BÍ ẨN LỊCH SỬ 93 (Lê Lai)
(ĐC sưu tầm trên NET)
Hình minh họa
Lê Lợi (1385 - 1433) là một hào trưởng có uy tín lớn ở vùng Lam Sơn (Thanh Hoá). Trước cảnh nước mất, nhân dân lầm than, ông đã dốc hết tải sản để chiêu tập nghĩa sĩ, bí mật liên lạc với các hào kiệt, xây dựng lực lượng và chọn Lam Sơn làm căn cứ cho cuộc khởi nghĩa.
Lam Sơn nằm bên tả ngạn sông Chu, nối liền giữa đồng bằng với miền núi và có địa thế hiểm trở. Đây cũng là nơi giao tiếp của các dân tộc Việt, Mường, Thái.
Khâm định Việt sử thông giám cương mục ghi:
"Ông thường nói với mọi người: ‘Bậc trượng phu sinh ở đời phải cứu nạn lớn, lập công to, để tiếng thơm hàng nghìn thuở, chứ đâu lại xun xoe đi phục dịch kẻ khác".
Nghe tin Lê Lợi đang chuẩn bị khởi nghĩa ở Lam Sơn, nhiều người yêu nước từ các địa phương đã tìm về hội tụ ngày càng đông, trong đó có Nguyễn Trãi.
Nguyễn Trãi (1380 - 1442) là con Nguyễn Phi Khanh. Cả hai cha con đều đỗ đại khoa và làm quan thời Hồ. Ông học rộng, tài cao, có lòng yêu nước thương dân hết mực. Quân Minh tìm đủ mọi cách để dụ dỗ ông nhưng đều thất bại. Từ thành Đông Quan, ông bí mật trốn vào Lam Sơn theo Lê Lợi khởi nghĩa và dâng bản Bình Ngô sách (Kế sách đánh quân Ngô).
Đầu năm 1416, Lê Lợi cùng 18 người trong bộ chỉ huy cuộc khởi nghĩa đã tổ chức hội thề ở Lũng Nhai (Thanh Hoá) và đọc bài văn thề:
"Tôi là phụ đạo Lê Lợi cùng Lê Lai..., Nguyễn Trãi, Đinh Liệt, Lưu Nhân Chú. 19 người tuy họ hàng quê quán khác nhau, nhưng kết nghĩa thân nhau như một tổ liền cành. Phận vinh hiển có khác nhau mong có tình như cùng chung một họ... chung sức đồng lòng, giữ gìn đất nước, làm cho xóm làng được ăn ở yên lành. Thề sống chết cùng nhau, không dám quên lời thê son sắt... Kính xin có lời thề."
Những năm đầu hoạt động của nghĩa quân Lam Sơn
Những ngày đầu khởi nghĩa, lực lượng còn yếu, nghĩa quân Lam Sơn đã gặp rất nhiều khó khăn, nguy nan. Quân Minh nhiều lần tấn công, bao vây căn cứ Lam Sơn. Nghĩa quân ba lần phải rút lên núi Chí Linh (Lang Chánh, Thanh Hoá) và phải liên tiếp chống lại sự vây quét của quân giặc.
Trong gian khổ đã có rất nhiều tấm gương chiến đấu hi sinh dũng cảm, tiêu biểu là Lê Lai. Giữa năm 1418, quân Minh huy động một lực lượng bao vây chặt căn cứ Chí Linh, quyết bắt giết Lê Lợi.
Trước tình hình nguy cấp đó, Lê Lai đã cải trang làm Lê Lợi, chỉ huy một toán quân liều chết phá vòng vây quân giặc. Lê Lai cùng toán quân cảm tử đã hi sinh. Quân Minh tưởng rằng đã giết được Lê Lợi nên rút quân.
Lê Lai người dân tộc Mường, quê ở Dựng Tú (Ngọc Lặc - Thanh Hoá). Gia đình ông có 5 người tham gia nghĩa quân Lam Sơn thì 4 người đã hi sinh trong chiến đấu.
Cuối năm 1421, quân Minh huy động hơn 10 vạn lính mở cuộc vây quét lớn vào căn cứ của nghĩa quân. Lê Lợi lại phải rút quân lên núi Chí Linh. Tại đây, nghĩa quân đã trải qua muôn vàn khó khăn, thiếu lương thực trầm trọng, đói, rét. Lê Lợi phải cho giết cả voi, ngựa (kể cả con ngựa của ông) để nuôi quân.
Cuộc khởi nghĩa Lam Sơn chuyển sang giai đoạn mới.
2. Tháng 4 năm Kỷ Hợi (1419) vua đánh đồn Nga Lạc, tháng 5 đóng ở sách Đà Sơn, quân Minh tiến đánh vua phục kích ở Mường Chách... ít lâu sau dời sang Mường Thôi rồi lại về Vu Sơn.
3. Tháng 10, năm Canh Tý (1420) quân ta đánh nhau với quân Minh ở Mường Nanh.
4. Từ năm 1420 - 1422 lúc nào cũng có giao tranh với quân Minh.
5." Mùa đông tháng 12 năm Nhâm Dần (1422) quân ta bị giặc Minh vây ở Sách Khôi, vua bảo các tướng sĩ " giặc vây ta bốn mặt, có muốn chạy cũng không có lối nào thoát. Đây chính là tử địa mà binh pháp đã nói, đánh nhanh thì sống, không đánh nhanh thì chết. Vua nói xong chảy nước mắt, các tướng sĩ đều xúc động tranh nhau liều chết quyết chiến....Vua đem quân về đóng ở núi Chí Linh, quân lính hết lương, hơn 2 tháng chỉ ăn rau củ và măng tre mà thôi, vua giết 4 con voi và cả ngựa của mình cưởi để nuôi quân sĩ...."
Từ trận đó cho đến khi toàng thắng giặc Minh vào năm 1428 không có trận nào mà Lê Lợi bị vây khốn nữa.
Theo như lời của vua Tự Đức có lẽ việc Lê Lai đổi áo bào cho Lê Lợi là trong trận ngày 16 tháng Giêng năm Mậu Tuất (1418) hoặc tháng hai năm đó - xứ Mỹ công sách Hà Đã có lẽ là vùng thượng lưu sông Chu, phía trên Lam Sơn.
Theo Ngô Thời sĩ thì có lẽ hành động của Lê Lai được thực hiện trong trận tháng 5 năm Kỷ Hợi (1419) khi quân Minh tiến đánh Lê Lợi ở sách Đà Sơn.
Còn Phan Huy Chú thì không ghi rõ địa điểm cũng như thời gian của việc này.
Lê Qúy Đôn thì ghi "đóng quân ở Mang Cốc trong núi Chí Linh hơn 10 ngày hết lương..." và hành động mặc áo bào của nhà vua xưng là Lê Lam Sơn có thể vào mùa đông tháng 12 năm1422 trong khi đó Trần Trọng Kim thì ghi rõ là tháng 4 năm1419.
Một điều đáng ngạc nhiên là sử gia các đời về sau đều chép truyện Lê Lai liều mình cứu chúa .Trong khi nhóm sử thần đời Lê lại không ghi chuyện này.Trong Đại Việt Sử Ký Tòan Thư phần bản kỷ , quyển số 10, trang 27b chỉ thấy chép : "Ngày 13 tháng giêng năm Đinh Mùi (1427) giết Tư Mã Lê Lai , tịch thu gia sản vì Lai cậy có chiến công nói năng khinh mạn "
Điều này cho phép ta hiểu rằng chuyện Lê Lai đổi áo giả làm Lê Lợi là có thật nhưng ông đã may mắn thoát khỏi tay quân giặc để trở lại hàng ngũ kháng chiến .Nghĩa là ông vẫn còn sống cho đến năm 1427 tức là 8 năm sau mới bị Lê Lợi ra lệnh giết chết
" Điểu tận cùng tàng" chim hết thì cung tên xếp xó; thỏ hết thì chó săn bị bắt ra làm thịt, việc giết công thần sau khi đã làm nên nghiệp lớn là việc thường xảy ra dưới thời đại phong kiến.Hán Cao Tổ giết Hàn Tín, Việt Vương Câu Tiễn giết Văn Chủng , Phạm Lãi nhờ trốn sang nươc Tề rồi vào đất Đào, cải tên là Đào Chu Công mới may còn sống sót.
Theo nhận xét của các tác giả Đại Việt Sử Ký Toàn Thư ,quyễn X ,trang 75b viết : "Thái Tổ từ khi lên ngôi đến nay,thi hành chính sự thực rất khả quan....song đa nghi hiếu sát là chổ kém ". Khi thành công trong việc giành lại độc lập - Lê Lợi đã giết chết nhiều công thần đã sát cánh cùng mình trong gian khổ chiến đấu. Ngày 10 tháng giêng Mậu thân ( 1428 ) giết Trần Cảo,Năm 1429 giết Trần Nguyên Hãn , Năm 1431 giết Phạm Văn Xảo ... vì lo rằng sau này họ có chí khác nên bên ngoài thì đối xử theo lẽ tiết hậu nhưng trong lòng lại rất ngờ vực.
(đây chỉ là y kiến chủ quan của em)
mọi người cho ý kiến nha! ;)
----------------------------------
Đề nghị bạn chủ topic ghi rõ nguồn của bài viết này. Sau 24h mà không ghi rõ nguồn, chủ đề sẽ bị xoá
Nhà vua làm lễ tế người hồng nhan (Tranh minh họa)
Lúc này, tại Thanh Hóa, nghĩa quân Lam Sơn gặp muôn vàn khó khăn
trước những đợt tấn công liên tục của quân Minh, có những lúc bị bao
vây, thiếu lương thực, nước uống, lại bị tổn thất nhân lực.
LÊ LỢI Hành Quyết LÊ LAI - Bộ Mặt Thật Của Lê Thái Tổ Và Những Bí Ẩn Trong Lịch Sử Việt Nam
LÊ LỢI Hành Quyết LÊ LAI - Bộ Mặt Thật Của Lê Thái Tổ Và Những Bí Ẩn
Trong Lịch Sử Việt Nam
Nội dung: Rất nhiều người đều biết rằng Lê Lai đã đổi áo liều mình cứu
chúa, giúp Lê Lợi thoát khỏi vòng vây của quân Minh trong những năm đầu
của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Sau đó Lê Lai bị giết còn Lê Lợi giữ lời
hứa đối với ông. Tuy nhiên một số nhà nghiên cứu lại không đồng ý với
quan điểm này, trích dẫn một đoạn trong Đại Việt sử ký toàn thư, cho
rằng Lê Lợi đã ra lệnh giết Lê Lai vào năm 1427 vì “cậy công nói năng
khinh mạn”
Hé lộ bí ẩn cái chết của Lê Lai - vị anh hùng đứng sau các chiến tích lẫy lừng của Lê Lợi
Câu chuyện hy sinh thân mình cứu Lê Thái Tổ (Lê Lợi) thoát khỏi vòng vây quân Minh của Lê Lai được đời sau truyền tụng, gọi là Lê Lai cứu chúa. Tuy nhiên cái chết của ông vẫn còn là một điều bí ẩn và chưa rõ ràng đối với nhiều người.
Lê Lai là một viên tướng nổi tiếng của khởi nghĩa Lam Sơn, có công
lao rất lớn giúp đỡ Lê Thái Tổ (Lê Lợi) gây dựng sự nghiệp. Câu
chuyện ông hy sinh thân mình cứu Lê Thái Tổ thoát khỏi vòng vây của quân
Minh được đời sau truyền tụng, gọi là Lê Lai cứu chúa.
Ông được đời sau so sánh như Kỷ Tín, đã giúp Hán Cao Tổ đánh tráo mà thoát thân. Hình ảnh Lê Lai luôn được ca tụng và ghi nhớ, một tượng đài đáng ca ngợi về tấm lòng trung quân báo quốc.
Lê Lai sinh ra ở thôn Dựng Tú, xã Đức Giang huyện Lương Giang (nay là Thôn Thành Sơn (Làng Tép), xã Kiên Thọ, huyện Ngọc Lặc, tỉnh Thanh Hóa), là con của Lê Kiều, nối đời làm chức phụ đạo trong vùng. Ông có người anh lớn tên là Lê Lạn. Lê Lai tính cương trực, dung mạo khác thường, chí khí cao cả lẫm liệt, lo việc hậu cần cho Lê Lợi.
Năm 1416, ông cùng Thái Tổ và các tướng lĩnh khác tham gia Hội thề Lũng Nhai, thề sống chết có nhau, nguyện chung sức đánh đuổi quân Minh đang cướp phá. Ông được ban tước Quan nội hầu, tổng quản của phủ Đô tổng quản.
Câu chuyện Lê Lai cứu chúa được Sách Lam Sơn thực lục chép ghi lại như sau:
Bấy giờ nghĩa quân Lam Sơn lực lượng còn yếu, thiếu lương, thường bị quân Minh đánh bại. Nhà vua bèn vời các tướng mà bảo rằng:
- Ai có thể thay mặc áo vàng của Trẫm, lĩnh năm trăm quân, hai thớt voi, đánh vào thành Tây đô. Thấy giặc ra đối địch, thì tự xưng tên: "Ta là chúa Lam Sơn đây!". Để cho giặc bắt? Cho ta được náu mình, nghỉ binh, thu họp cả quân sĩ, để mưu tính việc về sau!
Các tướng đều không dám nhận lời.
Chỉ có Lê Lai thưa rằng:
- Tôi bằng lòng xin thay mặc áo Nhà vua. Ngày sau Bệ Hạ gây nên Đế nghiệp, có được thiên hạ, thương đến công tôi, cho con cháu muôn đời được chịu ơn nước. Đó là điều tôi mong mỏi!
Nhà vua lạy Trời mà khấn rằng:
- Lê Lai có công thay đổi áo. Sau này trẫm cùng con cháu, và các tướng tá, hay con cháu các công thần, nếu không thương đến công ấy, thì xin đền đài hóa ra rừng núi; ấn vàng hóa ra đồng sắt; gươm thần hóa ra đao binh!
Nhà vua khấn xong, Lê Lai liền đem quân đến cửa trại giặc khiêu chiến. Giặc cậy quân mạnh xông đánh. Lê Lai cưỡi ngựa, phi vào giữa trận giặc, nói rằng:
- Ta đây là chúa Lam Sơn!
Giặc bèn xúm lại vây, bắt lấy đem về trong thành, xử bằng hình phạt cực tàn khốc.
Nhưng trong bộ quốc sử lớn nhất thời phong kiến là Đại Việt sử kí toàn thư, việc Lê Lai hi sinh không được nói đến. Chẳng những thế, ở phần biên niên về tháng Giêng năm 1427, sách này còn viết: "Giết Tư Mã Lê Lai, tịch thu gia sản vì Lai cậy có chiến công, ăn nói ngạo mạn". Dựa vào chi tiết này, có người cho rằng Lê Lai không chết trong lần cải trang cứu chúa năm 1418 mà đến năm 1427 mới mất.
Về sự kiện măm 1418, Đại Việt thông sử chép: "Lê lai… tự nguyện thay đổi mặc áo bào nhà vua, xưng là vua Lê ở Lam Sơn, dẫn quân ra đánh nhau với quân Minh… Lê Lai chống cự đến kiệt sức thì bị bắt, quân Minh dẫn Lê Lai về thành Đông Quan giết chết" (Đế kỉ, Thái Tổ thượng). Ở phần liệt truyện về Lê Lai, sách này còn chép Lê Lợi sai người ngầm tìm thi hài Lê Lai, đem về Lam Sơn hậu táng.
Về sự kiện tháng Giêng năm 1427, sách này chép: "Viên Tư Mã là Lê Lai cậy có chiến công, thường thốt ra những lời khinh nhờn. Vua (chỉ Lê Lợi - người dẫn) sai xử tử và tịch thu gia sản".
Vậy là sách này đã chép rõ cả việc Lê Lai chết năm 1418 và Lê Lai chết năm 1427. Hai sự kiện trên cũng được sách Lam Sơn thực lục tục biên chép tương tự. Ngoài ra, gia phả dòng họ Lê Lai ở Dựng Tú (Thanh Hóa) cũng chép truyện Lê Lai chết vì nước năm 1418. Truyền thuyết dân gian cũng nói đến việc Lê Lai liều mình cứu chúa rồi bị kẻ thù giết chết.
Như vậy, có đủ cơ sở để khẳng định Lê Lai đã hi sinh năm 1418 và trong hàng ngũ nghĩa quân cùng có hai người mang tên họ là Lê Lai (có thể trùng tên trùng họ hay trùng tên khác họ nhưng được ban quốc tính (họ Lê)). Viên Tư Mã Lê Lai của năm 1427 hoàn toàn không phải là Lê Lai cứu chúa bị quân Minh giết hại năm 1418. Như vậy, chính xác Lê Lai đã xả thân cứu Lê Lợi năm 1418 còn nhân vật Lê Lai thứ 2 bị giết năm 1427 thực ra là một người khác trùng tên.
Sách Đại Việt thông sử của Lê Quý Đôn viết: "Lê Lai tính cương trực, dung mạo khác thường, chí khí cao cả lẫm liệt, lo việc hậu cận cho Lê Lợi rất chu đáo, công lao rõ rệt".
Lê Lợi sinh năm 1385, là con thứ ba của Lê Khoáng và bà Trịnh Thị Ngọc Thương. Ông sinh tại làng Chủ Sơn, huyện Lôi Dương (nay là xã Xuân Thắng, huyện Thọ Xuân, Thanh Hóa). Trưởng thành trong thời kỳ nhà Minh đô hộ nước Việt, Lê Lợi đã tổ chức cuộc khởi nghĩa Lam Sơn chống lại quân Minh.
Lê Lai và Lê Lợi không hề có quan hệ ruột thịt như nhiều người vẫn lầm tưởng từ trước đến nay họ là 2 anh em.
Suốt những năm ở ngôi vua, Lê Lợi (tức Lê Thái Tổ) luôn nhớ ơn vị tướng ngày trước đã hy sinh thân mình cứu ông thoát nạn, lập được giang sơn. Đến lúc sắp chết, Lê Lợi vẫn dặn con cháu rằng, ông có được ngày hôm nay là nhờ Lê Lai, do đó phải làm giỗ Lê Lai trước, để vị tướng này được hưởng lễ trước vua.
Ngày 22/8/1433, Lê Lợi mất, các vua nối ngôi theo lời dặn của ông đã cúng Lê Lai vào ngày 21/8. Từ đó dân gian có câu: Hăm mốt Lê Lai, hăm hai Lê Lợi.
Năm 1484, Lê Thánh Tông (vị vua thứ năm của triều Hậu Lê) đã truy tặng Lê Lai là "Thái úy Phúc quốc công", sau lại gia phong là Trung Túc Vương.
Lê Lai có ba người con trai là Lê Lư, Lê Lộ và Lê Lâm, đều theo cha gia nhập nghĩa quân của Lê Lợi đánh đuổi quân xâm lược nhà Minh.
Ông được đời sau so sánh như Kỷ Tín, đã giúp Hán Cao Tổ đánh tráo mà thoát thân. Hình ảnh Lê Lai luôn được ca tụng và ghi nhớ, một tượng đài đáng ca ngợi về tấm lòng trung quân báo quốc.
Lê Lai sinh ra ở thôn Dựng Tú, xã Đức Giang huyện Lương Giang (nay là Thôn Thành Sơn (Làng Tép), xã Kiên Thọ, huyện Ngọc Lặc, tỉnh Thanh Hóa), là con của Lê Kiều, nối đời làm chức phụ đạo trong vùng. Ông có người anh lớn tên là Lê Lạn. Lê Lai tính cương trực, dung mạo khác thường, chí khí cao cả lẫm liệt, lo việc hậu cần cho Lê Lợi.
Năm 1416, ông cùng Thái Tổ và các tướng lĩnh khác tham gia Hội thề Lũng Nhai, thề sống chết có nhau, nguyện chung sức đánh đuổi quân Minh đang cướp phá. Ông được ban tước Quan nội hầu, tổng quản của phủ Đô tổng quản.
Câu chuyện Lê Lai cứu chúa được Sách Lam Sơn thực lục chép ghi lại như sau:
Bấy giờ nghĩa quân Lam Sơn lực lượng còn yếu, thiếu lương, thường bị quân Minh đánh bại. Nhà vua bèn vời các tướng mà bảo rằng:
- Ai có thể thay mặc áo vàng của Trẫm, lĩnh năm trăm quân, hai thớt voi, đánh vào thành Tây đô. Thấy giặc ra đối địch, thì tự xưng tên: "Ta là chúa Lam Sơn đây!". Để cho giặc bắt? Cho ta được náu mình, nghỉ binh, thu họp cả quân sĩ, để mưu tính việc về sau!
Các tướng đều không dám nhận lời.
Chỉ có Lê Lai thưa rằng:
- Tôi bằng lòng xin thay mặc áo Nhà vua. Ngày sau Bệ Hạ gây nên Đế nghiệp, có được thiên hạ, thương đến công tôi, cho con cháu muôn đời được chịu ơn nước. Đó là điều tôi mong mỏi!
Nhà vua lạy Trời mà khấn rằng:
- Lê Lai có công thay đổi áo. Sau này trẫm cùng con cháu, và các tướng tá, hay con cháu các công thần, nếu không thương đến công ấy, thì xin đền đài hóa ra rừng núi; ấn vàng hóa ra đồng sắt; gươm thần hóa ra đao binh!
Nhà vua khấn xong, Lê Lai liền đem quân đến cửa trại giặc khiêu chiến. Giặc cậy quân mạnh xông đánh. Lê Lai cưỡi ngựa, phi vào giữa trận giặc, nói rằng:
- Ta đây là chúa Lam Sơn!
Giặc bèn xúm lại vây, bắt lấy đem về trong thành, xử bằng hình phạt cực tàn khốc.
Cái chết của Lê Lai vẫn còn là điều bí ẩn, chưa rõ ràng?
Sách Lam Sơn thực lục (biên soạn sau khi cuộc khởi nghĩa giành thắng lợi, lúc Lê Lợi đã lên ngôi Hoàng Đế) là tài liệu đầu tiên ghi nhận việc Lê Lai liều mình cứu chúa và anh dũng hi sinh (năm 1418). Các sách khác như Đại Việt thông sử, Lam Sơn thực lục tục biên, Khâm định Việt sử thông giám cương mục… cũng đều chép chuyện Lê Lai hi sinh, trong đó Đại Việt thông sử chép chi tiết nhất. Đó là cơ sở về mặt thư tịch để các nhà sử học khẳng định việc Lê Lai hi sinh năm 1418.Nhưng trong bộ quốc sử lớn nhất thời phong kiến là Đại Việt sử kí toàn thư, việc Lê Lai hi sinh không được nói đến. Chẳng những thế, ở phần biên niên về tháng Giêng năm 1427, sách này còn viết: "Giết Tư Mã Lê Lai, tịch thu gia sản vì Lai cậy có chiến công, ăn nói ngạo mạn". Dựa vào chi tiết này, có người cho rằng Lê Lai không chết trong lần cải trang cứu chúa năm 1418 mà đến năm 1427 mới mất.
Sự thật là có đến 2 Lê Lai?
Thực ra chỉ dựa vào một câu trong Đại Việt sử kí toàn thư để phủ nhận ghi chép của những quyển sử khác là điều phiến diện. Ghi chép của sách này dẫn người đọc đến việc suy đoán nước đôi: Lê Lai chết năm 1427 hoặc năm 1418. Sách này không chép truyện Lê Lai cải trang phá vây nên càng khó để xác định Lê Lai của năm 1427 là Lê Lai của năm 1418. Vì vậy, nếu muốn khẳng định rằng Lê Lai còn sống sau lần phá vây và đến năm 1427 mới chết theo quan điểm của một số người thì phải chứng minh được Lê Lai trong Đại Việt sử kí toàn thư và Lê Lai trong các sách như Lam Sơn thực lục chỉ là một người.Về sự kiện măm 1418, Đại Việt thông sử chép: "Lê lai… tự nguyện thay đổi mặc áo bào nhà vua, xưng là vua Lê ở Lam Sơn, dẫn quân ra đánh nhau với quân Minh… Lê Lai chống cự đến kiệt sức thì bị bắt, quân Minh dẫn Lê Lai về thành Đông Quan giết chết" (Đế kỉ, Thái Tổ thượng). Ở phần liệt truyện về Lê Lai, sách này còn chép Lê Lợi sai người ngầm tìm thi hài Lê Lai, đem về Lam Sơn hậu táng.
Về sự kiện tháng Giêng năm 1427, sách này chép: "Viên Tư Mã là Lê Lai cậy có chiến công, thường thốt ra những lời khinh nhờn. Vua (chỉ Lê Lợi - người dẫn) sai xử tử và tịch thu gia sản".
Vậy là sách này đã chép rõ cả việc Lê Lai chết năm 1418 và Lê Lai chết năm 1427. Hai sự kiện trên cũng được sách Lam Sơn thực lục tục biên chép tương tự. Ngoài ra, gia phả dòng họ Lê Lai ở Dựng Tú (Thanh Hóa) cũng chép truyện Lê Lai chết vì nước năm 1418. Truyền thuyết dân gian cũng nói đến việc Lê Lai liều mình cứu chúa rồi bị kẻ thù giết chết.
Như vậy, có đủ cơ sở để khẳng định Lê Lai đã hi sinh năm 1418 và trong hàng ngũ nghĩa quân cùng có hai người mang tên họ là Lê Lai (có thể trùng tên trùng họ hay trùng tên khác họ nhưng được ban quốc tính (họ Lê)). Viên Tư Mã Lê Lai của năm 1427 hoàn toàn không phải là Lê Lai cứu chúa bị quân Minh giết hại năm 1418. Như vậy, chính xác Lê Lai đã xả thân cứu Lê Lợi năm 1418 còn nhân vật Lê Lai thứ 2 bị giết năm 1427 thực ra là một người khác trùng tên.
Lê Lợi và Lê Lai không hề có quan hệ ruột thịt
Lê Lai (sống ở thế kỷ 15), là con của Lê Kiều, người thôn Dựng Tú, sách Đức Giang, huyện Lương Giang (nay là thôn Thành Sơn, xã Kiên Thọ, huyện Ngọc Lặc, tỉnh Thanh Hóa).Sách Đại Việt thông sử của Lê Quý Đôn viết: "Lê Lai tính cương trực, dung mạo khác thường, chí khí cao cả lẫm liệt, lo việc hậu cận cho Lê Lợi rất chu đáo, công lao rõ rệt".
Lê Lợi sinh năm 1385, là con thứ ba của Lê Khoáng và bà Trịnh Thị Ngọc Thương. Ông sinh tại làng Chủ Sơn, huyện Lôi Dương (nay là xã Xuân Thắng, huyện Thọ Xuân, Thanh Hóa). Trưởng thành trong thời kỳ nhà Minh đô hộ nước Việt, Lê Lợi đã tổ chức cuộc khởi nghĩa Lam Sơn chống lại quân Minh.
Lê Lai và Lê Lợi không hề có quan hệ ruột thịt như nhiều người vẫn lầm tưởng từ trước đến nay họ là 2 anh em.
Suốt những năm ở ngôi vua, Lê Lợi (tức Lê Thái Tổ) luôn nhớ ơn vị tướng ngày trước đã hy sinh thân mình cứu ông thoát nạn, lập được giang sơn. Đến lúc sắp chết, Lê Lợi vẫn dặn con cháu rằng, ông có được ngày hôm nay là nhờ Lê Lai, do đó phải làm giỗ Lê Lai trước, để vị tướng này được hưởng lễ trước vua.
Ngày 22/8/1433, Lê Lợi mất, các vua nối ngôi theo lời dặn của ông đã cúng Lê Lai vào ngày 21/8. Từ đó dân gian có câu: Hăm mốt Lê Lai, hăm hai Lê Lợi.
Năm 1484, Lê Thánh Tông (vị vua thứ năm của triều Hậu Lê) đã truy tặng Lê Lai là "Thái úy Phúc quốc công", sau lại gia phong là Trung Túc Vương.
Lê Lai có ba người con trai là Lê Lư, Lê Lộ và Lê Lâm, đều theo cha gia nhập nghĩa quân của Lê Lợi đánh đuổi quân xâm lược nhà Minh.
Lê Lai cứu chúa: Giả trang thành Lê Lợi, liều chết phá vòng vây địch
B.T sưu tầm, SGK Sử 7 |
Kể từ khi quân Minh xâm lược Đại Việt, vô số cuộc khởi nghĩa nổ ra nhưng đều bị đàn áp tàn bạo. Năm 1418, từ miền Lam Sơn chướng khí, Lê Lợi dựng cờ khởi nghĩa.
Lê Lợi dựng cờ khởi nghĩaLê Lợi (1385 - 1433) là một hào trưởng có uy tín lớn ở vùng Lam Sơn (Thanh Hoá). Trước cảnh nước mất, nhân dân lầm than, ông đã dốc hết tải sản để chiêu tập nghĩa sĩ, bí mật liên lạc với các hào kiệt, xây dựng lực lượng và chọn Lam Sơn làm căn cứ cho cuộc khởi nghĩa.
Lam Sơn nằm bên tả ngạn sông Chu, nối liền giữa đồng bằng với miền núi và có địa thế hiểm trở. Đây cũng là nơi giao tiếp của các dân tộc Việt, Mường, Thái.
Khâm định Việt sử thông giám cương mục ghi:
"Ông thường nói với mọi người: ‘Bậc trượng phu sinh ở đời phải cứu nạn lớn, lập công to, để tiếng thơm hàng nghìn thuở, chứ đâu lại xun xoe đi phục dịch kẻ khác".
Nghe tin Lê Lợi đang chuẩn bị khởi nghĩa ở Lam Sơn, nhiều người yêu nước từ các địa phương đã tìm về hội tụ ngày càng đông, trong đó có Nguyễn Trãi.
Nguyễn Trãi (1380 - 1442) là con Nguyễn Phi Khanh. Cả hai cha con đều đỗ đại khoa và làm quan thời Hồ. Ông học rộng, tài cao, có lòng yêu nước thương dân hết mực. Quân Minh tìm đủ mọi cách để dụ dỗ ông nhưng đều thất bại. Từ thành Đông Quan, ông bí mật trốn vào Lam Sơn theo Lê Lợi khởi nghĩa và dâng bản Bình Ngô sách (Kế sách đánh quân Ngô).
Đầu năm 1416, Lê Lợi cùng 18 người trong bộ chỉ huy cuộc khởi nghĩa đã tổ chức hội thề ở Lũng Nhai (Thanh Hoá) và đọc bài văn thề:
"Tôi là phụ đạo Lê Lợi cùng Lê Lai..., Nguyễn Trãi, Đinh Liệt, Lưu Nhân Chú. 19 người tuy họ hàng quê quán khác nhau, nhưng kết nghĩa thân nhau như một tổ liền cành. Phận vinh hiển có khác nhau mong có tình như cùng chung một họ... chung sức đồng lòng, giữ gìn đất nước, làm cho xóm làng được ăn ở yên lành. Thề sống chết cùng nhau, không dám quên lời thê son sắt... Kính xin có lời thề."
(Lam Sơn thực lục)
Ngày 2 tháng 1 năm Mậu Tuất (7 - 2 - 1418), Lê Lợi dựng cờ khởi nghĩa ở Lam Sơn và tự xưng là Bình Định Vương.Những ngày đầu khởi nghĩa, lực lượng còn yếu, nghĩa quân Lam Sơn đã gặp rất nhiều khó khăn, nguy nan. Quân Minh nhiều lần tấn công, bao vây căn cứ Lam Sơn. Nghĩa quân ba lần phải rút lên núi Chí Linh (Lang Chánh, Thanh Hoá) và phải liên tiếp chống lại sự vây quét của quân giặc.
Trong gian khổ đã có rất nhiều tấm gương chiến đấu hi sinh dũng cảm, tiêu biểu là Lê Lai. Giữa năm 1418, quân Minh huy động một lực lượng bao vây chặt căn cứ Chí Linh, quyết bắt giết Lê Lợi.
Trước tình hình nguy cấp đó, Lê Lai đã cải trang làm Lê Lợi, chỉ huy một toán quân liều chết phá vòng vây quân giặc. Lê Lai cùng toán quân cảm tử đã hi sinh. Quân Minh tưởng rằng đã giết được Lê Lợi nên rút quân.
Lê Lai người dân tộc Mường, quê ở Dựng Tú (Ngọc Lặc - Thanh Hoá). Gia đình ông có 5 người tham gia nghĩa quân Lam Sơn thì 4 người đã hi sinh trong chiến đấu.
Cuối năm 1421, quân Minh huy động hơn 10 vạn lính mở cuộc vây quét lớn vào căn cứ của nghĩa quân. Lê Lợi lại phải rút quân lên núi Chí Linh. Tại đây, nghĩa quân đã trải qua muôn vàn khó khăn, thiếu lương thực trầm trọng, đói, rét. Lê Lợi phải cho giết cả voi, ngựa (kể cả con ngựa của ông) để nuôi quân.
Bình Ngô đại cáo có đoạn:
"Khi Linh Sơn lương hết mấy tuần,
Khi Khôi Huyện quân không một đội".
Mùa
hè năm 1423, Lê Lợi đề nghị tạm hoà và được quân Minh chấp thuận. Tháng
5 - 1423, nghĩa quân trở về căn cứ Lam Sơn. Cuối năm 1424, do bị thất
bại trong âm mưu mua chuộc Lê Lợi, quân Minh trở mặt, tấn công nghĩa
quân.Cuộc khởi nghĩa Lam Sơn chuyển sang giai đoạn mới.
BắcBìnhĐạiTướng:
Ai giết Lê Lai? giặc Minh hay Lê Lợi?
Tại sao "Đại Việt Sử Ký Toàn Thư " không chép chuyện "Lê Lai liều mình "?
Chuyện Lê Lai liều mình cứu chúa là một hành động hy sinh vì đại nghiã rất đáng cho người đời sau ghi nhớ . Ở Thành Phố H.C.M ,đại lộ Lê Lợi chạy từ Nhà Hát Thành Phố đến Chợ Bến Thành, nối liền là đường Lê Lai chạy cho đến Nhà Thờ Huyện Sĩ. Trong nhân gian cụm từ " Hăm mốt Lê Lai,hăm hai Lê Lợi " cũng nói lên lòng kính trọng đối với ngày giỗ của hai vị anh hùng này. Những vị cao tuổi bây giờ , ngày xưa học tiểu học cũng đã từng học chuyện" Lê Lai liều mình cứu chúa" .Trong "sử ký lớp ba" do sử gia Trần Trọng Kim soạn, Nha Học Chính Bắc Kỳ ấn hành đã được dùng làm sách giáo khoa dạy trong các trường . Nếu không nghiên cứu thêm các sách sử khác mà cứ một mực tin theo như thế và lòng tin ấy vẫn kéo dài hằng mấy mươi năm ,có thể cho đến khi chết vẫn yên trí như vậy, không biết điều đó có thật đúng như vậy hay không?
Với những người yêu môn sử học,có nghiên cứu thì thấy chuyện này lại khác. Nhiều nghi vấn được đặt ra:
* Lê Lai cứu chúa ở trận nào, thời gian nào ?
* Ông có bị quân Minh bắt không ?
* Hay ông còn sống và sau đó chết vì tay Lê Lợi ?
Về việc này mỗi nhà viết sử viết một khác.
a. Theo Dực Tông Anh Hoàng Đế (vua Tự Đức ) trong Ngự Chế Vịnh Sử Tổng Luận cuốn 5 trang 49 ".....Có lần vua Lê Thái Tổ tiến đóng ở Lạc Thủy bị quân nhà Minh vây sát, vua yếu thế, lén rút về ở núi Chí Linh, giặc Minh rút lui để trở lại tấn công xứ Mỹ-Lộng, sách Hà Đã.
Trong tình cảnh nguy khốn, quân ít thế cô lại nhiều lần bị quân Minh vây hiếp, vua ban hỏi các tướng lãnh"trong các tướng có ai bằng lòng đem mình thay ta ra đánh ở Tây Đô để làm mồi nhử cho giặc bắt, trường hợp đó ta sẽ rảnh tay chiêu tập quân sĩ để sau này mưu đồ đại sự."
Lê Lai liền tình nguyện đảm đương việc này bèn xuất binh đến thành Tây Đô khiêu chiến và mặc áo Ngự bào, tự xưng Bình Định Vương. Quân giặc trông thấy người mặc áo vàng tưởng là Bình Định Vương thật, bèn đem hết quân đến vây và bắt sống; đem về rồi giết ... Nhờ thế Bình Định Vương được nghỉ ngơi vài năm để lo tích dưỡng binh đội mà quân Minh không hề để ý đến.
b. Theo Ngô Thì Sỹ trong Việt Sử Tiêu Aùn trang 298 thì " ... Trước Vương khởi binh ở Lam Sơn, thế quân kém và ít, người Minh lùng bắt mãi, bèn mưu cùng tướng tá rằng ai có thể đem thân ra thay ta, để cho ta đi ẩn nấp, giấu tông tích mà cho quân nghĩ để mưu đồ cử binh lần sau. Lê Lai xin đem thân nhận lấy việc ấy, Vương lạy khấn trời nói ; "Lê Lai đem thân mà thay chúa, nếu sau này không nhớ đến công, nguyện cung điện hóa thành rừng núi, bảo ấn hóa thành đồng, thần kiếm hóa thành dao cùn". Lê Lai liền tự xưng là Bình Định Vương, khiêu chiến với quân Minh rồi chết. Đâu cũng truyền đi là Bình Định Vương đã chết. Người Minh cũng tin là thật không lưu ý. Đến lúc này Vương rời đồn đến Mang Thôi, .... Lý Bân Phương Chính (tướng Minh) đem 10 vạn quân đến vây .Vương phục binh ở Thị Lang tập kích địch....".
c. Theo Phan Huy Chú, trong Lịch Triều Hiến Chương Loại Chí trang 332, chỉ nói Lê Lai vì nước bỏ mình... cho nên không riêng chép ra mà chỉ nhân thể chú phụ vào sau thôi - trong phần chú thích có ghi "Lê Lai là người làng Dụng Tú huyện Lương Giang. Lúc mới khởi binh bị tướng Minh vây chặt, vua hỏi các tướng bàn xem đổi áo đánh lừa giặc như việc Kỷ Tín ngày xưa, Lê Lai xin đi bèn mặc áo bào đem quân xông vaò hàng trận của giặc, đánh đuối sức và bị bắt , vua nhân dịp này trốn thoát.
d. Theo Lê Quý Đôn trong Đại Việt Thông Sử "... Đóng ở Mang Cốc trong núi Linh Sơn hơn 10 ngày, phải dùng mật ong trộn với vũ dư lương làm bữa ăn rất là khốn đốn. Hoàng Đế bèn hỏi các Tướng: "có ai dám bắt chước Kỷ Tín thời xưa không ?". Người ở thôn Dụng Tú là Lê Lai khẳng khái vâng mệnh, tự nguyện thay đổi mặc áo bào nhà vua,xưng là vua Lê Lam Sơn, dẫn quân ra đánh quân Minh, quân Minh mừng rỡ liền dồn cả lực lượng vây chặt Lê Lai, ông chống cự đến kiệt sức rối bị bắt, quân Minh dẫn ông về thành Đông Quan giết chết, chúng liền lui binh, ta thoát nạn...
e. Trong Việt Nam Sử Lược của Trần Trọng Kim thấy viết " ... về Chí Linh lần thứ hai tháng tư năm Kỷ Hợi (1419) quan nhà Minh biết rằng Chí Linh là chỗ Bình Định Vương lui tới bèn đem binh đến vây đánh, Vương bị vây nguy cấp lắm bèn hỏi các tướng rằng có ai làm được như Kỷ Tín ngày trước chịu chết cho vua Hán Cao không? Bấy giờ Lê Lai liều mình vì nước xin mặc áo bào cưỡi voi ra trận đánh nhau với giặc. Quân nhà Minh tưởng là Bình Định Vương thật xúm nhau lại vây đánh, bắt được giết đi rồi rút quân về Tây Đô.
f. Trong Đại Nam Nhất Thống Chí lại viết " ... Lê Lai người thôn Dựng Tú huyện Thụy Nguyên, Thái tổ khởi nghĩa bị quân Minh vây hãm, các tướng bàn mưu cho một người mặc áo bào giả làm Bình Định Vương để đánh lừa giặc theo như việc cũ của Kỷ Tín nhà Hán, Lê Lai xin làm việc ấy vì vậy Thái tổ mới lén ra đi năm Thuận Thiên thứ nhất được tặng thái ký..."
g.Trong Đaiï Việt Sử Ký Toàn Thư, cuốn thứ X có lẽ do Phan Phu Tiên viết là chính sau này các sử quan khác như Ngô Sĩ Liên, Vũ Quỳnh, Lê Tung, Phạm Công Trứ, Lê Hy nhuận sắc thêm thì chỉ có ghi theo biên niên các trận đánh mà ở đó Lê Lợi khốn đốn vì bị vây hãm và hết lương.
1. Mùa xuân tháng giêng ngày Canh thân, vua khởi binh ở Lam Sơn (1418) , ngày mồng 9 tháng ấy bọn nội quan nhà Minh là Mã Kỳ đem đại binh tới uy hiếp vua ở Lam Sơn, vua bèn lui quân đến đóng ở Lạc Thủy, ngày 13 dời quân đến núi Chí Linh. Ngày 16 giặc đi lối tắt đánh úp đằng sau vua bắt mất gia thuộc của vua và rất nhiều vợ con của quân dân. Tháng 2 vua hết lương, không còn gì để nổi lửa gặp khi giặc lui quân bèn về đắp thành ở đất Lam Sơn.
Ai giết Lê Lai? giặc Minh hay Lê Lợi?
Tại sao "Đại Việt Sử Ký Toàn Thư " không chép chuyện "Lê Lai liều mình "?
Chuyện Lê Lai liều mình cứu chúa là một hành động hy sinh vì đại nghiã rất đáng cho người đời sau ghi nhớ . Ở Thành Phố H.C.M ,đại lộ Lê Lợi chạy từ Nhà Hát Thành Phố đến Chợ Bến Thành, nối liền là đường Lê Lai chạy cho đến Nhà Thờ Huyện Sĩ. Trong nhân gian cụm từ " Hăm mốt Lê Lai,hăm hai Lê Lợi " cũng nói lên lòng kính trọng đối với ngày giỗ của hai vị anh hùng này. Những vị cao tuổi bây giờ , ngày xưa học tiểu học cũng đã từng học chuyện" Lê Lai liều mình cứu chúa" .Trong "sử ký lớp ba" do sử gia Trần Trọng Kim soạn, Nha Học Chính Bắc Kỳ ấn hành đã được dùng làm sách giáo khoa dạy trong các trường . Nếu không nghiên cứu thêm các sách sử khác mà cứ một mực tin theo như thế và lòng tin ấy vẫn kéo dài hằng mấy mươi năm ,có thể cho đến khi chết vẫn yên trí như vậy, không biết điều đó có thật đúng như vậy hay không?
Với những người yêu môn sử học,có nghiên cứu thì thấy chuyện này lại khác. Nhiều nghi vấn được đặt ra:
* Lê Lai cứu chúa ở trận nào, thời gian nào ?
* Ông có bị quân Minh bắt không ?
* Hay ông còn sống và sau đó chết vì tay Lê Lợi ?
Về việc này mỗi nhà viết sử viết một khác.
a. Theo Dực Tông Anh Hoàng Đế (vua Tự Đức ) trong Ngự Chế Vịnh Sử Tổng Luận cuốn 5 trang 49 ".....Có lần vua Lê Thái Tổ tiến đóng ở Lạc Thủy bị quân nhà Minh vây sát, vua yếu thế, lén rút về ở núi Chí Linh, giặc Minh rút lui để trở lại tấn công xứ Mỹ-Lộng, sách Hà Đã.
Trong tình cảnh nguy khốn, quân ít thế cô lại nhiều lần bị quân Minh vây hiếp, vua ban hỏi các tướng lãnh"trong các tướng có ai bằng lòng đem mình thay ta ra đánh ở Tây Đô để làm mồi nhử cho giặc bắt, trường hợp đó ta sẽ rảnh tay chiêu tập quân sĩ để sau này mưu đồ đại sự."
Lê Lai liền tình nguyện đảm đương việc này bèn xuất binh đến thành Tây Đô khiêu chiến và mặc áo Ngự bào, tự xưng Bình Định Vương. Quân giặc trông thấy người mặc áo vàng tưởng là Bình Định Vương thật, bèn đem hết quân đến vây và bắt sống; đem về rồi giết ... Nhờ thế Bình Định Vương được nghỉ ngơi vài năm để lo tích dưỡng binh đội mà quân Minh không hề để ý đến.
b. Theo Ngô Thì Sỹ trong Việt Sử Tiêu Aùn trang 298 thì " ... Trước Vương khởi binh ở Lam Sơn, thế quân kém và ít, người Minh lùng bắt mãi, bèn mưu cùng tướng tá rằng ai có thể đem thân ra thay ta, để cho ta đi ẩn nấp, giấu tông tích mà cho quân nghĩ để mưu đồ cử binh lần sau. Lê Lai xin đem thân nhận lấy việc ấy, Vương lạy khấn trời nói ; "Lê Lai đem thân mà thay chúa, nếu sau này không nhớ đến công, nguyện cung điện hóa thành rừng núi, bảo ấn hóa thành đồng, thần kiếm hóa thành dao cùn". Lê Lai liền tự xưng là Bình Định Vương, khiêu chiến với quân Minh rồi chết. Đâu cũng truyền đi là Bình Định Vương đã chết. Người Minh cũng tin là thật không lưu ý. Đến lúc này Vương rời đồn đến Mang Thôi, .... Lý Bân Phương Chính (tướng Minh) đem 10 vạn quân đến vây .Vương phục binh ở Thị Lang tập kích địch....".
c. Theo Phan Huy Chú, trong Lịch Triều Hiến Chương Loại Chí trang 332, chỉ nói Lê Lai vì nước bỏ mình... cho nên không riêng chép ra mà chỉ nhân thể chú phụ vào sau thôi - trong phần chú thích có ghi "Lê Lai là người làng Dụng Tú huyện Lương Giang. Lúc mới khởi binh bị tướng Minh vây chặt, vua hỏi các tướng bàn xem đổi áo đánh lừa giặc như việc Kỷ Tín ngày xưa, Lê Lai xin đi bèn mặc áo bào đem quân xông vaò hàng trận của giặc, đánh đuối sức và bị bắt , vua nhân dịp này trốn thoát.
d. Theo Lê Quý Đôn trong Đại Việt Thông Sử "... Đóng ở Mang Cốc trong núi Linh Sơn hơn 10 ngày, phải dùng mật ong trộn với vũ dư lương làm bữa ăn rất là khốn đốn. Hoàng Đế bèn hỏi các Tướng: "có ai dám bắt chước Kỷ Tín thời xưa không ?". Người ở thôn Dụng Tú là Lê Lai khẳng khái vâng mệnh, tự nguyện thay đổi mặc áo bào nhà vua,xưng là vua Lê Lam Sơn, dẫn quân ra đánh quân Minh, quân Minh mừng rỡ liền dồn cả lực lượng vây chặt Lê Lai, ông chống cự đến kiệt sức rối bị bắt, quân Minh dẫn ông về thành Đông Quan giết chết, chúng liền lui binh, ta thoát nạn...
e. Trong Việt Nam Sử Lược của Trần Trọng Kim thấy viết " ... về Chí Linh lần thứ hai tháng tư năm Kỷ Hợi (1419) quan nhà Minh biết rằng Chí Linh là chỗ Bình Định Vương lui tới bèn đem binh đến vây đánh, Vương bị vây nguy cấp lắm bèn hỏi các tướng rằng có ai làm được như Kỷ Tín ngày trước chịu chết cho vua Hán Cao không? Bấy giờ Lê Lai liều mình vì nước xin mặc áo bào cưỡi voi ra trận đánh nhau với giặc. Quân nhà Minh tưởng là Bình Định Vương thật xúm nhau lại vây đánh, bắt được giết đi rồi rút quân về Tây Đô.
f. Trong Đại Nam Nhất Thống Chí lại viết " ... Lê Lai người thôn Dựng Tú huyện Thụy Nguyên, Thái tổ khởi nghĩa bị quân Minh vây hãm, các tướng bàn mưu cho một người mặc áo bào giả làm Bình Định Vương để đánh lừa giặc theo như việc cũ của Kỷ Tín nhà Hán, Lê Lai xin làm việc ấy vì vậy Thái tổ mới lén ra đi năm Thuận Thiên thứ nhất được tặng thái ký..."
g.Trong Đaiï Việt Sử Ký Toàn Thư, cuốn thứ X có lẽ do Phan Phu Tiên viết là chính sau này các sử quan khác như Ngô Sĩ Liên, Vũ Quỳnh, Lê Tung, Phạm Công Trứ, Lê Hy nhuận sắc thêm thì chỉ có ghi theo biên niên các trận đánh mà ở đó Lê Lợi khốn đốn vì bị vây hãm và hết lương.
1. Mùa xuân tháng giêng ngày Canh thân, vua khởi binh ở Lam Sơn (1418) , ngày mồng 9 tháng ấy bọn nội quan nhà Minh là Mã Kỳ đem đại binh tới uy hiếp vua ở Lam Sơn, vua bèn lui quân đến đóng ở Lạc Thủy, ngày 13 dời quân đến núi Chí Linh. Ngày 16 giặc đi lối tắt đánh úp đằng sau vua bắt mất gia thuộc của vua và rất nhiều vợ con của quân dân. Tháng 2 vua hết lương, không còn gì để nổi lửa gặp khi giặc lui quân bèn về đắp thành ở đất Lam Sơn.
2. Tháng 4 năm Kỷ Hợi (1419) vua đánh đồn Nga Lạc, tháng 5 đóng ở sách Đà Sơn, quân Minh tiến đánh vua phục kích ở Mường Chách... ít lâu sau dời sang Mường Thôi rồi lại về Vu Sơn.
3. Tháng 10, năm Canh Tý (1420) quân ta đánh nhau với quân Minh ở Mường Nanh.
4. Từ năm 1420 - 1422 lúc nào cũng có giao tranh với quân Minh.
5." Mùa đông tháng 12 năm Nhâm Dần (1422) quân ta bị giặc Minh vây ở Sách Khôi, vua bảo các tướng sĩ " giặc vây ta bốn mặt, có muốn chạy cũng không có lối nào thoát. Đây chính là tử địa mà binh pháp đã nói, đánh nhanh thì sống, không đánh nhanh thì chết. Vua nói xong chảy nước mắt, các tướng sĩ đều xúc động tranh nhau liều chết quyết chiến....Vua đem quân về đóng ở núi Chí Linh, quân lính hết lương, hơn 2 tháng chỉ ăn rau củ và măng tre mà thôi, vua giết 4 con voi và cả ngựa của mình cưởi để nuôi quân sĩ...."
Từ trận đó cho đến khi toàng thắng giặc Minh vào năm 1428 không có trận nào mà Lê Lợi bị vây khốn nữa.
Theo như lời của vua Tự Đức có lẽ việc Lê Lai đổi áo bào cho Lê Lợi là trong trận ngày 16 tháng Giêng năm Mậu Tuất (1418) hoặc tháng hai năm đó - xứ Mỹ công sách Hà Đã có lẽ là vùng thượng lưu sông Chu, phía trên Lam Sơn.
Theo Ngô Thời sĩ thì có lẽ hành động của Lê Lai được thực hiện trong trận tháng 5 năm Kỷ Hợi (1419) khi quân Minh tiến đánh Lê Lợi ở sách Đà Sơn.
Còn Phan Huy Chú thì không ghi rõ địa điểm cũng như thời gian của việc này.
Lê Qúy Đôn thì ghi "đóng quân ở Mang Cốc trong núi Chí Linh hơn 10 ngày hết lương..." và hành động mặc áo bào của nhà vua xưng là Lê Lam Sơn có thể vào mùa đông tháng 12 năm1422 trong khi đó Trần Trọng Kim thì ghi rõ là tháng 4 năm1419.
Một điều đáng ngạc nhiên là sử gia các đời về sau đều chép truyện Lê Lai liều mình cứu chúa .Trong khi nhóm sử thần đời Lê lại không ghi chuyện này.Trong Đại Việt Sử Ký Tòan Thư phần bản kỷ , quyển số 10, trang 27b chỉ thấy chép : "Ngày 13 tháng giêng năm Đinh Mùi (1427) giết Tư Mã Lê Lai , tịch thu gia sản vì Lai cậy có chiến công nói năng khinh mạn "
Điều này cho phép ta hiểu rằng chuyện Lê Lai đổi áo giả làm Lê Lợi là có thật nhưng ông đã may mắn thoát khỏi tay quân giặc để trở lại hàng ngũ kháng chiến .Nghĩa là ông vẫn còn sống cho đến năm 1427 tức là 8 năm sau mới bị Lê Lợi ra lệnh giết chết
" Điểu tận cùng tàng" chim hết thì cung tên xếp xó; thỏ hết thì chó săn bị bắt ra làm thịt, việc giết công thần sau khi đã làm nên nghiệp lớn là việc thường xảy ra dưới thời đại phong kiến.Hán Cao Tổ giết Hàn Tín, Việt Vương Câu Tiễn giết Văn Chủng , Phạm Lãi nhờ trốn sang nươc Tề rồi vào đất Đào, cải tên là Đào Chu Công mới may còn sống sót.
Theo nhận xét của các tác giả Đại Việt Sử Ký Toàn Thư ,quyễn X ,trang 75b viết : "Thái Tổ từ khi lên ngôi đến nay,thi hành chính sự thực rất khả quan....song đa nghi hiếu sát là chổ kém ". Khi thành công trong việc giành lại độc lập - Lê Lợi đã giết chết nhiều công thần đã sát cánh cùng mình trong gian khổ chiến đấu. Ngày 10 tháng giêng Mậu thân ( 1428 ) giết Trần Cảo,Năm 1429 giết Trần Nguyên Hãn , Năm 1431 giết Phạm Văn Xảo ... vì lo rằng sau này họ có chí khác nên bên ngoài thì đối xử theo lẽ tiết hậu nhưng trong lòng lại rất ngờ vực.
(đây chỉ là y kiến chủ quan của em)
mọi người cho ý kiến nha! ;)
----------------------------------
Đề nghị bạn chủ topic ghi rõ nguồn của bài viết này. Sau 24h mà không ghi rõ nguồn, chủ đề sẽ bị xoá
tai_lienson:
Tôi là con cháu Lê tộc , xin nói với Bet be đại tướng là gia phả họ Lê hay còn gọi là "Lê Triều Ngọc Phả " nói rất rõ là có 2 ông Lê Lai , .Ông thứ nhất là Nguyễn Lai đã liều mình cứu chúa sau được Lê lợi ghi nhớ công ơn ban quốc tính là họ Lê con cháu ngày nay đã cải lại họ là Nguyễn bá. (một số chi vẫn để họ Lê ) .Ông thứ hai là đại tướng Lê Lai là một trong những khai quốc công thần ,Điều đặc biệt trong gia phả ghi là cả Hai Ông đều giỗ ngày 21 còn ngày 22 là giỗ Lê Lợi .đó là sự trùng hợp ngẫu nhiên nên nhiều người kể cả các nhà sử học hay bị nhầm lẫn Cuộc kháng chiến chống giặc phương Bắc của nhân dân Việt nam thắng lợi là nhờ vào những đóng góp vô cùng to lớn của toàn thể dân tộc Việt nam trong đó có sự hy sinh trong điều kiện hết sức đặc biệt như của ông Nguyễn Bá Lai . Sáu trăm năm sau con cháu của 2 ông lại sát cánh bên nhau chiến đấu để nhắc lại cho người phương Bắc nhớ Bạch Đằng ,Chi Lăng còn đó
Tôi là con cháu Lê tộc , xin nói với Bet be đại tướng là gia phả họ Lê hay còn gọi là "Lê Triều Ngọc Phả " nói rất rõ là có 2 ông Lê Lai , .Ông thứ nhất là Nguyễn Lai đã liều mình cứu chúa sau được Lê lợi ghi nhớ công ơn ban quốc tính là họ Lê con cháu ngày nay đã cải lại họ là Nguyễn bá. (một số chi vẫn để họ Lê ) .Ông thứ hai là đại tướng Lê Lai là một trong những khai quốc công thần ,Điều đặc biệt trong gia phả ghi là cả Hai Ông đều giỗ ngày 21 còn ngày 22 là giỗ Lê Lợi .đó là sự trùng hợp ngẫu nhiên nên nhiều người kể cả các nhà sử học hay bị nhầm lẫn Cuộc kháng chiến chống giặc phương Bắc của nhân dân Việt nam thắng lợi là nhờ vào những đóng góp vô cùng to lớn của toàn thể dân tộc Việt nam trong đó có sự hy sinh trong điều kiện hết sức đặc biệt như của ông Nguyễn Bá Lai . Sáu trăm năm sau con cháu của 2 ông lại sát cánh bên nhau chiến đấu để nhắc lại cho người phương Bắc nhớ Bạch Đằng ,Chi Lăng còn đó
pain:
Congngheso.net hoặc web.datviet ;D ;D ;D
Congngheso.net hoặc web.datviet ;D ;D ;D
chiangshan:
Cái vụ 2 ông Lê Lai này em nhớ ngày xưa còn cả 1 seri phản biện nhau (tất nhiên là cả 2 bên đều chưa tham khảo gia phả họ Lê mà bác Tài nói ;)), để thử tìm lại mọi người đọc cho vui.
Cái vụ 2 ông Lê Lai này em nhớ ngày xưa còn cả 1 seri phản biện nhau (tất nhiên là cả 2 bên đều chưa tham khảo gia phả họ Lê mà bác Tài nói ;)), để thử tìm lại mọi người đọc cho vui.
tai_lienson:
Trích bản Lê tộc sinh hạ "...Nguyễn Bá Lai chống cự quyết liệt,kiệt sức không địch nổi bị quân Minh bắt đưa về Đông quan rổi đưa về nước Tàu ,xử tử ngày 8 tháng 8 năm 1421.."
"Ông Lê Bá Lai mất giờ tý ngày 21 tháng 8 năm Ất Tỵ (1425) táng ở trang Bái đê..."( sự trùng hợp)
Giỗ Lê Lợi là 22/8 nên phải giỗ Nguyễn Bá Lai trước một ngày là 21/8 nên có câu :hai mốt Lê Lai ,hai hai Lê Lợi
Trích bản Lê tộc sinh hạ "...Nguyễn Bá Lai chống cự quyết liệt,kiệt sức không địch nổi bị quân Minh bắt đưa về Đông quan rổi đưa về nước Tàu ,xử tử ngày 8 tháng 8 năm 1421.."
"Ông Lê Bá Lai mất giờ tý ngày 21 tháng 8 năm Ất Tỵ (1425) táng ở trang Bái đê..."( sự trùng hợp)
Giỗ Lê Lợi là 22/8 nên phải giỗ Nguyễn Bá Lai trước một ngày là 21/8 nên có câu :hai mốt Lê Lai ,hai hai Lê Lợi
Sự thật về cái chết của Lê Lai
(Kiến Thức) - Một số ý kiến phủ nhận việc
Lê Lai hy sinh và cho rằng ông đã bị Lê Lợi xử tử. Vậy đâu là sự thật
về cái chết của Lê Lai?
Lê
Lai là người tham gia khởi nghĩa Lam Sơn chống giặc Minh xâm lược ngay
từ giai đoạn cuộc khởi nghĩa còn trong trứng nước. Về cái chết của ông,
giới sử học hiện nay đều cho rằng ông hi sinh khi cải trang làm Lê Lợi
để đánh lạc hướng quân Minh đang bao vây nghĩa quân, giúp Lê Lợi và
nghĩa quân thoát hiểm. Nhưng một số người lại phủ nhận việc Lê Lai hy
sinh và xác định rằng: chính Lê Lợi là người giết chết Lê Lai. Vậy đâu
là sự thật về cái chết của Lê Lai - người anh hùng liều mình cứu chúa?
Lê Lai hi sinh vì nước hay bị Lê Lợi xử tử?
Sách Lam Sơn thực lục (biên soạn sau
khi cuộc khởi nghĩa giành thắng lợi, lúc Lê Lợi đã lên ngôi Hoàng Đế) là
tài liệu đầu tiên ghi nhận việc Lê Lai liều mình cứu chúa và anh dũng
hi sinh (năm 1418). Các sách khác như Đại Việt thông sử, Lam Sơn thực
lục tục biên, Khâm định Việt sử thông giám cương mục… cũng đều chép
chuyện Lê Lai hi sinh, trong đó Đại Việt thông sử chép chi tiết nhất. Đó
là cơ sở về mặt thư tịch để các nhà sử học khẳng định việc Lê Lai hi
sinh năm 1418. Nhưng trong bộ quốc sử lớn nhất thời phong kiến là Đại
Việt sử kí toàn thư, việc Lê Lai hi sinh không được nói đến.
Chẳng những thế, ở phần biên niên về tháng Giêng năm 1427, sách này còn
viết: “Giết Tư Mã Lê Lai, tịch thu gia sản vì Lai cậy có chiến công, ăn
nói ngạo mạn”. Dựa vào chi tiết này, có người cho rằng Lê Lai không chết
trong lần cải trang cứu chúa năm 1418 mà đến năm 1427 do ngạo mạn cậy
công nên mới bị giết.
Thực ra chỉ dựa vào một câu trong Đại
Việt sử kí toàn thư để phủ nhận ghi chép của những quyển sử khác là điều
phiến diện. Ghi chép của sách này dẫn người đọc đến việc suy đoán nước
đôi: Lê Lai năm 1427 hoặc là Lê Lai năm 1418 hoặc không. Sách này không
chép truyện Lê Lai cải trang phá vây nên càng khó để xác định Lê Lai của
năm sau là Lê Lai của năm trước. Vì vậy, nếu muốn khẳng định rằng Lê
Lai còn sống sau lần phá vây và đến năm 1427 mới chết theo quan điểm của
một số người thì phải chứng minh được Lê Lai trong Đại Việt sử kí toàn
thư và Lê Lai trong các sách như Lam Sơn thực lục chỉ là một người. Điều
này phải dựa vào nhiều nguồn tài liệu khác nhau chứ không thể chỉ căn
cứ vào một câu trong Đại Việt sử kí toàn thư.
Các thư tịch cổ chép về Lê Lai quan
trọng nhất là 5 quyển sách kể trên. Trong đó, ngoại trừ Đại Việt sử kí
toàn thư, Khâm định Việt sử thông giám cương mục và Lam Sơn thực lục chỉ
chép một trong hai sự kiện năm 1418 hoặc 1427, còn Đại Việt thông sử và
Lam Sơn thực lục tục biên (sao lại năm 1942) đều chép cả hai sự kiện,
có đầy đủ mốc thời gian. Về sự kiện măm 1418, Đại Việt thông sử chép:
“Lê lai… tự nguyện thay đổi mặc áo bào nhà vua, xưng là vua Lê ở Lam
Sơn, dẫn quân ra đánh nhau với quân Minh… Lê Lai chống cự đến kiệt sức
thì bị bắt, quân Minh dẫn Lê Lai về thành Đông Quan giết chết” (Đế kỉ,
Thái Tổ thượng). Ở phần liệt truyện về Lê Lai, sách này còn chép Lê Lợi
sai người ngầm tìm thi hài Lê Lai, đem về Lam Sơn hậu táng. Về sự kiện
tháng Giêng năm 1427, sách này chép: “Viên Tư Mã là Lê Lai cậy có chiến
công, thường thốt ra những lời khinh nhờn. Vua (chỉ Lê Lợi-người dẫn)
sai xử tử và tịch thu gia sản”. Vậy là sách này đã chép rõ cả việc Lê
Lai chết năm 1418 và Lê Lai chết năm 1427. Hai sự kiện trên cũng được
sách Lam Sơn thực lục tục biên chép tương tự. Ngoài ra, gia phả dòng họ
Lê Lai ở Dựng Tú (Thanh Hóa) cũng chép truyện Lê Lai chết vì nước năm
1418. Truyền thuyết dân gian cũng nói đến việc Lê Lai liều mình cứu chúa
rồi bị kẻ thù giết chết.
Như vậy, có đủ cơ sở để khẳng định Lê
Lai đã hi sinh năm 1418 và trong hàng ngũ nghĩa quân cùng có hai người
mang tên họ là Lê Lai (có thể trùng tên trùng họ hay trùng tên khác họ
nhưng được ban quốc tính (họ Lê)). Viên Tư Mã Lê Lai của năm 1427 hoàn
toàn không phải là Lê Lai bị quân Minh giết hại năm 1418. Cách chép sử
thiếu sự kiện của Đại Việt sử kí toàn thư là đầu mối dẫn đến suy luận
thiếu căn cứ cho rằng Lê Lai bị Lê Lợi xử tử như nói ở trên.
Cái chết vì đại nghĩa của người anh hùng
Theo sử sách, Lê Lai người làng Dựng
Tú, huyện Lương Giang (nay thuộc xã Kiên Thọ, huyện Ngọc Lặc, Thanh
Hóa), xuất thân trong một gia đình đời đời làm phụ đạo ở đất Dựng Tú. Lê
Lai đến với Lê Lợi từ sớm, khi Lê Lợi tổ chức hội thề Lũng Nhai thề
diệt giặc cứu nước (năm 1416) thì Lê Lai là một trong 19 người dự hội
thề ấy.
Ngày 2 tháng Giêng năm Mậu Tuất
(7/2/1418), Lê Lợi chính thức phát động khởi nghĩa. Quân Minh hay tin đã
điều binh đến đàn áp. Bị quân thù hùng mạnh càn quét, nghĩa quân rút
lui dần và cuối cùng phải rút lên núi Chí Linh (thuộc huyện Lang Chánh,
Thanh Hóa). Quân Minh vây chặt quanh núi, quyết tiêu diệt toàn bộ nghĩa
quân. Vòng vây quân thù ngày một xiết chặt khiến nghĩa quân hao hụt dần,
lương thực cạn kiệt, phải ăn củ nâu, mật ong để cầm cự. Nếu không sớm
thoát khỏi tình thế hiểm nghèo này, cuộc khởi nghĩa có nguy cơ bị dập
tắt, quân tướng Lam Sơn có thể bị tuyệt diệt.
Chủ tướng Lê Lợi hội họp các tướng bàn cách giải nguy. Ông hỏi các tướng:
- Ai dám đổi áo, thay ta đem quân ra
đánh giặc, xưng danh hiệu của ta, bắt chước như Kỉ Tín đời Hán (người đã
cải trang thành Lưu Bang để cho quân của Hạng Vũ bắt, giúp Lưu Bang
thoát thân, về sau đánh bị Hạng Vũ lập ra nhà Hán bên Trung Quốc – người
dẫn), để cho ta có thể giấu tiếng, nghỉ binh, tập hợp tướng sĩ, mưu
tính cuộc nổi dậy về sau?
Chư tướng đều lặng im, chỉ có Lê Lai đứng dậy khẳng khái nói lớn: “Tôi xin đi”.
Thế rồi, Lê Lai cải trang thành Lê
Lợi, dẫn 500 quân cảm tử và 2 voi chiến xông ra đánh địch, tự xưng là
chúa Lam Sơn. Quân Minh tưởng thật, hùng hổ xông đến. Lê Lai đã dũng cảm
chiến đấu nhưng quân ít, thế cô, cuối cùng toàn quân bị diệt, bản thân
bị quân Minh bắt giải về, sau đó bị xử tử bằng cực hình. Tưởng rằng đã
giết được Lê Lợi, đánh tan quân khởi nghĩa, tướng Minh hí hửng thu quân,
triệt thoái khỏi Chí Linh. Lê Lợi và các nghĩa binh còn lại nhờ đó mới
thoát hiểm và tính kế mưu sự trở lại.
Gương hi sinh anh dũng của Lê Lai
đã giúp nghĩa quân Lam Sơn bảo toàn được lực lượng để có thể hoạt động
trở lại và giành những thắng lợi vẻ vang sau này. Vì đại nghĩa quên
mình, cái chết của ông là cái chết vinh quang, tên tuổi của ông đời đời
không phai trong kí ức bất diệt của nhân dân. Năm 1428, Lê Lợi lên ngôi
Hoàng Đế, đã truy phong cho Lê Lai là Suy Trung Đồng Đức Hiệp Mưu Bảo
Chính Lũng Nhai Công Thần, hàm Thiếu Úy rồi Thái Uý. Đời Lê Thánh Tông
(1460-1497) gia phong là Trung Túc Vương. Con cháu của ông nối đời đều
được trọng dụng, hưởng phúc dài lâu với triều Lê trong gần 400 năm
(1428-1788).
Đọc thêm:
Hai người phụ nữ đặc biệt của vua Lê Thái Tổ
(PLO) -Chung quanh cuộc đời vị vua khai sáng triều Hậu Lê có rất
nhiều người phụ nữ, nhưng có hai người rất đặc biệt, một người là vợ
nhưng là vợ chưa cưới, một người là con nhưng chỉ là con nuôi. Chính sử
không nhắc đến họ...
Năm Mậu Tuất (1418) tại vùng rừng núi
Lam Sơn xứ Thanh Hóa, người anh hùng Lê Lợi đã dựng cờ khởi nghĩa nhằm
mục đích lật đổ ách đô hộ của giặc Minh xâm lược, chấm dứt những tội ác
bạo tàn, dã man của chúng, mà như trong bài Bình Ngô đại cáo có đoạn
viết:
Giặc Minh rình hở, thừa dịp để hại ta,
Đảng ngụy ngầm mưu, theo hùa mà bán nước.
Nướng dân đen trên lò họa,
Hãm con đỏ vào hố tai.
Dối trời lừa người, kế độc đủ muôn nghìn khóe,
Lùa binh gây hấn, ác chứa hàng hai chục năm…
Người đẹp Hoa Nương, một “hồng nhan bạc mệnh”
Thời gian đầu, nghĩa quân của Lê Lợi chủ
yếu hoạt động ở vùng rừng núi Thanh Hóa, với rất nhiều khó khăn, gian
khổ. Trong hoàn cảnh đó, tướng Nguyễn Chích đề nghị thay đổi địa bàn,
đưa quân vào đánh chiếm Nghệ An “làm chỗ đứng chân, rồi dựa vào nhân lực
tài lực đất ấy mà quay ra đánh Đông Quan thì có thể tính xong việc dẹp
yên thiên hạ”.
Theo kế đó, nhằm mục đích đánh lạc hướng
sự chú ý của quân Minh, Lê Lợi cho quân tập kích đồn Đa Căng (nay thuộc
xã Thọ Nguyên, huyện Thọ Xuân, Thanh Hóa). Sách Đại Việt sử ký toàn thư
viết: “Giáp Thìn (1424), mùa thu tháng 9, ngày 20, vua [tức Lê Lợi] chỉ
huy quân và voi đánh úp đồn Đa Căng, phá được đồn này.
Tham chính nhà Minh là Lương Nhữ Hốt chỉ
chạy thoát được thân mình, ta thu hết khí giới, đốt phá đồn giặc. Đô
chỉ huy sứ nhà Minh là Nguyễn Suất Anh đem quân đến cứu viện nhưng đồn
đã mất. Anh chưng hửng, không chỗ bấu víu, vua lại đánh bại chúng... Vua
chọn đinh tráng, sửa khí giới, rèn bộ ngũ, chứa sẵn lương khô, tiến
thẳng vào Nghệ An”.
Trận đánh đồn Đa Căng có ý nghĩa rất
quan trọng mở thông đường tiến vào đất Nghệ An. Thắng lợi này nhờ sự
giúp đỡ tích cực nhân dân địa phương, trong đó có cô gái tên là Lê Thị
Hoa Nương (có tài liệu ghi là Đinh Thị Ngọc Hoa).
Thông thạo địa bàn, Hoa Nương đã chủ
động đến xin dẫn đường cho nghĩa quân tấn công đồn giặc. Khi quân Minh ở
nơi khác đến cứu đồn Đa Căng, nàng đã lập kế đánh lừa khiến chúng sa
vào trận địa phục kích và bị nghĩa quân đánh bại.
Khâm phục tài trí và sự dũng cảm của cô
gái, Lê Lợi đem lòng yêu mến, sau trận Đa Căng ông về khao quân tại làng
Hội Hiền (nay thuộc xã Tây Hồ, huyện Thọ Xuân, Thanh Hóa) và cùng Hoa
Nương hứa hẹn mối duyên chồng vợ.
Vì tình thế gấp gáp, việc lớn còn dang
dở nên hôn lễ giữa hai người chưa được tổ chức thì Lê Lợi đã phải lên
đường, ông đành lưu luyến từ biệt người đẹp, hẹn ngày trở lại đón nàng.
Tại quê nhà, Hoa Nương cùng dân làng
tích cực rèn đúc vũ khí, tích góp thóc gạo để hỗ trợ nghĩa quân Lam Sơn
nhưng phần vì làm việc quá sức, phần vì thương nhớ người chồng chưa
cưới, không lâu sau nàng lâm bệnh rồi mất.
Sau khi đánh bại giặc Minh xâm lược,
giành lại nền độc lập cho đất nước, Lê Lợi lên ngôi vua (tức Lê Thái
Tổ); trong lần trở về quê thăm đất tổ, ông đã ghé qua làng Hội Hiền, nhớ
đến Hoa Nương, nhà vua vô cùng thương xót đã lập đàn tế theo nghi lễ tế
Hoàng hậu và sắc phong là: “Khai quốc công thần, Quốc mẫu Trinh liệt,
Hoàng phi Lê Thị, hiệu Ngọc Ân”, lại sai lập đền thờ phụng, dân chúng
quen gọi là đền Bà Am.
Sách Thanh Hóa chư thần lục chép về tục
thờ vị thần của làng Hội Hiền như sau: “Thần là người thôn này, tên là
Hoa Nương, khi vua Lê Thái Tổ đi đánh giặc Ngô qua đây nghỉ lại, thấy
nàng nhan sắc, nết na, đức hạnh, vua muốn lấy làm phi mà chưa thành thì
nàng đã thoát hoa.
Đêm vua mộng thấy có người con gái quỳ
tâu là trước đây có mối lương duyên chưa hợp, nay nghe vua đánh giặc,
xin giúp nhà vua thành công. Hôm sau, vua đánh giặc quả nhiên thắng
trận. Khi Thái tổ khải hoàn đã lấy lễ hoàng hậu tế nàng và sai nhân dân
lập đền thờ có nhiều linh ứng”.
Vua Lê Thái Tổ còn cấp ruộng đất, bổng
lộc cho làng Hội Hiền quê nội và làng Bàn Thạch quê ngoại của Hoa Nương
dùng làm hoa lợi hàng năm cúng giỗ bà vào ngày 27 tháng 9 âm lịch. Đến
đời Lê Trung Hưng, triều đình lại sắc phong cho Hoa Nương mỹ hiệu là “Tá
Thái Tổ Cao Hoàng đế, khai quốc công thần, Hoàng phi trinh liệt tôn
thần”.
Gương anh dũng của Ngọc Dung công chúa
Trong sách sử, không có dòng nào nhắc
đến chuyện vua Lê Thái Tổ nhận con nuôi nhưng dã sử cho biết ông có một
người con gái nuôi anh dũng kiệt liệt. Từ một thôn nữ, cô gái này đã trở
thành nữ tướng tài ba, luôn đi đầu trong đoàn quân tiên phong đánh đuổi
giặc Minh xâm lược.
Người con gái đó tên là Lê Thị Ngọc
Dung, quê ở làng Bao Ngạn ở tả ngạn sông Diêm Hộ lại ngay sát vùng biển
xứ Sơn Nam Hạ (nay là làng Bao Hàm, xã Thụy Phúc, huyện Thái Thụy, tỉnh
Thái Bình).
ADVERTISEMENT
Xuất
thân từ gia đình có cha là một võ sư nhưng yêu thích văn chương nên từ
nhỏ nàng không chỉ được học thơ văn mà còn được cha dạy võ, bắn cung,
phóng lao... Nhờ sự kèm cặp của cha và bản tính thông minh đĩnh ngộ, đến
tuổi trưởng thành Ngọc Dung trở thành là một thiếu nữ xinh đẹp văn hay,
giỏi võ, nhất là sử dụng kiếm.
Bấy giờ, trong cảnh lầm than đầy thống
khổ dưới ách đô hộ của giặc Minh, người dân Bao Ngạn đã âm thầm phản
kháng, họ rủ nhau luyện tập võ nghệ với mục đích chờ thời cơ nổi dậy.
Khi nghe nói đất Lam Sơn xứ Thanh, có người anh hùng Lê Lợi giương cao
ngọn cờ nghĩa với uy danh lừng lẫy, Ngọc Dung liền đứng ra tổ chức đội
dân binh chuẩn bị vũ khí, lương thảo để tìm đường vào xứ Thanh tụ
nghĩa.
Nàng lại tìm đến kết thân với hai anh em
Lê Hựu và Lê Thị Phương (còn gọi là Phương Nương ) ở trang Vị Dương
(nay thuộc xã Thái Hồng, huyện Thái Thụy, Thái Bình) cũng là người hào
kiệt để thống nhất lực lượng rồi tuyển chọn được đội quân hơn 500 người,
bí mật dùng thuyền theo đường biển đi vào xứ Thanh tụ nghĩa với quân
Lam Sơn.
Khi ba người tìm đến yết kiến, Lê Lợi
rất mừng, ông đặc biệt ấn tượng với Ngọc Dung, tuy tuổi còn trẻ mà có
tài thơ văn, tinh tường binh pháp, qua tỷ thí cùng các võ tướng Lam Sơn,
thấy côn quyền, cung kiếm đều giỏi, dung nhan xinh đẹp lại mang họ Lê
nên đã nhận nàng làm con gái nuôi.
Sau đó Lê Lợi phong cho Lê Hựu chức Chỉ
huy sứ tướng quân, Phương Nương và Ngọc Dung làm tả hữu tỳ tướng, giao
cho trọng trách lập căn cứ đánh giặc ở vùng ven biển Sơn Nam Hạ.
Bị đánh thua đau nhiều trận, sợ nghĩa
quân Lam Sơn sẽ khống chế vùng ven biển miền Đông, quân Minh tập trung
lực lượng lớn tấn công vào đại bản doanh của nghĩa quân ở trang Vị
Dương. Thế giặc quá mạnh, Ngọc Dung bàn với anh em Lê Hựu đem binh lính
theo đường biển rút về Thanh Hoá.
Nữ tướng khuyến dụ dân chúng đứng lên chống giặc (Tranh minh họa) |
Theo sách Đại Việt thông sử, cuối tháng 4
năm Kỷ Hợi (1419), Lê Lợi bị quân Minh vây chặt ở đất Trịnh Cao, tướng
Lê Lai tình nguyện đổi áo, xưng giả xưng danh hiệu để thu hút sự chú ý
của giặc.
Sau đó Lê Lai xưng là chúa Lam Sơn cùng
hai anh em Lê Hựu, Phương Nương dẫn theo 2 thớt voi và 500 quân cảm tử
xông ra. Quân Minh dồn tới đánh, cuối cùng Lê Lai và 500 quân cảm tử đều
anh dũng hi sinh, hôm ấy là ngày 29 tháng 4 năm Kỷ Hợi (1419). Lê Lợi
nhân đó cùng bộ chỉ huy của nghĩa quân phá được vòng vây thoát nạn.
Về Ngọc Dung, khi tướng Lê Lai dẫn đội
quân cảm tử xông ra, nàng cũng xin theo nhưng Lê Lợi không đồng ý, ông
nói rằng đã có chủ ý cho nàng trở về vùng biển Sơn Nam Hạ để thỏa sức
“vẫy vùng” đánh giặc.
Đến năm Ất Tị (1425) nghĩa quân Lam Sơn
ngày càng lớn mạnh, Lê Lợi sai con gái nuôi của mình cùng tướng Ngô Tiệp
dùng thuyền đi đường biển trở lại vùng ven biển Sơn Nam Hạ lập căn cứ
và tổ chức tấn công, đánh phá các đồn giặc ở quanh vùng với các trận nổi
tiếng tại cửa Trần, cửa Hộ... làm lòng dân phấn chấn, nô nức cho con em
đi theo, quyên góp lương thực, rèn đúc vũ khí ủng hộ.
Ngày 5 tháng 12 năm Bính Ngọ (1426)
trong trận quyết chiến với quân thù tại cửa Đại Toàn (cửa biển Diêm Điền
ngày nay), thấy quân giặc quá mạnh, tướng Ngô Tiệp đề nghị tạm lui quân
để bảo toàn lực lượng nhưng Ngọc Dung không nghe, vẫn quyết đánh rồi tử
trận, thi hài được nghĩa quân đưa về an táng tại quê hương nàng.
Khi đất nước được giải phóng, Lê Lợi lên
ngôi vua, nghĩ đến công trạng của người con gái nuôi, vua truy phong
cho nàng mỹ tự là “Biển thức đoan trang, trinh thục từ hòa, đoan chính
Phương Nương đại vương”, lại cấp cho dân địa phương tiền bạc, ruộng đất
để lập đền thờ phụng. Người dân đã tôn nàng làm Thành hoàng với duệ hiệu
là “Thánh mẫu, đương cảnh Thành hoàng Ngọc Dung công chúa”.
Nhận xét
Đăng nhận xét