An Dương Vương
tên thật là Thục Phán. Ông là vị vua duy nhất của triều đại Âu Lạc.
Niên đại trị vì của An Dương Vương theo nhiều sử sách ghi lại là khác
nhau. Trong Đại Việt Sử Kỳ Toàn Thư cho rằng thời gian ông làm vua kéo
dài trong 50 năm từ năm 257 TCN đến 208 TCN. Trong Sử Ký Tư Mã Thiên lại
cho rằng ông làm vua từ 208 TCN đến năm 179 TCN trong 30 năm. Những
nghiên cứu này đều có sự sai lệch nhất định. Nhưng ta chắc chắn rằng
thời kỳ Âu Lạc và An Dương Vương là có thật. Nó hiện diện rõ ràng trong
những di tích và sách lịch sử ghi nhận lại. Không hoàn toàn là truyền
thuyết như thời Hùng Vương.
Trong
thời kỳ Lạc Việt của Hùng Vương, có các bộ tôc gọi là Âu Việt. Họ sống
xen kẻ cùng người Lạc Việt. Hai bộ tộc đã sống chung từ lâu đời và gần
gũi nhau. Sau này khi An Dương Vương lên làm vua đã đổi quốc hiệu thành
Âu Lạc.
Nghi vấn về sự hình thành của Âu Lạc – Kẻ xâm lược hay sự đồng hóa?
Sự
hình thành của Âu Lạc được đặt dưới sự nghi ngờ và nhiều giả thuyết
khác nhau. Âu Lạc đã xâm chiếm Lạc Việt hay là sau những biến cố lịch
sử. Đất nước Lạc Việt đã bị Âu Lạc đồng hóa dần?
Nghi vấn về nguồn gốc của Thục Phán
Nguồn
gốc của Thục Phán, tức An Dương Vương cũng có nhiều tranh cãi. Một số
nhà sử học đã cho rằng Thục Phán là hậu duệ của Trung Quốc. Thời nhà Tần
thống nhất các quốc gia. Thục Phán là hậu duệ của nhà Thục đã chạy
thoát và xuôi Nam. Hình thành nên Âu Việt và sống xen kẻ cùng tộc Lạc
Việt.
Tuy nhiên giả thuyết này bị nghi ngờ về độ chính xác. Xét về
mặt không gian, từ đất Thục lúc bấy giờ đến miền Bắc Việt Nam cách xa
đến 3000km. Và nên nhớ, lúc bấy giờ “rừng thiêng nước độc” và những ngọn
đồi cao là cản lực rất lớn. Khó có thể di dân 3000km để thành lập nên
bộ tộc. Xét về mặt thời gian, An Dương Vương lên ngôi khoảng 200 đến 250
TCN. Nước Thục bị diệt là vào năm 316 TCN. Nên khó có thể Thục Phán –
An Dương Vương là hậu duệ nhà Thục. Thuyết nước Nam Cương và người Tày Cao Bằng
Thuyết
này lấy căn cứ chủ yếu là truyền thuyết “Chín chúa tranh vua” của đồng
bào Tày ở Cao Bằng. Truyền thuyết này đã được Rômanê đuy Caiô nêu từ năm
1880, nhưng trong tay chúng ta không còn tài liệu đó của học giả người
Pháp này. Câu chuyện được Lã Văn Lô dịch thành thơ tiếng Việt đăng lại
trên tạp chí Nghiên cứu Lịch sử số 50 và số 51 năm 1963 . Đây là tài
liệu thu thập được của Sở Văn hóa Việt Bắc.
Từ khi truyền thuyết
được công bố, một số người nghiên cứu đã hướng về Cao Bằng để tìm quê
hương vua Thục. Truyền thuyết áo lông chim của người Tày – Nùng, tục thờ
rùa, truyền thuyết rùa dạy làm nhà, phù hộ người, chống ma quỷ của
người Tày – Thái. Một vài địa danh tiếng Tày bắt gặp ở khu gần Cổ Loa
như làng Viềng (tức Thành) càng tiếp sức cho thuyết vua Thục vốn người
Tày làm chúa nước Nam Cương. Mà trung tâm là huyện Hòa An, tỉnh Cao Bằng
ngày nay.
Tới
nay, vẫn có người tiếp tục đi sâu nghiên cứu. Và suy đoán rằng tộc đảng
Thục Vương đó đã định cư miền gần phía nam Tả Giang, lưu vực Hữu Giang
cùng miền thượng lưu các sông Lô, sông Gâm, sông Cầu.
Sau cuộc
điều tra ở Cao Bằng hồi tháng 7 và 8 năm 1969, các đồng chí Đỗ Đình
Truật và Phạm Như Hồ, viện Khảo cổ học, đã cung cấp những tư liệu có
phần khác. Người sưu tầm và viết lại truyền thuyết này là ông Lê Bỉnh Sư
(còn có tên là Lê Đình Sự). Người Kinh vốn ở Nghĩa Lộ, sau năm 1947 mới
dời về ở tại huyện Hòa An (Cao Bằng). Chính ông Lê Bỉnh Sư kể lại rằng
chuyện do ông sắp xếp lại, có sửa ít nhiều cho các chi tiết được hợp lý.
Gốc chuyện là do ông chú ngày trước kể, nay nhớ lại mà viết để dự cuộc
thi văn nghệ do Sở Văn hóa Việt Bắc tổ chức.
Câu chuyện của truyền
thuyết dân gian là những phần nào. Và chi tiết nào là thuộc phần sửa
chữa của ông Sư? Chưa có chi tiết để làm sáng tỏ. Đỗ Đình Truật và Phạm
Như Hồ đã tìm gặp một số cụ già địa phương để xác minh truyền thuyết.
Nhưng không một ai biết chút nào. Vấn đề còn ở tình trạng chưa được sáng
tỏ. Như vậy, truyền thuyết này không thể đã được coi là căn cứ đáng tin
cho một kết luận khoa học. Và công việc phải tiến hành tức là tiếp tục
điều tra lại để xác minh truyền thuyết. Thuyết Ai Lao Di
Tác
giả đã căn cứ vào truyền thuyết Sơn Tinh – Thủy Tinh, nghiên cứu một
khối lượng khá lớn thần phả, ngọc phả, tục hèm có liên quan. Thấy rằng
Sơn Tinh (tức Thánh Tản viên) là một nhân thần, là người đã có công giúp
vua Hùng đánh Thục trong cuộc chiến tranh chống Thục. Đã “được phản ánh
một cách rất đậm nét, rất cụ thể trong những truyền thuyết về thời Hùng
Vương”. Và “giặc Thục ở đây còn được gọi là giặc Ai Lao, Thục Phán đã
từ Ai Lao đến xâm lược Văn Lang”.
Từ truyền thuyết đối chiếu qua
thư tịch, đặc biệt Nam Man Tây Nam di truyện trong bộ Hậu hán thư và
Thuật dị ký. Tác giả đã tìm ra Tây Thục tức Ai Lao Di, tức nước Thục của
thục Phán. “Đó là một nước đã tồn tại thật sự trong lịch sử: nước Tây
Thục (tức Ai Lao)… ở phía Tây Bắc nước ta ngày nay”. “Cuối đời vua Hùng,
Thục Phán đã từ đây mà xuống xâm lược nước ta. Đó là một cuộc chiến
tranh dai dẳng và khốc liệt, cuối cùng nước Văn Lang bị diệt”. “Nước Tây
Thục (Ai Lao) ở sát nước ta về phía tây bắc.
Nó
nằm trên trục giao thông chủ yếu của nước ta với miền Tây Nam Di là
thung lũng sông Hồng, sông Lô. Tây Thục cũng là một trạm trung gian trên
con đường giao thông quốc tế thời cổ giữa Trung Quốc với các nước phía
tây như Ấn Độ cổ đại”. Tác giả còn có phần chỉ cụ thể: “Đến đời Hán Minh
Đế (58), Ai Lao thuộc hẳn nhà Hán. Nhà Hán lấy đất đó phân làm hai
huyện Ai Lao và Bắc Nam, sau đổi thành Vĩnh Xương, nay là châu tự trị
Đức Hoằng thuộc tỉnh Vân Nam (Trung Quốc) hiện nay”. Thuyết người Lạc Việt nói chung
Từ
chỗ chứng minh rằng Tây Âu, Tây Âu Lạc hay Âu Lạc là một nước có địa
bàn chủ yếu nằm ở lưu vực sông Hồng ngày nay, trùng với bộ phận của địa
bàn rộng lớn của Lạc Việt. Nó bao gồm từ lưu vực sông Hồng tới lưu vực
Tây Giang ngày nay, tác giả chủ trương nước Tây Âu của người Lạc
Việt,.“Trong Lạc Việt có nhiều dân tộc (theo đúng nghĩa dân tộc học ngày
nay) có quan hệ lịch sử, huyết thống nào đó với nhau”.
Đối với
thuyết Ai Lao Di, tác giả cho rằng “những thần tích ghi về việc Thục
Phán cai trị ở Ai Lao là những tài liệu do người sau viết”. Về việc giao
lưu giữa Giao Châu và Ích Châu thì “chỉ hạn chế đến Điền, không vượt
qua khỏi Điền đến Ai Lao Di bao giờ. Ai Lao Di cũng chưa từng trở thành
một nước hùng mạnh và có xu thế phát triển về phía Giao Châu bao giờ”.
“Văn
hóa phương Bắc vào Giao Chỉ không phải qua con đường Ai Lao Di. Con
đường qua Ai Lao Di là một con đường đi Thân Độc Quốc (Ấn Độ), nhưng con
đường cũng chỉ đánh thông được rất muộn về sau. Thời Tần – Hán, Điền là
bức thành chắn ngang đường giao lưu giữa Trung Quốc và Miến Điện, Ấn Độ
ngày nay.
Tất cả những điều nghiên cứu trên dẫn tới việc không
công nhận tên trước Âu lạc hình thành do sự sáp nhập của hai tộc Âu lạc
và tộc Lạc. Mà tên nước này đã xuất hiện ngay từ trước khi thời Hùng
Vương kết thúc. Âu Lạc đã là một nhà nước thật sự
Thời
gian nghiên cứu gần đây, vấn đề này chưa được bàn tới nhiều. Những ý
kiến đã chính thức công bố nêu ra đây không phải khác nhau về điểm Âu
Lạc đã là một nhà nước thật sự. Mà khác nhau ở chỗ Nhà nước Âu Lạc đã
xuất hiện trên cơ sở trình độ sản xuất của thời đại đồng hay thời đại
sắt.
Những mũi tên đồng Cầu Vực được coi là vật tiêu biểu của “văn
hóa đồ đồng ở giai đoạn Âu Lạc”. Và “văn hóa vật chất của tổ tiên ta ở
thời An Dương Vương vẫn chưa khác văn hóa vật chất ở thời Hùng Vương bao
nhiêu, căn bản vẫn là văn hóa đồ đồng”. Đây là một trong những lập luận
cho rằng nước Âu Lạc là một nhà nước của thời đại đồng.
Một
ý kiến khác cho rằng “những di tích văn hóa vật chất thời An Dương
Vương còn để lại trên khu di tích Cổ Loa đã được tìm thấy một số: như
những lưỡi cày đồng ở xóm Nhồi, kho mũi tên đồng với hàng vạn chiếc mà
chúng ta đều biết và có thể là lớp dưới của tầng văn hóa ở di chỉ Bãi
Mèn”. Tuy rằng người viết không nói rõ, nhưng ta hiểu ý đó nói rằng thời
kỳ lịch sử An Dương Vương thuộc thời đại đồng thau.
Di chỉ Đường
Mây được phát hiện và khai quật 2 lần vào năm 1970. Nhiều cục sắt và
mảnh hiện vật bằng sắt được tìm thấy, trên cơ sở đó di chỉ được tạm định
thuộc sơ kỳ thời đại sắt. Đặc biệt, di chỉ Đường Mây nằm trên một doi
đất cao tự nhiên ven sông Hoàng và ven bờ đầm cả và ngay dưới chân thành
ngoài của thành Cổ Loa. Từ lẽ đó, người khai quật di chỉ này quả quyết
rằng “nó (Đường Mây) thuộc về một thời đại trực tiếp trước thời đại của
thành Cổ Loa.
Khi tiến hành xây thành, người ta đã đắp lũy (thành
ngoài) phủ lên trên khu di chỉ này. Biến quả gò trên đó trước đây có cư
dân sinh sống thành một bộ phận của thành ngoài. Vì di chỉ ấy thuộc về
sơ kỳ thời đạt sắt cho nên thời hạn niên đại dưới của thành Cổ Loa không
thể xưa hơn sơ kỳ thời đại sắt. Thành Cổ Loa là một công trình của thời
đại sắt Việt Nam. Điều đó bác bỏ luận điểm cũ của nhiều nhà sử học và
khảo cổ học nói rằng thành Cổ Loa thuộc về thời đại đồng thau phát đạt
của Việt Nam”.
Nghiên cứu sâu hơn nữa về nước Âu Lạc, tác giả của ý
kiến Cổ Loa chỉ có thể là kinh thành của một nhà nước Việt Nam thời cổ,
có trước đời Hán… Nhà nước đó, theo sử cũ là Nhà nước Âu Lạc của An
Dương Vương”. Từ đó tác giả còn rút ra kết luận: “Nước Âu lạc do An
Dương Vương lập đã là một nhà nước thật sự”.
Sự
phân hóa giai cấp là rõ rệt. “Tầng lớp vua chúa quý tộc ở nhà ngói sân
gạch”. Xã hội này đã có trình độ phát triển kinh tế cao, có quyền lực xã
hội mạnh mẽ, kỹ thuật xây dựng cao, trình độ tổ chức cao, và có mức
phát triển cao, của trí tuệ và tài năng sáng tạo, có trình độ nghệ thuật
quân sự rất cao.
Một ý kiến khác cho rằng “văn hóa Âu Lạc” tồn
tại chừng 100 năm trước khi nước Âu Lạc bị tiêu diệt, nghĩa là “văn hóa
Âu Lạc” có hơn nửa thế kỷ song song tồn tại với “văn hóa Văn Lang” và
thuộc thời đại sắt.
Với nhiều giả thuyết mơ hồ đặt ra, ta chỉ có
thể khẳng định Thục Phán là lãnh đạo của tộc Âu Việt. Cư trú ở thượng du
hay chính xác hơn là gần tỉnh Cao Bằng – Việt Nam lúc bây giờ.
Lĩnh Nam Chích Quái cho rằng đó là sự đồng hóa
Truyền
thuyết “Họ Hồng Bàng” trong sách Lĩnh Nam chích quái cũng phản ánh phần
nào cuộc tiếp xúc và đụng độ của người Việt với người Hoa Hạ ở phương
Bắc. Sách có chép” Dân phương Nam khổ vì bị người phương Bắc quấy nhiễu,
không được yên sống như xưa…”. Nước Tần thành lập năm 221 TCN đã mở
rộng những cuộc chiến tranh xâm lược đại quy mô ra cả hai phía bắc, nam
thành lập một đế chế rộng lớn đầu tiên trong lịch sử Trung Quốc. Về phía
Nam tiếp tục kế thừa và phát triển chủ trương ” bình Bách Việt” của
nước Sở trước đây.
Tần Thủy Hoàng đã sai 50 vạn quân xâm lược đất
đai của Bách Việt ở phía Nam Trường Giang. Hàng vạn quân Tần vượt biên
giới tràn vào lãnh thổ phía Bắc và đông bắc nước ta lúc đó. Lúc này hai
tộc người Lạc Việt và Âu Việt (Tây Âu) vốn gần gũi về dòng máu, về địa
vực cư trú, về kinh tế và văn hóa lại có điều kiện liên kết chặt chẽ lại
với nhau hơn trong cuộc chiến đấu chống kẻ thù chung. Theo sách Hoài
Nam Tử, “lúc đó người Việt đều vào rừng ở với cầm thú, không ai chịu
để quân Tần bắt”, và “họ cùng nhau đặt người kiệt tuấn lên làm tướng để
ban đêm ra đánh quân Tần” .
Đó
là hình thức phôi thai của lối đánh du kích và thông qua lối đánh này
mà lực lượng kháng chiến của người Việt ngày càng lớn mạnh; còn quân Tần
dần dần bị dồn vào thế nguy khốn và tuyệt vọng. Trên đà chiến thắng,
người Việt tập hợp lực lượng tổ chức đánh lớn nhằm tiêu diệt sinh lực
địch, đại phá quân Tần, giết chết chủ tướng Đồ Thư, buộc nhà Tần phải
bãi binh. Đây là thắng lợi oanh liệt đầu tiên của cả dân tộc ta chống
lại họa xâm lược của phong kiến phương Bắc.
Trong cuộc chiến đấu
này, vai trò và uy tín của Thục Phán, người thủ lĩnh kiệt xuất của liên
minh bộ lạc Tây Âu ngày càng được nâng cao, không chỉ ở trong bộ lạc Tây
Âu mà còn có ảnh hưởng sâu rộng trong bộ lạc Lạc Việt. Sau khi cuộc
kháng chiến kết thúc thắng lợi, trong điều kiện cộng đồng cư dân Lạc
Việt – Tây Âu đã hình thành và uy tín ngày càng cao của Thục Phán.
Thục Phán đã thay thế Hùng Vương, tự xưng là An Dương Vương, lập ra nước Âu Lạc. Sách Việt sử lược chép rằng “Hùng Vương bị con vua Thục là Phán đánh đuổi mà lên thay” .
Còn một số thần tích và truyền thuyết dân gian lại cho rằng sau nhiều
cuộc xung đột, cuối cùng Hùng Vương theo lời khuyên của con rể là Thánh
Tản Viên đã nhường ngôi cho Thục Phán.
Xây thành Cổ Loa
Sau
chiến thắng trước quân Tần, An Dương Vương quyết định giao cho tướng
Cao Lỗ xây thành Cổ Loa nhằm củng cố thêm khả năng phòng thủ quân sự.
Tục truyền rằng thành xây nhiều lần nhưng đều đổ. Sau có thần Kim Quy
hiện lên, bò quanh bò lại nhiều vòng dưới chân thành. Thục An Dương
Vương bèn cho xây theo dấu chân Rùa vàng. Từ đó, thành xây không đổ nữa.
An Dương Vương cũng phát triển thuỷ binh và cho chế tạo nhiều vũ khí
lợi hại, tạo lợi thế quân sự vững chắc cho Cổ Loa.
Di tích của
thành Cổ Loa vẫn còn lưu lại cho đến nay, cách trung tâm Hà Nội khoảng
20km về phía đông bắc. Đền thờ An Dương Vương nằm ở trung tâm di tích
này. Các nghiên cứu khảo cổ học tại đây vẫn tiếp tục làm sáng tỏ các
thời kỳ lịch sử mà thành đã trải qua.
Mắc mưu và sự sụp đổ của nhà nước Âu Lạc
Triệu
Đà buộc phải dùng kế nội gián bằng cuộc kết hôn giữa con trai mình là
Trọng Thủy và con gái An Dương Vương là Mỵ Châu. Sau khi nắm được bí mật
quân sự của An Dương Vương thông qua con trai, Triệu Đà đã thành công
trong việc chinh phục Âu Lạc, buộc An Dương Vương bỏ chạy và tự tử, kết
thúc thời kỳ An Dương Vương.
Về năm mất của triều đại An Dương
Vương, các tài liệu ghi chép khác nhau. Đa phần sách sử Việt Nam đều
chép là An Dương Vương mất nước năm 208 TCN. Sách giáo khoa của Việt Nam
căn cứ vào Sử ký của Tư Mã Thiên ghi nước Âu Lạc mất năm 179 TCN. Sở dĩ
như vậy vì Sử Ký chép là Triệu Đà diệt nước Âu Lạc “Sau khi Lã Hậu
chết”, mà Lã Hậu chết năm 180 TCN, do đó nước Âu Lạc mất khoảng năm
179TCN.
Giá trị lịch sử to lớn
Nước
Âu Lạc của An Dương Vương chỉ tồn tại trong khoảng thời gian ngắn
(khoảng gần 30 năm), nhưng nó cũng đã có những đóng góp to lớn vào trong
tiến trình phát triển của lịch sử đất nước. Thời kỳ Âu Lạc được đưa vào
thời kỳ lập nước của sử Việt.
Vấn đề nguồn gốc của Thục Phán và sự thành lập nước Âu Lạc
GS.TS Nguyễn Quang Ngọc CN. Trần Minh An (Viện Việt Nam học và Khoa học phát triển)
Thời đại dựng nước đời Hùng Vương – An
Dương Vương với hai thành tựu hết sức cơ bản là sự tạo lập một nền văn
minh Sông Hồng rực rỡ và một hình thái Nhà nước sơ khai- nhà nước Văn
Lang – Âu Lạc, không những khẳng định nước ta có lịch sử dựng nước sớm,
có một nền văn hiến lâu đời, mà còn đặt cơ sở nền tảng cho toàn bộ sự
sinh tồn và phát triển của quốc gia dân tộc Việt Nam. Vì thế vấn đề
nguồn gốc của Thục Phán – An Dương Vương và sự thành lập nước Âu Lạc
phải được coi là một trong những vấn đề cốtlõi của lịch sử Việt Nam. Theo các nguồn tư liệu thư tịch cổ của
Việt Nam và Trung Quốc thì kế tiếp nhà nước Văn Lang đời Hùng Vương là
quốc gia Âu Lạc do Thục Phán – An Dương Vương lập ra. Nhưng Thục Phán –
An Dương Vương là ai, từ đâu đến, quá trình thành lập nước Âu Lạc diễn
ra như thế nào? Vấn đề đã thu hút sự quan tâm của nhiều học giả trong
nước và quốc tế từ hàng trăm năm nay, nhưng không phải tất cả đều đã có
thể đi đến kết luận cuối cùng. Tư liệu thành văn có ghi chép về Thục Phán – An Dương Vương và nước Âu Lạckhông chỉ muộn, nghèo nàn, mà còn có chỗ mâu thuẫn và nhầm lẫn. Nguồn tư liệu khảocổ học tuy có được đặc biệt quan tâm, nhưng vẫn còn tản mạn và chưa được khai tháctriệt để, nhất là hệ thống các di tích, di vật trong lòng đất. Nguồn tư liệu dân gian tuyphong phú nhưng bị bồi phủ bởi quá nhiều các lớp bụi thời gian, khó có thể nhận ra đâulà cái nhân, cái lõi lịch sử đích thực của nó. Vì vậy, cho đến nay, xung quanh vấn đềnguồn gốc Thục Phán – An Dương Vương và sự ra đời của nhà nước Âu Lạc vẫn còn tồntại những ý kiến không giống nhau cũng là chuyện hết sức bình thường. Những ghi chép đầu tiên về nguồn gốc Thục Phán – An Dương Vương có thể tìmthấy trong các thư tịch xưa nhất của Trung Quốc. Sử ký Tư Mã Thiên được viết vàokhoảng thế kỷ I TrCN nhiều lần nhắc đến nước Âu Lạc ở phía tây nam của nước NamViệt, sau bị Triệu Đà xâm chiếm, nhưng lại không cung cấp thông tin gì về Thục PhánAnDương Vương. Các bộ sử được viết trong các giai đoạn sau có ghi chép rõ hơn rằng người thành lập nước Âu Lạc chính là Thục Phán – An Dương Vương. Sách Hậu Hánthư, Phần Quận quốc chí của Phạm Việp khi chép về quận Giao Chỉ có chú thích rõ “đấylà nước cũ của An Dương Vương”. Tác phẩm Bùi thị Quảng Châu ký ra đời thế kỷ thứ Vđược dẫn lại trong Sử ký sách ẩn của Tư Mã Trinh đời Đường thế kỷ thứ VIII cũng chép:“Sau con vua Thục đem quân đánh chiếm, tự xưng là An Dương Vương, sau Nam ViệtVương Úy Đà lại đánh phá An Dương Vương, sai hai sứ cai trị hai xứ là Giao Chỉ và CửuChân, tức là nước Âu Lạc vậy”. Theo Nam Việt chí được dẫn lại trong Cựu Đường thư,phần Địa lý chí biên soạn thế kỷ X thì: “Vua nước Thục cho con là An Dương Vương caitrị đất Giao Chỉ. Nước ấy nay nằm về phía đông huyện Bình Đạo”. Các thư tịch cổ Trung Quốc đều chép thống nhất rằng An Dương Vương là convua Thục (Thục Vương tử), nhưng không cho biết cụ thể vua Thục là ai và nước Thục lànước nào, ở đâu. Các nguồn thư tịch cổ Việt Nam có ghi chép rõ ràng hơn về nguồn gốc của ThụcPhán – An Dương Vương. (Đại) Việt sử lược – bộ sử biên niên thời Trần chép: “Cuối đờiChu, Hùng Vương bị con vua Thục là Phán đánh đuổi mà lên thay”1. Kế tiếp đó, Đại Việtsử ký toàn thư, đã có một kỷ riêng, kỷ nhà Thục (Quyển I, Ngoại kỷ) để chép về ThụcPhán- An Dương Vương và nước Âu Lạc: “[An Dương Vương] Họ Thục, tên huý là Phán,người Ba Thục, ở ngôi 50 năm, đóng đô ở Phong Khê (nay là thành Cổ Loa)”2. Các bộ ĐạiViệt sử ký tiền biên, Việt sử tiêu án, Khâm
Định Việt sử thông giám cương mục… cũng đều ghi chép những thông tin
tương tự. Nhìn chung, các sử gia phong kiến Việt Nam đều cho rằng Thục
Phán – An Dương Vương, người gốc Ba Thục (Tứ Xuyên, Trung Quốc) lậpnước Âu Lạc vào năm 257 TrCN. Điều có thể dễ dàng nhận ra ngay được là nước Thục (Ba Thục) đã bị nhà Tần diệtvào năm 316 TrCN. Vua Thục cuối cùng là Khai Minh đã bị giết ở Vũ Dương và thái tửcon vua Thục cũng đã chết ở Bạch Lộc Sơn. Vậy “con vua Thục” trong thư tịch cổ ghichép là ai và làm sao mà vượt hàng ngàn dặm
núi rừng, đi qua lãnh thổ của nhiều nước ở vùng Tây Nam Di để từ đất Ba
Thục mà tiến đánh Văn Lang năm 257 TrCN được? Mâuthuẫn về cả không gian và thời gian là cơ sở dẫn đến những nghi ngờ và phủ định giảthuyết về nguồn gốc Ba Thục của Thục Phán – An Dương Vương. Ngay trong Khâm định Việt sử thông giám
cương mục, các sử gia triều Nguyễn mặc dù vẫn ghi chép Thục Phán là con
vua Thục, nhưng với thái độ hoài nghi và đề xuất khả năng Thục Phán
xuất thân từ một họ Thục khác ở “ngoài cõi Tây Bắc giáp nước VănLang… mà sử cũ nhận là Thục Vương”3 Đến nửa cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX, thái độ hoài nghi càng gia tăng và bộclộ thành khuynh hướng cực đoan phủ định hoàn toàn tính chân thực của nhân vật ThụcPhán – An Dương Vương cũng như lai lịch Ba Thục của ông. Sang đầu thế kỷ XX, TrầnTrọng Kim, Ngô Tất Tố cũng cùng chung quan niệm như thế. Trần Trọng Kim quan niệmcác câu chuyện được chép từ thời Hồng Bàng cho đến hết thời nhà Triệu “phần nhiều lànhững chuyện hoang đường, huyền hoặc cả”4. Còn Ngô Tất Tố thì nói thẳng ra rằng:“Nước Nam không có ông An Dương Vương nhà Thục”5 . Học giả Pháp H.Maspéro cũngcho An Dương Vương là một nhân vật chưa chắc đã có trong lịch sử, là một ông vuahuyền thoại, vì sử cũ chỉ chép theo truyền
thuyết mà thôi.6 Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, công cuộc nghiên cứu
về An Dương Vương – Âu Lạc được gắn liền trong bối cảnh chung thời đại
dựng nước và giữ nước đầu tiên của dân tộc, nhiều phát hiện mới về tư
liệu, đặc biệt là các tư liệu khảo cổ học, tư liệu dân tộc học… cho phép
đặt ra những kiến giải mới. GS. Đào Duy Anh trong các chuyên khảo về
lịch sử Việt Nam cổ đại đã cho rằngAn Dương Vương là người gốc nước
Thục song đã rời xuống khu vực phía Bắc Việt Nam cư trú từ lâu đời: “Sau
khi thái tử nhà Thục (Ba Thục – thời Chiến Quốc) chết ở Bạch Lộc Sơn
thì dư chúng theo sông Mân Giang mà xuống miền Nam để tránh quân Tần.
Trong đám dư chúng ấy, tất còn sót một số con hoặc cháu của vua Thục… Có
lẽ con cháu vua Thục đã đánh thắng một bộ lạc mà chiếm một khoảng đất
trên sông Hồng Hà giữa địa bàn người Thái và địa bàn người Việt, rồi
nhóm họp đảng chúng lại thành một bộ lạc như các bộ lạc xung quanh nhưng
cũng tự xưng là Thục Vương để nhớ lại nghiệp cũ của ông cha… Được một
vài đời đến Thục Phán”7. Tuy nhiên chính GS. Đào Duy Anh cũng tự nhận
thấy sự thiếu cơ sở thuyết phục trong nhận định của mình và coi nhận
định này chỉ là ức thuyết mà thôi. Các GS. Trần Quốc Vượng, Hà Văn Tấn
thì phỏng đoán: Thục Vương trong thư tịch cổ không phải là vua nước Thục
ở Ba Thục mà là tù trưởng bộ lạc Khương di cư từ đất Thục xuống phía
Nam và tự xưng là Thục Vương. Bộ lạc Thục đó di cư xuống vùng Quảng Tây
và Bắc Bộ, cộng cư và đồng hoá với người Tây Âu ở vùng này. Nước Âu Lạc
bao gồm hai thành phần cư dân: Tây Âu và Lạc Việt8. Năm 1963, với việc Tạp chí Nghiên cứu lịch sử công bố truyền thuyết “Cẩu chủa cheng vùa” (Chín chúa tranh vua) của người Tày ở Cao Bằng, nhiều vấn đề về nguồn gốcThục Phán – An Dương Vương đã dần dần được sáng tỏ. Theo truyền thuyết này thì Thục Phán là con Thục Chế, vua nước Nam Cương gồm 10 xứ mường, trong đó, một xứ mường trung tâm là nơi vua ở, còn 9 xứ mường xung quanh do chín chúa mường cai trị. Lãnh thổ của nước Nam Cương thuộc vào khoảng Cao Bằng và vùng nam Quảng Tây (Trung Quốc) ngày nay. Thục Chế mất, Thục Phán lên làm vua, tuy còn nhỏ tuổi nhưng đã dùng mưu trí quy phục được cả chín chúa mường, xây dựng nước Nam Cương hùng mạnh. Sau đó, Thục Phán đã lãnh đạo bộ tộc đánh thắng Văn Lang, hợp nhất lãnh thổ, lập ra nước Âu Lạc. Truyền thuyết về Chín chúa tranh vua còn được minh chứng bằng các di tích, di vật và địa danh cụ thể như Tổng Lằn (xã Thịnh Vượng, huyện Nguyên Bình), Tổng Chúp, Khau Lừa, cây đa cổ thụ ở Cao Bình, đôi guốc đá khổng lồ ở bản Thành… (các xã Hưng Đạo và Bế Triều, huyện Hoà An, Cao Bằng)9. Sau khi truyền thuyết trên được công bố, nhiều nhà nghiên cứu đã hướng về CaoBằng để tìm quê hương Thục Phán và hầu như
cho đến nay đều tin rằng Thục Phán là thủ lĩnh một liên minh bộ lạc
người Tây Âu (hay người Tày cổ) ở vùng núi phía bắc Bắc Bộ (Việt Nam) và
nam Quảng Tây (Trung Quốc), mà trung tâm là Cao Bằng10. Một sốchuyên gia hàng đầu trước đây cũng bắt đầu điều chỉnh lại chủ thuyết của mình. GS. ĐàoDuy Anh cho biết: “Sự phát hiện truyền thuyết của người Tày trên kia đã khiến chúng tôithay đổi ít nhiều ý kiến trong cái ức thuyết về sự thành lập nước Âu Lạc mà chúng tôi đãtrình bày trong sách Lịch sử cổ đại Việt Nam. Sự điều chỉnh của GS. Đào Duy Anh chínhlà giải thích rõ hơn phạm vi của nước Nam Cương và vai trò của Thục Phán. Ông viết:“Chúng ta có thể nói một cách đại khái rằng miền Nam sông Tả Giang và lưu vực sôngHữu Giang cùng với miền thượng lưu các sông Lô, sông Gầm, sông Cầu là địa bàn sinhtụ của những bộ lạc Tây Âu họp thành bộ lạc liên hiệp Nam Cương mà Thục Phán là tùtrưởng tối cao”11. Năm 1969, Nguyễn Linh với bài Bàn về nước Thục của Thục Phán đăng trên Tạpchí Nghiên cứu lịch sử lại đưa ra một
thuyết mới về nguồn gốc của Thục Phán. Tác giả giải thích nước Thục
trong ghi chép của thư tịch cổ là nước Tây Thục, tức Ai Lao ở phíaTây Bắc nước ta ngày nay12 Nguyễn Duy Hinh trong bài Bàn về nước Âu Lạc và An Dương Vương cho rằngThục Phán là người đứng đầu một nhóm Lạc Việt, Tây Âu là một nước của người LạcViệt, do đó cuộc chiến tranh Hùng – Thục thực chất là cuộc đấu tranh trong nội bộ ngườiÂu Lạc13. Như vậy có nhiều ý kiến khác nhau về nguồn gốc của Thục Phán, tuy nhiên cácnhà nghiên cứu hiện nay trên căn bản đều thống nhất phủ định thuyết về nguồn gốc BaThục của Thục Phán và phần nhiều đều tin rằng ông là người Tày cổ, thủ lĩnh của liênminh bộ lạc Tây Âu mà trung tâm là Cao Bằng. Mặc dù truyền thuyết Chín chúa tranh vua đã được sửa sang, thêm thắt theo quanniệm dân gian, nhưng nó vốn là một truyền thuyết cổ và chứa đựng nhiều nhân tố hợp lýcần phải được khai thác triệt để và nghiên cứu kỹ lưỡng. Hơn thế nữa, những tập tục,truyền thuyết dân gian sưu tập được tại Cổ Loa và vùng phụ cận cũng phù hợp với cáchlý giải nguồn gốc Thục Phán – An Dương Vương là người Tày cổ giống như truyềnthuyết Chín chúa tranh vua. Tâm thức dân gian vùng Cổ Loa luôn ghi
nhớ về nguồn gốc “người thượng du”, “một tù trưởng miền núi” của vua
Thục. Thậm chí truyền thuyết còn nói rõ quê gốc của Thục Phán – An Dương
Vương là Cao Bằng. Dân gian còn nhắc nhiều đến Cao Lỗ – vị tướng tài
năng và thân tín vào bậc nhất, anh em kết nghĩa của An Dương Vương –
cũng quê gốc ở Cao Bằng. Nhiều vị tướng khác của Hùng Vương – An Dương
Vương hoạt động ở Cổ Loa và khu vực xung quanh Cổ Loa được dân gian giải
thích là người miền núi phía Bắc như Nồi Hầu – một bộ tướng tài giỏi
của An Dương Vương, người Hương Canh (Vĩnh Phúc), nhưng tổ ba đời lại ở
miền Tuyên Quang; Niệm Hưng, Niệm Hải, hai tướng của Hùng Vương được thờ
ở làng Lỗ Khê (Liên Hà, Đông Anh) cũng mới từ Cao Bằng xuống sống ở đây
được một đời. Các truyền thuyết An Dương Vương xây thành Cổ Loa, Mỵ Châu – Trọng Thuỷ phổ biến trong tâm thức dân gian ẩn chứa nhiều chi tiết gợi ra mối dây liên hệ giữa vùng đất Cổ Loa với các bộ tộc Tày – Thái xưa. Rùa Vàng – Thần Rùa giúp An Dương Vương
diệt yêu quái là tinh Gà Trắng và xây thành không bị đổ. Rùa Vàng và Gà
Trắng chính là những linh vật mang đầy ý nghĩa biểu tượng trong quan
niệm truyền thống của các tộc người Tày-Thái. Trong kho tàng truyện kể
dân gian Tày còn nhiều mẫu kể liên quan đến Rùa như thần Rùa làm nhà,
tướng Rùa giết giặc, rể Rùa ra quân… Trong phong tục người Tày vẫn còn
hàng loạt lễ thức có liên quan đến Rùa Vàng. Người Tày và người Thái đều
có tập tục nuôi rùa trong nhà, thờ mai rùa vàng, treo bùa mai rùa và
đeo móng rùa vào cổ trẻ nhỏ để đuổi ma trừ tà ám hại14… Rùa, đặc biệt là
Rùa Vàng trong tâm thức người Tày – Thái chính là hiện thân của thần
linh phò trợ cho con người sản xuất và chống lại kẻ thù, diệt trừ các
thế lực yêu ma. Rùa là con vật thuộc tính dương mang đến điều tốt đẹp, tượng trưng cho ân nghĩa. Ngượclại với Rùa Vàng là biểu tượng Gà Trắng – thuộc tính âm, thường được coi là “vật ký tháclinh hồn”. “Trong tín ngưỡng Tày cổ, Gà Trắng gắn liền với bóng đêm và sự chết chóc”15. Gà Trắng nhìn chung bị coi là con vật
đem đến tai hoạ, xui xẻo, được gọi là Cáy háo (Gà tang)16. Người Tày vì
thế có tục kiêng nuôi gà trắng, kiêng ăn thịt gà trắng trong các dịp lễ
vui vẻ, mừng việc hỷ… Từ ý niệm đến phong tục tập quán của người Tày về
Rùa Vàng và Gà Trắng cho thấy sự tương đồng với những chi tiết trong
truyền thuyết An Dương Vương xây thành Cổ Loa. Những nét tương đồng ấy
phải chăng có cội nguồn từ nguồn gốc Tày cổ của Thục Phán – An Dương
Vương? Vì nhà vua là người Tày cổ nên những quan niệm, phong tục cổ của
người Tày đã được đưa đến vùng đất Cổ Loa, trở thành một bộ phận không
thể thiếu của truyền thuyết đắp thành Cổ Loa, dựng nước Âu Lạc. Về chi tiết Mỵ Châu rắc áo lông ngỗng chỉ đường cho Trọng Thuỷ cũng gần gũi với hình ảnh “một người con gái Tày đánh dấu chỉ đường bằng cách rắc áo lông ngỗng bứt ra từ chiếc áo trên mình trong sinh hoạt nương rẫy”17. Hay ngay cả cái tên Mỵ Châu cũng có thể được giải thích là xuất phát từ chữ Mẻ Châu trong tiếng Tày, có nghĩa là Bà Chúa Lớn. Một chi tiết khá đặc biệt khác là ở Cao
Bằng hiện nay vẫn còn lưu truyền huyền thoại về thành Nà Lự của Bế Khắc
Thiệu chống lại triều đình nhà Lê năm 1430(18). Câu chuyện Bế Khắc Thiệu
xây thành và làm nỏ thần gần như được mô phỏng theo truyền thuyết Rùa
Vàng. Điều đáng được quan tâm nữa là người Tày ở Nà Lự hiện nay khi nhắc
tới huyền thoại này lại giao tiếp bằng một thứ ngôn ngữ Tày đậm đặc từ
Việt cổ19. Huyền thoại về thành Nà Lự phổ biến trong tâm thức dân gian
Tày và truyền thuyết An Dương Vương trong tâm thức người Việt, nhất là ở
vùng Cổ Loa phải chăng là có cùng một nguồn cội sâu xa? Khi nghiên cứu địa danh khu vực Cổ Loa, các nhà dân tộc học cũng tìm thấy nhiềuđiểm tương đồng với văn hoá truyền thống cũng như ngôn ngữ của tộc người Tày Thái.GS. Trần Quốc Vượng nhận thấy sự xuất hiện một số từ thuộc ngôn ngữ Tày cổ còn lưulại trong địa danh khu vực Cổ Loa, trong đó quan trọng nhất là địa danh “Viềng”. Viềngtrong tiếng Tày cổ có nghĩa là thành, xuất phát từ việc An Dương Vương xây thành trênđất Cổ Loa. Có thể chữ “Viềng” sau được dân gian dùng để gọi tên một số làng trongphạm vi khu vực thành Cổ Loa xưa. Đặc biệt hơn là khi nghiên cứu cấu trúc thành CổLoa, các nhà dân tộc học nhận thấy rất rõ nét tương đồng của nó so với kết cấu thànhXam Mứn của người Thái xây dựng khoảng thế kỷ XIII-XIV ở Mường Thanh (Điện BiênPhủ). Hai toà thành này về cơ bản đều có ba lớp luỹ thành. Thành Xam Mứn được xâydựng ven sông Nậm Rốm có ba vòng là: Vòng thành trong gọi là Viềng công, vòng thànhgiữa gọi là Viềng tó, vòng thành ngoài gọi là Viềng nọ. Đồn canh của thành gọi là Che;phía ngoài Che có những luỹ bảo vệ gọi là Dom Che. Không chỉ giống về cấu trúc mà têngọi các bộ phận thành của thành Cổ Loa cũng tương tự thành Xam Mứn. Những địa danhcòn ở Cổ Loa như: Tó, Dục Nội, Uy Nỗ, Cường
Nỗ, Kính Nỗ… chính là mang âm nguyên gốc hoặc biến âm từ những Đồn-
Tó-Nọ… trong tiếng Tày – Thái20. Có thể hình dung người Tày cổ – bộ tộc
Tây Âu biết cách đắp thành từ rất sớm, đã đem kinh nghiệm đắp thành
xuống vùng đồng bằng, tích hợp với kỹ thuật đắp đê truyền thống của
người Lạc Việt tại đây. Cuối cùng, một toà thành Cổ Loa đồ sộ và kiên cố
đã được xây dựng nhờ sự chung sức của cả hai cộng đồng Tây Âu và Lạc
Việt. Điều này cũng góp phần cho thấy mối liên hệ mật thiết giữa vùng Cổ
Loa và miền núi phía Bắc, giữa An DươngVương và người Tày cổ. Nhà Thái học Cầm Trọng khi nghiên cứu sử
thi Táy Pú Xớc đã đưa ra một gợi ý khá thú vị là Thục Phán chỉ là tên
phiên âm Hán – Việt của Túc Phắn, mà Túc Phắn là nhân vật Pú Túc Phắn
(Ông Đánh Chém – Thủ lĩnh chinh chiến) trong Táy Pú Xớc của người Thái.
Giả thuyết này đã được GS Trần Quốc Vượng và nhiều người nghiên cứu lịch
sử – văn hoá Việt Nam đồng tình21 Nguồn tư liệu dân gian còn cho thấy lòng
tôn kính của người dân Cổ Loa đối với Thục Phán – An Dương Vương. Người
dân Cổ Loa hết sức tự hào vì quê hương họ được chọn làm đất đóng đô của
An Dương Vương, vì những vòng luỹ thành bao quanh làng mình xưa là
thành trì của vua Thục. Họ luôn luôn coi toà thành là thánh địa, là một
khu vực bất khả xâm phạm. Hương ước Cổ Loa lập đầu thế kỷ XX, điều 47 quy định rất cụthể việc giữ gìn và bảo vệ nguyên trạng toà thành Cổ Loa cổ kính. Việc thờ cúng An Dương Vương đã trở thành truyền thống văn hoá – tín ngưỡng lớn ở Cổ Loa. Lễ tế An Dương Vương hàng năm và cả trong cúng Tết của người Cổ Loa không thể thiếu món bánh chưng tròn dài, gọi là Bánh chưng Tày. Lễ hội ở đền Thượng (ngày 6 tháng Giêng) luôn được tổ chức một cách chu đáo và trở thành một lẽ sống thiêng liêng của mỗi một người dân trong vùng: “Chết thì bỏ con bỏ cháuSống thì không bỏ mồng sáu tháng Giêng”. Những tư liệu dân gian như thế chắc chắn còn phải được tiếp tục lọc nhiễu và phântích, nhưng đặt trong mối quan hệ tổng thể với các nguồn tư liệu thư tịch và nhất là tưliệu khảo cổ học được phát hiện trong mấy thập kỷ gần đây, đã xác nhận một cách rõràng nguồn gốc người Tày cổ của Thục Phán – An Dương Vương. Thục Phán – AnDương Vương là thủ lĩnh của liên minh bộ lạc Tây Âu sống liền kề bộ lạc Văn Lang chứkhông phải là con vua nước Thục ở mãi tận Tứ Xuyên, Trung Quốc. Chỉ có vậy mới cóthể giải thích được những truyền thuyết, những địa danh, những nét tương đồng văn hoáđã trình bày ở trên cũng như thái độ cảm
mến và kính ngưỡng của dân gian đối với người anh hùng dựng nước Thục
Phán – An Dương Vương. Năm 221 Tr CN, Tần Doanh Chính kết thúc
cuộc nội chiến thời Chiến Quốc, thống nhất lãnh thổ toàn Trung Hoa, dựng
nên một đế quốc tập quyền lớn mạnh, tự xưng là Tần Thủy Hoàng đế và
tiến hành chiến tranh mở rộng lãnh thổ ra hai phía Bắc, Nam. Ởphía Nam, kế tục mưu đồ “bình Bách Việt” của nước Sở trước đây, năm 218 TrCN, nhàTần đã phát 50 vạn quân do Đồ Thư cầm đầu chia làm 5 đạo đi chinh phục Bách Việt.Sau khi chiếm được đất Đông Việt, Mân Việt lập ra các quận Nam Hải, Quế Lâm, TượngQuận, năm 214 TrCN, quân Tần đã áp sát địa bàn Tây Âu và Lạc Việt. Cao Bằng- trungtâm của nước Nam Cương của Thục Phán đã trở thành tuyến đầu của cuộc kháng chiếnchống Tần của cả hai bộ tộc Tây Âu, Lạc Việt. Theo sách Hoài Nam tử thì: “Trong banăm [quân Tần] không cởi giáp dãn nỏ. Giám Lộc không có đường chở lương, lại lấybinh lính đào cừ cho thông đường lương để đánh nhau với người Việt. Giết được quântrưởng Tây Âu là Dịch Hu Tống”22. Có thể hình dung cuộc chiến đấu đã diễn ra vô cùng ác liệt và về phía lực lượng kháng chiến cũng không tránh khỏi tổn thất nặng nề. Tuy vậy sự hy sinh của người dân và tù trưởng Tây Âu Dịch Hu Tống trên tuyến đầu không làm cho Tây Âu, Lạc Việt nao núng. Trái lại, vẫn theo sách Hoài Nam tử , lúc đó trước thế mạnh
của quân Tần “người Việt vào rừng ở với cầm thú, không chịu để cho quân
Tần bắt. Họ cùng nhau đặt người kiệt tuấn lên làm tướng để ban đêm ra
đánh nhau với quân Tần”23. Người kiệt tuấn đó không phải ai khác mà chính là Thục Phán. Việc cả Nam Cương và Văn Lang, cả Âu Việt và Lạc Việt đều thống nhất cử Thục Phán làm người chỉ huy chung cao nhất toàn bộ cuộc kháng chiến đã phản ánh sự trưởng thành vượt bậc của tinh thần yêu nước, của ý chí đoàn kết quyết tâm bảo vệ trọn vẹn non sông, lãnh thổ. Thần tích đền Chèm (Từ Liêm) và sách Lĩnh Nam chích quái cho biết trước cuộc tấncông của quân Tần, An Dương Vương đã cống Lý Ông Trọng cho quân Tần để cầu hoà.Lý Ông Trọng (Lý Thân) vốn không phải là tướng của An Dương Vương mà là tướngcủa Hùng Vương thuộc nước Văn Lang. Chi tiết này xác nhận An Dương Vương thực sựlà người đứng đầu lãnh đạo kháng chiến và đại diện chung cho toàn bộ cộng đồng NamCương, Văn Lang. Hai tộc người Lạc Việt và Âu Việt vốn
gần gũi về dòng máu, về địa vực cư trú, về kinh tế và văn hoá lại có
điều kiện liên kết chặt chẽ với nhau hơn trong cuộc chiến đấu chống kẻ
thù chung là quân Tần dưới sự lãnh đạo chung của Thục Phán. Lực lượng
kháng chiến của người Việt do biết đoàn kết thành một mối, có tổ chức và
chỉ đạo thống nhất đã phát triển nhanh chóng, trong khi quân Tần càng
ngày càng bị dồn vào tình thế nguy khốnvà tuyệt vọng. Trên đà chiến thắng, người Việt (Âu Việt và Lạc Việt) tổ chức các trận đánhlớn liên tiếp tiêu diệt sinh lực địch, đại phá quân Tần, giết chết chủ tướng Tần là Đồ Thư,buộc nhà Tần phải bãi binh24. Đây là thắng lợi oanh liệt đầu tiên của dân tộc Việt Nam ta chống lại hoạ xâm lược và nô dịch của kẻ thù phương Bắc. Trong cuộc chiến đấu này, vai trò và uy tín của Thục Phán, người thủ lĩnh kiệt xuất của liên minh bộ lạc Tây Âu ngày càng
được nâng cao, không chỉ ở trong bộ lạc Tây Âu mà còn có ảnh hưởng sâu
rộng trong cả bộ lạc Lạc Việt. Sau khi kháng chiến kết thúc thắng lợi,
trong điều kiện cộng đồng cư dân Lạc Việt – Tây Âu đã hình thành và uy
tín của Thục Phán ngày càng cao, Thục Phán đã quyết định thay thế Hùng
Vương, tự xưng là An Dương Vương, lập ra nước Âu Lạc. Tên nước Âu Lạc bao gồm hai thành tố là
Âu (Tây Âu/ Âu Việt) và Lạc (Lạc Việt), phản ánh sự liên kết của hai
nhóm người Lạc Việt và Tây Âu. Trong triều vua Thục vẫn có Lạc hầu và
các địa phương vẫn do Lạc tướng cai quản – nghĩa là trên căn bản nhà
nước Âu Lạc vẫn được tổ chức theo mô hình nhà nước Văn Lang của Hùng
Vương. Lãnh thổ nước Âu Lạc cũng được mở rộng trên cơ sở sáp nhập hai
vùng lãnh thổ Văn Lang và Nam Cương. Trong quá trình thành lập nước Âu
Lạc chắc chắn không tránh khỏi những mâu thuẫn, thậm chí là cả những
xung đột, chống đối như sách (Đại) Việt sử lược và một số thần tích,
truyền thuyết dân gian phản ánh. Tuy nhiên phải thấy rõ một thực tế là
nước Âu Lạc ra đời trong hào quang chiến thắng, sự thành lập nước Âu Lạc
gắn liền với thắng lợi vang dội của cuộc kháng chiến chống Tần do Thục
Phán lãnh đạo chứ hoàn toàn không phải là một cuộc chiến tranh thôn
tính. Đây về căn bản chỉ là kết quả của một quá trình hợp nhất cư dân và
đất đai của Lạc Việt và Âu Việt, của vua Hùng và vua Thục. Vì vậy, nước
Âu Lạc là một bước phát triển mới, kế tục và cao hơn nước Văn Lang.
Nước Âu Lạc chỉ tồn tại trong khoảng thời gian không đầy 30 năm (từ năm
208 đến năm 179 tr CN), nhưng cũng đã có những đóng góp đặc biệt to lớn
vào trong tiến trình phát triển của lịch sử đất nước. Thành quả nghiên cứu về nguồn gốc Thục
Phán – An Dương Vương và sự hình thành nước Âu Lạc mấy chục năm qua đã
góp phần làm sáng rõ thời đại dựng và giữ nướcđầu tiên trong lịch sử Việt Nam, thời đại đắp móng xây nền và quyết định đường hướngphát triển của lịch sử đất nước. Việc hiểu rõ nguồn gốc Thục Phán – An Dương Vương vàsự thành lập nước Âu Lạc còn là cơ sở để
nhìn nhận một cách chính xác khuynh hướng vận động chủ đạo của của lịch
sử Việt Nam là đoàn kết, tập hợp mọi thành phần cư dân, mọi lực lượng
của đất nước trong sứ mệnh lịch sử chung. Quá trình hình thành và phát
triển của lịch sử Việt Nam là quá trình vừa mở rộng, vừa quy tụ; quy tụ
là cơ sở để mở rộng và mở rộng lại làm tăng thêm sức quy tụ. Lịch sử
Việt Nam là lịch sử của một cộng đồng cư dân nhiều tộc người, có tộc
người đa số, có những tộc người thiểu số, có những tộc người gia nhập
cộng đồng ngay từ thời kỳ đầu dựng nước, có những tộc người gia nhập
cộng đồng muộn hơn, nhưng một khi đã tự nguyện hoà chung vào cộng đồng
dân tộc Việt Nam thì đều chung sức, chung lòng xây dựng và bảo vệ đất
nước. Họ đều là những chủ nhân chân chính và vĩ đại nhất của lịch sử
Việt Nam.
Hà Nội, Tháng 5-2006
Chú thích:
1 Đại Việt sử lược, quyển I, tr 1a, bản dịch, Nxb Văn Sử Địa, Hà Nội, 1960, tr 14. 2 Đại Việt sử ký toà n thư, tập I, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1993, tr 135.3 Khâm Định Việt sử thông giám cương mục, tập I, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 1998, tr 9. 4 Trần Trọng Kim, Việt Nam sử lược, 1928, tr 3.5 Ngô Tất Tố, Tao đà n, số 3, ngà y 13/4/1939. 6 H.Maspéro, Bulletin Critique, trong Toung Pao, Vol 3, tr 373-379. 7 Đào Duy Anh, Cổ sử Việt Nam, Tập san Đại học Sư phạm chuyên san, Hà Nội, 1956, tr 63-64. 8 Trần Quốc Vượng, Hà Văn Tấn, Lịch sử chế độ cộng sản nguyên thuỷ ở Việt Nam, Nxb Giáo dục,Hà Nội, 1960, tr 51-56.9 Văn hoá và lịch sử các dân tộc trong nhóm ngôn ngữ Thái Việt Nam, Nxb Văn hoá Thông tin, HàNội, 2002, tr 54; 57-59. 10 Đặng Nghiêm Vạn, Trần Quốc Vượng, Vấn
đề nguồn gốc An Dương Vương và lịch sử dân tộc Tà y ở Việt Nam, Thông
báo khoa học- Sử học, Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội, tập II, 1966, tr
74-82. 11 Đà o Duy Anh, Đất nước Việt Nam qua các đời, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1964, tr 20-22.12 Nguyễn Linh, Bà n về nước Thục của Thục Phán, T/c NCLS, số 124, 7/1969, tr 33-51. 14 Vũ Anh Tuấn, Cần phải tìm hiểu mẫu kể
An Dương Vương trong mối quan hệ văn hoá Tà y – Việt,trong Văn hoá và
lịch sử người Thái ở Việt Nam, Nxb Văn hoá dân tộc, Hà Nội, 1998, tr
185-186.15 Vũ Anh Tuấn, Sđd, tr 187. 16 Vũ Anh Tuấn, Sđd, tr 188.17 Vũ Anh Tuấn, Sđd, tr 193. 18 Ngô Sĩ Liên, Đại Việt sử ký toà n thư, tập II, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1998, tr 305. 19 Vũ Anh Tuấn, Sđd, tr 183.13 Nguyễn
Duy Hinh, Bà n về nước  u Lạc và An Dương Vương, T/c Khảo cổ học, số
3+4, 12/1969, tr144-154.20 Theo Trần Quốc Vượng, Suy nghĩ thêm về
thà nh Cổ Loa, nước Âu Lạc, An Dương Vương trongPhát hiện Cổ Loa năm
1982, Sở Văn hoá thông tin Hà Nội, 1982, tr 136-144. 21 Văn hoá và lịch sử các dân tộc trong nhóm ngôn ngữ Thái Việt Nam, Nxb Văn hoá Thông tin, HàNội, 2002, tr 3422 Lưu An, Hoà i Nam Tử, Nhân gian huấn, quyển 18.23 Lưu An, Hoà i Nam Tử, Sđd, quyển 18. 24 Lưu An, Hoà i Nam Tử, Sđd, quyển 18.
Đời sống vật chất của ông cha chúng ta trong thời cổ xưa dĩ
nhiên là khó khăn, chật vật hết sức. Sử sách tới nay chưa có sự kê cứu
rõ rệt về vấn đề này vì đây là một vấn đề thuộc về thuở tiền sử và
khuyết sử.
Ta có thể căn cứ vào câu “Ăn lông ở lỗ” để hình dung đại khái đời
sống của người thượng cổ khi còn man dã. Dân tộc nào trên thế giới buổi
nguyên thủy đều cũng vậy. Họ đã sống như bầy thú, trú ngụ trong các hang
hốc. Họ lấy lá che thân, làm lều, túp lên các cành cây. Ăn thì ăn sống,
nuốt thì nuốt tươi khi chưa biết dùng lửa. Hàng ngày rủ nhau săn bắn
hoặc chài lưới, để tìm ra thực phẩm. Cuộc sống luôn luôn phải di chuyển
vì chưa tìm ra được nhiều khả năng kinh tế (khi chưa có nghề giồng cây,
giồng lúa, chế tạo các
dụng cụ) và chống với Thiên Nhiên tàn bạo. Tâm hồn lúc nào cũng bị
hoảng hốt vì mọi vật (động vật hay cả bất động vật) đều có thể là thù
nghịch của họ. Họ cảm thấy mình là những sinh vật nhỏ mọn, yếu đuối vật
vờ giữa cái vũ trụ mênh mông, bát ngát đầy huyền bí. Dòng thác đổ, cành
cây rơi, cơn lốc thổi, tảng đá lăn, cơn song gầm, tiếng thú thét, hết
thảy đều là những thứ ngày đêm khủng bố, ám ảnh họ. Họ cho đấy là sự hờn
giận của các hung thần. Không có ý niệm về các hiện tượng trong trời
đất và vạn vật, vả lại không có cách gì đối phó, thảng hoặc có đối phó
thì cũng vẫn e sợ nên họ phải tôn thờ mọi vật, bởi trong đầu óc người cổ
xưa, mọi vật đều có linh hồn và linh cảm, có thể sinh họa hay tác phúc.
Vì vậy tục bái vật và thuyết đa thần đã chi phối họ rất mạnh mẽ. Với
thuyết đa thần người ta tin có Thần Sấm Sét (thần thiên lôi), Thần Mưa,
Thần Gió, Thần Sông, Thần Đất, Thần Nước, Thần Núi…có lẽ bởi các vị thần
này có thể có ảnh hưởng đến đời sống của họ. Với tục bái vật, người ta
thờ cây đa, cây đề, ông bình vôi, hổ, rắn, cho rằng các thứ đó đều có
quan hệ mật thiết đến đời sống của mình, cai quản mình trực tiếp hay
gián tiếp. Những phong tục và dị đoan đó đến ngày nay cũng hãy còn lác
đác ở các thôn quê Việt Nam, cũng như ở nhiều bộ lạc da đen (châu Phi,
châu Mỹ hay châu Á).
Thời gian trôi qua, người cổ của chúng ta mỗi ngày một tiến rồi một
ngày kia biết lặn lội trong những khoảng ruộng bùn lầy, tưới những giọt
mồ hôi xuống đất cứng để sinh sống. Bấy giờ chưa có gia súc, chưa có
dụng cụ tinh xảo, họ trần lực lấy sức tay chân tranh đấu với Thiên
Nhiên. Họ đẽo đá làm thành những lưỡi cuốc nhọn để sới đất khô và đập
cho nhỏ chờ lúc nước sông tràn vào ruộng, ruộng sẽ có bùn ngầu cho họ
gieo giống. Họ biết tháo nước ra vào để khỏi nạn úng thủy hay thiếu
nước. Gần bể về mùa hanh, họ biết dùng mực nước thủy triều lên xuống ở
các ngành sông để lấy nước vào ruộng. Nhờ vậy ngay thời bấy giờ tại
Trung Châu Bắc Việt đã có nơi làm ruộng được cả hai mùa. Sau này sum họp
với người Tàu họ biết dùng lưỡi cày sắt và trâu bò.
Vào thời cổ miền Trung Châu Bắc Việt đâu có ruộng lớn như ngày nay.
Đầm lầy, gò đống còn rải rác khắp nơi vì chưa khai thác, nhiều đồ nông
nghiệp còn manh nha. Ngoài bờ biển và các cửa sông lau sậy cùng cây sú
mọc đầy, rừng cây um tùm ở các đồi núi. Người cổ ở thưa thớt tại các
thung lũng và các miền ruộng hợp thành từng làng, từng xóm. Năm bảy chục
nóc nhà tranh, vách đất quay tụ im lìm sau những lũy tre cao ngất.
Ngoài làng là những cánh đồng, không có đồn trại, thành thị, phố phường
gì hết.
Sông Nhị Hà bấy giờ là mạch máu chính nếu ta xí vùng Trung Châu là
cái thân. Con sông này đã bồi đắp nên mảnh đồng bằng hàng năm, bằng
những lớp phù sa trở qua các thác ghềnh từ miền núi Vân Nam đem về nuôi
nấng trang điểm đứa con nuông. Sóng bể Đông hãy còn rào rạt ở ngoài đồng
bãi thuộc tỉnh Hải Dương, Hưng Yên, Kiến An bây giờ. Hai chục thế kỷ
qua, chỗ đất liền tiến rộng ra miền nước mặn được hàng trăm cây số mở
rộng Trung châu thêm được mấy tỉnh. (Đại để hai huyện Tiền Hải, Kim Sơn
cách đây trên dưới 100 năm còn là vùng biển rồi bỗng hiện lên nhiều làng
mạc sầm uất như do một phép lạ).
Đây là lời Lưu An về đời Hán đã am hiểu tình trạng dân tộc chúng ta
khi nền đô hộ của Bắc phương đã thành hình trên đất Giao chỉ.
Ngay thuở đó, về chính trị dân ta đã lập thành nước (do họ Hồng Bàng)
theo thể chế phong kiến. Trong mỗi nóc nhà đã có chế độ gia tộc, gia
trưởng. Ngoài làng mạc có chế độ tù trưởng, lạc hầu, lạc tướng…
Sau này nhờ cuộc xúc tiếp với văn hóa Bắc phương, kỹ thuật canh tác
được cải thiện, sức người được sức trâu bò hỗ trợ, nông nghiệp trở nên
phát đạt. Nhân khẩu bắt đầu tăng gia, trí não mỗi ngày thêm cứng rắn
trước Thiên Nhiên và vạn vật, đời song hoạt động và dồi dào trông thấy.
Những ngày mùa đông tháng giá qua, xuân về đầm ấm, cây cỏ xanh tương
lại dưới ánh mặt trời, tinh thần của con người như bị kích thích do cái
vui, cái tươi, cái linh động của vạn vật. Người có cảm tưởng trong
khoảng thời gian này vị chúa tể thế gian đến với họ, gần gũi để thi ân,
thi đức. Họ cũng vui theo cái vui của vạn vật. Họ khởi các công việc
đồng áng nhưng ung dung thong thả rồi mở hội hè đình đám để làm vui từ
già đến trẻ.
Trai gái hợp nhau xúng xính áo quần trên những ngọn đồi rộng hay bên
các lũy tre xanh, hoặc giữa nơi đình trung điếm sở, hoặc rún rẩy trên
các cây đu, hoặc tung còn, đánh phết, hoặc cất lên những câu hát đúm để
ca ngợi cái tuổi trẻ đầy hứa hẹn mơ mộng, hoặc hy vọng những chuyện lứa
đôi đằm thắm, hoặc mừng buổi thanh bình, thịnh trị. Đây là những điệu
ca, những bài thơ mô tả cái đời sống mộc mạc, thuần phác hoàn toàn có
tính cách bình dân giữa những buổi sáng huy hoàng của ngày xuân hay giữa
nhưng đêm trăng trong, bên cạnh ngọn cỏ lá cây qua những đôi mắt thẫm
của các cô thôn nữ luôn luôn mỉm cười để hé hàm răng đen nhức.
Rồi sau tiết Xuân có những cuộc vui công cộng, trai gái trưởng thành
quen biết nhau, yêu nhau đính ước việc gia thất. Người con trai đem trầu
cau đến xin bố mẹ người con gái rồi mới được cưới. Đám cưới
là một dịp làng xóm, hương thôn vui chơi ăn uống, nhai trầu nói chuyện. Trầu cau là một món cần trong sự xã giao vậy.
Về trầu cau có một chuyện cổ tích rất là cảm động lâm ly: Vào thời
thượng cổ hai an hem nhà họ Cao thương yêu một người con gái; Người anh
lấy được cô gái đó khiến người em đau đớn tuyệt vọng bỏ ra đi. Rồi người
anh đi tìm em, vợ đi tìm chồng, rút cục ba người vì thương nhau trong
cái nghĩa an hem chồng vợ quá thiết tha mà chết cả. Kẻ hóa ra hoàn đá
vôi, kẻ hóa ra cây cau, kẻ thành cây trầu quấn quít lấy nhau.
Người ta đem nhai quả cau và lá trầu cùng vôi (của hòn đá) thì thấy
thành một chất đỏ tươi, vị đậm đà, phải chăng là cả mối tình thương yêu
chân thật, thật có ý nghĩa vô cùng.
Về việc hôn nhân của người việt chúng ta xưa kia thì lập gia đình
chẳng phải là để cùng mưu cuộc sống mà thôi. Hôn nhân còn có ý nghĩa vì
người chết hay người sẽ chết nữa. Lấy nhau, người Việt có lẽ nghĩ trước
hết vấn đề sinh con đẻ cái để có người lo việc khói hương cho tổ tiên và
cả cho mình sau này nữa. Không người kế tự, đó là một sự đau đớn, nhục
nhã hết sức cho người Việt, và đấy cũng là một căn nguyên của chủ nghĩa
đa thê ngoài ảnh hưởng của chế độ phong kiến. Người Việt tin rằng người
chết nhưng linh hồn còn phảng phất ở chốn nhân gian do sự luyến tiếc con
cháu, thì là sự mong mỏi người chết phù hộ cho kẻ sống, mối tin tưởng ở
hầu hết các tầng lớp dân tộc chúng ta từ xưa đến nay.
Người chết, vào thời thượng cổ, xác còn phải quàn ở trong nhà. Người
nhà đục gỗ làm áo quan, hàng ngày dâng cơm nước thờ phụng như khi còn
sống (phong tục này các đồng bào thiểu số nhất là dân Mường, Thổ vẫn còn
giữ đến bây giờ). Lúc đem chôn cũng phải chôn theo đồ ăn, thức đựng
linh hồn khỏi phải thiếu thốn (tục đót vàng mã đã do quan niệm này, bây
giờ gần mất hẳn).
Trước khi Khổng Giáo tràn qua và có ảnh hưởng nhiều vào văn hóa của
chúng ta, chúng ta còn tập tụcnày nữa: nếu trong một nhà người anh chết
đi thì người em út phải lấy chị dâu để cáng đáng mọi việc thay anh và
trôm nom các cháu. Các nhà chép sử cho rằng tục này phát sinh vì lý do
kinh tế, tức là không muốn người dàn bà trẻ tái giá đem của cải và con
cái của bên chồng đi. Phong tục này còn đến cuối đời Hán vẫn còn và có
lẽ đã bị bãi bỏ trong thời Nhậm Diên, Sĩ Nhiếp và Tích Quang là những
người có nhiệm vụ du nhập văn hóa Trung Quốc vào đất này và thủ tiêu
những tập tục của dân bản thổ.
Buổi nguyên thủy người Việt sống theo chế độ bộ lạc tức là sống trong
tình trạng dã man. Đời sống lại không có phong tục và đạo đức như trên
đây đã nói rõ, và sự xúc tiếp giữa các bộ lạc đã xây dựng trên sức mạnh
tàn bạo. Các bộ lạc yếu phải tòng phục các bộ lạc mạnh, do đó chế độ
phong kiến ra đời cho tới sau này họ Hồng Bàng, một bộ lạc mạnh nhất
xuất đầu lộ diện ngự trị tất cả các bộ lạc khác (xin coi dưới đây cội rễ
của họ Hồng Bàng).
Về y phục, người thượng cổ khi chưa biết dệt vải, may áo đã sống trần
truồng, rét mướt thì lấy lá hay vỏ cây che thân. Sau này có nghề dệt
mới biết đóng khố, quấn khăn, mặc quần áo. Người bình dân khi xưa lúc ở
nhà chỉ đóng cái khố và mặc cái áo ngắn. Đàn bà mặc thêm cái váy. Có lẽ
từ giai đoạn người Việt biết đóng khố, biết làm nhà cửa, biết dùng đồ
kim khí là khi đã có tiếp xúc với các dị tộc, nhất là người
Hán văn minh hơn họ. Tuy vậy y phục của họ rất là đơn giản do xứ ta
thuộc vùng nhiệt đới, nóng nhiều rét ít. Ngày nay người ta tìm thấy trên
mặt cá trống đồng, cá tảng đá hình người ở trên, đóng khố, đầu đội mũ
bằng lông chim. Có thể đây là những di tích về hình ảnh người Việt Nam
cổ. Còn khi người Trung Hoa sang chinh phục chúng ta, bấy giờ sự ăn vận
mới bắt đầu tề chỉnh và đồng thời nông nghiệp của ta trở nên thịnh đạt.
Ta biết búi tóc hay quấn khăn, mặc áo khép về tay phải hay mở ở giữa. Y
phục của người Mường, Thổ ngày nay có lẽ là y phục của ông cha chúng ta
thuở xưa.
Phần đông hạng bình dân cắt tóc ngắn để làm lụng, chỉ có đàn bà và
các nhà quý phái mới để tóc dài cũng do ý muốn làm dáng và để phân biệt
giai cấp. Họ bện tóc quấn quanh đầu và búi thành một búi tóc to ở sau
gáy, ngoài bịt một chiếc khăn màu nhỏ để giữ cho chặt.
Họ không biết đi giày, guốc. Giầy, nón là sau khi có người Tàu đem
sang, ta mới có. Tính thích trang điểm, họ đeo đầy cổ và chân tay những
vòng bằng đồng, xương hổ phách hay đồi mồi.
Đối với khách lạ, dân Việt rất tử tế ân cần. Họ ưa mời ăn uống, coi
khách như người trong nhà. Lệ tiếp khách bao giờ cũng có cơi trầu, chén
nước, đôi bên vừa nói chuyện vừa ăn trầu. Cũng vì tính hay ăn trầu nên
họ có tục nhuộm răng. Điều này có lợi là răng được bền chặt thêm và nếu
giữ gìn răng cứ đen nhánh mãi.
Bàn về phong tục của dân ta, chúng tôi phải nghĩ tới bài khảo luận về
văn hóa Đông Dương (Les civilisations de I’Indochine) của ông G.
Coedès. Nhà khảo cổ này đã nhận thấy ở dân tộc chúng ta không phải chỉ
có những phong tục thuần túy “Trung Quốc” mà từ vua chúa đến dân thứ của
ta hầu hết đều theo cả; ở nơi chúng ta còn có những phong tục trong gia
đình, ngoài làng mạc như những việc thờ thần ở đình, miếu khác hẳn
Trung Quốc. Những phong tục này có trước khi người Tàu qua đây, và tồn
tại đến ngày nay mặc dầu ảnh hưởng của văn hóa Trung Quốc trên mảnh đất
này khá mạnh.Ông Coedes ngờ rằng trước khi văn học Trung Quốc du nhập
vào đây (đầu thế kỷ thứ hai trước Thiên Chúa) người Việt Nam chúng ta đã
chịu ảnh hưởng của nền văn hóa Nam Á (Austro Asiatique) nên mới có
những phong tục riêng biệt này. (Đáng chú ý có nhiều phong tục cùa Tàu
trên đất Việt mà chính người Tàu cận lai không còn giữ nữa).
Nhận xét này được nhiều học giả hiện đại cho là đúng vì văn hóa Ấn Độ
đã đặt dấu vết và ảnh hưởng ở miền Nam Á (nói chung) và miền Nam Đông
Dương (nói riêng) trước khi người Trung Quốc có mặt ở Bắc Việt ít nhất
trên một thế kỷ, tức là vào khoảng thế kỷ thứ nhất theo Thiên chúa kỷ
nguyên. Ngoài ra người Giao Chỉ đến Bắc Việt lại không phải là những
người đầu tiên. Ông cha chúng ta đi dần xuống đây xua đuổi người thổ
trước là giống Anh-đô-nê-diêng, hợp chủng với những phần tử còn lại nên
đã có những
phong tục khác Tàu đến nay đã thành những đặc điểm của chúng ta. Tóm
lại, có thể rằng chúng ta đã có thâu nhập một mớ phong tục thuộc văn hóa
Nam Á nữa. Rồi văn hóa Trung Quốc hợp với một phần văn hóa Nam Á đã tạo
nên nhiều cá tính quốc gia của người Việt nam chúng ta ngày nay.
MIỀN TÂY HOANG DẠI Ước gì một lần về thuở ấy miến Tây Sống lầy lội những tháng ngày hoang dại Súng cặp kè hông, nhong nhong lưng ngựa Phóng khoáng thảo nguyên, đạn nổ ì đùng Ta sẽ về, rủ em gái theo cùng Đem tình yêu vào vòng đấu súng Và ngã xuống trong một lần anh dũng Để mai này định nghĩa lại...thằng khùng! Đã khùng rồi thì xá chi anh hùng Của một thời tìm vàng sôi động Người người xô bồ tìm giàu sang cuộc sống Để lại điêu tàn, bắn giết mênh mông! Ta ước thế nghe có rùng rợn không? Trần Hạnh Thu NHẠC HUYỀN THOẠI CAO BỒI VIỄN TÂY
(ĐC sưu tầm trên NET) Bản tin 113 online cập nhật ngày 2/5: Truy tố 254 bị can bị trong đại án sai phạm lĩnh vực đăng kiểm 🔴 TRỰC TIẾP: Thời sự quốc tế 3/5 | Nga tuyên bố khai hỏa Iskander, hủy diệt hai pháo HIMARS Ukraine Tin tức thời sự mới nhất hôm nay | Bản tin sáng ngày 5-3-2024 MỘT CÕI ĐI VỀ (Sáng Tác: Trịnh Công Sơn) - KHÁNH LY OFFICIAL Miễn nhiệm chức vụ Chủ tịch Quốc hội đối với ông Vương Đình Huệ 9 giờ trước Khoảnh khắc tên lửa Nga công kích pháo HIMARS Ukraine 12 giờ trước Mong muốn Campuchia chia sẻ thông tin về Dự án kênh đào Funan Techo 10 giờ trước Gần 50 người chết trong vụ sập đường cao tốc ở Trung Quốc 10 giờ trước Lý do xuất khẩu của Trung Quốc sang Nga bất ngờ sụt giảm 8 giờ trước Ukraine nói Nga sản xuất tên lửa Zircon 'nhanh bất thường' 6 giờ trước Hàng chục nghìn người Gruzia tiến hành biểu tình lớn nhất từ trước tới nay 16 giờ trước Video 'rừng người' xem phương tiện chiến đấu bị Nga tịch thu ở chiến trường Ukraine 16 giờ trước U23 In...
I Only Want to Be with You - Dusty Springfield (Cover by Emily Linge) VẪN THẾ MÀ! Anh vẫn thế, trước sau vẫn thế mà Nhìn anh này, đừng nhìn phía trời xa Vẫn ngày ngày ra ngóng chờ trước của Đợi Nàng Thơ về tác hợp thi ca Tâm hồn anh có cửa đâu mà khóa Mà phải cùng em mở cánh cửa tâm hồn Anh tìm mãi nào thấy đâu ô cửa Toang hoác tứ bề, thông thống càn khôn* Còn trái tim anh vẫn êm đềm, yên ả Vẫn yêu quê hương, tổ quốc, con người Miền nhiệt đới khi thấy tim băng giá Chắc chắn là anh đã ngoẻo tự lâu rồi! Trần Hạnh Thu CT: * Trời đất
Nhận xét
Đăng nhận xét