Thứ Bảy, 6 tháng 4, 2019

TỔ TIÊN THIÊN CỔ 02/a (Văn minh lúa nước)

(ĐC sưu tầm trên NET)
 
Đôi nét về văn minh các nước Đông Nam Á


Việt Nam là cái nôi của nền văn minh lúa nước,hạt gạo gắn liền với sự phát triển của dân tộc….



Từ ngàn đời nay,cây lúa đã gắn bó với con người,làng quê Việt nam.Và đồng thời cũng trở thành tên gọi cho một nền văn minh-nền văn minh lúa nước.
Cây lúa không chỉ mang lại sự no đủ mà còn trở thành một nét đẹp trong đời sống văn hóa và tinh thần.hạt lúa và người nông dân cần cù,mộc mạc là mảng màu không thể thiếu trong bức tranh của đồng quê Việt nam hiện nay và mãi mãi về sau
Là cây trồng thuộc nhóm ngũ cốc,lúa cũng là cây lương thực chính của người dân VN nói riêng và người dân châu á nói chung.Cây lúa ,hạt gạo đã trở nên thân thuộc gần gũi đến mức từ bao đời nay người dân VN coi đó là một phần không thể thiếu trong cuộc sống.Từ những bữa cơm đơn giản đến các bữa tiệc quan trọng không thể thiếu sự góp mặt của cây lúa,chỉ có điều nó được chế biến dưới dạng này hay dạng khác.Không chỉ giữ vai trò to lớn trong đời sống kinh tế,xã hội mà còn có giá trị lịch sử,bởi lich sử phát triển của cây lúa gắn với lịch sử phát triển của cả dân tộc VN,in dấu ấn trong từng thời kỳ thăng trầm của đất nước.Trước đây cây lúa hạt gạo chỉ đem lại no đủ cho con người, thì ngày nay nó còn có thể làm giàu cho người nông dân và cho cả đất nước nếu chúng ta biết biến nó thành thứ hàng hóa có giá trị.
Việt Nam là cái nôi của nền văn minh lúa nước,hạt gạo gắn liền với sự phát triển của dân tộc…..cho đến nay vẫn là nền kinh tế của cả nước.
Còn nhớ trong bài thơ nào đó ở chương trình cấp tiểu học một câu thơ:
Việt Nam đất nước ta ơi,
Mênh mông biển lúa đâu trời đẹp hơn
Lời thơ quả không sai, lịch sử Việt Nam đã chứng minh Việt Nam là cái nôi của nền văn minh lúa nước. Đất nước ta khởi nghiệp là nghề trồng lúa mà lại, bên những bản làng xóm thôn, những triền sông, con suối những cánh đồng xanh thẳm trải dài tận chân trời như dấu hiệu cho du khách nhận ra đất nước chúng ta- một đất nước có nghề nông với sự gắn bó của con người cùng cây lúa nước.
Lúa là cái tên có từ bao giờ trong lời ăn tiếng nói cũng như trong từ điển Việt Nam, để chỉ loài cây lương thực chính từ việc ươm mầm những hạt thóc căng tròn vàng óng. Hạt thóc được người nông dân ngâm ủ lên mầm gieo xuống một lớp bùn dặc sếnh phát triển thành những cây mạ xanh non. Sau khi người nông dân cày bừa kĩ, đầy tháng được nhổ lên bó lại thành bó trông như những cô thiếu nữ thắt đáy lưng ong trong bộ đầm mầu xanh khuyến rũ. Rồi dưới bàn tay khéo léo nhẹ nhàng người mẹ, người bà, người chị thoăn thoắt cắm xuống bùn sâu mầu mỡ. Người nông dân ngày đêm chăm chút cho cây lúa lớn nhanh và khoẻ mạnh, không phụ lòng người chăm sóc cây lúa phát triển rất nhanh thành những ruộng lúa mênh mông, bát ngát, bờ nối bờ, thăm thẳm. Chẳng mấy chốc, ba, bốn tháng trôi qua từ cây mạ non đã trở thành cánh đồng lúa màu vàng như thảm lụa, báo hiệu mùa bội thu.
Lúa phát triển theo ba giai đoạn chính: Giai đoạn mạ non, mảmh mai yếu ớt như em bé sơ sinh run rẩy trước nắng mai hay gió bão lạnh lẽo cũng như đe doạ của những côn trùng gây hại. Dưới bàn tay cần cù và tình thương yêu của người nông dân cây mạ cũng trải qua được mùa đông giá rét của vụ đông xuân. nắng ửng hồng, bà già mùa đông cũng mệt mỏi đi nghỉ nhường chỗ cho chị mùa xuân ấm ạp trở về. Chỉ chờ có thế cây mạ xanh non trở lại, cây mạ lại được những bà mẹ nhổ lên đem ra ruộng cấy . Họ thi nhau cấy lúa thẳng hàng với lời ca và cũng là lời nhắc nhở nhau cấy đúng kĩ thuật để cây lúa cho năng xuất cao “Ngửa tay cấy lúa thẳng hàng, vừa hàng sông, đông hàng con, tròn cây lúa, nó múa nó lên”. Lúa cứ thế mà lớn lên dưới bàn tay chăm sóc của người nông dân. Nó sinh sôi nảy nở thành những khóm lúa to chật đất, lúa rì rào trong gió như kể chuyện ngày xưa lang Liêu cấy lúa lấy hạt gạo làm bánh chưng bánh giầy trong ngày lễ tiên vương. Những lá lúa như lưới lề nhưng yểu điệu duyên dáng như hàng nghìn cánh tay đùa giớn với gió tạo thành những đợt sóng lúa nhấp nhô dưới nắng chiều vàng óng. Với câu ca của người nông dân khuyên nhủ nhau “ Nhất nước, nhì phân, tam cần, tứ giống”, họ đã chăm sóc cho cây lúa phát triển, không phụ lòng dân, cây lúa ba tháng mười ngày sau khi cấy đã trổ bông rồi làm mẩy chín vàng cho những hạt gạo trắng ngần nuôi sống con người.
Cây lúa nước thích nghi với nhiều loại đất: đất cát pha, đất phèn, đất thịt, đất mỡ gà …cũng giống người nông dân cây lúa cần cù chắt lọc tinh tuý từ đất mẹ mà lớn lên trỏ thành cây lương thực chủ lực của nền kinh tế nông nghiệp Việt Nam.. Cây lúa ở Việt Nam được người nông dân canh tác hai vụ chính là lúa chiêm (từ tháng giêng đến tháng 4, tháng 5) và lúa mùa (từ tháng 6 đến tháng 9, tháng 10)âm lịch. Cây lúa cũng có rất nhiều loại, nhưng có hai loại khác biệt là: lúa tẻ, và lúa nếp. Lúa tẻ không thể thiếu được trong bữa cơm của con người Việt Nam từ Bắc đến Nam, từ miền xuôi đến miền ngược, từ dân tộc kinh đến dân tộc tiểu số lúa vẫn là cây lương thực chính, gạo lấy từ cây lùa là thực đơn số 1 trong bữa cơm của người Việt Nam. Lúa lếp ngoài việc làm lương thực hạt gạo nếp to tròn thơm lừng người nông dân còn đem chế biến thành các lôại bánh như : Bánh cốm hay còn gọi là bánh hạnh phúc làm từ hạt thóc nếp không thể thiếu trong lễ ăn hỏi của chủ rể trong ngày lễ đính hôn, bánh chưng bánh giầy trong ngày tết, thổi xôi trong mâm cỗ cúng gia tiên. Cứ như vậy cây lúa cùng với người nông dân gắn bó bao đời nay. Cuộc sống của người Việt Nam cũng như người châu á mãi mãi đồng hành với cây lúa.
Năm tháng trôi qua nền công nghiệp hoá, hiện đại hoá được thịnh hành nhưng hình ảnh cây lúa và giá trị tiềm năng của nó vẫn là vị trí số một trong quá trình phát triển của đất nước chẳng những thế mà nó còn được lấy làm biểu tượng của các nước trong khối ASEAN như một báu vật cao quý.
——————————————————————–
Nước Việt Nam ta hình thành và phát triển từ nền văn minh lúa nước. Khoảng 90% dân số nước ta sống chủ yếu nhờ vào nông nghiệp. Trong đó, cây lúa đóng vai trò chủ yếu. Bao nhiêu thế kỉ đã qua, con người và cây lúa gắn bó với nhau keo sơn bền chặt. Mồ hôi con người rơi đổ xuống từng luống cày mới lật , thấm vào từng tấc đất cho cây lúa ươm mầm vươn lên mượt mà xanh tốt. Đi từ Bắc chí Nam, dọc theo đường quốc lộ hay ven những rặng núi, những dòng sông, bao giờ ta cũng cũng thấy những cánh đồng lúa xanh tận chân trời hoặc vàng thắm một màu trù phú. Cây lúa là người bạn của con người, là biểu tượng của sự no ấm phồn vinh của đất nước.
Thế nhưng, có mấy ai trong chúng ta biết rõ về cây lúa?
Lúa thuộc loài thân thảo. Thân cây lúa tròn chia thành từng lóng và mắt. Lóng thường rỗng ruột, chỉ có phần mắt là đặc. Lá lúa dài và mỏng, mặt lá nhám, gân lá chạy song song . Rễ của cây lúa không dài lắm, thường mọc với nhau thành chùm bám chặt vào bùn để giữ cho thân lúa thẳng đồng thời hút dưỡng chất nuôi thân cây. Hoa lúa nhỏ nhắn, mọc thành nhiều chùm dài. Điều đặc biệt của cây lúa mà ít ai để ý đến. Hoa lúa cũng chính là quả lúa đồng thời trở thành hạt lúa sau này. Hoa lúa không có cánh hoa, chỉ có những vảy nhỏ bao bọc lấy nhuỵ ở bên trong. Lúc hoa lúa nở, đầu nhuỵ thò ra ngoài, có một chùm lông để quét hạt phấn. Hoa lúa tự thụ phấn rồi biến thành quả. Chất tinh bột trong quả khô đặc lại dần và biến thành hạt lúa chín vàng.
Muốn lấy hạt gạo bên trong, con người phải trải qua nhiều công đoạn: gặt lúa, trục lúa về, phơi cho hạt thật khô. Sau đó đổ lúa vào trong cối, dùng chày mà giã liên tục cho lớp vỏ trấu bong tróc ra. Kế tiếp phải sàng sảy để lựa ra hạt gao chắc mẩy… Sau này, máy móc đã thay dần cho sức người, năng suất tăng dần theo thời gian, nhưng ở những vùng cao người ta vẫn dùng chày để giã gạo. Tiếng chày “cụp, cum” văng vẳng trong đêm gợi lên một cuộc sống lao động thanh bình mang đậm bản sắc riêng của người dân Việt.
Cây lua ở nước ta có rất nhiều giống nhiều loại. Tuỳ vào đặc điểm địa lý từng vùng, từng miền mà người ta trồng những giống lúa khác nhau. Ở miền Bắc với những đồng chiêm trũng, người ta chọn lúa chiêm thích hợp với nước sâu để cấy trồng, miền Nam đồng cạn phù sa màu mỡ hợp với những giống lúa cạn. Ở những vùng lũ như Tân Châu, Châu Đốc, Mộc Hoá, Long Xuyên người ta chọn loại lúa “trời” hay còn gọi là lúa nổi, lúa nước để gieo trồng. Gọi là lúa “trời” vì việc trồng tỉa người nông dân cứ phó mặc cho trời. Gieo hạt lúa xuống đồng, gặp mùa nước nổi, cây lúa cứ mọc cao dần lên theo con nước. Đến khi nước rút, thân lúa dài nằm ngã rạp trên đồng và bắt đầu trổ hạt. Người dân cứ việc vác liềm ra cắt lúa đem về.
Ngày nay, ngành nghiên cứu nuôi trồng phát triển đã cho ra đời nhiều loại lúa ngắn ngày có năng suất cao như NN8, Thần Nông 8, ÔM, IR66…
Theo điều kiện khí hậu và thời tiết nước ta, cây lúa thường được trồng vào các vụ mùa sau: miền Bắc trồng vào các vụ lúa chiêm, lúa xuân, miền Nam chủ yếu là lúa Đông Xuân và lúa Hè Thu. Các loại lúa ngắn ngày thường không bị ảnh hưởng bởi vụ mùa.
Cây lúa đã mang đến cho dân ta hai đặc sản quí từ lâu đời. Đó là bánh chưng, bánh giầy và cốm. Bánh chưng bánh giầy xuất hiện từ thời Hùng Vương, biểu tượng cho trời và đất. Người Việt ta dùng hai thứ bánh này dâng cúng tổ tiên và trời đất vào những dịp lễ tết. Nó trở thành đặc sản truyền thống của dân tộc Việt.
Cốm, một đặc sản nữa của cây lúa. Chỉ những người chuyên môn mới định được lúc gặt thóc nếp mang về. Qua nhiều chế biến, những cách thức làm có tính gia truyền từ đời này sang đời khác đã biến hạt thóc nếp thành cốm dẻo, thơm và ngon. Nhắc đến cốm, không đâu ngon bằng cốm làng Vòng ở gần Hà Nội..
Tóm lại, cây lúa có tầm quan trọng rất lớn đối với nền kinh tế nước nhà chủ yếu còn dực vào nông nghiệp. Cây lúa bao đời là bạn thân thiết của người nông dân Việt Nam, không chỉ về mặt vật chất mà còn cả về mặt tinh thần. Mãi mãi vẫn còn nghe mọi người nhắc nhau những vần điệu ca dao thấp thoáng bóng hình con trâu và cây lúa:
Bao giờ cây lúa còn bông
Thì còn ngọn cỏ ngoài đồng trâu ăn


Đông Nam Á trong tiến trình văn minh nhân loại Hà văn Thùy

(Nhân trao đổi với ông Đỗ Kiên Cường)

Trong bài “OPPENHEIMER VÀ CHU THỰC SỰ NÓI GÌ?” đăng trên tạp chí Tia sáng số ra ngày 17.11.2008, tác giả Đỗ Kiên Cường viết:



“Có thể tóm lược các quan điểm cơ bản của Oppenheimer trong Địa Đàng ở phương Đông như sau: 1) Đông Nam Á là cái nôi đầu tiên của nông nghiệp, xét trên phạm vi toàn cầu, chứ không phải vùng Lưỡi liềm Phì nhiêu; và chính người Đông Nam Á đã truyền kĩ thuật trồng lúa nước cho người Hán, chứ không phải ngược lại; 2) Đông Nam Á là cội nguồn của nhiều yếu tố trong các nền văn minh phương Tây. Ngoài ra là quan điểm ít quan trọng hơn: Người Đông Nam Á, chứ không phải người Trung Quốc, đã thiên di tới vùng Đa Đảo (Polynesia) phía Nam Thái Bình Dương…”



Sau những dòng phân tích, ông kết luận:



“Có thể nói một cách tổng quát rằng, giả thuyết phụ của Oppenheimer (người Đông Nam Á tràn xuống vùng Đa Đảo) có thể là sự thật. Tuy nhiên cũng không nên bác bỏ vai trò của người Trung Quốc, khi Đài Loan được xem là nơi phát tích của ngữ hệ Nam Đảo, là ngữ hệ của vùng Polynesia. Và trong hai quan niệm căn bản thì một cần xem xét lại (Đông Nam Á là nơi phát triển nông nghiệp đầu tiên), còn một sai hoàn toàn (Đông Nam Á là nguồn gốc văn minh nhân loại) (HVT nhấn mạnh).”



Nói như trên, chứng tỏ ông Đỗ Kiên Cường thiếu hụt kiến thức rất cơ bản về văn hóa học: nơi phát triển nông nghiệp đầu tiên là gì nếu không phải là cội nguồn văn minh nhân loại? Chính vì thế, nhận định của ông Cường trở nên vô nghĩa!

Vì ông Cường không biết nghe nên không còn gì để nói. Ở đây tôi xin trình bày lại với bạn đọc những điều bị ông Cường hiểu sai và làm rối.



1. Đông Nam Á là cái nôi nông nghiệp đầu tiên và cũng là cội nguồn văn minh nhân loại.

Thế kỷ XIX, từ vùng đất nghèo di chỉ của mình, các nhà khảo cổ châu Âu sững sờ khi phát hiện ra nền văn minh Ai Cập, Lưỡng Hà. Những dấu vết hạt lúa 7000 tuổi được tìm thấy ở Mesopotamia tỏa ra ánh sáng rực rỡ. Từ đấy, vùng Lưỡi liềm Phì nhiêu được cho là trung tâm nông nghiệp đầu tiên của nhân loại. Quan niệm đó trở thành kinh điển.

Nhưng tới nay, khoa học tiến những bước dài, khiến những hiểu biết như vậy thành lỗi thời.



Xin đọc:

“Nguồn gốc lúa gạo trồng trọt ở Trung Quốc xuất hiện khoảng 10, 000 BC, phù hợp với khảo cổ học tiền sử và kết quả phân tích những vết tích thực vật học cổ Trung Hoa. Hai địa điểm là Hang Xianren trong vùng Vân Nam, tỉnh Giang Tây, và Dốc Đứng Yuchan trong vùng Dao, tỉnh Hồ Nam thuộc đồng bằng sông Dương Tử, nằm trong khu vực cận nhiệt đới nam Trung Hoa”



Và:



“Những vết tích văn hóa chính là Văn hóa Pengtoushan, Văn hóa kiểu Jiahu tại văn hóa Peiligang, và địa điểm Shangshan trong vùng Pujiang thuộc thung lũng sông Qian- tang.



Những địa điểm Văn hóa Pengtoushan nằm tại đồng bằng xung quanh hồ Động Đình và khu vực dọc theo sông Dương Tử phía tây tỉnh Hồ Bắc. Tuổi của những di chỉ này khoảng 6500-5500 BC. Nhiều vết tích lúa trồng trọt được tìm thấy trong lòng đất cung cấp bằng chứng về sự phát triển của nghề trồng lúa.



Những di chỉ kiểu Jiahu (Giả Hồ) của văn hóa Peiligang thì phân tán ở trung tâm và phía đông đồng bằng tỉnh Hà Nam, được định tuổi khoảng 6800-5500 BC. Nhiều vết tích lúa trồng  được tìm thấy tại Jiahu thuộc vùng Wuyang. Những công cụ được khai quật chủ yếu là sa thạch, phần lớn trong số đó được chế tác bởi phương pháp mài nhẵn. Trong những công cụ đó có thể nhận ra cái mai đá, cái liềm, con dao, cối xay đá, cái gậy đá cối xay, cái mai xương ... Dấu hiệu quan trọng nói lên sự phát triển của nông nghiệp sơ cấp là sự xuất hiện những công cụ đá mài.” (2)



Như vậy là đã rõ: vết tích sớm nhất của lúa trồng ở Trung Hoa có tuổi 12.000 năm, giai đoạn muộn hơn, có tuổi gần 9000 năm, có nghĩa sớm hơn Lưỡng Hà ít nhất là 5000 năm.

Nơi nào sớm hơn khỏi cần bình luận!



Từ khẳng định trung tâm nông nghiệp đầu tiên là Đông Á, ta có thể đẩy lên mức cụ thể hơn: nam Trung Hoa hay miền bắc Việt Nam?



Nhiều bằng chứng cho thấy, đó là Việt Nam:



1. a. Các nghiên cứu di truyền (Y. Chu, S. Oppenheimer) chỉ ra, người từ Việt Nam đi lên Trung Hoa khoảng 40.000 năm trước. Phù hợp với dữ liệu di truyền, khảo sát thực địa cho thấy những di chỉ trồng lúa kể trên đều ở Nam Trung Hoa, địa bàn sinh sống lâu đời của người Việt cổ. Như vậy, người Việt cổ là chủ nhân của những di chỉ này. Ta lại biết, người Việt cổ mang văn hóa Hòa Bình lên phía Bắc Trung Hoa và tạo dựng văn hóa Ngưỡng Thiều (3). Công cụ đá mài kiểu Hòa Bình - được coi là chỉ dấu quan trọng của văn minh nông nghiệp - cũng có mặt tại những di chỉ trên. Ta cũng biết, ngay từ giữa thế kỷ XIX, trong cuốn Nguồn gốc các loài, Darwin đã viết: “Tổ tiên tất cả các loài gà trên thế giới hiện nay đều từ con gà rừng duy nhất được thuần hóa tại Đông Nam Á.” Giống như gà, loài chó cũng được người Đông Nam Á thuần dưỡng đầu tiên. Lợn cũng vậy. Từ những bằng chứng đó, ta có thể suy ra một cách khả tín: Hòa Bình Việt Nam là trung tâm nông nghiệp đầu tiên.



2. b. Giới khoa học hiện nay cho rằng, trồng kê là văn hóa bản địa của dân cư vùng hoàng thổ Hoàng Hà. Nhưng từ khảo cứu của mình, tôi phát hiện, cây kê cũng được trồng đầu tiên tại Đông Nam Á, với chứng cứ như sau:

- Hiện nay kê được trồng phổ biến khắp Đông Nam Á trong vai trò lương thực phụ.

- Trong tiến trình nông nghiệp Trung Hoa, cây kê luôn theo sát cây lúa từ sông Dương Tử tới Hoàng Hà. Có nghĩa là, trong vùng trồng lúa, kê tồn tại như lương thực bổ trợ.

- Huyền thoại “Ngôi sao bầu trời bú sữa con heo”(4) của dân bản địa Đài Loan và của người Ba Na Tây Nguyên nói rằng: “Trong cơn hồng thủy, một con heo đực đã phá tung  đoạn đập chắn, cho nước rút đi, cứu được loài người. Nước rút, nhờ có cây kê cuối cùng mà loài người được cúu sống.”



Từ những chứng cứ trên, có thể đưa ra giả thuyết: Khoảng 20.000 năm trước, băng hà bao trùm Trái đất. Mực nước biển thấp hơn hôm nay khoảng 100 mét. Đông Nam Á có khí hậu khô hạn. Do đặc tính thực vật học của nó nên cây kê được thuần dưỡng đầu tiên và là lương thực chính của cư dân Đông Nam Á. Khoảng 15.000 năm trước, băng tuyết tan, nước biển dâng, mưa nhiều hơn. Khí hậu Đông Nam Á trở nên ẩm. Lúc này cây lúa nước được phát minh và thay thế cây kê, trở thành lương thực chính. Những người Hòa Bình đi lên phía bắc mang theo cây kê rồi lúa nước tới lưu vực sông Dương Tử, Hoàng Hà. Ở nam Hoàng Hà, trên vĩ độ 35, cây lúa nước không thích nghi nổi nên cây kê giữ vai trò cây lương thực chính yếu. Văn hóa trồng kê Bonfo (Bán Pha) hình thành.



Những phân tích trên cho thấy Đông Nam Á là cái nôi của nông nghiệp thế giới.



Ở trên là cách tiếp cận trực tiếp. Còn cách tiếp cận khác cũng cho thấy Đông Nam Á là cội nguồn văn minh nhân loại.



Muốn biết đâu là nguồn cội của văn minh nhân loại, điều mấu chốt là phải biết dân cư vùng đó được hình thành ra sao?

Nhờ công nghệ gene, ta biết rằng, 85.000 năm trước, Homo sapiens từ châu Phi di cư tới bán đảo A Rập. Một bộ phận đi tiếp tới Đông Nam Á. Tới Việt Nam khoảng 70.000 năm trước, hai đại chủng Australoid và Mongoloid hòa huyết cho ra 4 chủng Việt cổ Indonesian, Melanesian, Vedoid và Negritoid (Nguyễn Đình Khoa, 1983). Khoảng 40.000 năm trước, do trời bớt lạnh, người Việt cổ đi lên Trung Quốc, qua cao nguyên Tây Tạng sang Trung Á rồi vào châu Âu.



Trong khi đó, những người nằm lại đất A Rập chủ yếu thuộc đại chủng da trắng Europid. Bị kẹt bởi Hồng Hải phía nam và bức thành băng hà phía bắc, họ sống khó khăn trên dải đất hẹp. Nhân số tăng chậm và văn hóa cũng chậm theo.



Khoảng 52.000 năm trước, do trời bớt lạnh, người từ đây lên Trung Đông và 40.000 năm trước, băng qua eo Bosporus vào châu Âu. Tại đây, họ gặp số lượng lớn người Australoid từ châu Á sang và hòa huyết thành tổ tiên người châu Âu Europians. Cũng nơi này, họ gặp người Neanderthals bản địa.



Khoảng 35.000 năm trước, một đợt lạnh dữ dội xảy ra, đẩy người Europians vào tình trạng khó khăn nhưng lại dẫn người Neanderthals đến tuyệt diệt cách nay 24.000 năm.

Chỉ khoảng 10.000 năm trước, thời Băng hà cuối cùng chấm dứt, người Europians mới từ giã săn hái để chuyển sang phương thức sống du mục.



Khoảng 8000 năm trước, khí hậu vùng Trung Đông trở nên thuận lợi, việc trồng trọt manh nha xuất hiện.



Khoảng 7500 năm trước, Đại hồng thủy xảy ra. Những “nhà thông thái phương Đông” tới trên những chiếc thuyền Noah, cung cấp tư tưởng nông nghiệp cùng giống cây và gia súc cho khu vực. 7000 năm trước, Mesopotamia thành trung tâm nông nghiệp của vùng Tây Á, sau Đông Nam Á ít nhất 5000 năm.



Ông Đỗ Kiên Cường viết:

“Trước năm 2000, tuy đã có thông tin ban đầu về con đường phía Bắc, nhưng giới khoa học cho rằng, khoảng 60.000 năm trước, người hiện đại từ châu Phi tới Ấn Độ và Đông Nam Á theo con đường phía Nam, men theo bờ Ấn Độ Dương (làn sóng rời khỏi châu Phi lần thứ nhất). Và từ vùng Sunda, họ đi tiếp tới Úc, lên Đông và Đông Bắc Á, tới Siberia rồi sang Bắc Mỹ… Ngày nay ta biết rằng, con đường phía Bắc, từ châu Phi sang Trung Đông rồi lên Trung Á (khoảng vùng Bắc Afghanistan và lân cận) mới là đường thiên di chủ yếu. Đây là làn sóng rời khỏi châu Phi lần thứ hai. Hơn 90% số nam giới ngoài châu Phi hiện nay là hậu duệ của những người từng thám hiểm con đường này khoảng 40.000 năm trước… Con đường phía Nam chỉ góp một phần nhỏ vào nguồn gene người Trung Quốc hiện nay mà thôi.”



Một sự lầm lẫn lớn.

Có hai lần con người rời khỏi châu Phi. Đợt đầu khoảng 135.000 năm trước nhưng tới 90.000 năm cách nay bị tuyệt diệt vì lạnh trên đất Israel.

Đợt thứ hai ra đi 85.000 năm trước nhưng do đợt đầu không có kết quả nên  S. Oppenheimer gọi là làn sóng rời khỏi châu Phi lần thứ nhất; S. wells gọi là làn sóng di cư thứ hai khiến một số người (trong đó có người viết bài này lúc đầu) lầm tưởng rằng, “đợt hai” này là đợt di cư từ châu Phi vào Trung Đông. Sự thực không phải vậy, chỉ duy nhất 1 lần rời châu Phi thành công. Những người vào Trung Đông chỉ là những người “ém lại” từ cuộc di cư đó, khi thời tiết khá hơn thì vào Trung Đông.



Khoảng 15.000 năm trước, người từ châu Âu qua Trung Á, trở lại cao nguyên Tây Tạng. Nhưng lúc này Trung Quốc đã khá đông dân nông nghiệp, văn minh hơn và quyết tử bảo vệ đất đai nên những nhóm rời rạc người châu Âu không thể thâm nhập Trung Nguyên mà chỉ đi theo hành lang phía bắc để tới Đông Bắc Á rồi sang châu Mỹ, tạo ra những nhóm thiểu số Altaic, Tungusic, Ainu… Một nhánh khác theo hướng Tây Nam, tạo ra một vài sắc dân thiểu số ở vùng rìa Trung Quốc. Những người mang gene Europians này không có vai trò gì trong mã di truyền người Trung Hoa hiện đại.



Nói: “Con đường phía Nam chỉ góp một phần nhỏ vào nguồn gene người Trung Quốc hiện nay mà thôi” là không đúng thực tế. Một tỷ ba trăm triệu người Trung Hoa hiện nay thuộc chủng Mongoloid phương Nam, là hậu duệ của tổ tiên di cư theo con đường phía Nam. Ông Cường lầm lẫn khi xử lý tư liệu. Đúng là hơn 90% dân cư thế giới ngoài châu Phi là hậu duệ của làn sóng di cư thứ hai  như  S. Wells nói. Nhưng cái “đợt thứ 2” này cũng chỉ là đợt diễn ra 85.000 năm trước!

Ông Cường không biết rằng, con số gần 10% người ngoài châu Phi còn lại kia là con cháu những người Phi bị đưa sang Âu - Mỹ trong 250 năm buôn bán nô lệ!



Ông Cường còn viết: “… khi Nam tiến, người Hán phương Bắc không mang theo phụ nữ; và khi chiếm đất của người phương Nam, họ giết hết đàn ông, đồng thời chiếm đoạt phụ nữ.”

Đúng vậy không? Xin ông chỉ ra, trong sử biên niên Á Đông dòng nào nói rằng “khi xuống phương Nam, người Hán giết hết đản ông, chiếm đoạt phụ nữ”? Ngay ở Việt Nam, với ý đồ đồng hóa  triệt để, các triều Hán, Đường, Minh không hề có chuyện giết đàn ông! Mã Viện để lại những người Mã Lưu nhưng chính những người này dược Việt hóa, trở thành dân Việt. Không giết đàn ông vì không thể giết hết, hơn nữa không cần làm việc này, vì thời đó Việt với Hán cùng một chủng Mongoloid phương Nam! Bowen và đồng nghiệp nói về 3 đợt di dân nam tiến của người Hán: Đợt 1 thời Tây Tấn với khoảng 900.000 người. Đợt 2 vào thời Đường với số lượng lớn hơn. Đợt 3 thời Nam Tống với khoảng 5 triệu người (5). Trong hàng triệu người di cư ấy không có phụ nữ sao? Vì lẽ gì ông Cường bịa đặt, xuyên tạc lịch sử trắng trợn vậy?



Nhân đây cũng xin nói lại về một sự kiện mà nhiều học giả lầm lẫn:

Một thời gian dài, giới khoa học cho rằng tổ tiên người châu Á là từ châu Âu sang. Điều này có thể hiểu được vì thời gian người châu Á sang châu Âu 40.000 năm trước quá xa, hầu như không còn vết tích. Giai đoạn người từ châu Âu trở lại châu Á diễn ra khoảng 15.000 năm trước nên dấu vết còn tìm được. Chính những vết tích này dẫn đến nhiều giả thuyết như của E. Aymonier về tổ tiên người Cambodge … Ngày nay, nhờ công nghệ gene, sự thật mới được phơi bầy. Tuy vậy, không ít người do tham khảo chưa đủ tài liệu nên vẫn giữ quan niệm cũ.



Một lầm lẫn khác cũng từ đây mà ra, được thể hiện trong giả thuyết Chuyến tàu nhanh của Peter Bellwood, cho rằng “Đài Loan được xem là nơi phát tích của ngữ hệ Nam Đảo, là ngữ hệ của vùng Polynesia.” Giả thuyết này dựa vào nhiều bằng chứng khảo cổ, ngôn ngữ và gene xác nhận có việc di cư của người bản địa Đài Loan ra các đảo nam Thái Bình Dương. Sự thể phức tạp hơn: Cuộc di cư này diễn ra khoảng 2600 BC, khi quân Mông Cổ xâm lăng buộc người Bách Việt di tản mà Đài Loan là dịa điểm tập kết đã để lại nhiều vết tích. Nhưng cuộc di cư từ Việt Nam ra các đảo Đông Nam Á 50.000 năm trước hay lên phía bắc 40.000 năm trước hầu như không còn dấu vết nên không được biết đến cho tới khi công nghệ di truyền phát hiện. Ngay cả “người Trung Quốc” mà ông Cường nhắc tới ở đây cũng là người Việt cổ!



3. Tự hào hay không đáng tự hào?



Ông Đỗ Kiên Cường viết:

“Khi tới Trung Quốc lần đầu tiên khoảng 30.000 năm trước, theo hành trình Đông Phi → Trung Đông → Trung Á → Nam Trung Quốc (đồng thời có thể cũng tới Đông Nam Á), Homo sapiens chỉ là Homo sapiens nguyên thủy mà thôi, tức có nước da đen, tóc quăn hay lượn sóng, người thon, răng to, giống người châu Phi bản địa. Các đại chủng như ta hiểu ngày nay chỉ xuất hiện hoàn chỉnh khoảng 10.000 năm trước. Còn các dân tộc chỉ xuất hiện sau đó khoảng 3.000 - 5.000 năm (có thể còn muộn hơn), khi các Nhà nước và quốc gia sơ khai xuất hiện. Chẳng hạn người Hán, một trong những tộc người xuất hiện sớm nhất, cũng chỉ ra đời khoảng 4600 năm trước từ các nhóm người Hoa Hạ sống tại lưu vực Hoàng Hà, phía bắc Trung Quốc ngày nay. Cho dù có Bắc tiến thì đó cũng chỉ là những cuộc Bắc tiến của người da đen từ 30.000 năm trước. Sống tại xứ lạnh mấy chục ngàn năm, họ dần tiến hóa thành người da vàng (đại chủng Á). Và tới Thời đá mới thì họ liên tục di cư xuống phương Nam. Do các cuộc Nam tiến này mà ngày nay tại Đông Nam Á, người da vàng đến sau chiếm đa số so với người da đen bản địa thuộc đại chủng Phương Nam. Có gì đáng tự hào về những cuộc Bắc tiến từ mấy chục ngàn năm trước, nếu có?”



Quả tình không thể hiểu nổi sao lại có sự bất cẩn như vậy trong viết lách?



Ông Cường không thể ngờ rằng, những người vào Trung Đông đó thuộc đại chủng da trắng Europid. Không hiểu vì nguyên nhân nào mà, trong 3 đại chủng rời khỏi châu Phi thì hai đại chủng da đen, da vàng đi sang Viễn Đông còn chủng da trắng dừng lại trên bán đảo A Rập? Chính những người này đi vào châu Âu và lai với người Australoid từ châu Á sang, trở thành tổ tiên người da trắng Europians. Vì vậy, họ không thể biến thành tổ tiên người da vàng Trung Hoa!



Viết như thế, ông Cường cũng bỏ qua cả một thế kỷ khảo cổ học phát hiện con đường truyền bá văn minh từ Hòa Bình lên phương Bắc. Ông không thấy vô lý sao khi con người từ bắc xuống nam còn dòng văn minh chảy ngược lại!?



Không thể ngờ được rằng, một người sắp ẵm bằng tiến sĩ, dợm thò một chân vào “văn mếu tân thời” lại có thể viết thế này: “Cho dù có Bắc tiến thì đó cũng chỉ là những cuộc Bắc tiến của người da đen từ 30.000 năm trước. Sống tại xứ lạnh mấy chục ngàn năm, họ dần tiến hóa thành người da vàng (đại chủng Á)” (HVT nhấn mạnh).



Trời ạ, chỉ vì sống ở xứ lạnh mấy chục ngàn năm mà người da đen biến được thành chủng da vàng sao?!



Với bài làm như vậy, cậu học trò trung học chắc chắn ăn “trứng” (zero)! Sai gì thì sai, không thể sai trong kiến thức nền tảng sinh học! Không phải quên mà rõ ràng ông Cường chưa hề học: “Genotive là những tính trạng do cha mẹ tổ tiên truyền lại mà cho con cháu không thể nhận được qua tập nhiễm.” Chính do sự bền vững kỳ diệu của gene mà ngày nay, từ giọt máu chúng ta, khoa học truy tìm được tổ tiên 5 triệu năm trước hay xa hơn nữa của loài người. Cũng không thể ngờ rằng lỗi kiến thức sơ đẳng như vậy lại xuất hiện trên tạp chí hàng đầu của giới trí thức Việt!



Ông Cường cũng tỏ ra bất chấp những kiến thức giáo khoa về nhân chủng học. “Các đại chủng như ta hiểu ngày nay” không phải “chỉ xuất hiện hoàn chỉnh khoảng 10.000 năm trước” như ông nói mà đã hình thành ngay từ châu Phi. Ba đại chủng Australoid, Mongoloid và Europid sinh ra từ 3 Eve của 1 chàng Adam. Theo nguyên lý di truyền học, ông tổ sinh học có đa dạng di truyền cao nhất. Trong hoàn cảnh cụ thể của vùng địa lý, các con cháu không bị hòa huyết với gene lạ, dần dần tạo thành một dòng thuần, được gọi là đại chủng. “Đại” lúc đầu không có nghĩa là to mà là khởi thủy. Sau này, với thời gian và địa bàn mở rộng, con cháu bị lai tạp thì chỉ có sự phân ly thành những đơn vị phân loại nhỏ hơn (nhóm loại hình, chủng, sắc tộc), với F-value (giá trị di truyền) thấp dần chứ không bao giờ trở lại mức thuần khiết của dòng ban đầu!



Ông cũng không biết, người từ Việt Nam lên phương bắc 30.000 năm trước không còn là người châu Phi da đen nữa mà là những người Việt cổ Sơn Vi thuộc chủng Indonesian, Melanesian… là chủ nhân văn hóa Hòa Bình, tổ tiên trực tiếp của toàn thể dân Việt ngày nay!

Để có niềm tự hào chân chính cần phải hiểu biết. Bỏ mồ cha khóc đống mối là vậy!



Trên bàn tôi có cuốn "Tiếng Việt, Văn Việt, Người Việt" của giáo sư Cao Xuân Hạo. Nhà ngữ học bậc thầy đã nhắc nhở ông Cưòng về việc giảng sai câu "Tri chi vi tri chi..." của Khổng Tử. Thiết tưởng với bài học đắt giá này, ông Cường sẽ cẩn trọng hơn khi viết lách. Thật không ngờ...

Điểm lại những bài viết của ông Cường liên quan tới Bản đồ gene người, ta thấy, ông đọc chưa kỹ dẫn đến hiểu lầm S. Wells, kiến thức sinh học chưa sạch nước cản, hiểu biết về khảo cổ, nhân chủng, lịch sử… thì chắp vá, vụn mảnh. Trước vấn đề rất nghiêm túc, ngoài tầm hiểu biết của mình, lẽ ra ông nên chịu khó nghe để học may ra có lúc… “thị tri dã”.



4. Kết luận

Thế kỷ XX treo trước nhân loại 3 câu hỏi lớn: 1. Quê hương loài người ở đâu? 2. Sự di cư như thế nào? Và 3. Sự hình thành dân cư các châu lục?



Công nghệ gene thần kỳ trả lời 2 câu hỏi đầu một cách ngoạn mục. Nhưng câu thứ 3, di truyền học bó tay. Đó là lẽ đương nhiên vì vấn đề thuộc khoa học nhân văn. Muốn trả lới, cần có tri thức liên ngành không chỉ rộng mà còn rất sâu.



Trong hai cuốn sách Tìm lại cội  nguồn văn hóa Việt (Văn học, 2007), Hành trình tìm lại cội nguồn (Văn học, 2008), tôi đã cố gắng lý giải vấn đề về cội nguồn và văn hóa của tộc Việt. Thiết nghĩ, đấy là sự nối kết và giải mã thỏa đáng khối lượng lớn những tài liệu đa ngành hiện có.



Điều thú vị là, càng đi sâu vào vấn đề, tôi càng nhận ra thiên tài của Oppenheimer. Từ những cứ liệu khoa học còn hạn chế, ông đã giải mã thành công nhiều truyền thuyết, huyền thoại để đề xuất những giả thuyết tuyệt vời. Ông làm tôi nhớ đến Kim Định. Gần 40 năm trước, cũng bằng giải mã huyền thoại, vị triết gia này đưa ra giả thuyết về Việt Nho và đạo Việt An vi. Nhiều học giả quan phương mạt sát đến vùi dập những đề qưyết động trời ấy. Nhưng thời gian cho thấy Kim Định là một thiên tài. Học thuyết của ông không chỉ đúng đắn mà còn vô cùng quan trọng với vận mệnh dân tộc. Nếu chúng ta tỉnh táo hơn, biết nghe, biết suy nghĩ theo hướng của ông thì chắc rằng dân tộc đã khác hôm nay. Tiếc thay!



Sài Gòn, Đông Mậu Tý.






2.  Dẫn theo  Zhou Jixi: The Rise of Agricultural Civilization in China .SINO-PLATONIC PAPERS Number 175 December, 2006
3. Hà Văn Thùy. Hành trình tìm lại cội nguồn. NXB Văn học, 2008.


5. Bowen, Hui li: Genetic evidence suports demic diffusion of Han culture. Nature/vol 431/16 September 2004.


Hà văn Thùy

Những phát minh 'cái nôi văn minh' để lại cho hậu thế

21/04/2018 07:52 GMT+7

TTO - Được xem là "cái nôi văn minh" của thế giới, nền văn minh Lưỡng Hà xa xưa đã để lại cho hậu thế nhiều phát minh giá trị.

Những phát minh cái nôi văn minh để lại cho hậu thế - Ảnh 1.
Khu vực Lưỡng Hà - Ảnh: Ancient Civilizations
Lưỡng Hà là vùng đất giữa 2 con sông Tigris và Euphrates. Bắt đầu xuất hiện lần đầu tại miền nam Iraq, nền văn minh Lưỡng Hà phát triển trên một khu vực rộng lớn bao gồm Iraq, Kuwait, đông Syria, đông nam Thổ Nhĩ Kỳ và tây nam Iran ngày nay.
Là một trong bốn nền văn minh phát sinh dọc theo các con sông nổi tiếng trên thế giới cùng với đồng bằng châu thổ sông Nile ở Ai Cập, đồng bằng sông Ấn ở Ấn Độ và đồng bằng sông Hoàng Hà ở Trung Quốc, nền văn minh Lưỡng Hà đã để lại cho hậu thế nhiều phát minh giá trị.
Hệ đếm 60 và 1 giờ có 60 phút
Những phát minh cái nôi văn minh để lại cho hậu thế - Ảnh 2.
Bảng đất sét 3.700 của người Babylon cổ đại ghi chép nhiều phương pháp tính toán. Bảng này hiện được lưu giữ tại thư viện trường Đại học Columbia, New York - Ảnh: Andrew Kelly
Người dân Lưỡng Hà sử dụng hệ thống số đếm 60. Từ đó, người Lưỡng Hà phân chia 1 giờ thành 60 phút và 1 phút gồm 60 giây.
Cũng chính nhờ vào cơ số 60, vòng tròn được chia thành 360 độ.
Từ xưa, người Lưỡng Hà cổ đại biết cách làm 4 phép tính cộng trừ nhân chia, biết phân số, luỹ thừa, căn số bậc hai và căn số bậc 3. Họ biết lập bảng căn số để dễ tra cứu và biết giải phương trình có 3 ẩn số.
Họ biết tính diện tích nhiều hình và biết cả quan hệ giữa 3 cạnh trong tam giác rất lâu trước khi Pitago (sống vào những năm 500 TCN) chứng minh điều này.
Lịch âm 12 tháng
Những phát minh cái nôi văn minh để lại cho hậu thế - Ảnh 3.
Cư dân Lưỡng Hà dựa vào Mặt Trăng làm lịch 12 tháng - Ảnh: NASA
Những nhà thiên văn học người Babylon (một bộ phận của nền văn minh Lưỡng Hà) có thể dự đoán các kỳ nhật nguyệt thực và các điểm chí trong năm.
Cũng chính họ đưa ra ý tưởng lịch 12 tháng dựa trên chu kỳ Mặt Trăng. Đây là cơ sở cho loại lịch âm dương mà chúng ta sử dụng ngày nay.
Không lâu sau, người Ai Cập học hỏi loại lịch 12 tháng này nhưng áp dụng với Mặt Trời.
Bánh xe và xe kéo
Những phát minh cái nôi văn minh để lại cho hậu thế - Ảnh 4.
Bức họa một chiếc chiến xa của người Sume những năm 2500 TCN - Ảnh tư liệu
Người Lưỡng Hà trong những năm 3.000 TCN là những cư dân đầu tiên chế tạo một phương tiện di chuyển nhờ vào sức kéo động vật. Đến khoảng năm 2.000 TCN, xe kéo mới du nhập vào Trung Quốc.
Xe kéo nguyên bản là một cỗ xe 2 hoặc 4 bánh được kéo bởi 2 hay nhiều con ngựa buộc sát cạnh nhau, được điều khiển bởi một người đánh xe. Cỗ xe được sử dụng trong nhiều mục đích như vận chuyển, diễu hành, thi đấu thể thao và cả trong chiến tranh.
Xe kéo xuất hiện ở nền văn minh Lưỡng Hà cũng là điều dễ hiểu khi nhiều nhà nghiên cứu cho rằng chính cư dân Lưỡng Hà là người sáng tạo ra bánh xe những năm 3.500 TCN phục vụ cho hoạt động sản xuất và vận tải.
Thuyền buồm
Những phát minh cái nôi văn minh để lại cho hậu thế - Ảnh 5.
Thuyền buồm của người Lưỡng Hà cổ đại - Ảnh: Bright Hub Engineering
Do nhu cầu giao thương hàng hóa, người Sume nhận thấy di chuyển bằng đường bộ mất nhiều thời gian và không vận chuyển được hàng hóa số lượng lớn.
Người Sume chế tạo ra một loại thuyền hình vuông có một cột cao gắn vải để nhờ sức gió di chuyển vượt các sông Tigris và Euphrates.
Tuy nhiên lúc ban đầu, người Sume không biết cách điều chỉnh hướng cánh buồm. Điều này để lại không ít bất tiện khi hướng gió không cùng với hướng đi của họ.
Lưỡi cày và bước đột phá nông nghiệp
Những phát minh cái nôi văn minh để lại cho hậu thế - Ảnh 6.
Mô phỏng lưỡi cày của người Lưỡng Hà - Ảnh: Wacom Gallery
Do nằm ở vùng đồng bằng rộng lớn giữa 2 con sông, nông nghiệp vẫn là ngành cơ bản của nền văn minh Lưỡng Hà. Người dân nơi đây có nhiều phát minh cho nông nghiệp, một trong số đó là lưỡi cày.
Lưỡi cày đầu tiên được làm bằng gỗ, hình dạng đơn giản vào những năm 6.000 TCN.
Buổi ban đầu, dụng cụ thường dính đất đá khi cày xong nên phải dùng tay gỡ đất. Lưỡi cày cũng không hoạt động tốt trong khu vực cỏ mọc quá dầy. Dần dần, các cư dân Lưỡng Hà phát triển lưỡi cày cho hiệu quả tốt hơn.
Phát minh này đóng góp nhiều cho trồng trọt, đảm bảo cuộc sống nông nghiệp định thay vì hình thức du canh du cư.
Bản đồ
Những phát minh cái nôi văn minh để lại cho hậu thế - Ảnh 7.
Một phần trong tấm bản đồ thế giới của người Babylon cổ đại - Ảnh: Wikimedia
Lưỡng Hà là vùng đất sử dụng bản đồ sớm nhất trên thế giới, trong đó bản đồ cổ nhất được phát hiện có niên đại khoảng 2300 năm TCN.
Bản đồ này được khắc trên đất sét, mô tả vùng đất Akkadian ở Lưỡng Hà. Bản đồ được sử dụng như bản đồ thành phố, dùng trong quân sự hay trong thương mại.
Dù là người phát minh nhưng trình độ làm bản đồ của người Lưỡng Hà không bằng người Hy Lạp, Roma sau này.
Bộ luật đầu tiên
Lưỡng Hà cũng là khu vực có những bộ luật sớm nhất ngay từ những năm 2200-2100 TCN. Những bộ luật này quy định các vấn đề thừa kế tài sản, nuôi con nuôi, thuế đất, bảo vệ nông sản, trách nhiệm của người chăn nuôi và những hình phạt cho nô lệ chạy trốn…
Bộ luật quan trọng nhất ở Lưỡng Hà cổ đại là luật Hammurabi thời vua Hammaura (1796 TCN - 1750 TCN) - vị vua thứ 6 của Babylon. Đây cũng là văn bản luật cổ nhất còn được bảo tồn tốt, có niên đại khoảng năm 1760 TCN.
Bộ luật này hiện chỉ còn lại một phần được khắc trên một bia đá cao khoảng 2,44m hiện được lưu giữ tại bảo tàng Louvre (Pháp). Đây là bộ luật cổ sớm nhất hầu như còn nguyên vẹn mà ngày nay đã phát hiện được.
Lưỡng Hà cũng là vùng đất diễn ra đô thị hóa đầu tiên (giai đoạn 4300-3100 TCN).
TRỌNG NHÂN tổng hợp

Những phát minh giúp xem giờ trước khi có đồng hồ

20/04/2018 07:34 GMT+7

TTO - Đồng hồ là vật không thể thiếu trong đời sống hằng ngày. Nhưng bạn có biết trước khi có đồng hồ, người ta xem giờ như thế nào?

Những phát minh giúp xem giờ trước khi có đồng hồ - Ảnh 1.
Đồng hồ mặt trời là một trong những dụng cụ chỉ giờ thời quá khứ - Ảnh: Getty Images
Đồng hồ mặt trời
Những năm 3500 TCN, người Ai Cập bắt đầu xây dựng những cột lớn, đặt dưới ánh nắng và theo dõi bóng của cột thay đổi hướng và chiều dài để xác định sáng trưa chiều.
2.000 năm sau, người Ai Cập sáng tạo chiếc đồng hồ mặt trời với hệ thống đĩa tròn chia làm 12 phần bằng nhau và một kim hứng bóng mặt trời.
Những phát minh giúp xem giờ trước khi có đồng hồ - Ảnh 2.
Mặt đồng hồ mặt trời cổ nhất (khoảng năm 1.500 TCN) của người Ai Cập tại Thung lũng các vị vua - Ảnh tư liệu
Giữa trưa, người ta xoay chiếc đồng hồ 180 độ để chỉ giờ chiều. Sau này phát triển nhiều loại đồng hồ mặt trời có quay 360 độ.
Tuy nhiên loại đồng hồ này có khá nhiều hạn chế như không hoạt động vào ban đêm hay những ngày không mặt trời. Đồng hồ cũng không chính xác khi những góc chiếu mặt trời khác nhau sẽ cho bóng phản chiếu khác nhau.
Đồng hồ sao
Những phát minh giúp xem giờ trước khi có đồng hồ - Ảnh 3.
Merkhet của người Ai Cập cổ đại - Ảnh: Alamy
Chính người Ai Cập phát minh phương pháp canh thời gian ban đêm bằng dụng cụ thiên văn merkhet vào khoảng những năm 600 TCN. Dụng cụ này còn được biết đến với tên gọi dân gian là đồng hồ sao.
Dụng cụ gồm 1 thanh thước thẳng gắn với một dây dọi (dây có buộc một vật nặng ở đầu dưới, dùng để xác định phương thẳng đứng). Các nhà thiên văn đặt dây dọi thẳng đứng và thanh thước hướng về sao Bắc Cực tạo thành một đường Bắc - Nam.
Người ta tính giờ bằng cách quan sát một số ngôi sao nhất định di chuyển qua lại đường ranh giới này.
Đồng hồ nước
Những phát minh giúp xem giờ trước khi có đồng hồ - Ảnh 4.
Một đồng hồ nước bằng đất gốm khoảng cuối thế kỷ thứ 5 TCN trưng bày tại Athen - Ảnh: Marsyas
Đồng hồ nước đo thời gian chảy của một lượng chất lỏng nhất định, thường là nước.
Đồng hồ nước cơ bản nhất thường gồm bộ phận chứa nước và bộ phận hứng.
Người Ai Cập sáng tạo đồng hồ nước đầu tiên để khắc phục những hạn chế của đồng hồ mặt trời. Từ Ai Cập, đồng hồ nước phố biến sang Hi Lạp và các nước Ả Rập.
Theo thời gian, người ta xây dựng hệ thống đồ hồ nước phức tạp hơn sử dụng hệ thống bình thông nhau để chỉ giờ.
Đồng hồ nến
Những phát minh giúp xem giờ trước khi có đồng hồ - Ảnh 5.
Một mẫu đồng hồ nến của Đức - Ảnh: Wikipedia Commons
Đồng hồ nến hoạt động đơn giản sử dụng một cây nến đang cháy cùng một bảng chia vạch được đánh dấu liên tục. Nến cháy bao nhiêu tương ứng với những khoảng thời gian trôi đi.
Chưa biết chính xác đồng hồ nến ra đời khi nào và ở đâu nhưng các nhà khoa học cho rằng loại đồng hồ này thịnh hành ở các nước châu Á như Trung Quốc và Nhật Bản từ thế kỷ thứ 6 đến thế kỷ 11.
Vào thế kỷ 14, vua Ả Rập Al-Jazari (1136-1206) phát minh ra một loại đồng hồ nến tiên tiến nhất khi thiết kế thêm mặt đồng hồ chuẩn xác kèm theo một khớp vặn giúp giữ nến chặt hơn.
Đồng hồ cát
Những phát minh giúp xem giờ trước khi có đồng hồ - Ảnh 6.
Bức tranh Biểu tượng của chính quyền hiệu quả của Ambrogio Lorenzetti năm 1338 có hình ảnh đồng hồ cát - Ảnh tư liệu
Theo nhiều tài liệu để lại, đồng hồ cát lần đầu được biết đến rộng rãi do tu sĩ người Pháp Luitprand ở nhà thờ lớn Chartres chế tạo vào thế kỷ thứ 8. Lúc bấy giờ chỉ có nhà giàu mới sắm đồng hồ cát, vừa để xem giờ, vừa để trang trí trong gia đình.
Mãi đến thế kỷ 14, đồng hồ cát mới xuất hiện phổ biến và được các thủy thủ sử dụng nhiều để xem giờ khi đi biển.
Người ta thiết kế đồng hồ cát chủ yếu để đo những quãng thời gian ngắn khác nhau: 1 giờ, 30 phút hay thậm chí vài phút. Do đó đồng hồ cát là một biểu tượng cho thời gian trôi nhanh, thường xuất hiện trong các lĩnh vực nghệ thuật.
Đồng hồ đèn dầu
Những phát minh giúp xem giờ trước khi có đồng hồ - Ảnh 7.
Một loại đồng hồ đèn dầu - Ảnh: Wikimedia
Đồng hồ đèn dầu tương tự như đồng hồ nến. Đồng hồ được thiết kế với một khung chứa dầu, thường là dầu cá voi dùng để đốt đèn. Trên khung chứa dầu ghi những con số cho biết khoảng thời gian qua đi.
Các nhà khoa học chưa biết chính xác loại đèn dầu này ra đời khi nào và ở đâu nhưng chúng được sử dụng thịnh hành vào thế kỷ 18 trên thế giới.
Đồng hồ voi
Những phát minh giúp xem giờ trước khi có đồng hồ - Ảnh 8.
Bản vẽ mô phỏng hệ thống đồng hồ voi thời vua Al-Jazari - Ảnh tư liệu
Đỉnh cao của hệ thống đồng hồ nước chính là phát minh đồng hồ voi của Al-Jarazri (1136-1206) vị vua Ả Rập nổi tiếng.
Đây là một hệ thống máy móc hoạt động phức tạp (xem hình). Bên trong chú voi rỗng là một bể nước và một thùng nước được khoét lỗ dưới đáy. Thời gian để thùng chìm trong bể là 1 giờ 30 phút.
Khi chìm, thùng giật dây kéo con chim trên đỉnh tháp quay báo giờ và làm rơi 1 một trái banh vào miệng con rồng.
Con rồng có trục quay tiếp tục đưa trái bóng rơi trúng vào điểm kích hoạt người máy ngồi trước voi giật dây kéo thùng chìm trong bể lên mặt nước trở lại.

Nguyên tắc hoạt động của đồng hồ voi - Nguồn: YouTube
Xem thêm video khác trên TVOCứ thế tiếp tục. Cách 1 giờ 30 phút, người dân sẽ được thông báo giờ giấc.
Đồng hồ nhang
Những phát minh giúp xem giờ trước khi có đồng hồ - Ảnh 10.
Đồng hồ nhang - Ảnh: Pinterest
Người Trung Hoa phát minh ra cách đo thời gian bằng nhang vào thời nhà Tống (960-1279) sau đó phổ biến đến những quốc gia lân cận như Nhật Bản, Cao Ly.
Cấu tạo thường gặp của loại đồng hồ này gồm những quả cầu kim loại được buộc dọc thanh nhang theo khoảng cách đều nhau bằng những sợi dây. Khi nhang cháy hết một đoạn, dây tuột ra làm rơi những quả cầu rớt xuống tạo ra tiếng động báo giờ.
Một loại đồng hồ nhang khác sử dụng thanh nhang có từng đoạn màu sắc hoặc mùi hương khác nhau để đánh dấu những khoảng thời gian khác nhau.
TRỌNG NHÂN (tổng hợp)
 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét