốc xã hội quan trọng làm nảy sinh tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên.
Cùng với đó nhận thức của con người cũng là một nguồn gốc quan trọng
trong quá trình hình thành và tồn tại của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên.
Người nguyên thuỷ tin rằng con người sau khi chết, linh hồn vẫn tiếp tục
sống. Ý niệm về linh hồn là một trong những yếu tố cơ bản nằm trong các
phức hợp, biểu tượng về tổ tiên và là một đặc trưng của tín ngưỡng thờ
cúng tổ tiên. Một yếu tố tư tưởng khác, có phần xa xưa hơn với ý niệm về
linh hồn, có ảnh hưởng tới sự phát triển các biểu tượng về tổ tiên là
hình ảnh tổ tiên tôtem giáo, hình ảnh thần che chở cho gia đình, thị
tộc.
Nguồn gốc nhận thức luận của tôn giáo, như Ph.Ăng ghen đã chỉ rõ,
“tôn giáo sinh ra trong một thời đại hết sức nguyên thuỷ, từ những khái
niệm hết sức sai lầm, nguyên thuỷ của con người về bản chất của chính
họ và về giới tự nhiên bên ngoài, xung quanh họ”(1),
cũng đúng với tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên. Tư tưởng tôn thờ tổ tiên được
xây dựng trên những vật liệu là những quan niệm, nhận thức ấu trĩ , thơ
ngây về linh hồn người chết, về tổ tiên tôtem giáo, về các thần che chở
cho gia đình, thị tộc. Thêm vào đó, tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên còn
được hình thành trên cơ sở tâm lý, tình cảm mang tính tôn giáo của cá
nhân, cộng đồng người trong xã hội.
Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên được hình
thành trên cơ sở niềm tin vào sự bất tử của linh hồn tổ tiên. Niềm tin
ấy bắt nguồn từ ước muốn mang tính bản năng – ước muốn trường thọ của
con người. Chính con người đã thiêng liêng hoá tình cảm thương, thái độ
kính trọng người có công tạo dựng cuộc sống. Trong cuộc sống, con người
không những chỉ tiếp xúc với cái hiện hữu, mà còn tiếp xúc với cái vô
hình, trừu tượng, mông lung, chỉ được con người cảm nhận, linh cảm chứ
không thể lý giải được bằng lý trí. Niềm tin vào sự hiện tồn của tổ tiên
góp phần cân bằng trạng thái tâm lý, nhiều khi còn là cứu cánh, là sự
giải toả nỗi cô đơn, bất hạnh của con người trước cái chết. Bằng nghi lễ
thờ cúng tổ tiên, con người thể hiện một cách suy nghĩ về cái chết và
cuộc sống sau khi chết, giải toả nỗi kinh sợ khi phải đối mặt với nó.
Trong chế độ phụ quyền, quyền hành của
gia trưởng, tộc trưởng còn làm phát sinh ở con cháu cảm giác sợ hãi, qui
thuận. Cảm giác này được nuôi dưỡng, di truyền thông qua các thế hệ và
thậm chí được chuyển sang thế giới bên kia với quan niệm rằng, người
chết vẫn có thể trừng phạt con cháu. Tổ tiên cũng giống như các vị thần
linh khác có thể giáng tai hoạ xuống con cháu, vì thế cần phải kính
trọng, thờ cúng thường xuyên thì tổ tiên mới không làm hại, mới che chở,
bảo vệ, phù giúp.
Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên còn được bắt
nguồn từ lòng hiếu thảo của con cháu. Quan hệ giữa bố mẹ đang sống với
con cái là hiện thân của mối quan hệ giữa tổ tiên với con cháu sau này.
Sự kính hiếu cha mẹ được tiếp nối bằng sự tôn thờ, sùng bái tổ tiên. Bổn
phận kính trọng, báo hiếu, đền ơn công sinh thành dưỡng… dục của bố mẹ
cũng là bổn phận báo hiếu, ơn đền tổ tiên. Thờ phụng tổ tiên thể hiện
lòng hiếu thảo, sự thành kính biết ơn các bậc đã sinh thành, nuôi nấng
và tác thành cho mình. Tuy nhiên, con cháu chỉ được tổ tiên bao dung,
che chở khi sống xứng đáng với ước nguyện của tổ tiên. Mặt khác, con
cháu chỉ tôn kính, qui thuận và thờ phụng tổ tiên khi tổ tiên xứng đáng
là tấm gương sáng cho con cháu noi theo. Nếu ai, trong quá khứ có hành
động đi ngược lại lợi ích của cộng đồng họ tộc và gia đình, chẳng những
không được kính trọng, tôn thờ mà còn bị nguyền rủa, trừng phạt.
Trên đây là những nguồn gốc xã hội, nhận
thức và tâm lý của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên. Song để làm sáng tỏ vấn
đề, cần thiết phải xem xét những đặc trưng chủ yếu nhất, tức là bản
chất của nó.
Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên cũng giống
như các loại hình tín ngưỡng, tôn giáo khác là sự phản ánh sai lệch hiện
thực, là sự phản ánh hư ảo – vào trong đầu óc của con người – của những
lực lượng ở bên ngoài chi phối cuộc sống hàng ngày của họ (2).
Lực lượng xa lạ bên ngoài, ở đây là tổ tiên trong thế giới vô hình. Tổ
tiên đã mất là đối tượng phản ánh nhằm đáp ứng, thoả mãn sự thiếu hụt
tinh thần của những người đang sống. Tổ tiên khi còn sống. Tổ tiên khi
còn sống thì “khôn”, đến lúc chết thì “thiêng”, vẫn ngự trên bàn thờ,
vừa gần gũi vừa xa lạ, linh thiêng. Con cháu thành kính, tôn thờ tổ tiên
là tỏ lòng biết ơn tổ tiên. Ý thức về tổ tiên là ý thức về cội nguồn.
Thờ cúng tổ tiên là sự phản ánh liên tục của thời gian, là cầu nối giữa
quá khứ, hiện tại và tương lai. Sự sống là bất diệt, chết không phải là
hết. Các thế hệ tiếp nối nhau, chết chỉ là sự bắt đấu của chu kỳ sinh
mới.
Tổ tiên được gắn cho sức mạnh siêu
nhiên. Đó chính là sự thiêng liêng hoá, thần thánh hoá bắt nguồn từ quan
niệm về sự bất diệt của linh hồn. Sự thiêng liêng hoá, thần thánh hoá
tổ tiên là sự tưởng tượng, song lại có cội nguồn từ cuộc sống hiện thực.
Ý thức về tổ tiên hình thành và tồn tại giúp con người vượt qua cái
trần tục, đời thường, thúc đẩy sự tìm tòi, vượt qua trạng thái hiện tồn
để hướng về phía trước, khắc phục sự hẫng hụt về tinh thần. Xét về mặt
đạo đức, ý thức về tổ tiên mang giá trị nhân văn sâu sắc, nó phát khởi
mối thiện tâm trong mỗi con người trong cộng đồng xã hội.
Ngoài biểu tượng về linh hồn tổ tiên,
biểu tượng tổ tiên tôtem, biểu tượng về các thần che chở cũng là nội
dung tư tưởng của ý thức về tổ tiên. Ý niệm về tổ tiên tôtem tạo cho
người ta hình ảnh mơ hồ, xa lạ, linh thiêng của tổ tiên. Còn ý niệm về
thần che chở tạo cho người ta cảm giác yên tâm.
Xét về mặt nhận thức luận, chủ thể nhận
thức và phản ánh là người sống, khách thể được nhận thức và phản ánh là
tổ tiên đã mất. Xét về mặt xã hội, đó là sự phản ánh hoang đường quyền
hành của người gia trưởng, là kết quả tất yếu của quá trình phân hoá xã
hội, từ chế độ mẫu quyền sang chế độ phụ quyền. Bản chất xã hội của tín
ngưỡng thờ cúng tổ tiên được thể hiện rõ nét trong nội dung, đối tượng
và hình thức phản ánh, được qui định bởi các nguồn gốc xã hội, nhận thức
và tâm lý của nó.
Đặc trưng chỉ nó nhất của tín ngưỡng thờ
cúng tổ tiên là ở chỗ, nó là một hình thái ý thức xã hội đặc biệt, một
hiện tượng lịch sử – xã hội và văn hoá thuộc lĩnh vực đời sống tinh
thần, là sự phản ảnh tồn tại xã hội, chịu sự qui định của tồn tại xã
hội, có tính độc lập tương đối, được hình thành rất sớm và còn tồn tại
lâu dài trong xã hội. Nguồn gốc và bản chất của tín ngưỡng thờ cúng tổ
tiên gắn quyện vào nhau, tạo thành nét đặc thù của loại_hình tín ngưỡng
này.
Như vậy, có thể nói, tín ngưỡng thờ cúng
tổ tiên là một loại hình tín ngưỡng dân gian, gắn liền với tập tục văn
hoá, đạo đức trên cơ sở của niềm tin cho rằng, tổ tiên đã chết sẽ che
chở, phù giúp cho con cháu, là sự phản ánh quyền hành của người gia
trưởng và được thể hiện thông qua nghi lễ thờ cúng theo quan niệm, phong
tục, tập quán của mỗi con người, của mỗi gia đình và mỗi cộng đồng xã
hội.
—————————————————-
Chú thích:
(l) C. Mác và Ph.ăng ghen. Toàn tập, t.21. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995, tr.445.
(2) C.Mác và Ph.Ăng ghen. Sđd., t.20, tr.437.
Theo TẠP CHÍ TRIẾT HỌC
Nhận xét
Đăng nhận xét