BÍ ẨN ĐƯỜNG ĐỜI 167 (Nguyễn Tư Hoan)
(ĐC sưu tầm trên NET)
Hoài nhớ xin trân trọng giới thiệu đến mọi người cùng xem.
Ngoài ra " Lời tâm tình gửi đến anh.... " của Ông Lại Văn Ly nguyên trưởng ty GTVT- Quảng Bình, nguyên bí thư thị ủy Đồng Hới, nguyên phó chủ tịch UBND tỉnh Bình Trị Thiên và Nhà văn Trần Công Tấn, hôi viên hội nhà văn Việt nam, tổng biên tập báo cao su là những tình cảm thân thương quý trọng gửi đến người đã khuất, cũng như khắc họa chân dung Ông, cung cấp cho người đọc một cái nhìn toàn diện hơn về Ông để thông cảm sẽ chia với cuộc đời ông...một ẩn số chưa có lời giải.
*********
Lần theo câu hát... Gần một năm trời nay, kể từ khi tiếp cận hồ sơ tư liệu cuộc đời ông, chúng tôi đã tìm gặp rất nhiều nhân chứng, từ Hà Nội đến TP.HCM hay ngược xuôi khắp đất Quảng Bình nắng lửa. Ám ảnh trong tôi là những giọt nước mắt của những người tôi gặp mỗi khi nhắc đến ông Nguyễn Tư Thoan. Những giọt nước mắt ấy hình như đủ sức nói lên một điều gì đó về ông.
“Có ai hỏi vì sao quê hương chúng ta đồng lúa tốt, có nhớ những ngày cơ cực, tối tăm ngày xưa/... Có ai về Rào Nan xin vô ghé thăm vùng Cự Nẫm/Làng chiến đấu xưa nay đã đổi mới muôn màu/Có ai về Cảnh Dương quê tôi đứng nơi đầu sóng gió/Truyền thống đánh giặc giữ làng mãi mãi còn đây”. Con đập Rào Nan mang lại ấm no cho cả vạn dân Quảng Trạch giữa mưa bom bão đạn kháng chiến ấy có được từ tầm nhìn của ông Nguyễn Tư Thoan. Những làng chiến đấu Cảnh Dương, những Cự Nẫm “xe chưa qua nhà không tiếc”. Rồi “Quảng Bình quê ta ơi! Muôn người như một gửi về Trị Thiên tấm lòng sắt son. Hẹn ngày chiến thắng ta sẽ về trong một nhà...” là lời thề vàng đá anh em “trút gạo trong nồi cho Trị Thiên đánh giặc” từ câu nói của vị bí thư Tỉnh ủy Quảng Bình những năm tháng ác liệt ấy.
Nhiều người đã sống chiến đấu ở Quảng Bình những năm ác liệt nhất của cuộc chiến tranh vẫn nói rằng những ngày tháng ấy, chính bí thư tỉnh ủy Nguyễn Tư Thoan đã truyền được cảm hứng cho nhân dân và cán bộ để vượt lên sự khốc liệt của đạn bom, để Quảng Bình ngày ấy như một biểu tượng của sự can trường, bất khuất nơi địa đầu miền Bắc. Thời chiến có những đặc thù rất riêng, đôi khi chỉ từ một câu chuyện, nếu là người lãnh đạo năng động, thông minh sẽ biết nhân lên thành một phong trào rộng lớn. Quảng Bình những năm tháng ấy cơ cực gian nan đến vậy nhưng lòng dân lại vô cùng hồ hởi,nguồn năng lượng tinh thần ấy đã được vị bí thư động viên, nhân lên thành sức mạnh cụ thể.
Nhà báo Quốc Vinh, nguyên là phóng viên báo Nhân Dân thường trú tại Vĩnh Linh-Quảng Bình trong thời kỳ chiến tranh chống Mỹ, nhớ lại: “Ông Thoan là người để lại nhiều ấn tượng sâu sắc nhất trong tôi. Những gì mà tôi hiểu và biết về ông thì đó là một con người quyết đoán, sâu sắc, chu toàn và mưu trí.Ông là người có biệt tài phát hiện và nhân điển hình. Nếu không có ông Thoan thì Quảng Bình không thể có một số phong trào lớn nức tiếng cả nước và có sức cổ vũ cuộc chiến đấu của quân và dân ta thời đó, trong đó có phong trào “Hai giỏi”- một phong trào bắt đầu từ sáng kiến của bí thư Nguyễn Tư Thoan”.
Nguyễn Tư Thoan và vụ nội gián cài vào TW - Chuyện về vị Bí thư Quảng Bình có thời từng bị quên lãng
CÔNG BẰNG CHO MỘT NGƯỜI ĐÃ KHUẤT
Trackback from
"CÔNG BẰNG CHO MỘT NGƯỜI ĐÃ KHUẤT"
là tựa đề bài viết của hai nhà báo lão thành cách mạng Hữu Thọ và
Nguyễn Sinh. trong đó ông Hữu Thọ nguyên là UVTƯ, nguyên trưởng ban tư
tưởng văn hóa trung ương , nguyên trợ lý tổng bí thư, viết về Người đã
khuất.
Hoài nhớ xin trân trọng giới thiệu đến mọi người cùng xem.
Ngoài ra " Lời tâm tình gửi đến anh.... " của Ông Lại Văn Ly nguyên trưởng ty GTVT- Quảng Bình, nguyên bí thư thị ủy Đồng Hới, nguyên phó chủ tịch UBND tỉnh Bình Trị Thiên và Nhà văn Trần Công Tấn, hôi viên hội nhà văn Việt nam, tổng biên tập báo cao su là những tình cảm thân thương quý trọng gửi đến người đã khuất, cũng như khắc họa chân dung Ông, cung cấp cho người đọc một cái nhìn toàn diện hơn về Ông để thông cảm sẽ chia với cuộc đời ông...một ẩn số chưa có lời giải.
*********
Người đó là ông Nguyễn Tư Thoan, cố Bí thư Tỉnh ủy Quảng Bình.
Hai
chục năm sau ngày ông qua đời, một số cán bộ từng đóng vai trò chủ chốt
trong tỉnh, nay ở tuổi bảy, tám mươi, đã tìm gặp lại nhau, bàn bạc cho
ra đời một cuốn sách nói về ông. Sách có tên: Bí thư Tỉnh ủy Quảng Bình thời đất lửa đã được nhà xuất bản Thuận Hóa in và phát hành vào đầu năm 2011.
Bằng
nhiều mẩu chuyện thật, một số bài thơ và ảnh, sách dựng lại chân dung
một con người dũng mãnh, quyết đoán, sống hết mình vì nhân dân, vì sự
nghiệp cách mạng.
Năm
1946, theo lời kể trong cuốn sách, Nguyễn Tư Thoan được chi bộ địa
phương (xã Hoàng Hoa Thám, nay là xã Hoa Thủy, Huyện Lệ Thủy) kết nạp
vào Đảng. Năm 1947, thực dân Pháp đánh chiếm Quảng Bình, người đảng viên
trẻ được cử làm cán bộ Công an huyện, sau đó ít lâu trúng cử vào Huyện
ủy phụ trách Quân sự.
Năm
1949 - 1950, Tỉnh ủy Quảng Bình điều ông sang làm Bí thư Huyện ủy Quảng
Ninh. Là huyện lớn, nằm quanh Thị xã Đồng Hới, lúc đó đang bị địch đánh
phá dữ dội. Nguyễn Tư Thoan tự mình tìm hiểu tình hình bằng cách luồn
sâu vào các thôn xã bị địch tạm chiếm. Ông thấy tình hình trong huyện
quả thật hết sức khó khăn. Nhưng khó khăn không phải do địch quá mạnh
hay nhân dân giảm sút lòng tin ở kháng chiến. Chính là do một bộ phận
cán bộ, đảng viên sa sút tinh thần, bỏ đất, bỏ dân, chạy tuốt lên chiến
khu tận chân núi Trường Sơn. Trong một cuộc họp Huyện ủy có Bí thư Tỉnh
ủy về dự, ông nói thẳng suy nghĩ của mình và đề xuất một sáng kiến táo
bạo: đốt chiến khu. Đốt sạch lán trại, hầm
hào, vật nuôi, cây trồng…, cho cán bộ, đảng viên và một số đơn vị bộ
đội địa phương “xuống núi” bám đất, bám dân. Đề nghị của ông được hội
nghị chấp nhận và ghi vào Nghị quyết của Huyện ủy. Cuộc “đốt chiến khu”
bắt đầu từ đêm 15 tháng 7 năm 1949 trở thành ngày Quảng Bình quật khởi,
được ghi vào lịch sử của tỉnh này. Tình hình huyện Quảng Ninh từ đó
thay đổi hẳn. Lòng dân phấn chấn, địch co cụm trong đồn bốt, tề ngụy ra
đầu hàng hoặc nằm im…
Năm
1951 – 1952, ông Nguyễn Tư Thoan trở thành Phó bí thư Tỉnh ủy, được Hội
đồng nhân dân tỉnh bầu làm Chủ tịch Ủy ban kháng chiến, Hành chính
tỉnh. Từ tháng 3 năm 1959 ông là Bí thư Tỉnh ủy.
Mười
năm hòa bình, chưa kịp gắn lành vết thương chiến tranh, Quảng Bình lại
bị đẩy vào cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ. Chọn vùng đất hẹp
nhất, hiểm trở nhất, lắm sông, nhiều bến phà, cầu, cống…Kẻ thù muốn dốc
hết các loại vũ khí và phương tiện chiến tranh hiện đại nhất, kể cả pháo
đài bay B52, hòng bịt chặt con đường huyết mạch nối hậu phương với tiền
tuyến. Được Tổ quốc giao nhiệm vụ chiến đấu, nhân dân Quảng Bình sẵn
sàng. Nguyễn Tư Thoan, một lần nữa xứng đáng là vị Tư lệnh tài ba, đầy
bản lĩnh.
Nhân
dịp Quảng Bình bắn rơi chiếc máy bay Mỹ thứ 100, Hồ Chủ Tịch gửi thư
khen. Trong thư Bác có câu: “Quảng Bình chiến đấu giỏi, sản xuất cũng
giỏi”. Nguyễn Tư Thoan chộp ngay ý đó. Ông đề nghị với Tỉnh ủy phát động
một phong trào thi đua rầm rộ đặt tên là Hai giỏi. Trong suốt những năm ấy, Hai giỏi đã
trở thành nguồn sức mạnh to lớn, đủ sức chống chọi với kẻ thù tàn bạo.
Quãng đường, bến phà chạy qua xóm thôn nào thì nhân dân xóm thôn đó cùng
với lực lượng công binh, thanh niên xung phong, công nhân giao thông lo
bảo vệ. Hàng hóa trước khi vào Nam được rải khắp nơi, chỉ có nhân dân
bảo vệ mới không bị mất mát, hư hao. Từ đó ra đời những câu ca như “xe chưa qua, nhà không tiếc”, “đường chưa thông, không tiếc máu” hoặc“cho không lấy, thấy không xin, của công giữ gìn, của rơi trả lại”.
Bí
thư Tỉnh ủy Quảng Bình thường có mặt ở những nơi bị đánh phá ác liệt
nhất (gọi là “trọng điểm”). Khi bến phà sông Gianh bị máy bay Mỹ đánh
rát, bị tắc hàng tháng trời. Chính ông đã cùng Bí thư Huyện ủy huyện Bố
Trạch, Huyện ủy Quảng Trạch, Trưởng ty Giao thông đến tận nơi. Ban ngày
nói chuyện cách đánh của máy bay địch, cách chống trả của ta, tìm chỗ
yếu, chỗ mạnh…Tối đến, ông khoác tấm dù trắng đứng trên mố phà phía nam,
để công nhân yên tâm cho phà rời bến. Đêm đó, địch vẫn thả đèn dù, vẫn
đánh mạnh, ta cứ chạy phà theo kế hoạch đã bàn. Hơn chục chuyến phà mang
theo xe chở đầy hàng vượt sông Gianh rộng hơn cây số. Từ đó phà hết
tắc…
Những lần đến “trọng điểm” như vậy, được ông Nguyễn Tư Thoan đúc kết, tạo ra các bài học “Hai giỏi” để phổ biến khắp toàn tỉnh.
Năm
1968, tổng kết phong trào thi đua Hai giỏi, Quảng Bình được Đảng và Nhà
nước tôn vinh: “ngọn cờ đầu thắng Mỹ”, được tặng thưởng hai Huân chương
Độc lập. Một vinh dự hiếm có lúc bấy giờ.
* * *
Quảng
Bình nghèo, dân ăn khoai ăn sắn nhiều hơn ăn gạo. Bí thư Tỉnh ủy Quảng
Bình ngày đêm lo nghĩ về việc đó. Đi đến đâu, ở cuộc họp nào, ông cũng
nhắc đi nhắc lại câu: “Vác rá ra Trung ương xin gạo là nỗi nhục, phải cố
lên mà xóa đi”. Muốn xóa nhục, phải dốc sức làm thủy lợi. Tỉnh ủy đã có
nghị quyết. Nhưng dưới các trận mưa bom, làm thủy lợi không dễ, chưa kể
đến thiếu tiền, thiếu vật tư, kỹ thuật…Chính trên mặt trận này, Nguyễn
Tư Thoan cũng là người đi đầu. Ông cùng với các cán bộ kỹ thuật của Ty
Thủy lợi đi tìm nơi xây dựng công trình, tham gia khảo sát góp ý kiến
với họ về tổ chức thi công, làm sao để vừa tăng năng suất, vừa bảo toàn
được lực lượng lao động. Một loạt đập, hồ như Đá Mài, Tiên Lang, Đập Bẹ,
Cẩm Ly, Vực Tròn, Mỹ Trung đã ra đời. Nổi tiếng nhất là Đập Rào Nan ở
huyện Quảng Trạch, công trình ngăn nước mặn, cứu đói, cứu khát cho hơn
vạn dân. Công trình được làm xong vào năm 1969, đến nay, sau hơn 40 năm
sử dụng vẫn tốt nguyên. Dân các xã phía nam huyện Quảng Trạch vẫn gọi là
đập Ông Thoan và xin được góp công, góp của để xây ngôi miếu thờ ông.
* * *
Con
người được nhân dân tôn thờ như vậy, lúc còn sống, còn làm việc lại là
người rất giản dị, thanh khiết. Ông có bảy người con, ba trai, bốn gái.
Hai người con trai lớn khi đến tuổi đều gia nhập quân đội. Một người là
chiến sĩ trinh sát, thương binh nặng, nay đã mất. Một là chiến sĩ Hải
quân, thuộc đường mòn trên biển. Gần như
suốt đời ông và gia đình sống chung trong nhà tập thể cơ quan. Đến lúc
về hưu mới tự làm lấy ngôi nhà nhỏ hai gian bằng gỗ ở Cộn (xã Nghĩa
Ninh). Ông ra đi không để lại gì đáng kể cho vợ con, ngoài tấm gương
sáng là chính mình.
* * *
Không phải ngẫu nhiên mà cuốn sách “Bí thư Tỉnh ủy Quảng Bình thời đất lửa” ra đời. Các tác giả, đồng chí, bạn cũ của ông muốn gừi vào đó lời ca ngợi, nỗi day dứt từ bấy lâu nay.
Năm
1974, Nguyễn Tư Thoan được gọi ra Hà Nội, bị đưa ra khỏi Đảng, chuyển
sang làm chuyên viên ở Ban Nông nghiệp Trung ương một thời gian trước
lúc về hưu. Lý do duy nhất là “có
vấn đề về lịch sử cá nhân” trước Cách mạng tháng Tám. Lý do đó, nếu có,
là dấu nhọ của phần đời quá khứ, đã bị chính ông Thoan cắt lìa, vứt bỏ
hoàn toàn sau khi được giác ngộ. Từ đó ông là con người hoàn toàn khác,
con người của cách mạng, toàn tâm, toàn ý phục vụ cách mạng. Vì không được phổ biến công khai cho nên mãi đến bây giờ vẫn còn lơ lửng ở nơi này nơi nọ những tiếng xì xầm về “tên gián điệp của đế quốc leo cao đến tận chức Bí thư Tỉnh ủy”. Công
lao to lớn Nguyễn Tư Thoan cống hiến cho Quảng Bình trong chiến tranh,
trong xây dựng gần như bị lãng quên. Dù đã muộn, nhưng chưa quá muộn,
chúng ta nên ngoảnh lại, tìm sự công bằng cho con người đáng được tin
yêu, kính trọng đó. Ghi công cho ông, truy tặng những gì ông đáng được.
Trên hết khôi phục cho ông danh hiệu cao quý: đảng viên. Đó là nguyện
vọng chung của đảng bộ, nhân dân tỉnh Quảng Bình và gia đình ông.
Là
phóng viên báo Nhân dân thường trú tại Quảng Bình, Vĩnh Linh trong thời
đánh Mỹ, hai chúng tôi, những người viết bài này, biết ông Nguyễn Tư
Thoan và đóng góp lớn lao của ông cho tỉnh Quảng Bình, cho cả nước,
chúng tôi xin được góp thêm tiếng nói đồng tình./.
Hà Nội, tháng 4 – 2011
Hữu Thọ và Nguyễn Sinh
Lời tâm tình đối với ANH NGUYỄN TƯ THOAN
I.
Anh Nguyễn Tư Thoan là một cán bộ lãnh đạo tỉnh Quảng Bình qua hàng
chục năm trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ.
Anh
đã từng giữ chức vụ Chủ tịch UBND tỉnh và Bí thư Tỉnh ủy, trong thời
gian lâu nhất so với các đồng chí khác. Theo tôi hiểu, do những lý do
sau đây:
-
Trong công tác lãnh đạo, anh Thoan biết nắm bắt đường lối chủ trương
của Đảng một cách kịp thời. Là người lãnh đạo có bản lĩnh và kiên định
lập trường cách mạng.
- Biết vận dụng các Nghị quyết của Trung ương vào đặc điểm tình hình địa phương một cách sáng tạo.
- Thường xuyên đi sát cơ sở, phát hiện cái mới, biết tổng kết đúc rút kinh nghiệm công tác trong từng thời kỳ.
Đặc
biệt trong thời kỳ chống Mỹ cứu nước, anh Thoan luôn xông xáo gan dạ.
Trên các mặt trận chiến đấu, sản xuất, giao thông, thủy lợi, chi viện
cách mạng miền Nam…đều mang tính chiến đấu cao, có những quyết định đúng
đắn, đã góp phần quan trọng trong nhiệm vụ xây dựng Quảng Bình thành
quê hương của phong trào thi đua “Hai giỏi”, được cả nước tin yêu.
Những
ưu điểm cơ bản của anh Thoan đã truyền cảm cho cán bộ đảng viên trong
tỉnh tư tưởng tiến công cách mạng, tăng thêm cho họ sức mạnh chiến đấu,
vượt qua mọi gian nguy thử thách. Bản thân tôi đã được học tập ở anh
Thoan nhiều điều bổ ích trong công tác.
II.
Trong quá trình lãnh đạo, anh Thoan thường nghiêm khắc đối với những
biểu hiện tiêu cực hoặc cố ý làm sai ý kiến lãnh đạo của Tỉnh ủy, nên có
những người bị đụng chạm cá nhân, qui kết cho anh là mất dân chủ, độc
đoán, đâm ra bất mãn, nói bậy.
Hơn
nữa, lúc đó có những kẻ cơ hội, lợi dụng, kích động, cố tình xuyên tạc,
cốt làm mất uy tính của anh Thoan hòng chia rẽ nội bộ.
Nhưng
tôi thiết nghĩ, những điều đó không thể phủ nhận được công lao cống
hiến của anhThoan đối với nhân dân Quảng Bình và đối với sự nghiệp cách
mạng.
III. Anh Thoan ơi! Hôm nay ghi lại mấy lời tâm sự, biểu thị tình cảm thân thương và kính mến đối với anh.
Xin cầu chúc hương hồn anh Nguyễn Tư Thoan được siêu thoát ở cõi vĩnh hằng./.
LạiVănLy
ANH THOAN ƠI!
Những
ngày Mỹ đánh phá rất dữ dội vào mảnh đất hẹp Quảng Bình. Trên trời thì
máy bay Mỹ lao vun vút, bay đi ném bom. Ngoài biển thì hạm tàu Mỹ bắn
đại bác vào, cứ ầm ầm tiếng bom đạn nổ suốt đêm, ngày. Tuy vậy, Hội Nhà
văn vẫn cử một đoàn vào với Quảng Bình do anh Chế Lan Viên dẫn đầu. Anh
Chế nói: “Mình muốn đưa đoàn đến thăm anh Thoan. Nghe anh này cũng yêu
thơ và có làm thơ. Nhưng ngại anh bận. Tấn xem, thăm dò thử, có nên đến
Tỉnh ủy không. Ngại quấy rầy các anh lãnh đạo”…
Tôi
đến Tây Thành, nơi sơ tán của Tỉnh ủy gặp anh Thoan, nói với anh ý định
của nhà thơ Chế Lan Viên. Anh Thoan hỏi đoàn có mấy người, ngoài nhà
thơ Chế Lan Viên còn những ai. Tôi kể đoàn có sáu người, thơ thì có thêm
anh Phạm Hổ, chị Anh Thơ. Văn thì có anh Bùi Hiển, Võ Huy Tâm, Nguyễn
Kiên…
Anh
Thoan tỏ vẻ vui mừng, kêu lên: “Trời ơi! Toàn là những nhà văn, nhà thơ
lớn, nổi tiếng. Có yêu quý Quảng Bình lắm họ mới tìm đến với chúng ta
trong lúc bom đạn này. Đáng lẽ tôi phải xin đi gặp để thăm các anh chị
ấy”. Nói rồi, anh Thoan bàn với Chánh văn phòng Phan Xuân Thiết: “Ta
phải chuẩn bị đón đoàn văn nghệ sĩ vào chiều mai. Không có gì tặng thì
ta chuẩn bị biếu các anh chị ấy một ít nón “bài thơ” tốt nhất, đẹp nhất
của quê hương Quảng Bình”…
Khi
tôi chào ra về, anh hãy còn vẫy lại hỏi: “Các anh chị ấy có khỏe không.
Đã đi được những đâu trong tỉnh. Anh Tấn nên qua bên Ban bảo vệ sức
khỏe, xin một ít thuốc bổ biếu họ dưỡng sức, như tìm được ít cao khỉ,
ban long, hà sa đại táo, sâm viên, sâm bột gì đó chẳng hạn… Anh nói với
Ban là tôi muốn xin để bồi dưỡng sức khỏe các anh chị nhà văn, nhà thơ ở
Trung ương vào công tác”.
Việc
quan tâm của anh Thoan đối với văn nghệ sĩ, tôi không ngạc nhiên lắm.
Bởi vì mấy năm đánh Mỹ sống ở Quảng Bình, anh Thoan đã có ý kiến với
Tỉnh ủy, Ủy ban tỉnh để cấp cho Xuân Hoàng và tôi sổ mua hàng, gọi là
“sổ văn nghệ sĩ”, có tiêu chuẩn đặc biệt để mua các loại hàng cần thiết
mà khan hiếm như đường, sữa, trà, thuốc lá…Lại còn cấp sổ khám sức khỏe
riêng và thuốc bổ do Ban bảo vệ sức khỏe cấp. Ngay cái chỗ ngồi khi họp
hành anh cũng có ý kiến với văn phòng sắp xếp cho hai nhà văn, thơ của
tỉnh được ngồi cùng chỗ với Thường vụ tỉnh ủy.
Cuộc
gặp gỡ, tiếp xúc với anh Chế Lan Viên của bí thư tỉnh ủy diễn ra thật
cảm động. Anh chị em trong đoàn chỉ nghe trên đài phát thanh và báo chí
ca ngợi người bí thư tỉnh ủy dũng cảm, năng động, sáng tạo…lãnh đạo hàng
chục vạn quân, dân Quảng Bình sản xuất và đánh giặc giỏi, nhưng chưa
bao giờ biết tình cảm riêng của anh Thoan và tâm hồn nghệ sĩ của anh. Họ
rất ngạc nhiên khi anh Thoan thuộc lòng những bài thơ trong tập “Điêu
tàn” của Chế Lan Viên và “Bức tranh quê” của chị Anh Thơ. Lại còn thuộc
cả thơ của Phạm Hổ viết cho thiếu nhi. Anh Thoan cảm ơn riêng anh Chế
Lan Viên và Bùi Hiển đã ra, vào nhiều lần và bám trụ những vùng ác liệt ở
Quảng Bình – Vĩnh Linh để sáng tác. Anh Thoan nhắc đến truyện ngắn “Nằm
Vạ” của anh Bùi Hiển và nói vui: “Cảm ơn anh Bùi HIển đã vào “nằm vạ
giữa bom đạn” cùng chia sẻ gian khổ với chúng tôi”.
Mọi
người vỗ tay cười vui. Anh Chế Lan Viên, Phạm Hổ, chị Anh Thơ đọc mấy
bài thơ vừa sáng tác ở Quảng Bình. Trong không khí vui vẻ đó, anh Thoan
cũng xin đọc thơ. Mọi người chăm chú lắng nghe anh Thoan đọc bài thơ anh
mới làm viết về đồng chí bí thư chi bộ xã Thạch Hóa. Đó là bài thơ “Nhớ
đồng chí Phùng”
Bài thơ dài, có đoạn như sau:
Cùng bí thư xã, ra đồng thăm lúa
Trên miệng hố bom lúa đứng thẳng hàng
Tôi hỏi: “Lúa đội mô mà tốt rứa?”
Đồng chí trả lời: “Của đội Hồng Sơn
“Đội ni, trước đây gian nan, khổ lắm
Nửa ở trên bờ, nửa ở dưới sông
Lương, giáo hai chòm chưa hợp lại
Kẻ xuôi người ngược khá long đong”
Rồi chi bộ cử đồng chí Phùng phụ trách
Đoàn kết giáo lương, gắn bó chân tình
Tất cả đều bám làng chiến đấu
Bám hố bom sản xuất thâm canh…
Đọc
đến đoạn anh Phùng bị bom Mỹ giết chết và sự tiếc thương của nông dân,
giọng anh Thoan như nghẹn lại, mắt anh rưng rưng làm người nghe đều xúc
động…
Trên
đường về nơi nghỉ, anh Chế Lan Viên nói: “Hoàng và Tấn về thâm nhập
sáng tác ở Quảng Bình, nơi đồng chí bí thư có tâm hồn nghệ sĩ như vậy,
thì thật là hạnh phúc”.
Đúng
với tôi, anh Thoan là người chân tình chăm sóc. Không chỉ riêng việc
nhắc nhở các bác sĩ, các cán bộ tổ chức chăm sóc sức khỏe và điều kiện
sinh hoạt trong chiến tranh của chúng tôi, mà riêng với tôi, anh quan
tâm đến từng trang viết trong tác phẩm của tôi. Nghe tôi đang viết về
anh hùng ngành ngư nghiệp Nguyễn Thị Khíu, anh nhắn gửi bản thảo ra cho
anh đọc. Công việc chỉ đạo một tỉnh đang bị Mỹ đánh phá ác liệt như vậy,
mà chỉ sau năm hôm, anh đã đọc xong cuốn sách dày ngót ba trăm trang và
gọi tôi ra nhận lại bản thảo.
Tôi
đến nhà hầm của bí thư Tỉnh ủy, thấy anh Thoan đang kêu to trên máy
điện thoại: “Phải huy động mọi lực lượng phá bom nổ chậm, san lấp ngay
hố bom trên mặt đường kịp cho xe thông tối nay”. Giọng anh như van lơn: “Các
đồng chí ơi! Miền Nam đang cần người, cần gạo, cần đạn. Cố gắng đưa hết
sức người mà thông đường… Tối nay tôi sẽ đến chỗ các đồng chí”.
Trước lúc đến chỗ đường tắc ở Quảng Phúc, gần bến phà sông Gianh, anh Thoan vẫn ngồi cả giờ để góp ý cho tôi sửa cuốn sách “Đường ra biển rộng”…
Không
chỉ cuốn sách trên, mà về sau này, trong bảy cuốn sách tôi viết về
Quảng Bình, nói về các anh hùng, về quân dân Quảng Bình đã kiên cường
chiến đấu dưới bom đạn Mỹ như “Tiếng nói dưới dòng sông, Dòng suối mát, Cô pháo thủ, Chớp biển, Chỗ gặp nhau, Những bông cỏ mặt trời…” đều có sự góp ý của anh Thoan.
Tôi
nhớ có một đêm trăng, khi tôi ghé thăm anh, chúng tôi bỏ căn nhà hầm ra
ngồi trước sân ngắm trăng tròn và sáng vằng vặc. Anh đọc thơ cho tôi
nghe và mơ ước: “Hết chiến tranh, mình thôi nghề bí thư để khỏi bí thơ. Lúc đó mình sẽ làm những bài thơ kể lại chuyện hôm nay”. Rồi giọng anh tâm tình: “Tấn
ạ!Nghề của cậu thật hạnh phúc. Cậu nên viết nhiều đến những chuyện về
những con người hôm nay, giữ lại mai sau cho con cháu chúng ta. Để chúng
hiểu cha ông chúng ta đã đánh giặc, giữ nước và phải chịu đựng biết bao
khó khăn gian khổ, hy sinh như thế nào, chúng nó mới có trách nhiệm đối
với nhân dân và Tổ quốc”.
Trời
khuya, trăng vẫn sáng, nhưng máy bay giặc Mỹ ngày càng bay lượn hoạt
động ráo riết hơn. Bom nổ rền dưới đường quốc lộ. Anh Thoan đưa tôi
xuống nhà hầm. Rồi anh bưng ra một cái bát, hai đôi đũa và nói: “Bánh
bột lọc mụ Lan để dành. Ta ăn bánh rồi đi ngủ”… Chị Lan vợ anh Thoan là
đồng hương Huế với cô giáo Phan Bích An. Cháu Hòa con anh chị là học trò
của vợ tôi. Trong thời buổi chiến tranh, có được cái bánh bột củ khoai
mì cũng là món ăn quý hiếm để đãi đằng nhau. Chúng tôi ăn ngon lành rồi
rút xuống căn hầm ngủ…
* * *
Nhớ
lời động viên chân tình của anh Thoan, tôi đã viết nhiều nhân vật và
đơn vị anh hùng của Quảng Bình. Năm 1971, tôi vào chiến trường B rồi ở
miết công tác trong Nam . Cho đến tận năm 1989, mới được tin anh đã về
hưu và qua đời tại Quảng Bình. Và giờ đây, sau hơn hai mươi năm anh mất,
tôi vẫn viết về Quảng Bình trong chiến đấu chống Pháp và đánh Mỹ. Cuốn
sách mới nhất của tôi để nhớ đến Quảng Bình, nhớ đến lời động viên của
anh Thoan vừa in xong. Đó là cuốn “Dòng sông Son vẫn trong xanh”.
Anh Thoan ơi! Anh em văn nghệ sĩ vẫn không bao giờ quên a
Trần Công Tấn
VỀ MỘT NGƯỜI CÓ THỜI TỪNG BỊ QUÊN LÃNG
Thứ năm ngày 15 tháng 12 năm 2016 5:56 AM
Trong
cuộc đời làm báo tôi từng gặp một số người rất có công đối với đất nước
nhưng rồi một sự việc nào đó ập đến với họ, khiến họ bị kỷ luật và bị
lãng quên. Trong thời gian làm phóng viên VNTTX thường trú tại Quảng
Bình trong chiến tranh tôi đã gặp một người như vậy. Đó là ông Nguyễn Tư
Thoan, Bí thư Tỉnh ủy Quảng Bình từ tháng 3 năm 1959 đến tháng 6 năm
1974, một vị lãnh đạo tỉnh rất nổi tiếng trong chiến tranh nhưng rồi lại
bị quên lãng sau này. Tôi không thể không viết về ông, dù chỉ là vài
dòng.
Từ một bài báo của hai nhà báo đàn anh...
Năm 2011, khi tôi chuẩn bị bản thảo để in cuốn sách Tiếng tụng kinh trong căn nhà vị tướng ở
Nhà xuất bản Lao Động, được nhà báo Hữu Thọ, nguyên Ủy viên Trung ương
Đảng, Trưởng ban Tư tưởng Văn hóa Trung ương, viết lời tựa cho cuốn
sách. Mở đầu là những lời viết rất cảm động của anh nhắc lại những kỷ
niệm của mấy anh em nhà báo chúng tôi thời anh em cùng làm phóng viên ở
Quảng Bình trong chiến tranh khi ông Nguyễn Tư Thoan làm Bí thư tỉnh ủy.
Anh Hữu Thọ viết: "Trong dịp kỷ niệm 36 năm Ngày thống nhất đ
ất nước, anh Dương Đức Quảng đến chơi nhà thăm vợ chồng tôi, tất nhiên không phải là lần đầu.
Dịp
này, những người đã từng sát cánh bên nhau trong cuộc chiến đấu gặp
nhau thật lý thú. Tôi khoe với Quảng rằng, Nguyễn Sinh và tôi có cùng ý
tưởng do Nguyễn Sinh chấp bút một bài viết về anh Nguyễn Tư Thoan,
nguyên Bí thư Tỉnh uỷ Quảng Bình, một con người có ý chí kiên cường tiêu
biểu đứng nơi đầu sóng ngọn gió vào thời kỳ chiến tranh ác liệt nhất mà
chúng tôi rất kính trọng nhưng rồi bị tai vạ, lãng quên, để muốn ghi
lại những gì không thể quên trong lòng chúng tôi về những con người như
thế trong những ngày vui. Kể với Quảng chuyện này vì Quảng từng là phóng
viên Việt Nam Thông tấn xã (TTXVN) và tôi với Nguyễn Sinh, Quốc Vinh,
Hồng Khanh là phóng viên báo Nhân Dân cùng thường trú tại Quảng Bình,
Vĩnh Linh trong những ngày chiến đấu gian khổ nhất, cho nên chúng tôi
đều biết nhau và biết anh Nguyễn Tư Thoan...".
Bài viết của hai anh Hữu Thọ và Nguyễn Sinh về ông Nguyễn Tư Thoan mà anh Hữu Thọ nhắc đến trên đây có nhan đề "Công bằng cho một người đã khuất".
Bài báo đã điểm lại quá trình công tác của Bí thư Tỉnh ủy Quảng Bình
trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ rồi có đoạn viết :"Năm
1974 ông Nguyễn Tư Thoan ra Hà Nôi, chuyển sang làm chuyên viên ở Ủy
ban Nông nghiệp Trung ương một thời gian trước lúc về hưu. Công lao to
lớn của ông Nguyễn Tư Thoan cống hiến cho Quảng Bình trong chiến tranh,
trong xây dựng chúng ta nên ngoảnh lại, tìm sự công bằng cho con người
đáng được tin yêu, kính trọng này. Ghi công cho ông, truy tặng những gì
ông đáng được...Là phóng viên báo Nhân Dân thường trú tại Quảng Bình,
Vĩnh Linh trong thời đánh Mỹ, hai chúng tôi, những người viết bài này,
biết ông Nguyễn Tư Thoan và những đóng góp lớn lao của ông cho tỉnh
Quảng Bình, cho cả nước, chúng tôi xin được góp thêm tiếng nói đồng
tình."
Đến loạt bài trên báo Tuổi trẻ
về ông Bí thư Tỉnh ủy "Hai giỏi"
Ông Nguyễn Tư Thoan (trai) cùng Đoàn đại biểu "Hai Giỏi"
tỉnh Quảng Bình ra thăm Bác Hồ
Tôi hoàn toàn chia sẻ tình cảm và suy nghĩ của hai anh Hữu
Thọ, Nguyễn Sinh, những nhà báo đàn anh của tôi về việc này. Tôi biết,
tuy là phóng viên kỳ cựu của báo Nhân Dân nhưng báo Nhân Dân khó có thể
đăng bài viết này. Biết con trai tôi là Dương Đức Đà Trang đang làm
Trưởng Văn phòng đại diện của báo Tuổi trẻ TP Hồ Chí Minh tại Hà Nội,
anh Nguyễn Sinh gọi cho tôi thử hỏi xem báo Tuổi Trẻ có đăng được bài
này không? Tôi đã viết một thư riêng, sau đó còn trực tiếp gọi điện, gửi
kèm bài báo trên của hai anh Hữu Thọ và Nguyễn Sinh tới anh Xuân Trung,
Ủy viên Ban Biên tập, Tổng thư ký Tòa soạn báo Tuổi trẻ thành phố Hồ
Chí Minh, ngỏ ý mong muốn Báo Tuổi trẻ vào cuộc, đăng bài của hai anh
Hữu Thọ và Nguyễn Sinh. Anh Xuân Trung (sau này là Phó Tổng Biên tập
kiêm Tổng Thư ký Tòa soạn) trả lời tôi rằng Báo Tuổi trẻ rất quan tâm về
việc này, sẽ cử phóng viên của Báo ra Quảng Bình để tìm hiểu thêm về sự
việc sau đó sẽ quyết định cách thức sử dụng bài báo đó.
Sau đó ít lâu, Báo Tuổi trẻ đã cử hai phóng viên là Lê Đức Dục
và Lam Giang vào cuộc, tìm hiểu sự việc mà hai nhà báo Hữu Thọ và
Nguyễn Sinh viết về ông Nguyễn Tư Thoan. Lê Đức Dục và Lam Giang viết :"Gần
một năm trời nay, kể từ khi tiếp cận hồ sơ tư liệu cuộc đời ông, chúng
tôi đã tìm gặp rất nhiều nhân chứng, từ Hà Nội đến TP.HCM hay ngược xuôi
khắp đất Quảng Bình nắng lửa. Ám ảnh trong tôi là những giọt nước mắt
của những người tôi gặp mỗi khi nhắc đến ông Nguyễn Tư Thoan. Những giọt
nước mắt ấy hình như đủ sức nói lên một điều gì đó về ông. Và ngày 21/08/2012 báo
Tuổi trẻ bắt đầu đăng loạt bài về ông Nguyễn Tư Thoan của hai nhà báo
Lê Đức Dục và Lam Giang. Bài đầu tiên có nhan đề :"Hồi ức về một Bí thư
Tỉnh ủy", có lời dẫn của Báo: "TT - Có những cán bộ đảng viên, khi
đã rời khỏi vị trí lãnh đạo của mình, vẫn để lại những ấn tượng mạnh mẽ
và sâu sắc trong lòng dân. Hơn 15 năm làm bí thư Tỉnh ủy Quảng Bình, ông
Nguyễn Tư Thoan là người đã truyền cảm hứng cho nhân dân vùng đất lửa,
đưa Quảng Bình trở thành ngọn cờ đầu của miền Bắc trong những năm chiến
tranh khốc liệt. Bây giờ người dân nơi đây muốn được lập đền thờ tưởng
nhớ công lao của ông..".
Năm
1967 khi tôi vào Quảng Bình thì ông Nguyễn Tư Thoan đã làm Bí thư Tỉnh
ủy được 8 năm, nổi tiếng trong cả nước là ông Bí thư Tỉnh ủy "Hai giỏi'.
Đó là vì ngày 17-7-1965, biết tin Quảng Bình bắn rơi 100 máy bay Mỹ,
Bác Hồ đã gửi thư khen quân và dân Quảng Bình "chiến đấu giỏi, sản xuất
giỏi". Trước vinh dự đó, ông Nguyễn Tư Thoan đề xuất với Ban Thường vụ
Tỉnh ủy phát động phong trào thi đua "Hai giỏi" trong toàn tỉnh nhằm
động viên quân và dân trong tỉnh quyết tâm đánh Mỹ đến thắng lợi hoàn
toàn. Từ đó phong trào thi đua "Hai giỏi" trở thành cao trào cách mạng
sâu rộng trong toàn tỉnh trong những năm tháng chiến tranh gian khổ, ác
liệt nhất ở vùng "đất lửa" này. Quảng Bình được cả nước vinh danh là
"Quê hương Hai giỏi" chống Mỹ cứu nước. Trong những năm tháng chiến
tranh ấy, những ai đã từng sống, chiến đấu ở nơi đây, nhất là các cán
bộ, chiến sĩ và nhân dân Quảng Bình đều thuộc bài hát "Quảng Bình quê ta
ơi!" của nhạc sĩ Hoàng Vân được sáng tác vào thời điểm chiến tranh ác
liệt nhất, khi ông Nguyễn Tư Thoan là Bí thư Tỉnh ủy và nhớ nhiều câu
nói nổi tiếng được ông tổng kết và chắt lọc từ thực tiễn cuộc sống gian
khổ, ác liệt khi đó: "Xe chưa qua, nhà không tiếc"; "Đảng viên đi trước,
làng nước theo sau"; "Một tấc không đi, một ly không rời, bám làng mà
chiến đấu, bám hố bom mà thâm canh"; "Cho không lấy, thấy không xin, của
công giữ gìn, của rơi trả lại": "Dễ trăm lần không dân cũng chịu, khó
vạn lần dân liệu cũng xong"... Với tác phong miệng nói tay làm, ông
Nguyễn Tư Thoan không những là vị chỉ huy luôn có mặt ở những nơi "đầu
sóng ngọn gió", những nơi bom đạn ác liệt nhất cùng sát cánh với cán bộ,
chiến sĩ chống lại cuộc chiến tranh phá hoại của Mỹ ở Quảng Bình mà còn
luôn có mặt ở những nơi xa xôi, gian khổ nhất trong tỉnh, nơi cuộc sống
của đồng bào còn nghèo đói để không chỉ có chỉ đạo mà còn sắn quần lội
ruộng, xây đắp các công trình thủy lợi đưa nước về làm sống lại các cánh
đồng khô hạn ngay trong chiến tranh, làm thay đổi cuộc sống của người
dân nghèo nơi đây. Không phải ngẫu nhiên mà đồng bào vùng Hoa-Sơn- Thủy
gọi tên một số mương máng thủy lợi là "Mương ông Thoan", "Máng ông
Thoan" và nhân dân huyện Quảng Trạch mong có một "Miếu thờ ông Thoan" ở
ngay công trình thủy lợi Rào Nan, công trình do ông trực tiếp dẫn tất cả
cán bộ của Ty Thuỷ lợi Quảng Bình lên đây chọn đoạn sông hẹp nhất ra
lệnh đổ đất đá ngăn đập lấy nước tưới ruộng. Đến hôm nay, trải qua gần
50 năm con đập này vẫn vững chắc, đưa nước ngọt về tưới cho những cánh
đồng rộng lớn của 11 xã phía Nam huyện Quảng Trạch trước đây quanh năm
khô mặn, không sản xuất được, đem lại cuộc sống ấm no cho người dân nơi
đây.
Vợ
chồng Đại tướng Võ Nguyên Giáp cùng ông Nguyễn Tư Thoan (phải, ngoài
cùng) trên bờ bãi biển Nhân Trạch, Quảng Bình (ảnh tư liệu của gia đình
ông Thoan)
Một thời bị lãng quên
Năm
1971 tôi rời Quảng Bình vào chiến trường miền Nam, không còn biết tin
tức gì về ông Nguyễn Tư Thoan. Sau ngày đất nước thống nhất, khi trở lại
Hà Nội gặp anh Hữu Thọ và anh Nguyễn Sinh tôi mới biết chuyện ông gặp
nạn. Sau đó tôi được một số người cho biết thêm, trong một lần ông
Nguyễn Tư Thoan ra dự Đại hội Đảng, ngồi trên ghế Đoàn Chủ tịch Đại hội,
bị một vị đại biểu là cán bộ lãnh đạo cấp cao từ Miền Nam ra dự Đại hội
nhận ra ông là người trước năm 1945 đã từng làm cảnh sát cho Pháp! Vị
đại biểu này đã báo cáo với Ban Tổ chức Trung ương và Ủy ban Kiểm tra
Trung ương Đảng, đề nghị làm rõ việc này. Sau khi kiểm tra, ông Nguyễn
Tư Thoan đã thừa nhận trước 1945 ông đã có một thời gian đi làm cảnh sát
cho Pháp ở một tỉnh Miền Nam. Sau khi Pháp đầu hàng đồng minh, Nhật
nhảy vào Đông Dương, ông còn đi làm cảnh sát cho Nhật, song khi viết Lý
lịch cá nhân ông đã thiếu trung thực, không ghi rõ hai sự việc này. Khi
Cách mạng Tháng 8-1945 nổ ra, ông Nguyễn Tư Thoan về quê, xã Hoa Thuỷ,
huyện Lệ Thuỷ, Quảng Bình, tham gia Mặt trận Việt Minh, được kết nạp vào
Đảng, từng làm Chính trị viên Trung đội Giải phóng quân Mặt trận đường 9
Nam Lào, Chính trị viên Huyện đội Lệ Thủy; Bí thư Huyện ủy Quảng Ninh,
Chính trị viên Tỉnh đội Quảng Bình rồi được bầu làm Chủ tịch Ủy ban
Kháng chiến Hành chính tỉnh trước khi được bầu làm Bí thư Tỉnh ủy Quảng
Bình từ tháng 3-1959 đến khi xảy ra vụ bị phát hiện trên đây. Tháng 6
năm 1974 ông bị kỷ luật Đảng, không còn làm Bí thư Tỉnh ủy Quảng Bình mà
chuyển ra Hà Nội, làm chuyên viên Ủy ban Nông nghiệp Trung ương đến
tháng 5-1976 về hưu. Ông về lại quê nhà Quảng Bình sinh sống đến khi
mất.
Ông Nguyễn Tư Thoan là người rất yêu văn học. Trong thời gian
chiến tranh và cả sau này khi ông đã bị kỷ luật, chỉ còn là chuyên viên
của Ủy ban Nông nghiệp Trung ương ở Hà Nội, ông Thoan vẫn làm thơ, nhiều
bài thơ của ông đã in trong tập "Bí thư Tỉnh ủy Quảng Bình trên đất lửa"
. Nhà văn Trần Công Tấn cho biết, ông Nguyễn Tư Thoan thuộc nhiều bài
thơ trong tập "Điêu tàn" của nhà thơ Chế Lan Viên và trong tập "Bức
tranh quê" của nhà thơ Anh Thơ. Nhà văn Bùi Hiển rất ngạc nhiên và thích
thú khi tiếp nhà văn Bùi Hiển và Đoàn nhà văn từ Hà Nội vào thâm nhập
tực tế ở Quảng Bình trong những năm chiến tranh, ông Nguyễn Tư Thoan
nhắc đến truyện ngắn "Nằm vạ" của nhà văn, rồi nói vui; "Cám ơn anh Bùi
Hiển đã vào "nằm vạ" giữa đạn bom cùng chia sẻ gian khổ với chúng tôi!".
Nhiều người ở Quảng Bình đến nay còn nhớ hai câu "Nhà tan cửa nát cũng
ừ/Quyết tâm đánh Mỹ cực chừ sướng sau" trong một bài thơ của ông. Trong
bài thơ "Thơ ông tặng bà" ông làm sau khi bị kỷ luật phải rời Quảng Bình ra Hà Nội, ông viết những dòng thật cảm động về tấm lòng của bà đối với ông :"Quyền
cao, chức trọng không còn nữa/ Em vẫn cười vui với thời gian..."; "Anh
yêu", hai tiếng nghe trìu mến/Sưởi ấm lòng anh giữa thủ đô"...
Sau
gần 40 năm ông Nguyễn Tư Thoan bị kỷ luật, các ông Trần Sự, nguyên Ủy
viên Thường vụ Tỉnh ủy, Chỉ huy trưởng Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh, Chủ tịch
Ủy ban Nhân dân tỉnh; Phan Xuân Thiết, nguyên Tỉnh ủy viên, Chánh Văn
phòng Tỉnh ủy; Lại Văn Ly, Phó Chủ tịch Ủy ban Nhân dân tỉnh, nhà báo
Hữu Thọ, nhà báo Nguyễn Sinh, nhà báo Phan Văn Khuyến, nguyên Phó Tổng
Biên tập báo Bình Trị Thiên, các nhà văn Trần Công Tấn, Ngọc Tấn và
nhiều cán bộ và nhân dân Quảng Bình cùng có chung nhận xét và đánh giá:
Trong kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, nhất là trong suốt 15 năm làm Bí
thư Tỉnh ủy Quảng Bình, ông Nguyễn Tư Thoan là "một con người có ý chí
kiên cường, tiêu biểu, đứng nơi đầu sóng ngọn gió vào thời kỳ chiến
tranh ác liệt nhất"; người "rất quyết đoán, năng động, thông minh...",
"có bản lĩnh vững vàng, tinh thần trách nhiệm cao, cũng cảm, sâu sát,
xông pha nơi khó khăn, nguy hiểm nhất", không ai có thể làm phai mờ được
công lao cống hiến của ông đối với nhân dân Quảng Bình và đối với sự
nghiệp cách mạng...
Thế
nhưng, sau khi ông bị kỷ luật những công lao to lớn đó của ông Nguyễn
Tư Thoan dường như bị lãng quên. Ít người về sau này còn biết đến ông
từng một thời là vị Bí thư Tỉnh ủy của Quảng Bình, vùng "đất lửa" nổi
tiếng trong chiến tranh, người mà hai nhà báo Hữu Thọ, Nguyễn Sinh cũng
như nhiều nhà văn, nhà báo khác và nhiều cán bộ, nhân dân Quảng Bình
sống cùng thời đều mong muốn có sự Công bằng cho một người đã khuất.
Niềm vui dẫu muộn
Nhà báo Quốc Vinh, nguyên phóng viên báo Nhân Dân thường trú
tại Quảng Bình trong những năm kháng chiến chống Mỹ, cùng Tổ phóng viên
Thường trú với các nhà báo Hữu Thọ, Nguyễn Sinh, Hồng Khanh, do nhà báo
Hữu Thọ làm Tổ trưởng và nhiều nhà báo quê ở Quảng Bình mà tôi quen biết
cho biết: Về cuối đời ông Nguyễn Tư Thoan cũng có những bức xúc với
"nhân tình thế thái" trong cách nhìn nhận và đối sử với ông sau khi ông
bị kỷ luật. Một nhà báo khác cho biết, một lần có cuộc triển lãm ảnh Bác
Hồ vào thăm Quảng Bình sau khi ông Nguyễn Tư Thoan bị mất chức. khi
nhìn thấy bức ảnh ông đi bên Bác Hồ nay bị cắt, không có ông nữa, ông đã
bỏ về, lòng buồn rười rượi. Nhưng, như ông thường tâm sự với những
người thân thích: "Mình làm cách mạng phục vụ nhân dân thì nhân dân
người ta biết cho mình là được rồi". Ông động viên các con "cứ ngửng đầu
lên mà đi tiếp trên con đường Bác Hồ đã chọn". Làm theo lời cha, cả bảy
người con của ông dẫu đời sống có nhiều khó khăn, vất vả vẫn giữ được
nhân cách. Sáu người con của ông đã trở thành đảng viên của Đảng.
Năm
2015, các bạn chiến đấu của ông Nguyễn Tư Thoan qua các thời kỳ và các
con cháu của ông chung tay sưu tầm và biên soạn cuốn sách "Bí thư Tỉnh ủy Quảng Bình trên đất lửa"
để ghi ơn và tưởng nhớ ông sau gần 30 năm ông đi xa. Một ngày đầu tháng
8-2016 tôi nhận được một cuộc điện thoại từ Quảng Bình gọi ra. Người
gọi cho tôi tự giới thiệu là Nguyễn Thị Thu Thủy, con gái đầu của ông
Nguyễn Tư Thoan. Chị cho biết trong một lần đến thăm nhà báo Quốc Vinh,
được anh Quốc Vinh cho đọc cuốn sách Tiếng tụng kinh trong căn nhà vị tướng
của tôi gửi tặng anh khi mới được xuất bản. Đọc một số bài trong cuốn
sách, chị bắt gặp một số hình ảnh của người thân trong gia đình, trong
đó có bà Tôn Thị Ngọc Quang, con nuôi của Chủ tịch nước Tôn Đức Thắng,
là bạn, là người Dì kết nghĩa của mẹ chị từ trong kháng chiến chống
Pháp, đã dành tình cảm và sự chăm sóc chu đáo cho chị khi chị mới chỉ là
một sinh viên nhưng vì là con của vị Bí thư Tỉnh ủy đương chức đang
đứng ở nơi "đầu sóng ngọn gió", bị bệnh nặng, được các chú, các bác đưa
vào điều trị tại Bệnh viện Hữu nghị Viêt - Xô, nơi bà Quang đang làm
việc. Từ năm 1974, sau khi cha chị bị kỷ luật đến nay, chị không biết
dược tin tức và gặp lại bà, nhất là sau khi bà Quang cùng gia đình
chuyển vào thành phố Hồ Chí Minh sinh sống. Chị nhờ tôi nếu có dịp gặp
bà Quang thì "chuyển lời hỏi thăm của em đến Dì"... Sau đó chị Nguyễn
Thị Thu Thủy còn viết cho tôi một lá thư khá dài và gửi một người cháu
từ Quảng Bình ra Hà Nội mang theo cuốn sách "Bí thư Tỉnh ủy Quảng Bình trên đất lửa"
tặng tôi mà trong bài viết này tôi có sử dụng một số chi tiết của một
số tác giả đã viết trong cuốn sách. Trong thư gửi cho tôi chị Thủy viết:
"Đọc cuốn sách của anh đã có lúc em chảy nước mắt, liên tưởng đến số
phận của ba em, của gia đình em, sao mà giống số phận của một số nhân
vật mà anh đã kể trong cuốn "Tiếng tụng kinh trong căn nhà vị tướng" của
anh đến thế!".
Cuốn sách Bí thư Tỉnh ủy Quảng Bình trên đất lửa
dày 335 trang, tập hợp các bài viết và ảnh chụp của gần 80 tác giả,
phần lớn là các nhà hoạt động chính trị, nhà văn, nhà báo, nhiều người
nổi tiếng nhưng cúng có nhiều người viết rất bình thường viết về ông
Nguyễn Tư Thoan với sự thương tiếc và kính trọng một con người đã sống
trọn một cuộc đời "chí công vô tư, trong sạch" vì quê hương, đất nước.
Nhà văn Ngọc Tấn viết về ông Nguyễn Tư Thoan những dòng thật
cảm động :"Văn là người. Con người ấy đã sống trọn một cuộc đời chí công
vô tư, trong sạch. Ông có bảy người con. Hai con trai đầu, với cương vị
của ông, chẳng khó khăn gì để kiếm suất du học nhưng ông đã cho đi bộ
đội. Một người là lính trinh sát, sau này là thương binh hạng hai. Một
người là lính tàu không số. Tất cả đều tự học, tự lập thân. Mười lăm năm
giữ cương vị lãnh đạo tỉnh nhưng cả ngần ấy thời gian gia đình ông toàn
ở nhà tập thể. Mãi đến năm 1974 được xã Nghĩa Ninh cho đất, ông mới mua
lại một căn nhà gỗ hai gian mang về dựng tạm để ở. Nghỉ hưu rồi ông mới
xin mua một ít gỗ dựng căn nhà ngói đơn sơ, tự tay đóng lấy tap-lô,
nhặt từng mảnh ngói vụn về làm chuồng lợn. Năm 1974 khi được điều ra Ủy
ban Nông nghiệp Trung ương nhận nhiệm vụ mới, có chiếc radio casset đáng
giá nhất ông mang trả Tỉnh ủy. Vật duy nhất mà ông giữ lại là chiếc
bình hoa gò bằng xác máy bay Mỹ thứ 200 bị bắn rơi trên đất Quảng
Bình..."
Ông Nguyễn Tư Thoan mất ngày 13-7-1989, thọ 69 tuổi. Trong Lời
viếng ông, Tỉnh ủy, Ủy ban Nhân dân, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc tỉnh Quảng
Bình đánh giá: "Gần 45 năm hoạt động, trong nhiều lĩnh vực công tác,
ông Nguyễn Tư Thoan đã cùng Đảng bộ, chính quyền và nhân dân Quảng Bình
nỗ lực phấn đấu, chịu đựng mọi hy sinh gian khổ...trên những trận địa ác
liệt, ngoài những cánh đồng, trong đời sống ở những địa bàn gặp nhiều
khó khăn ông luôn có mặt, chỉ đạo tại trận, tại chỗ để giữ vững và phát
triển phong trào. Ông đã cống hiến trọn công sức của mình vì sự lớn mạnh
của tỉnh nhà. Thành tựu chung đó đã vinh dự được Bác Hồ tặng danh hiệu
quê hương "Hai giỏi"...Đảng bộ, nhân dân Quảng Bình mãi mãi ghi nhớ công
lao đóng góp của ông đối với phong trào cách mạng quê hương"...
Hà Nội, một ngày cuối đông 2016
D.Đ.Q
Ảnh: 1-Ông Nguyễn Tư Thoan (trai) cùng Đoàn đại biểu "Hai Giỏi"tỉnh Quảng Bình ra thăm Bác Hồ
pasting
2- Vợ chồng Đại tướng Võ Nguyên Giáp cùng ông
Nguyễn Tư Thoan (phải, ngoài cùng) trên bờ bãi biển Nhân Trạch, Quảng Bình (ảnh
tư liệu của gia đình ông Thoan)Ảnh: 1-Ông Nguyễn Tư Thoan (trai) cùng Đoàn đại biểu "Hai Giỏi"tỉnh Quảng Bình ra thăm Bác Hồ
pasting
Bí thư Tỉnh ủy “cứu” tên lửa
Một
buổi chiều đầu tháng 9 năm 1968, ông Hoàng Hữu Nghinh, cán bộ thanh tra
giao thông được ông Lê Đức Mận, Trưởng ty giao thông vận tải Quảng Bình
gọi vào phòng làm việc của ông.
Ông
Mận hỏi: “Cậu có biết đường đi bộ từ Quảng Minh lên làng Cây Lim, xã
Lâm Trạch không?”. Ông Hoàng Hữu Nghinh vốn là người lớn lên ở làng Minh
Lệ, xã Quảng Minh, huyện Quảng Trạch (nay là thị xã Ba Đồn) nên con
đường ấy ông thuộc như lòng bàn tay.
Ông
Nghinh sốt sắng: “Em biết. Đường ấy em đi rừng suốt mà. Hồi trước ở
nhà, bọn em hay đi ăn hạt dẻ”. Ông Mận quay máy điện thoại cho ông
Nguyễn Tư Thoan, Bí thư Tỉnh ủy Quảng Bình. Hai người trao đổi với nhau
mấy phút, ông Mận quay lại nói với ông Nghinh: “Cậu về báo với anh Nhơn,
Trưởng phòng tài vụ là lãnh đạo cử cậu đi công tác với đoàn của tỉnh
ngay bây giờ”.
Báo
với ông Nhơn xong, ông Nghinh đi đến cửa phòng ông Mận thì đã thấy xe
của tỉnh đến đó rồi. Chuyến đi chỉ có ba người, ông Thoan, ông Nghinh và
một người lái xe tên là Biểu.
Đường
từ Cộn (thị xã Đồng Hới) ra bến phà Gianh bị máy bay địch bắn phá liên
tục nên rất khó đi. Người lái xe tăng hết tốc độ nhưng đến phà Gianh vẫn
phải mất hơn một tiếng đồng hồ. Ông Thoan nhìn đồng hồ lúc đó đã là 19
giờ 40 phút. Để người lái xe ở lại, ông Thoan và ông Nghinh đi dọc đê Hạ
Trạch đến bến đò sang Quảng Văn. Hai người đi bộ về đến trụ sở UBND xã
Quảng Minh đã gần 21 giờ đêm. Trụ sở ủy ban đóng trong nhà hầm tại xóm
Bắc Minh Lệ. Bước vào hầm, ông Nghinh đã thấy trên bàn có mâm cơm chuẩn
bị sẵn. Ông Hộ, Xã đội trưởng nói: “Mời hai anh vào ăn cơm đã rồi bàn
công việc”. Ông Thoan bảo: “Tôi ăn rồi, chưa đói, cậu Nghinh vào ăn đi”.
Ông Nghinh trả lời: “Tôi cũng đã ăn cơm tối rồi.” Ông Thoan nói: “Bây
giờ có công điện khẩn của Trung ương là ta đã bắt được tín hiệu của bọn
gián điệp điện cho Bộ Quốc phòng Mỹ phải tiêu diệt bằng được đoàn xe
pháo cao xạ và tên lửa mới vào Quảng Bình trước lúc trời sáng. Không có
cách nào thông báo với đoàn xe được. Đêm nay đoàn xe phải khẩn trương
rời khỏi rừng Cây Lim (xã Lâm Trạch) ngay, đi sâu vào rừng để tránh
bom.”
Ông
Hộ cử ông Chằn là xã đội phó cùng đi. Thế là 3 anh em qua đò Thọ Hạ,
bắt đầu leo núi Đá Chẹt, rồi xuống dốc, qua khe Đá Mài. Ông Thoan chân
dài, bước đi thoăn thoắt từ hòn đá này qua hòn đá khác, ông Nghinh người
thấp, chân ngắn cùng ông Chằn chạy xăm xăm cho kịp. Họ băng băng trong
rừng qua hết dốc này đến dốc khác. Ông Thoan cho dừng lại ở chân đồi Eo
Ngựa nghỉ 5 phút để lấy sức, rồi vượt dốc đến làng Thùng Thùng. Vượt qua
Khe Nước, qua làng Ba Trang dài 2 km lại lội qua một cái khe sâu ở làng
Cây Lim. Họ đến cuối làng lúc gần nửa đêm. Gặp tổ canh gác của đoàn xe
pháo binh và tên lửa chặn lại. Ông Thoan đem giấy tờ cho tổ gác xem và
theo họ vào nhà gặp Đoàn trưởng. Ông Thoan trao đổi tinh thần điện khẩn
và giao nhiệm vụ cho Đoàn trưởng tiến hành chuyển dời xe vào Khe Trạ
cách đó 8 km. Lập tức cả đoàn xe kéo 12 khẩu pháo cỡ lớn và 6 tên lửa
trong rừng Cây Lim lầm lũi sang nơi ẩn nấp mới.
Công
việc với đoàn xe đã xong xuôi, ông Thoan lại đi tiếp về cuối thôn gặp
lãnh đạo hai trường Trung cấp Y tế và Kế toán tài chính của tỉnh (mới về
đây được 10 tháng) bàn kế hoạch di chuyển ra huyện Quảng Trạch. Trường
Trung cấp Y tế ra xã Quảng Sơn, Trường Kế toán tài chính ra xã Quảng
Thủy.
Hoàn
thành công việc, ông Thoan thở phào, rút gói thuốc mời ông Chằn và ông
Nghinh mỗi người một điếu để về phà Gianh vào Đồng Hới. Họ chưa đi ra
khỏi làng thì cả khu rừng Cây Lim bom nổ ầm ầm. Máy bay AD - 6 thả bom
tọa độ từ đợt này đến đợt khác xuống nơi đoàn xe vừa mới rút đi.
Ba
anh em lại leo dốc Eo Ngựa, về đò Thọ Hạ qua sông đến Quảng Minh. Ông
Chằn ở lại, ông Nghinh và ông Thoan về đến Bắc Trạch đã có xe con do ông
Biểu chờ đón.
Trên
đường về, ông Nghinh thương ông Thoan quá, một Bí thư Tỉnh ủy có quyền
sai cấp dưới, sao phải chịu khó, chịu khổ đêm tối đường rừng lặn lội,
vất vả thế. Ông hỏi ông Thoan: “Sao anh không cử bên Tỉnh đội đi việc
này?”. Ông Thoan trả lời: “Sợ tin đến chậm, sẽ nguy cho đoàn xe. Vả lại,
đơn vị tên lửa này lần đầu tiên vào chiến đấu ở tỉnh ta, tiện dịp mình
lên thăm anh em một thể”!
Câu
chuyện giờ đã năm mươi năm rồi mà ông Hoàng Hữu Nghinh vẫn còn nhớ như
in. Ông nói với người viết bài này: “Đúng là quê hương Quảng Bình “hai
giỏi” có một Bí thư Tỉnh ủy cũng rất giỏi xứng đáng đứng đầu tuyến lửa
thời đánh Mỹ”.
HOÀNG MINH ĐỨC
Mập mờ cuộc đời chính trị của Bí thư Nguyễn Tư Thoan, những sự thật ít ai biết
Hồi ức về một bí thư tỉnh ủy - Kỳ 1: Người thắp lửa trên đất lửa
Nguồn: Tuổi trẻ online - Cập nhật: Thứ Ba, 21/08/2012, 09:28 (GMT+7)
Tác giả: LÊ ĐỨC DỤC - LAM GIANG
Có những cán bộ đảng viên, khi đã rời khỏi vị trí lãnh đạo của mình,
vẫn để lại những ấn tượng mạnh mẽ và sâu sắc trong lòng dân. Hơn 20 năm
làm bí thư Tỉnh ủy Quảng Bình, ông Nguyễn Tư Thoan là người đã truyền
cảm hứng cho nhân dân vùng đất lửa, đưa Quảng Bình trở thành ngọn cờ đầu
của miền Bắc trong những năm chiến tranh khốc liệt. Bây giờ người dân
nơi đây muốn được lập đền thờ tưởng nhớ công lao của ông...
Bí thư tỉnh ủy Nguyễn Tư Thoan (bìa phải) năm 1969 - Ảnh tư liệu
Quảng Bình quê ta ơi là bài “tỉnh ca” sừng sững như một đỉnh cao của
nền âm nhạc VN mà mỗi khi cất lên thành lời “Nếu ai hỏi vì sao...” ai
cũng thấy rạo rực yêu thương và hi vọng. Bài hát Quảng Bình quê ta ơi
của nhạc sĩ Hoàng Vân viết về miền đất lửa Quảng Bình, nhưng ít ai biết
âm vang của những “phong trào” trong ca khúc ấy đều là những câu chuyện
gắn bó và liên quan tới cuộc đời vị bí thư Tỉnh ủy Quảng Bình những năm
tháng ấy: ông Nguyễn Tư Thoan. Lần theo câu hát... Gần một năm trời nay, kể từ khi tiếp cận hồ sơ tư liệu cuộc đời ông, chúng tôi đã tìm gặp rất nhiều nhân chứng, từ Hà Nội đến TP.HCM hay ngược xuôi khắp đất Quảng Bình nắng lửa. Ám ảnh trong tôi là những giọt nước mắt của những người tôi gặp mỗi khi nhắc đến ông Nguyễn Tư Thoan. Những giọt nước mắt ấy hình như đủ sức nói lên một điều gì đó về ông.
“Có ai hỏi vì sao quê hương chúng ta đồng lúa tốt, có nhớ những ngày cơ cực, tối tăm ngày xưa/... Có ai về Rào Nan xin vô ghé thăm vùng Cự Nẫm/Làng chiến đấu xưa nay đã đổi mới muôn màu/Có ai về Cảnh Dương quê tôi đứng nơi đầu sóng gió/Truyền thống đánh giặc giữ làng mãi mãi còn đây”. Con đập Rào Nan mang lại ấm no cho cả vạn dân Quảng Trạch giữa mưa bom bão đạn kháng chiến ấy có được từ tầm nhìn của ông Nguyễn Tư Thoan. Những làng chiến đấu Cảnh Dương, những Cự Nẫm “xe chưa qua nhà không tiếc”. Rồi “Quảng Bình quê ta ơi! Muôn người như một gửi về Trị Thiên tấm lòng sắt son. Hẹn ngày chiến thắng ta sẽ về trong một nhà...” là lời thề vàng đá anh em “trút gạo trong nồi cho Trị Thiên đánh giặc” từ câu nói của vị bí thư Tỉnh ủy Quảng Bình những năm tháng ác liệt ấy.
Bí thư tỉnh ủy Nguyễn Tư Thoan (bìa trái) và đoàn cán bộ chiến sĩ Quảng Bình ra thăm Bác Hồ - Ảnh tư liệu
Khởi nguồn “Quê hương hai giỏi” Nhiều người đã sống chiến đấu ở Quảng Bình những năm ác liệt nhất của cuộc chiến tranh vẫn nói rằng những ngày tháng ấy, chính bí thư tỉnh ủy Nguyễn Tư Thoan đã truyền được cảm hứng cho nhân dân và cán bộ để vượt lên sự khốc liệt của đạn bom, để Quảng Bình ngày ấy như một biểu tượng của sự can trường, bất khuất nơi địa đầu miền Bắc. Thời chiến có những đặc thù rất riêng, đôi khi chỉ từ một câu chuyện, nếu là người lãnh đạo năng động, thông minh sẽ biết nhân lên thành một phong trào rộng lớn. Quảng Bình những năm tháng ấy cơ cực gian nan đến vậy nhưng lòng dân lại vô cùng hồ hởi,nguồn năng lượng tinh thần ấy đã được vị bí thư động viên, nhân lên thành sức mạnh cụ thể.
Nhà báo Quốc Vinh, nguyên là phóng viên báo Nhân Dân thường trú tại Vĩnh Linh-Quảng Bình trong thời kỳ chiến tranh chống Mỹ, nhớ lại: “Ông Thoan là người để lại nhiều ấn tượng sâu sắc nhất trong tôi. Những gì mà tôi hiểu và biết về ông thì đó là một con người quyết đoán, sâu sắc, chu toàn và mưu trí.Ông là người có biệt tài phát hiện và nhân điển hình. Nếu không có ông Thoan thì Quảng Bình không thể có một số phong trào lớn nức tiếng cả nước và có sức cổ vũ cuộc chiến đấu của quân và dân ta thời đó, trong đó có phong trào “Hai giỏi”- một phong trào bắt đầu từ sáng kiến của bí thư Nguyễn Tư Thoan”.
Tháng 7-1965, Bác Hồ gửi thư khen quân và dân Quảng
Bình đã bắn rơi chiếc máy bay thứ 100 trên bầu trời địa phương vào ngày
14-7-1965, chỉ sau 150 ngày đêm chiến đấu, kể từ khi Mỹ mở đầu cuộc
chiến tranh bằng không quân ở miền Bắc. Thư khen của Bác viết:
“Thân ái gửi đồng bào, bộ đội và cán bộ tỉnh Quảng Bình
Bác rất vui lòng thay mặt Trung ương Đảng và Chính phủ
khen ngợi đồng bào, bộ đội và cán bộ Quảng Bình đã bắn rơi 100 máy bay
giặc Mỹ, vừa qua lại thu hoạch vụ chiêm rất tốt.
Như vậy là tỉnh nhà chiến đấu giỏi, sản xuất cũng giỏi.
Các tỉnh khác hãy ra sức thi đua với Quảng Bình”...
Huyền thoại “Quảng Bình quật khởi” Những
câu chuyện về sự quyết đoán của ông Thoan không phải chỉ từ khi Quảng
Bình bước vào cuộc kháng chiến chống Mỹ ác liệt. Hằng năm Quảng Bình vẫn
kỷ niệm một ngày truyền thống rất riêng là ngày “Quảng Bình quật khởi”
vào 15-7-1949. Khởi phát của “Quảng Bình quật khởi” lại ở vào thời điểm
gian khó nhất của cuộc kháng chiến chống Pháp. Nhà báo Nguyễn Sinh, cũng
là phóng viên thường trú báo Nhân Dân ở Quảng Bình những năm đánh Mỹ,
khi nhắc đến sự kiện này đã cung cấp một tư liệu rất thú vị:
Năm 1948, ông Thoan làm bí thư Huyện ủy Quảng Ninh. Là huyện lớn, nằm bao quanh thị xã Đồng Hới, lúc đó đang bị quân Pháp đánh phá dữ dội. Nguyễn Tư Thoan tự mình tìm hiểu tình hình bằng cách luồn sâu vào các thôn xã bị địch tạm chiếm. Ông thấy tình hình trong huyện quả thật hết sức khó khăn. Nhưng khó khăn không phải do địch quá mạnh hay nhân dân giảm sút lòng tin ở kháng chiến mà chính là do một bộ phận cán bộ, đảng viên sa sút tinh thần, bỏ đất, bỏ dân, chạy tuốt lên chiến khu tận chân núi Trường Sơn.
Trong một cuộc họp huyện ủy có bí thư tỉnh ủy về dự, ông nói thẳng suy nghĩ của mình và đề xuất một sáng kiến táo bạo: đốt chiến khu. Đốt sạch lán trại, hầm hào, vật nuôi, cây trồng..., cho cán bộ, đảng viên và một số đơn vị bộ đội địa phương “xuống núi” bám đất, bám dân. Đề nghị của ông được hội nghị chấp nhận và ghi vào nghị quyết của huyện ủy. Cuộc “đốt chiến khu” bắt đầu từ đêm 15 tháng 7-1949 trở thành ngày “Quảng Bình quật khởi”, được ghi vào lịch sử của tỉnh. Tình hình huyện Quảng Ninh từ đó thay đổi hẳn. Lòng dân phấn chấn hơn...
Năm 1952 ông Nguyễn Tư Thoan trở thành tỉnh ủy viên, được bầu làm chủ tịnh Ủy ban kháng chiến - hành chính tỉnh. Từ năm 1959 ông là bí thư Tỉnh ủy Quảng Bình. Mười năm hòa bình sau kháng Pháp và mười năm kháng chiến chống Mỹ, dấu ấn Nguyễn Tư Thoan vẫn sâu đậm cho đến tận hôm nay, không chỉ vẻ đẹp của người chỉ huy giữa đạn bom ác liệt mà trong từng dòng nước bờ kênh tưới tắm cho đồng ruộng Quảng Bình.
Năm 1948, ông Thoan làm bí thư Huyện ủy Quảng Ninh. Là huyện lớn, nằm bao quanh thị xã Đồng Hới, lúc đó đang bị quân Pháp đánh phá dữ dội. Nguyễn Tư Thoan tự mình tìm hiểu tình hình bằng cách luồn sâu vào các thôn xã bị địch tạm chiếm. Ông thấy tình hình trong huyện quả thật hết sức khó khăn. Nhưng khó khăn không phải do địch quá mạnh hay nhân dân giảm sút lòng tin ở kháng chiến mà chính là do một bộ phận cán bộ, đảng viên sa sút tinh thần, bỏ đất, bỏ dân, chạy tuốt lên chiến khu tận chân núi Trường Sơn.
Trong một cuộc họp huyện ủy có bí thư tỉnh ủy về dự, ông nói thẳng suy nghĩ của mình và đề xuất một sáng kiến táo bạo: đốt chiến khu. Đốt sạch lán trại, hầm hào, vật nuôi, cây trồng..., cho cán bộ, đảng viên và một số đơn vị bộ đội địa phương “xuống núi” bám đất, bám dân. Đề nghị của ông được hội nghị chấp nhận và ghi vào nghị quyết của huyện ủy. Cuộc “đốt chiến khu” bắt đầu từ đêm 15 tháng 7-1949 trở thành ngày “Quảng Bình quật khởi”, được ghi vào lịch sử của tỉnh. Tình hình huyện Quảng Ninh từ đó thay đổi hẳn. Lòng dân phấn chấn hơn...
Năm 1952 ông Nguyễn Tư Thoan trở thành tỉnh ủy viên, được bầu làm chủ tịnh Ủy ban kháng chiến - hành chính tỉnh. Từ năm 1959 ông là bí thư Tỉnh ủy Quảng Bình. Mười năm hòa bình sau kháng Pháp và mười năm kháng chiến chống Mỹ, dấu ấn Nguyễn Tư Thoan vẫn sâu đậm cho đến tận hôm nay, không chỉ vẻ đẹp của người chỉ huy giữa đạn bom ác liệt mà trong từng dòng nước bờ kênh tưới tắm cho đồng ruộng Quảng Bình.
Sưu tầm: T.Quý
(Ghi chú: Tin bài trên được sưu
tầm và đăng tin trên trang web nội bộ VP UBND tỉnh nhằm mục đích phục
vụ thông tin nội bộ cơ quan)
Hồi ức về một bí thư tỉnh ủy - Kỳ 2: “Nhân chứng” Rào Nan
Nguồn: Tuổi trẻ - Cập nhật: Thứ Tư, 22/08/2012, 10:26 (GMT+7)
Tác giả: LÊ ĐỨC DỤC - LAM GIANG
Trong rất nhiều công trình mang đậm dấu ấn của bí thư tỉnh ủy Nguyễn
Tư Thoan, đập thủy lợi Rào Nan như là một điển hình của tấm lòng lo cho
dân và tầm nhìn, sự quyết đoán của người lãnh đạo. Chúng tôi ngược đường
12 từ ngã ba Ba Đồn rồi rẽ sang 9 xã vùng nam Quảng Trạch.
Hình ảnh những cánh
đồng lúa đang thì con gái trôi qua ngoài cửa xe cứ gợi trong chúng tôi
câu hát: “Nếu ai hỏi vì sao quê hương chúng ta đồng lúa tốt/có nhớ những
ngày cơ cực tối tăm ngày xưa...”.
Ông Nguyễn Tư Thoan (giữa) trong một lần đi thăm đồng lúa của dân - Ảnh tư liệu
Công trình để đời cho dân Ông
Phan Văn Khuyến - nguyên phó tổng biên tập báo Quảng Bình trong những
năm chiến tranh, dân của làng Thọ Linh, nơi có con đập Rào Nan được xây
dựng - là một nhân chứng của vùng đất này trước và sau khi có đập. Căn
bệnh tim và tuổi già đã khiến ông Khuyến yếu đi nhiều, nhưng khi ngồi
cùng chúng tôi, nhắc lại chuyện xây đập Rào Nan, dường như sự phấn chấn
khiến ông như đang ở giữa công trường đập Rào Nan của hơn 40 năm trước:
Cả một vùng 9 xã nam Quảng Trạch có 7 vạn dân với 2.000ha ruộng mà cứ mùa hè là bị bao vây bởi nước mặn từ biển dâng lên. Muốn có nước ngọt tưới cho đồng ruộng chỉ có cách đắp đập chặn sự xâm nhập của nước mặn rồi bơm nguồn nước ngọt phía thượng nguồn cho lúa. Nhưng bom đạn như thế sống đã khó nói chi chuyện đắp đê dựng đập! Vậy mà cuối năm 1967, Tỉnh ủy Quảng Bình họp và nhận định Quảng Trạch dân đông, đất rộng mà không tự túc được lương thực chỉ vì thiếu nước là không chấp nhận được.
Quyết định xây đập Rào Nan, cấp nguồn nước tưới cho hàng ngàn hecta đồng ruộng Quảng Trạch giữa lúc cuộc kháng chiến đang hồi quyết liệt, không ít ý kiến bàn ra bàn vào, một lần nữa sự quyết đoán và bản lĩnh của bí thư Nguyễn Tư Thoan đã thuyết phục được mọi người: “Không thể cứ để trung ương chi viện mãi được, vũ khí, trang phục không lo được đã đành, còn lương thực để ăn hằng ngày mà cũng không tự lo được là một nỗi nhục!”.
Thời đó cũng có một đoàn chuyên gia của nước bạn Hungary lên khảo sát nhưng với mục đích để làm đập thủy lợi kiêm thủy điện - ông Phan Văn Khuyến nhớ lại - Đoàn này chọn vị trí làm đập ở khu vực Đồng Đâu. Nhưng muốn làm đập thủy lợi kiêm thủy điện phải có luận chứng, có thiết kế khoa học và phải có thời gian dài mới thi công được. Không thể chờ đợi như thế, ông Thoan quyết định ngay: Trong khi dân ta đang cần gạo ăn thì phải làm nhanh làm gọn đập thủy lợi đã, thủy điện làm sau.
Qua nhiều lần lặn lội xem đất, xem sông, ông Thoan đã nhắm được vị trí tốt nhất để làm đập thủy lợi Rào Nan. Sau đó ông Thoan triệu tập một hội nghị cốt cán toàn tỉnh tại nhà hầm của huyện ủy Quảng Trạch, tại hội nghị này ông trình bày phương án dự kiến về làm đập Rào Nan của tỉnh ủy, lấy nước tưới cho đồng ruộng vùng nam huyện Quảng Trạch và phục vụ sinh hoạt cho người dân. Trong hội nghị có người cho rằng muốn làm đập thủy lợi như thế thì phải mời người ở Bộ Thủy lợi vào khảo sát lưu lượng dòng chảy, các tầng đất làm nền móng rồi mới thiết kế chứ không làm theo chủ quan được.
Ông Phan Văn Khuyến nhớ như in: “Nghe mọi người nói thế, ông Thoan thuyết phục ngay: ta không còn thời gian nữa. Cuộc kháng chiến chưa biết kéo dài đến bao lâu, nếu không tìm cách giải quyết lương thực tại chỗ theo tinh thần của trung ương thì chưa chết vì bom đạn đã phải chết đói rồi”.
Sau đó ông Thoan quyết định làm đập thủy lợi Rào Nan bằng cách làm rọ thép, xếp đá vào và đổ xuống để ngăn sông Rào Nan ở đoạn sông hẹp nhất tại thôn Thọ Linh, xã Quảng Sơn. Cứ năm bảy hôm là ông Thoan lên công trường một lần (Rào Nan cách Đồng Hới hơn 60km). Trên công trường, ông đã cách chức tại chỗ ba người do làm việc lơ mơ, chỉ huy không sát thực tế, đơn vị không đạt tiến độ.
Sau gần một năm thi công, đến giữa năm 1969 con đập lớn bằng rọ đá dài hơn 110m, cao 6m tính từ đáy sông, chân đập rộng hơn 30m đã hình thành và vĩnh viễn ngăn ngang dòng nước mặn từ biển thấm lên. Con đập này đã làm nước sông Rào Nan đoạn phía trên đập dâng cao hơn trước đó 0,3m khi triều cường lên cao nhất và cao hơn 1,5m khi nước ròng. Nước mặn từ nay không thể xâm nhập lên thượng nguồn. Có nguồn nước ngọt từ Rào Nan về đồng ruộng, đất đai khô cằn ngàn đời trước của chín xã vùng Nam huyện Quảng Trạch là Quảng Sơn, Quảng Hòa, Quảng Thủy, Quảng Trung, Quảng Lộc, Quảng Tiên, Quảng Văn, Quảng Tân và Quảng Minh từ đó thay đổi hẳn.
Hình ảnh đọng mãi trong ký ức ông Khuyến là ngày hoàn tất công trình, khi tám chiếc máy bơm nổ giòn giã đưa dòng nước mát theo kênh mương chảy về đồng ruộng, những người dân vục tay xuống dòng nước mát mà khóc. Bầy trẻ con ào xuống kênh, xô đẩy tạt nước reo hò. Có nguồn nước ngọt, cây lúa thêm vụ, củ khoai thêm mùa, giữa khốc liệt đạn bom chiến tranh, điều đó như tiếp thêm sức mạnh cho người dân Quảng Bình bền gan với cuộc kháng chiến.
Cả một vùng 9 xã nam Quảng Trạch có 7 vạn dân với 2.000ha ruộng mà cứ mùa hè là bị bao vây bởi nước mặn từ biển dâng lên. Muốn có nước ngọt tưới cho đồng ruộng chỉ có cách đắp đập chặn sự xâm nhập của nước mặn rồi bơm nguồn nước ngọt phía thượng nguồn cho lúa. Nhưng bom đạn như thế sống đã khó nói chi chuyện đắp đê dựng đập! Vậy mà cuối năm 1967, Tỉnh ủy Quảng Bình họp và nhận định Quảng Trạch dân đông, đất rộng mà không tự túc được lương thực chỉ vì thiếu nước là không chấp nhận được.
Quyết định xây đập Rào Nan, cấp nguồn nước tưới cho hàng ngàn hecta đồng ruộng Quảng Trạch giữa lúc cuộc kháng chiến đang hồi quyết liệt, không ít ý kiến bàn ra bàn vào, một lần nữa sự quyết đoán và bản lĩnh của bí thư Nguyễn Tư Thoan đã thuyết phục được mọi người: “Không thể cứ để trung ương chi viện mãi được, vũ khí, trang phục không lo được đã đành, còn lương thực để ăn hằng ngày mà cũng không tự lo được là một nỗi nhục!”.
Thời đó cũng có một đoàn chuyên gia của nước bạn Hungary lên khảo sát nhưng với mục đích để làm đập thủy lợi kiêm thủy điện - ông Phan Văn Khuyến nhớ lại - Đoàn này chọn vị trí làm đập ở khu vực Đồng Đâu. Nhưng muốn làm đập thủy lợi kiêm thủy điện phải có luận chứng, có thiết kế khoa học và phải có thời gian dài mới thi công được. Không thể chờ đợi như thế, ông Thoan quyết định ngay: Trong khi dân ta đang cần gạo ăn thì phải làm nhanh làm gọn đập thủy lợi đã, thủy điện làm sau.
Qua nhiều lần lặn lội xem đất, xem sông, ông Thoan đã nhắm được vị trí tốt nhất để làm đập thủy lợi Rào Nan. Sau đó ông Thoan triệu tập một hội nghị cốt cán toàn tỉnh tại nhà hầm của huyện ủy Quảng Trạch, tại hội nghị này ông trình bày phương án dự kiến về làm đập Rào Nan của tỉnh ủy, lấy nước tưới cho đồng ruộng vùng nam huyện Quảng Trạch và phục vụ sinh hoạt cho người dân. Trong hội nghị có người cho rằng muốn làm đập thủy lợi như thế thì phải mời người ở Bộ Thủy lợi vào khảo sát lưu lượng dòng chảy, các tầng đất làm nền móng rồi mới thiết kế chứ không làm theo chủ quan được.
Ông Phan Văn Khuyến nhớ như in: “Nghe mọi người nói thế, ông Thoan thuyết phục ngay: ta không còn thời gian nữa. Cuộc kháng chiến chưa biết kéo dài đến bao lâu, nếu không tìm cách giải quyết lương thực tại chỗ theo tinh thần của trung ương thì chưa chết vì bom đạn đã phải chết đói rồi”.
Sau đó ông Thoan quyết định làm đập thủy lợi Rào Nan bằng cách làm rọ thép, xếp đá vào và đổ xuống để ngăn sông Rào Nan ở đoạn sông hẹp nhất tại thôn Thọ Linh, xã Quảng Sơn. Cứ năm bảy hôm là ông Thoan lên công trường một lần (Rào Nan cách Đồng Hới hơn 60km). Trên công trường, ông đã cách chức tại chỗ ba người do làm việc lơ mơ, chỉ huy không sát thực tế, đơn vị không đạt tiến độ.
Sau gần một năm thi công, đến giữa năm 1969 con đập lớn bằng rọ đá dài hơn 110m, cao 6m tính từ đáy sông, chân đập rộng hơn 30m đã hình thành và vĩnh viễn ngăn ngang dòng nước mặn từ biển thấm lên. Con đập này đã làm nước sông Rào Nan đoạn phía trên đập dâng cao hơn trước đó 0,3m khi triều cường lên cao nhất và cao hơn 1,5m khi nước ròng. Nước mặn từ nay không thể xâm nhập lên thượng nguồn. Có nguồn nước ngọt từ Rào Nan về đồng ruộng, đất đai khô cằn ngàn đời trước của chín xã vùng Nam huyện Quảng Trạch là Quảng Sơn, Quảng Hòa, Quảng Thủy, Quảng Trung, Quảng Lộc, Quảng Tiên, Quảng Văn, Quảng Tân và Quảng Minh từ đó thay đổi hẳn.
Hình ảnh đọng mãi trong ký ức ông Khuyến là ngày hoàn tất công trình, khi tám chiếc máy bơm nổ giòn giã đưa dòng nước mát theo kênh mương chảy về đồng ruộng, những người dân vục tay xuống dòng nước mát mà khóc. Bầy trẻ con ào xuống kênh, xô đẩy tạt nước reo hò. Có nguồn nước ngọt, cây lúa thêm vụ, củ khoai thêm mùa, giữa khốc liệt đạn bom chiến tranh, điều đó như tiếp thêm sức mạnh cho người dân Quảng Bình bền gan với cuộc kháng chiến.
Văn bản xin dựng nhà bia tưởng niệm ông Nguyễn Tư Thoan của cán bộ và người dân Quảng Bình - Ảnh: L.Đ.Dục
Dân xin được lập miếu thờ...
Từ con đập Rào Nan, hàng loạt công trình thủy lợi khác đã mọc lên trên đất lửa Quảng Bình giữa những năm tháng mưa bom bão đạn ấy như đập Tiên Lang, Vực Tròn của Quảng Trạch, đập Vực Nồi của Bố Trạch, đập Mỹ Trung ở phá Hạc Hải... do ông Thoan khởi xướng và chỉ đạo đã mang lại sức sống mới cho đồng ruộng Quảng Bình quanh năm khô hạn.
Chính nhà báo Phan Văn Khuyến cũng đã cảm khái: “Ông Nguyễn Tư Thoan về cuối đời cũng như ông Kim Ngọc ở Vĩnh Phú, ông ra đi chẳng để lại tài sản riêng tư đáng giá nào, chỉ để lại trên mảnh đất khô cằn này những công trình thủy lợi cho dân thoát đói thoát nghèo. Từ đó quê hương Quảng Bình đi vào công cuộc đổi mới có điều kiện vượt lên, tiến những bước vững vàng”.
Trên đường từ Rào Nan về qua xã Quảng Hòa, chúng tôi ghé thăm nhà văn Hoàng Bình Trọng. Cũng thật ngẫu nhiên, thời chiến tranh ông Trọng làm việc ở Vĩnh Phú nên hiểu khá rõ về ông bí thư Kim Ngọc, khi ông về quê, những câu chuyện của bí thư Nguyễn Tư Thoan lại gợi lên trong ông những day dứt. Bên ấm trà giữa trưa, câu chuyện giữa chúng tôi và nhà văn phải dừng lại nhiều lần bởi nhắc đến ông Thoan, ông Trọng lại nén tiếng nấc nghẹn ngào... Và không chỉ nhà văn Hoàng Bình Trọng, có một lớp người đã vào sinh ra tử, đội bom đội đạn trong chiến tranh cũng day dứt nghẹn ngào như thế khi nhắc đến công lao của ông Nguyễn Tư Thoan.
Với niềm biết ơn sâu sắc ấy với bí thư tỉnh ủy Nguyễn Tư Thoan nên hội cán bộ hưu trí cơ quan Đảng khu vực Nam Quảng Trạch đã có tờ trình xin làm nhà bia tưởng niệm, ghi nhớ công ơn ông Nguyễn Tư Thoan với chữ ký của nhiều bậc lão thành cách mạng, trong đó có người như cụ Nguyễn Thanh, 99 tuổi vẫn ghi những nét chữ gân guốc vào đơn đề nghị xây miếu thờ tưởng nhớ người bí thư tỉnh ủy hết lòng lo cho dân.
Ngôi miếu thờ ấy, nếu được cấp trên đồng ý, sẽ được người dân Quảng Trạch góp cát góp đá và dựng ngay đầu nguồn con đập Rào Nan. Nhưng cho dù chưa xây nên miếu thờ thì trong lòng người dân nơi đây, ông Thoan đã được lập miếu thờ.
Từ con đập Rào Nan, hàng loạt công trình thủy lợi khác đã mọc lên trên đất lửa Quảng Bình giữa những năm tháng mưa bom bão đạn ấy như đập Tiên Lang, Vực Tròn của Quảng Trạch, đập Vực Nồi của Bố Trạch, đập Mỹ Trung ở phá Hạc Hải... do ông Thoan khởi xướng và chỉ đạo đã mang lại sức sống mới cho đồng ruộng Quảng Bình quanh năm khô hạn.
Chính nhà báo Phan Văn Khuyến cũng đã cảm khái: “Ông Nguyễn Tư Thoan về cuối đời cũng như ông Kim Ngọc ở Vĩnh Phú, ông ra đi chẳng để lại tài sản riêng tư đáng giá nào, chỉ để lại trên mảnh đất khô cằn này những công trình thủy lợi cho dân thoát đói thoát nghèo. Từ đó quê hương Quảng Bình đi vào công cuộc đổi mới có điều kiện vượt lên, tiến những bước vững vàng”.
Trên đường từ Rào Nan về qua xã Quảng Hòa, chúng tôi ghé thăm nhà văn Hoàng Bình Trọng. Cũng thật ngẫu nhiên, thời chiến tranh ông Trọng làm việc ở Vĩnh Phú nên hiểu khá rõ về ông bí thư Kim Ngọc, khi ông về quê, những câu chuyện của bí thư Nguyễn Tư Thoan lại gợi lên trong ông những day dứt. Bên ấm trà giữa trưa, câu chuyện giữa chúng tôi và nhà văn phải dừng lại nhiều lần bởi nhắc đến ông Thoan, ông Trọng lại nén tiếng nấc nghẹn ngào... Và không chỉ nhà văn Hoàng Bình Trọng, có một lớp người đã vào sinh ra tử, đội bom đội đạn trong chiến tranh cũng day dứt nghẹn ngào như thế khi nhắc đến công lao của ông Nguyễn Tư Thoan.
Với niềm biết ơn sâu sắc ấy với bí thư tỉnh ủy Nguyễn Tư Thoan nên hội cán bộ hưu trí cơ quan Đảng khu vực Nam Quảng Trạch đã có tờ trình xin làm nhà bia tưởng niệm, ghi nhớ công ơn ông Nguyễn Tư Thoan với chữ ký của nhiều bậc lão thành cách mạng, trong đó có người như cụ Nguyễn Thanh, 99 tuổi vẫn ghi những nét chữ gân guốc vào đơn đề nghị xây miếu thờ tưởng nhớ người bí thư tỉnh ủy hết lòng lo cho dân.
Ngôi miếu thờ ấy, nếu được cấp trên đồng ý, sẽ được người dân Quảng Trạch góp cát góp đá và dựng ngay đầu nguồn con đập Rào Nan. Nhưng cho dù chưa xây nên miếu thờ thì trong lòng người dân nơi đây, ông Thoan đã được lập miếu thờ.
Sưu tầm: T.Quý
(Ghi chú: Tin bài trên được sưu
tầm và đăng tin trên trang web nội bộ VP UBND tỉnh nhằm mục đích phục
vụ thông tin nội bộ cơ quan)
Quảng Bình quê ta ơi - Bùi Thị Thuý( giải nhất dân ca THTH tp HCM)
Bùi Phương Thuý tên thật là Bùi Thị Thuý sinh năm 1993 quê ở Hồng An,
Hưng Hà, Thái Bình. Tốt nghiệp Khoa thanh nhạc loại Giỏi của trường CD
VHNT Thái Bình .Hiện đang là Sinh viên Khoa Thanh Nhạc hệ Đại học chính
quy Học viện Âm nhạc Quốc gia Việt Nam.
Giải Thưởng:
☆ Tuyệt đỉnh song ca 2016
☆ Sao Mai 2015
☆ Giải Nhất Bảng Dân ca, Giải Thí sinh ấn tượng nhất cuộc thi Tiếng hát
truyền hình TP Hồ Chí Minh năm 2014
☆ Giải Nhì Tài năng trẻ HSSV các trường VHNT toàn quốc năm 2012
Bí thư Tỉnh ủy Quảng Bình thời đất lửa
Chiều
nay, nghe anh em làm báo ở Quảng Bình thông báo vừa tái bản có bổ sung
cuốn sách Bí thư Tỉnh ủy Quảng Bình thời đất lửa Nguyễn Tư Thoan, tôi
nhắn tin để xin một cuốn thì ngay tối nay các cháu đang học ở Hà Nội
mang đến tận nhà cho tôi. Thật cảm động trước sự nhiệt tình của các
cháu...
Bí thư
tỉnh ủy Nguyễn Tư Thoan là một cán bộ mà tên tuổi của ông gắn với nhiều
sự kiện trong lịch sử Đảng bộ QB thời chống Pháp và chống Mỹ. Tám năm
làm chủ tịch tỉnh, 15 năm làm bí thư tỉnh ủy, ông là người lãnh đạo gần
dân, hiểu dân, gắn bó với dân. Ông có tài tổ chức và phát động phong
trào quần chúng, ông tổng kết thực tiễn và đưa ra những khẩu hiệu hành
động dễ nhớ nhưng ý nghĩa vô cùng sâu sắc. Phong trào hai giỏi, phong
trào trút gạo trong nồi vì Trị Thiên ruột thịt, xe không qua nhà không
tiếc, bám làng chiến đấu, bám hố bom sản xuất thâm canh... đều gắn với
tên tuổi bí thư tỉnh ủy Nguyễn Tư Thoan.
Cuốn sách
nhỏ này cũng chỉ là tập hợp bước đầu của những người hiểu biết về ông
viết ra bằng tình cảm của trái tim để phần nào đánh giá một cách công
bằng công lao và sự đóng góp cho quê hương ,đất nước của một con người
như ông. Tiếc rằng cho đến nay những người cùng thời với ông còn sống
rất ít và đã quá già yếu...
Đã có bộ
phim Bí thư Tỉnh ủy nói về ông Kim Ngọc lên sóng VTV với nhiều tập hấp
dẫn. Hy vọng cuộc đời và sự nghiệp của Bí thư Nguyễn Tư Thoan sẽ là
những tư liệu quý để có những tác phẩm văn học ,điện ảnh tương tự như bộ
phim Bí thư tỉnh ủy đã chiếu.
Pham Xuan Dong: Năm 1964 bài hát "Quảng Bình quê ta ơi" ra đời đã nhanh chóng đi vào lòng người và cùng với ND QB và ND cả nước trong những năm tháng chiến đấu ác liệt. Bài hát Quảng Bình quê ta ơi của nhạc sỹ Hoàng Vân mãi mãi đi cùng năm tháng trong đó có dấu ấn đặc biệt của bí thư tỉnh ủy Nguễn Tư Thoan,ông đã trực tiếp cùng sinh hoạt động viên gợi mở để nhạc sỹ viết nên bài ca bất hủ đó sau khi bài hát vừa hoàn thành chưa ráo mực ông đã thương ngay cho nhạc sỹ một chiếc đài orionton lúc bấy giờ vô cùng quý giá.
Đặng Ngọc Châu: Anh Quy Do ơi, nhân dân 9 xã vùng Nam thị xã Ba Đồn mong mỏi Nhà nước cho đúc tượng vàng của Bí thư Tỉnh ủy Nguyễn Tư Thoan nhưng chưa được.Nay có tập sách này là cơ sở cho sự đánh giá đúng đắn,công bằng công lao và sự nghiệp của ông .
Hoàng Hạc: Em từng nghe nhiều người kể về Ông với sự kính trọng nể phục. Hình như có một giai đoạn ông bị đối xử không tốt vì nghi ngờ ông... Em được Nguyễn Thị Phúc, con gái ông là bạn học thời CĐ với em kể về ông, thương lắm. Ông thực sự là người suốt cả sự nghiệp CM của mình đẫ hết lòng vì dân vì nước. Nếu có đk thì nên góp nhặt tư liệu để viết và ghi nhớ công lao của ông đối với tỉnh nhà anh ạ.
Một số bài thơ do ông sáng tác và một số bài thơ do bạn bè viết về ông qua giọng ngâm
của cô Nguyễn Thị Thu Hà - Hội viên CLB thơ Ba Trại - Quảng Bình
với sự chỉ đạo chương trình của bác Hoàng Trình - Nguyên cố vấn ban tổ chức TW!
Câu cuối cùng của bài hát Quảng Bình quê ta ơi không nói về Quảng Bình mà kết thúc tha thiết: “Muôn người như một gửi về Trị Thiên tấm lòng sắt son, hẹn ngày chiến thắng ta sẽ về chung một nhà...”. Câu hát đó của nhạc sĩ Hoàng Vân đã bắt nguồn từ câu nói của bí thư Nguyễn Tư Thoan: “Dân Quảng Bình sẵn sàng trút gạo trong nồi cho đồng bào Trị Thiên đánh giặc”. (Theo TTO)
Thơ nhạc NGUYỄN TƯ THOAN "Bí thư tỉnh ủy Quảng Bình thời đất lửa"
Nhận xét
Đăng nhận xét