Thứ Bảy, 20 tháng 4, 2019

TỔ TIÊN THIÊN CỔ 05/b (Chữ Việt cổ)

(ĐC sưu tầm trên NET)
 
Chữ Việt Cổ - Chữ Khoa Đẩu - Chữ Hỏa Tự

Người đọc thông viết thạo chữ Việt cổ!

  • 1 2 3 4 5
  • 5.163
Sau 50 năm nghiên cứu chữ Việt cổ, thời đại Hùng Vương, ông giáo già Đỗ Văn Xuyền giờ đã đọc thông, viết thạo chữ Việt cổ. Ông có thể nói luôn cả tiếng của người Việt cổ xưa. Ông Xuyền nói vui rằng, nếu có phép thần thông quảng đại, hoặc cỗ máy vượt thời gian, đưa ông về thời Đông Sơn, ông có thể dễ dàng giao tiếp với người Việt thời kỳ đó.
Giờ đây, thầy giáo Đỗ Văn Xuyền, với bút danh Khánh Hoài, vẫn sáng tác thường xuyên. Bản thảo truyện ngắn, công trình nghiên cứu lịch sử, văn hóa của ông xếp thành chồng. Tuy nhiên, không ai đọc được những bản thảo đó ngoài ông, vì chúng được viết bằng chữ… Việt cổ.
Tôi đưa cuốn sổ cho ông Xuyền, nhờ ông viết mấy chữ tặng tôi. Chẳng cần suy nghĩ, ông cầm bút viết nhanh như viết chữ Quốc ngữ.

Ông Xuyền viết tặng phóng viên bằng chữ Việt cổ.
Cho đến lúc này, một số người vẫn coi việc làm của ông là điên rồ, rỗi hơi, bởi dù thứ chữ Việt cổ đó có được khôi phục lại, cũng chẳng ai dùng nữa, vì đã có chữ Quốc ngữ rồi.
Ông Xuyền thì không nghĩ như vậy. Với ông, chỉ cần trả lời được câu hỏi: Thời kỳ Hùng Vương tổ tiên chúng ta có chữ hay không, đã là một thành công ngoài sức tưởng tượng của ông rồi. Với việc chứng minh thời kỳ đó có chữ viết, ông Xuyền càng tự hào về tổ tiên mình, là những người có trình độ, tri thức cao, chứ không phải là những người tiền sử, đóng khố, ở trần như sử sách vẫn nói.

Giải mã chữ Việt cổ giúp công tác nghiên cứu lịch sử, khảo cổ thời kỳ Hùng Vương thuận lợi hơn.
Các nhà khoa học phương Tây đã làm được một việc vĩ đại, đó là giải mã được chữ viết đã thất truyền của người Ai Cập cổ đại. Dù xã hội hiện đại không dùng thứ chữ đó phục vụ cuộc sống, nhưng nó là phương tiện cực kỳ thuận lợi để các nhà khoa học nghiên cứu lịch sử. Có vô vàn những tài liệu bí ẩn thời Ai Cập, mà nếu không giải mã được chữ viết, sẽ bế tắc trong việc nghiên cứu. Nghĩ vậy, nên ông Xuyền đã dày công tìm cách giải mã loại chữ Việt cổ thất truyền này.
Ông giáo già Đỗ Văn Xuyền bảo rằng, tài năng khảo cổ, lịch sử, nhất là chữ Việt cổ của ông, không thể so với những “núi Thái Sơn” như Hà Văn Tấn, Lê Trọng Khánh, Phạm Thận Duật, Vương Duy Trinh… Thế nhưng, ông lại có may mắn hơn các vị tiền bối, là được tiếp thu những công trình nghiên cứu vĩ đại của người đi trước, vô tình có được nhiều tài liệu quý và may mắn khi tìm ra được phương pháp giải mã loại chữ cổ này.

Rất nhiều tài liệu cổ còn lưu giữ ở vùng sâu, vùng xa chờ các nhà khoa học giải mã.
Sau khi sưu tầm đầy đủ ký tự chữ Việt cổ, nắm được giọng nói, ngôn ngữ của người cổ, ông Xuyền nghiên cứu ngôn ngữ, chữ viết tuần tự theo thời gian từ thời hiện đại trở về trước. Ông đã vô cùng ngạc nhiên khi đọc được một tài liệu cổ, mà nhà truyền giáo Alexandre de Rodes đã viết: “Đối với tôi, người dạy tài tình nhất là một thiếu niên bản xứ. Trong vòng 3 tuần, anh ta đã hướng dẫn cho tôi tất cả các thanh của ngôn ngữ ấy và cách đọc các từ”.
Như vậy, rõ ràng một thiếu niên bản xứ đã dạy cho nhà truyền giáo người Bồ Đào Nha này một loại ngôn ngữ tượng thanh. Ông ta chỉ học có 3 tuần là biết cách đọc các từ, thay vì phải học ít nhất 10 năm như chữ Hán. Ông Xuyền tin rằng, thứ chữ mà người thanh niên đó dạy nhà truyền giáo Bồ Đào Nha là chữ Việt cổ! Điều đó có nghĩa, những nhà truyền giáo người Bồ Đào Nha đã tiếp thu bộ chữ cổ của người Việt, và có công Latin hóa nó, để ra được chữ Quốc ngữ.

Những văn bản Quốc ngữ thời kỳ đầu rất khó đọc, nhưng ông Xuyền có thể đọc dễ dàng.
Ngoài ra, có một tài liệu lưu ở Tòa thánh La Mã. Sau khi chép lại nhiều trang giấy tập viết chữ Quốc ngữ, đoạn cuối, chủ nhân của tập tài liệu viết thế này: “Đây là tài liệu tập chuyển thể từ chữ Việt cổ sang chữ Quốc ngữ (năm 1625 – tài liệu)”.
Nghĩ theo hướng đó, ông Xuyền lục tìm những tài liệu liên quan đến các nhà truyền giáo, đến chữ Quốc ngữ vào thế kỷ 17, 18.
Ông Xuyền giở một đống tài liệu phôtô các văn bản chữ Quốc ngữ từ cách nay vài chục năm, cho đến 350 năm trước cho tôi xem. Những văn bản này còn lưu lại rất nhiều trong các thư viện ở Lisbon, Pari, Roma... Tôi quả thực hết sức ngạc nhiên về những văn bản này. Những văn bản từ đầu thế kỷ 20 còn đọc được khá trôi trảy, nhưng ngược đến thế kỷ 19, tương đối khó đọc, và nhiều chữ không đọc nổi. Lần giở các văn bản chữ Quốc ngữ của thế kỷ 17 thì gần như không đọc được. Tôi chỉ có thể đọc được một vài chữ trong một văn bản cả ngàn chữ vào thời kỳ mà chữ Quốc ngữ mới ra đời.

Giờ đây, ông giáo Xuyền ít sử dụng chữ Quốc ngữ, mà toàn sử dụng chữ Việt cổ vào công việc ghi chép, sáng tác.
Theo ông Xuyền, vì ông đã nghiên cứu chữ Việt cổ rất lâu rồi, 50 năm nay rồi, và đã hiểu được tương đối, nên khi cầm những văn bản chữ Quốc ngữ thời kỳ đầu, trong khi các nhà khoa học chưa chắc đã đọc được, thì ông đọc vanh vách, không bị vấp bất cứ một chữ nào.
Điều ngạc nhiên mà ông Xuyền nhận thấy, đó là nhiều ký tự mà các nhà truyền giáo người Bồ Đào Nha sử dụng trong những buổi đầu tương đối giống với chữ Việt cổ. Càng về sau này, qua cả trăm lần cải tiến, thay đổi, những chữ tương đối giống chữ Việt cổ đã dần biến mất và mất hẳn bóng dáng trong các văn bản Quốc ngữ ngày nay.
Mặc dù, về hình dáng, chữ Việt cổ không còn nét nào giống chữ Quốc ngữ, nhưng lại cùng có cấu trúc ghép vần.
Theo ông Xuyền, bí quyết để giải mã được chữ Việt cổ, là phải hiểu được ngôn ngữ thời xưa và nắm được quy luật thay đổi vị trí nguyên âm theo đạo lý người Việt (ví dụ từ “trời” nguyên âm đặt phía trên, từ “đất” nguyên âm đặt phía dưới. Tương tự các từ “cha, con” nguyên âm đặt phía trước hoặc sau…). Khi đã nắm được quy luật ghép vần, hiểu được ngôn ngữ Việt cổ, thì chỉ cần học chưa đầy 10 ngày, có thể đọc, viết được loại chữ này!

Con rùa đá có khắc chữ Việt cổ đặt tại miếu Hai Cô. Ảnh nhân vật cung cấp.
Khi đã giải mã được chữ Việt cổ, ông Xuyền có thể dễ dàng phiên dịch từ chữ Việt cổ sang chữ Quốc ngữ và ngược lại. Chữ Việt cổ không ghi âm được phần lớn ngôn ngữ hiện đại, nhưng khi chuyển ngôn ngữ hiện đại về ngôn ngữ Việt cổ, thì việc dịch diễn ra dễ dàng.
Từ ngày giải mã được loại chữ mà ông Xuyền khẳng định là chữ Việt cổ, chính quyền, nhân dân Việt Trì đã góp công sức, tiền bạc xây dựng lại ngôi miếu Hai Cô. Các hoành phi, câu đối đều được viết bằng thứ chữ Việt cổ do ông Xuyền thực hiện.
Mới đây, Trung tâm Văn hóa người cao tuổi Việt Nam đã dâng tặng ngôi miếu một “quy thần” bằng đá, lưng khắc chữ Việt cổ. Rùa đá này biểu thượng cho quy thần mà Hùng Quốc Vương dâng tặng cho Vua Nghiêu vào năm 2357 trước công nguyên.
Có thể nói, sự tồn tại của chữ Việt cổ là một sự thật, đã được các học giả trong và ngoài nước thừa nhận. Đó là niềm tự hào dân tộc. Việc giải mã được chữ Việt cổ, giúp chúng ta và thế hệ sau sẽ có điều kiện tốt hơn trong việc nghiên cứu lịch sử nước nhà.
Công trình giải mã chữ Việt cổ của nhà giáo già Đỗ Văn Xuyền đã đúng hướng hay chưa, đã thành công được mức độ nào, cần có rất nhiều sự đầu tư của các nhà khoa học và các cuộc hội thảo mang tầm quốc gia, thậm chí là quốc tế.
Cập nhật: 16/04/2011 Theo VTC
 
Chữ Khoa Đẩu

Nguồn gốc chữ Khoa Đẩu và hai chữ Khoa Đẩu


khoa dau 5
Viên Như
I. Nguồn gốc chữ viết của phương Bắc.
Ở Trung Hoa có đến hai truyền thuyết về nguồn gốc chữ viết, một là Phục Hy, hai là Thương Hiệt. Một dân tộc tự cho mình là chủ nhân của một loại chữ cổ xưa và có giá trị của nhân loại lại đưa ra những truyền thuyết lủng củng như vậy tất là có vấn đề, vấn đề đó là cả hai truyền thuyết về chữ viết của Trung Hoa cũng không thoát khỏi cái bóng của người Việt. Về trường hợp Phục Hy tôi sẽ bàn ở một bài riêng chứng minh cho thấy ông ta là người Lạc Việt, riêng đối với Thương Hiệt, câu chuyện ông đã nhầm lẫn khi sáng tạo ra chữ “Xuất 出và Trọng重” vì tiếng Cóc kêu làm loạn tâm trí của ông trong lúc suy nghĩ đã nói lên điều đó.[1] Thông thường những thành quả văn hóa của cả dân tộc là tác phẩm của nhân dân, không một cá nhân cụ thể trong một thời đại nào có thể một mình làm ra mọi thứ cả, việc đề cao một cá nhân nào đó trong một thành tựu văn hóa nó có tính đại diện cho cả dân tộc ấy, Thương Hiệt không đủ hào quang để đại diện cho điều ấy, bởi vì ông chỉ làm theo chỉ thị của vua mà thôi.
Nguồn gốc chữ Khoa đẩu theo sách vở Trung Hoa.
Như đã trình bày trước, từ khi có thông tin rằng nước Việt từng có chữ viết, loại chữ ấy là chữ Khoa đẩu, căn cứ vào hai chữ Khoa đẩu, người ta biết rằng loại chữ ấy giống con nòng nọc nên gọi là chữ Nòng nọc. Vì sao Khoa đẩu có nghĩa là Nòng nọc?
Cơ bản tự nghĩa (基本字义) giải thích:
亦作“ 蝌斗 ”。 1.蛙或蟾蜍的幼虫。《南史·文学传·卞彬》:“蝌斗唯唯,羣浮闇水”。
Diệc tác “蝌斗” Oa hoặc thiềm thừ đích ấu trùng. 《Nam sử, Văn học truyện. Biện bân》:“Khoa đẩu duy duy, quần hồ ám thủy”.
Cũng viết “蝌斗” Ấu trùng của Nhái hoặc Cóc. (Nam sử. Văn học truyện. Biện Bân) “Nòng nọc đông đúc, bơi đen mặt nước”.
Như vậy Khoa đẩu là nòng nọc, con có đầu lớn, đuôi nhỏ.
Thuyết văn giải tự giải thích: 蝌蚪文.
蝌蚪文也叫“蝌蚪书”、“蝌蚪篆”,是在于笔画起止,皆以尖锋来书写,其特色也是头粗尾细,名称是汉代以后才出现的,在唐代以后便少见到,在浙江仙居县淡竹乡境内发现.
Khoa đẩu văn dã khiếu ”Khoa đẩu thư”, “Khoa đẩu triện” thị tại vu mao họa khởi chỉ, giai dĩ viêm phong lai thư tả, kỳ đặc sắc dã thị đầu thô vĩ tế, danh xưng thị Hán đại dĩ hậu tài xuất hiện đích, tại Đường đại dĩ hậu cánh thiểu hiện đáo. Tại Triết Giang, Tiên Cư huyện, Viêm Trúc hương Cảnh Nội phát hiện.
Khoa đẩu văn vậy, còn gọi là “Khoa đẩu Thư”, “Khoa đẩu triện” là bắt nguồn từ bút vẽ, dùng đầu nhọn để viết chữ (sách). Cái đặc sắc chính là đầu to đuôi nhỏ. Tên này xuất hiện vào đời Hán và về sau (203 SCN). Tới đời Đường dần ít xuất hiện. Được phát hiện tại Thôn Viêm Trúc, huyện Tiên Cư, Tỉnh Triết Giang.
Với lời giải thích này ta biết rằng loại chữ với cái tên khoa đẩu nhất định phải được sử dụng một thời gian rất lâu dài trước đời Tần, có như thế mới có khoa đẩu văn, khoa đẩu thư, khoa đẩu triện; cũng chính vì vậy sách mới mô tả cái đặc sắc là đầu thô đuôi tế, nếu không phải là một loại chữ cụ thể thì cơ sở nào mà giải thích như vậy, như nếu ta chưa bao giờ thấy con voi thì làm sao ta ghi là loài thú có vòi dài, tai lớn được; đồng thời cũng với lời giải thích “Tên này xuất hiện vào đời Hán và về sau (203 SCN). Tới đời Đường dần ít xuất hiện” Thông tin này cho ta biết đến đời nhà Hán cái tên khoa đẩu mới xuất hiện về sau mất luôn. Vì sao cái tên chữ Khoa đẩu lại xuất hiện vào nhà Hán mà lại có cả văn, thư, triện, đơn giản là vì chữ khoa đẩu đó được dùng phổ biến trước đó, cụ thể là nhà Chu, vì nó là một thành tựu vĩ đại của dân tộc khác nên khi các thế lực du mục chiếm lấy Trung Nguyên, bên cạnh việc chiếm đất đai, họ phải làm cái công việc là cướp tác quyền về dịch học và chữ viết. Tần Thủy Hoàng thì có chuyện sai Lý Tư cải sửa đại triện của nhà Tần thành tiểu triện. Một triều đại chỉ kéo dài 15 năm với những biến động kinh hoàng liệu có làm ngay chữ đại triện rồi sai Lý Tư cải sửa thành tiểu triện không? Theo tôi đây là một lối ăn gian lịch sử, chiếm khống bằng mệnh lệnh mà thôi. Tiếp đến nhà Hán cũng với tâm trạng ấy nên cũng bằng mọi cách đưa cái tên khoa đẩu thành một truyền thuyết, nhưng con chữ thì vẫn hiện hành với cái tên chữ Hán đấy thôi, chẳng phải bổng dưng mà nó còn được gọi là chữ Nho, theo tôi âm Nho là một phái âm của âm Nhã trong nhã ngữ như chính sách vở Trung Hoa ghi lại mà tôi sẽ trình bày tiếp sau. Ta hãy tiếp tục tìm hiểu về chữ Khoa đẩu này.
Tự điển Khang Hy giải thích:
《唐韻》《集韻》《韻會》苦禾切,音科。蝌蚪。本作科。《爾雅·釋魚》科斗,活東。《疏》蝦蟇子。此蟲一名科斗,一名活東,頭圓大而尾細,古文似之,故孔安國皆云科斗文字是也。《本草》一名懸針,一名水仙子。《李時珍曰》蝌蚪,狀如河豚,頭圓,身上靑黑色,始出有尾無足,稍大則足生尾脫,治疥瘡,又可染鬚髮。《爾雅翼》月大盡生前兩足,月小盡生後兩足。
“Đường vận” “Tập vận” “Vận hội” Khổ hòa thiết, âm khoa. Khoa đẩu. Bổn tác khoa. (Nhĩ nhã. Thích ngư) Khoa đẩu, hoạt đông. (Sớ) Hàm mô tử. Thử trùng nhất danh khoa đẩu, nhất danh hoạt đông, đầu viên đại nhi vĩ tế, cổ văn tợ chi, cố Khổng An Quốc giai vân khoa đẩu văn tự thị giả. (Bổn thảo) Nhất danh huyền châm. Nhất danh thủy tiên tử.《Lý Thời Trân viết》Khoa đẩu, trạng như hà độn, đầu viên, thân thượng thanh hắc sắc. thỉ xuất hữu vĩ vô túc, sao đại tắc túc sanh vĩ thoát, trị giới sang. Hữu khả lương tu phát ( Nhĩ nhả dực) Nguyệt đại tận sanh tiền lưỡng túc, nguyệt tiểu tận sanh hậu lưỡng túc.
“Đường vận” “Tập vận” “Vận hội” đọc là khoa, vốn viết là (Nhĩ nhã. Thích ngư). Khoa đẩu, hoạt đông. (Sớ) Con của con ếch. Loài này còn có tên là Khoa đẩu, hoạt đông, đầu tròn lớn mà đuôi nhỏ. Cổ văn cũng nói như vậy. Vì vậy Khổng An Quốc cho rằng chữ khoa đẩu là từ đó. (Mộc thảo). Có tên là Huyền châm hay Thủy tiên tử. (Lý Thời Trân nói) Khoa đẩu, giống như lợn con, đầu tròn, thân màu xanh đen. Ban đầu mới sinh chỉ có đuôi, không chân, sau lớn mọc chân, đuôi rụng, trị ghẻ lở. Có thể dưỡng râu tóc. (Nhĩ nhã dực) Đầu tháng sinh hai chân trước, cuối tháng sinh hai chân sau.
Với những lời giải thích trên, ngoài ý nghĩa là con nòng nọc, ta biết nó còn có tên khác, như: Hoạt đông活東- Thủy tiên tử水仙子-  Huyền châm懸針. Ngoài ra Từ ngữ giải thích tự điển còn cho tên Khoa Tử 蝌子.Vì sao nó có các tên đó, ta hãy tìm hiểu, những giải thích sau là theo cách hiểu của tôi.
1. 活東 HOẠT ĐÔNG: 活: Còn sống – Có sống – Đang sống. Như: Hoạt động, sanh hoạt, sống động. 東: Hướng đông – Người chủ. Như : Phòng đông 房東  Chủ nhà. Cổ đông 股東– Người góp phần.
   Trong ngữ cảnh đã cho trên, theo tôi Hoạt đông活東có nghĩa hoạt động ở hướng đông. Hướng đông thuộc dương –động, hướng tây thuộc âm tĩnh, con nòng nọc đầu tròn – Âm – Tĩnh, đuôi dài – Dương – Động, vì nòng nọc chỉ có cái đuôi hoạt động mà thôi, lý tính này tương hợp với hướng đông của trục hoành trong sơ đồ vũ trụ của dịch học, cụ thể đây là hình ảnh con nòng nọc theo trục hoành. (Xem hình minh họa).
   2. 水仙子 THỦY TIÊN TỬ: Thủy là nước. Tiên là người cõi trên. Tử là con. (Xem hình minh họa).
   Theo Hà Đồ, Thủy 水thuộc hướng bắc, quái Khảm – Trung nam (Lạc Long Quân). Tiên 仙cũng là Sơn山, là người ở trên núi hay phương nam, quái Ly – Trung nữ (Âu Cơ). Như vậy Thủy tiên tử là con của phương Bắc Nam hay trục tung của Hà Đồ. Thủy tiên chỉ là cách nói khác của Con Rồng (Bắc) cháu Tiên (Nam) mà thôi. Như vậy Thủy tiên tử hay Khoa đẩu chính là đứa con của phương nam, cụ thể là người Việt. Vì vậy mới có bức tranh Cóc kiện Trê.
   3. 懸針 Huyền Châm. Huyền là treo lơ lững – Chưa quyết được. Châm là Kim.
   Với các nghĩa cho trên thật khó có thể dịch nghĩa hai chữ Huyền châm. Tuy nhiên, nếu ta căn cứ vào hình ảnh con nòng nọc, ta biết Huyền là đầu, Châm là đuôi. Đầu thì tròn, đuôi thì nhỏ dài, như thế ta có thể hiểu rằng Huyền ở đây là tròn, thuộc âm[2], còn Châm thì thuộc dương, Huyền châm là kim treo ngược, như vậy có nghĩa là trên âm dưới dương tức Khôn Càn hay Lạc thư, thuộc Thái cực, phương nam, hay hình ảnh con nòng nọc theo trục tung. (Xem hình minh họa).
khoa dau 1.jpg
4. Ngoài khoa đẩu văn, thư, triện, sách cổ cho biết còn có khoa đẩu điểu tích, như trang https://baike.baidu.com viết.  
蝌斗鸟迹(蝌斗鸟迹)指古文字。借指古雅的书法。 清 侯方域 《重修颜鲁公碑亭记》:“及其骂贼而死,从容就义,视吾之头颅身躯皆其所不爱也,而何爱此蝌蚪鸟迹之遗哉!”参见“蝌蚪书”。
   Khoa đẩu điểu tích, chỉ cổ văn tự, tá chỉ cổ nhã đích thư pháp. Thanh hầu phương vực. (Trùng tu Nhan Lỗ Công bi đình kí) : « Cập kì mạ tặc nhi tử, tùng dung tựu nghĩa, thị ngô chi đầu lô thân khu giai kỳ sở bất ái dã, nhi hà ái thử khoa đẩu điểu tích chi di tai! ». Tham kiến « Khoa đẩu thư ».
Tạm dịch:
  Chữ nòng nọc dấu chân chim, chỉ loại văn tự thời xưa, mượn để chỉ cách viết chữ cổ nhã (nhã ngữ). (Chữ) mảnh mà vuông vức[1]. Bia trùng tu Nhan Lỗ Công viết: Đến khi mắng nhiếc cho chết, may ra mới hiểu, Ôi ! cái thân mình đây sao không yêu mến, thế mà lại thương tiếc chi cái chữ nòng nọc chân chim từ xưa còn lại.
Với giải thích này, ta biết chữ khoa đẩu còn gọi là khoa đẩu chân chim, đó là chỉ chữ cổ nhã ngữ, như đã nói trên, như vậy âm [nho] là phái âm của [nhã] mà tôi đề nghị trên là có cơ sở; đồng thời qua giải thích này ta biết loại chữ ấy có kết cấu hình vuông, về sau gọi là phương tự, cũng trong giải thích này ta biết ngày ấy chữ khoa đẩu rất quan trọng đối với một số người như giải thích trên viết « Thân mình không thương mà lại thương chi cái chữ khoa đẩu chân chim từ ngàn xưa còn lại ». Rõ ràng với câu này ta biết chữ khoa đẩu chân chim đã trở thành văn hóa cốt lõi của một dân tộc và đã ăn sâu vào lòng người đến nỗi khi mất đi người ta thương tiếc hơn cả thân mình.
Như cổ thư cho biết chữ khoa đẩu là chữ thời tiên Tần, tức là nhà Chu, giải thích của «Từ ngữ giải thích » trên zdic.net cho biết điều đó.
周代的古文字。上古筆墨未發明前,以竹挺點漆文字於書竹上,竹硬漆膩,文字之體乃頭粗尾細,狀似蝌蚪,故名.
Chu đại đích cổ văn tự. Thượng cổ bút mặc vị phát minh tiền. Dĩ trúc đĩnh điểm tất văn tự ư thư trúc thượng, trúc ngạnh tất nị, văn tự chi thể nãi đầu thô vĩ tế, trạng tợ khoa đẩu, cố danh.
Tạm dịch:
Văn tự cổ của nhà Chu. Thời chưa có phát minh ra bút mực, lấy tre vạch thẳng dấu đen thành văn tự lên trên thân tre cứng láng. Là loại chữ viết đầu to đuôi nhỏ, tợ như nòng nọc nên có tên ấy.
Với trích dẫn trên lại càng chứng minh rằng chữ khoa đẩu là một loại chữ có thật, nó liên quan đến nhà Chu, xuất phát từ ban sơ là chữ chân chim (điểu tích) của người nói tiếng nhã ngữ (có thể là người Lạc Việt); đồng thời nó chính là chữ vuông vức (phương vực). Ta có bằng chứng liên quan đến các thông tin này, đó là bia Vũ Vương.
Đây là nội dung của bia Vũ Vương, một tấm bia tương truyền là của vua đầu tiên của nhà Chu của Trung Hoa, nhưng tấm bia này được tìm thấy ở Hồ Nam ngày nay, một địa chỉ tương đồng với vùng đất mà truyện Họ Hồng Bàng đã mô tả. Tấm bia gồm 77 chữ, nội dung văn bia đã được Dương Thận đời Minh đọc thành văn như sau:
khoa dau 2.jpg
明代杨慎曾撰禹王碑释文:“承帝曰咨,翼輔佐卿。洲諸與登,鳥獸之門。参身洪流,而明發爾興。久旅忘家,宿岳麓庭。智營形折,心罔弗辰。往求平定,華岳泰衡。宗疏事裒,勞餘伸神。郁塞昏徙。南渎愆亨。衣制食备,萬国其寜,竄舞永奔。
Minh đại Dương Thận tăng soạn Vũ Vương bia thích văn:
“Thừa đế viết tư, dực phụ tá khanh, châu chư dữ đăng, điểu thú chi môn. Tham thân hồng lưu, nhi minh phát nễ hứng. Cửu tộc vong gia, túc Nhạc lộc đình. Trí doanh hình chiết, tâm vọng phất thời. Vãng cầu bình định, hóa Nhạc Thái hoành. Tông sơ sự bật, lao dư thân thần. Úc tái hôn tỷ. Nam độc khiên hanh. Y chế thực bị, vạn quốc kỳ ninh, soán vũ vĩnh bôn.”
Xin tạm hiểu và dịch như sau:
Dương Thận đời nhà Minh đã đọc thành văn bia Vũ Vương như sau:
Theo lời cha dạy, những người phụ tá, các nơi đều đến, chổ bàn chuyện lớn. Đã đem thân vào việc phát triển như những gì mà ta đã nói, (Nay)mỗi người mỗi ngã, trú tại chân núi Nhạc,(giờ đây) trí rộng mà lại ích kỷ, tâm nghĩ nhiều mối chẳng hợp thời. Nay muốn an ổn, làm cho dãy núi Thái được thịnh vượng, họ hàng thông cảm, mọi việc (mâu thuẩn) giảm đi, đã có đất đai che chở để lao động thì đâu có chuyện buồn bả âm thầm ra đi. Những phiền nhiễu, thù hận của người Nam được giải quyết, ai cũng đủ cơm ăn, áo mặc, nơi nào cũng thế thì chuyện tranh chấp sẽ không còn.
Ta biết nhà Chu (1046 –  221 TCN) tiếp sau nhà Thương, trị vì Trung quốc 800 năm, thế mà bia Vũ Vương, người sáng lập nhà Chu lại nằm ở Hồ Nam, một vùng đất ở bờ nam sông Dương Tử, cái nôi văn hóa của người Lạc Việt, với thông tin này ta có thể tin rằng nhà Chu là người Lạc Việt. Một thông tin khác củng cố cho khẳng định này, đó là trường hợp Võ Tắc Thiên, sau khi lên ngôi, bà đã đổi tên triều đại thành Vũ Chu, lập đền thờ Văn Vương, lấy hiệu là Việt Cổ Kim Luân Thánh Thần hoàng đế (越古金輪聖神皇帝). Sau đổi thành Từ Thị Việt Cổ Kim Luân Thánh Thần hoàng đế (慈氏越古金輪聖神皇帝). Lưu ý rằng chữ Việt 越này là chữ Việt trong Lạc Việt雒 越.
Trong văn bia này có cụm từ “Điểu thú chi môn” ở đây ta biết nghĩa của hai từ điểu thú chính là chữ nghĩa, điểu thú chi môn có nghĩa là nơi có chữ nghĩa hay là nơi những người có học làm việc, tương tự như triều đình về sau. Cụm từ này liên quan đến cụm từ “Khoa đẩu điểu tích” hay nó chỉ là cách gọi khác của từ “điểu thú” mà thôi. Như vậy chữ Khoa đẩu chính là chữ “điểu thú” của nhà Chu; đồng thời chính trong văn bản này với câu “Nam độc khiên vưu -南渎愆亨” đã khẳng định rằng Vũ Vương là người Nam hay người Lạc Việt vậy, có thể vì điều này mà nhiều bản chép tay trên liên lưới người ta bỏ câu này.
II. Nguồn gốc chữ viết của người Việt.
Trước giờ ta thường nghe rằng người Việt chưa từng có chữ viết, về sau người phương bắc sang đô hộ rồi dạy cho ta, sau nhiều ngàn năm bị tuyên truyền, tư tưởng này hầu như trở thành cố hữu. Tuy nhiên gần đây các nhà nghiên cứu cho rằng nước ta đã từng có chữ viết, loại chữ ấy gọi là Khoa đẩu tức là Nòng nọc, suy nghĩ đó bắt đầu từ câu chuyện được ghi lại trong Hậu Hán Thư và được các nhà sử học Việt Nam ghi lại trong Khâm định Việt sử thông giám cương mục như sau “Đời Đào Đường (陶唐), phương Nam có Việt Thường thị qua hai lần sứ dịch sang chầu, dâng con rùa thần; có lẽ nó được đến nghìn năm, mình nó hơn ba thước, trên lưng có văn khoa đẩu ghi việc từ khi trời đất mới mở mang trở về sau. Vua Nghiêu sai chép lấy, gọi là quy lịch (龜歴, lịch rùa)[1], từ đó người ta tập trung việc nghiên cứu, tìm kiếm chữ viết của người Việt căn cứ vào khái niệm này. Khái niệm khoa đẩu ngoài một số người căn cứ  vào sách vở của phương bắc cho rằng đó chỉ là truyền thuyết mà thôi, còn một số khác tin rằng chữ khoa đẩu có thật, nhưng khổ nỗi họ lại nghĩ chữ ấy hay tự dạng ấy giống con nòng nọc, từ đó căn cứ vào hình dạng của con nòng nọc để tìm kiếm. Dĩ nhiên, ở buổi ban đầu quả thật hình ảnh của con nòng nọc có ảnh hưởng tới cách thể hiện con chữ, như bia Vũ Vương là một minh chứng, tuy nhiên theo đà phát triển, với hai hình thể tròn, dài thì làm sao mà đáp ứng được cho hàng ngàn sự vật được, nhất là để diễn tả những khái niệm trừu tường thì biết làm sao, trước nhu cầu đó, khái niệm nòng nọc đã thoát ra ngoài hình tượng của nó, chỉ còn lại hai khái niệm âm dương mà thôi. Tuy nhiên ngày nay ở nước Việt có người cứ căn cứ vào hình thể của con nòng nọc để đi tìm con chữ,  kết quả đi vào bế tắc hay nhận nhầm loại chữ khác là của mình, cho dù bản thân con chữ đó cũng chẳng có hình dáng gì có thể hình dung đến con nòng nọc, nhưng họ vẫn tuyên bố đấy là chữ khoa đẩu hay Hỏa tự. Có thể lý do cho việc cố gán cho loại chữ này nọ tại nước Việt là vì sau nhiều năm tìm kiếm chữ khoa đẩu theo hình ảnh mà nhiều người suy nghĩ, họ thấy rằng chẳng có loại chữ nào giống nòng nọc cả, may ra có loại chữ của người Thái mà Vương Duy Trinh đã công bố trong sách Thanh Hóa Quan Phong có gì đó cổ sơ nên người ta nghĩ rằng có thể nó chính là chữ khoa đẩu; bên cạnh đó người ta nghĩ rằng văn hóa người Việt là văn hóa bản địa cho nên việc tìm kiếm chữ Khoa đẩu ở phương Bắc là không khả thi, cho dù cái tên khoa đẩu được  biết ngày nay lại được viết bằng chữ Hán. Với cách nghĩ như vậy thì xem ra rất khó tìm ra nguồn gốc của chữ khoa đẩu và nó có thực sự tồn tại ở nước Việt hay không?
  1. Dấu tích Nòng nọc mà người Lạc Việt dùng để tượng trưng cho Âm Dương.
Gần đây, năm 2011 Hội Lạc Việt ở Quảng Tây, Trung Quốc công bố các hình ảnh về dỉ chỉ khảo cổ ở Cảm Tang, bức ảnh bên dưới cho thấy rằng hai con nòng nọc đen trắng đã được người Lạc Việt khắc trên đá ở tế đàn Cảm Tang, đây là bằng chứng chắc thật cho thấy rằng chuyện sử dụng hình ảnh của Nòng nọc để tượng trưng cho hai khái niệm âm dương trong dịch học là hiển nhiên; đồng thời qua đây cũng nói lên rằng chữ Khoa đẩu là một loại chữ liên quan đến dịch học; đồng thời qua bức ảnh này, ta thấy hình ảnh con nòng nọc đen ở trên, nòng nọc trắng ở dưới, tức là Âm Dương hay quẻ Thái tượng trưng cho Lạc thư, có nghĩa là Lạc thư – Hậu thiên bát quái đã được thành lập từ khi người Lạc Việt còn sống trên sông Dương Tử, có thể vì vậy mà trong bia Vũ Vương mới có câu “Cửu tộc vong gia” cách dùng từ “cửu tộc” cho thấy khái niệm này đến từ khái niệm cửu cung của Lạc thư – Hậu thiên bát quái; cũng trong bức ảnh này, với hai con nòng nọc đen trắng, người xưa đã cách điệu nó thành hình ảnh con chim Cốc, một loài diệc, tượng trưng cho Thái cực mà tiền nhân nước Việt đã viết trong Hồng Bàng Thị, một câu chuyện lấy vùng đất nơi có tế đàn Cảm Tang làm trung tâm. Hồng là con chim Hồng hộc hay chính là chim cốc, tức con Còng cộc.
khoa dau 3.jpg
khoa dau 4.jpg
  1. Nguồn gốc chữ Khoa đẩu theo dân gian Việt Nam.
Dịch học là đỉnh cao của triết lý âm dương, đại diện cho nó là nòng nọc, chính vì vậy mà ở nước Việt, từ sau khi mất đi tác quyền về dịch học và chữ vuông, người Việt xưa đã làm ra bức tranh với truyện ngụ ngôn Cóc kiện Trê, nội dụng chủ yếu là Trê đã bắt con của Cóc, tức nòng nọc, vì trê cho rằng đó là con của mình, do Trê và Cóc sống chung khu vực, cuối cùng Trê, với tố chất ranh mãnh, đã thắng kiện một cách phi pháp, điều này diễn ra như thực tế. Trong bức tranh người xưa ghi rõ trên lưng Trê hai chữ Dịch lý役里, chữ Dịch 役 này vừa là đồng âm với chữ 易và 亦; đồng thời bên trong chữ 役này còn chứa một ẩn ngữ khác mà theo tôi đó chính là điều người xưa muốn nói, đó là bộ Xích 彳 trong chữ này vốn có âm Diệc hay Dịch, 彳,步也。彳亦聲, ý nói là dịch học ấy của người Việt, trường hợp này cũng như trường hợp chữ Hà 河trong Hà đồ 河圖. Tất nhiên chẳng có Cóc, Trê hay nòng nọc nào cả mà chỉ có người Nam và Bắc và văn hóa dịch và chữ khoa đẩu mà thôi. Như vậy Trê đã chiếm đoạt dịch học và chữ khoa đẩu, tức cái văn hóa mà hàng ngàn năm qua họ tuyên bố với thế giới đó là văn hóa đặc sắc của họ
khoa dau 5.jpg
Ngoài ra người Việt còn minh định rõ về chữ Khoa đẩu trong bức tranh Thầy đồ Cóc hay Lão Oa giảng đọc. Thầy Cóc, học trò là Ếch, Nhái, Chão chàng thì chữ tất nhiên là Nòng nọc chứ còn loại chữ nào nữa. Nếu nhìn từ góc độ lịch sử thì đây là những kiệt tác của người Việt, bởi vì trong thầm lặng người Việt đã tìm mọi cách để gởi lại nguồn gốc văn hóa của dân tộc mình, khổ nỗi tiền nhân thì đau đáu nhưng hậu thế xem đây là những bức tranh trào phúng chủ yếu để mua vui mà thôi, đó là chưa kể nhiều người bình phẩm một cách tiêu cực.
khoa dau 6.jpg
Cũng theo truyền thuyết, bên cạnh chữ Khoa đẩu còn có Hỏa tự火字, tức là chữ có hình ảnh như những ngọn lửa đang cháy. Theo tôi chữ Hỏa trong Hỏa tự là chỉ định người hay dân tộc làm ra con chữ đó chứ không phải là loại chữ được sáng tác ra lấy căn bản từ hình ảnh của ngọn lửa, bởi vì lửa thì chỉ bốc lên mà thôi, trong khi đó con chữ trên thực tế không phản ảnh một cách rõ ràng về điều này, nói khác hơn Hỏa tự cũng chính là chữ Khoa đẩu đấy thôi nhưng là chữ Khoa đẩu của thời kỳ đầu với cách viết như các chữ trên bia Vũ Vương; đồng thời với cái tên Hỏa tự, cho ta biết đó là chữ của người phương Nam hay Lạc Việt, vì theo dịch học, phương Nam  thuộc hành Hỏa.
Với những gì trình bày trên, từ những gì lưu truyền con ghi lại trong sách sử cùng những bằng chứng trên thực tế cho thấy rằng chữ Khoa đẩu là một loại chữ có thật. Tuy nhiên, có nhiều người ở Việt Nam cho rằng chuyện chữ Khoa đẩu là chuyện mộng mị, tào lao, cho đó là chữ thời tiên Tần tới đời Đường đã không còn, nên nhớ trước Tần là một triều đại nhà Chu kéo dài 800 năm, có thể nói hầu hết các quy tắc ứng xử trong triều đình đều của nhà Chu, tế xuân thu nhị kỳ cũng từ thời đó, còn viết cả Chu Dịch, chẳng lẽ ngần ấy năm nhà Chu không có chữ viết, không có chữ viết thì Chu Dịch viết bằng chữ gì, cả ngần ấy năm sao nhà Chu không đặt tên cho loại chữ đó, chỉ đến thời nhà Hán mới có chữ rồi đặt là chữ Hán chăng! với 800 năm trị vì trên khu vực Trong Nguồn và núi Thái, thế mà ngày nay sử Trung Hoa viết về thời kỳ này hết sức giới hạn, tại sao vậy? Theo tôi vì họ học của nhà Chu nhưng không muốn mình là học trò nên mới bịa ra cái chuyện chữ thần tiên. Thật ra phương Bắc muốn triệt tiêu khái niệm Khoa đẩu, nên mới bịa ra những chuyện hoang đường như thế, họ muốn xóa đi khái niệm Khoa đẩu hay Nòng nọc không gì hơn là vì nguồn gốc của loại chữ này, có nghĩa là nguồn gốc chữ Khoa đẩu hay chữ vuông không phải của họ, vì vậy sau khi đoạt được chữ Khoa đẩu rồi, một mặt họ phát huy giá trị của con chữ, mặt khác họ ra sức tiêu hủy bằng chứng về nguồn gốc của nó, đây là chuyện thường làm của kẻ chiếm đoạt tài sản người khác làm của mình, có lẽ họ tin rằng như thế là đủ để những người về sau không thể nhận ra nguồn gốc loại chữ ấy nữa. Tuy nhiên, họ quên rằng, ngoài khái niệm Nòng nọc, bản thân con chữ cũng đã mang thông điệp đó, nên chi dù cố gắng cách mấy, họ cũng khó mà che dấu được nguồn gốc của loại chữ Nòng nọc mỗi khi chủ nhân của nó đã tìm ra manh mối. Nếu người Việt học chữ của họ tại sao chữ Giác 覺, bính âm là [jiào] người Việt đọc là [Cóc] hoàn toàn tương đồng với âm Thuyết văn giải tự cho 古樂切cổ nhạc thiết – Cạc. Sao có sự sai biệt 100% như vậy, hay vì sao con heo- Hợi亥 nằm bên cây – Mộc木 mà lại cho cái Hột – Hạch核, chính họ xác nhận chữ ấy là của người Man di đấy thôi. Đơn giản là bởi vì chữ ấy của người Lạc Việt, nên chính họ đã gọi đúng cái tên mà họ đã đặt cho loại chữ mà dân tộc họ sáng tạo ra, đó là chữ Khoa đẩu – Nòng Nọc. Nòng nọc là con của Cóc, Cóc là Thái cực, thuộc Dương – Phương Nam, vì vậy chữ Nòng nọc hay Khoa đẩu là chữ của người Phương Nam hay Lạc Việt. 
III. Về hai chữ Khoa đẩu.
  1. Về ngữ âm của hai chữ Khoa đẩu.
Như đã nêu trước, có thể người Lạc Việt lấy Cóc tượng trưng cho Thái cực, nên các quái bị ảnh hưởng bởi âm /C/ như: Càn – Chấn – Khảm – Cấn – Khôn, trong suy nghĩ như vậy, tôi cho rằng có thể trước đây chữ Khoa – Đẩu vốn đọc là Khoa Chẩu. Cụ thể ở đây ta có Kh –OA – Ch – ẨU. Oa là con Ếch, Chẩu là con Chẩu chàng, đồng loại với Cóc; đồng thời, vì Cóc đại diện cho Thái cực, nên cả hai chữ Khoa chẩu đều có âm /k/. Điều này cũng tương tự như hai chữ Âm Dương hay Ễnh Ương mà tôi đã trình bày tại phần hai.
  1. Vấn đề tự dạng hai chữ Khoa đẩu – .
Như đã nói trên, người phương Bắc nhận thức rằng nếu còn cho phổ biến khái niệm Khoa đẩu, thì rồi ra người Việt sẽ nhận ra rằng đây là loại chữ của dân tộc họ, vấn đề còn nghiêm trọng hơn là hóa ra phương Bắc chỉ là học trò của người phương Nam mà thôi; đồng thời cho thấy rằng, cả một nền văn hóa mà họ đang hãnh diện, thực ra chỉ là sự tước đoạt của kẻ khác. Tuy nhiên, một mặt họ tìm cách thủ tiêu khái niệm Khoa đẩu, mặt khác, họ lại ra sức phát huy loại chữ đó, chính vì vậy, ngay tự dạng và ý nghĩa của hai từ Khoa đẩu 蝌 蚪 đã nói lên điều ấy, có nghĩa là hai chữ Khoa đẩu 蝌蚪 ngày nay của Trung Hoa và tự điển đang sử dụng, theo tôi, không phải là con chữ ban đầu của nó. Chúng ta hãy tìm hiểu về vấn đề này.
Trước tiên ta hãy tìm hiểu xem người Trung Hoa lấy khái niệm “Khoa đẩu” ấy từ đâu? Cách ghi lại khái niệm ấy bằng con chữ biểu ý như thế nào?
2.1. Phân tích hai chữ 蝌蚪:
– Chữ Khoa 蝌 gồm: Trùng 虫+ Khoa 科1. khoa, bộ môn. 2. xử tội, kết án. 3. khoa cử, khoa thi. 4. để đầu trần. 5. phần trong một vở tuồng .
– Chữ Đẩu 蚪 gồm: Trùng 虫+ Đẩu 斗. Bé nhỏ.
Cả hai chữ này đều là chữ hình thanh, thuộc bộ Trùng 虫, như thế có nghĩa là chữ Khoa 科 và Đẩu 斗 đã có trước và có nghĩa riêng, hai chữ Khoa đẩu蝌蚪còn viết là 蝌斗 chứng minh cho điều ấy. Nếu căn cứ vào giải thích trên “Đầu to đuôi nhỏ -头粗尾细” thì chữ Khoa 科 này không đáp ứng được nghĩa “To, lớn”, vì nó không có nghĩa này. Nếu phương Bắc là chủ nhân của loại chữ này sao không biết điều này!?
2.2. Như đã trình bày trước, với tinh thần áp dụng triết lý Dịch vào việc sáng tạo ra những con chữ, trong đó có chữ cóc覺, những con chữ này được sáng tác ra từ thuở ban đầu, nên chưa có khái niệm部 bộ, vốn dùng để hệ thống hóa chữ viết sau này. Như vậy nếu người xưa đã tạo ra được chữ Cóc覺, lẽ nào hình ảnh con Nòng Nọc lại không được người Việt ghi lại bằng con chữ độc lập. Nói như thế có nghĩa là tôi cho rằng sự thật người Lạc Việt đã thể hiện khái niệm Nòng Nọc bằng con chữ cụ thể, cũng có âm là Khoa đẩu. Hai chữ đó là: 夸斗.
  1. Về dịch lý trong tự dạng :
3.1. Chữ Khoa 夸. Trên chữ Đại 大to lớn, gồm: Chữ Nhất 一Dương +  nhân 人Trung gian. (Thiên –Nhân -Địa), dưới chữ Khuy 亏- Âm. Dương Âm  hay Càn Khôn, tức bản thể thuộc Âm – NÒNG. Đặc biệt trong chữ này, người Việt đã gởi vào đây một thông điệp, rằng chữ này là của người Việt, bằng cách ghi vào đây chữ Việt , tức chữ Việt 粤 . 粤. 亏也. Việt: Khuy dã. Việt: (Chữ)Khuy vậy.
 3.2. Chữ Đẩu 斗. Trên là hai chấm – (Nhị nghi) – Âm, có nghĩa là bé nhỏ, dưới chữ Thập十 – Dương. Trên Âm, dưới Dương  hay trái Âm phải Dương, tức Thái cực thuộc Dương – NỌC.
3.3. Vì hai chữ Khoa đẩu là để chỉ một con vật, nhưng chứa đựng được cả Âm lẫn Dương, nên người xưa đã viết trong chữ Khoa đã có chữ Đẩu, cụ thể là 𡗴. Có thể ban đầu nó chỉ được thể hiện bằng một âm và một chữ thôi, chữ đó là 𡗴 đọc là Khoa, gồm: Trên chữ Đại 大 là lớn – Âm – Nòng, dưới chữ Đẩu 斗 – Nhỏ – Dương – Nọc. Âm Dương, tức Thái cực. Theo tôi, người Việt sáng tác chữ này theo tư tưởng dịch học, nhưng rồi có lẽ họ thấy cần phải đóng dấu người Việt vào đó, nên đã đưa chữ Việt 亏 vào chữ Khoa, thành chữ Khoa 夸; đồng thời tách ra làm hai, thành Khoa đẩu 夸斗, nhằm mục đích vẫn giữ được khái niệm Âm Dương hay Thái cực, như chữ Khoa 𡗴, vì vậy hai chữ Khoa đẩu 夸斗 cũng mang lý tính đó, Khoa 夸 là Lớn – Âm – Nòng, Đẩu 斗- Nhỏ – Nọc – Dương, Âm Dương tức Thái cực. Chữ của người Lạc Việt tất phải là chữ mang tính tích cực hay động, nói theo dịch là Thái cực, như đã trình bày trong phần chữ Việt 越.
  1. So sánh hai chữ Khoa đẩu hiện nay 蝌蚪 夸斗.
 Với những gì phân tích trên, so sánh với hai chữ Khoa đẩu 夸斗 và  蝌蚪 người Trung Hoa đang sử dụng:
4.1. Hoặc người Trung Hoa biết hai chữ 夸斗 này có nghĩa là Nòng Nọc, nhưng vì nguồn gốc của nó mà phải viết khác đi chăng?
4.2. Hoặc người Trung Hoa lúc đó, không biết hai chữ này 夸斗 có nghĩa là Khoa đẩu, nhưng chỉ nghe người ta nói rằng loại chữ mà họ chiếm được là chữ Khoa đẩu, từ đó ghi lại thành 蝌 蚪.
Rõ ràng chữ Vuông, trong đó có hai chữ 夸斗, đã hình thành rất lâu trước khi người Hoa hạ chiếm hữu nó từ người Việt, nên mới có chuyện ký âm hai tiếng Khoa đẩu theo lối bộ trùng như trên. Ta có thể thấy điều này trong Thuyết văn giải của Hứa Thận “亦作“ 蝌斗 ”có nghĩa là chữ đẩu 斗 vốn không có bộ trùng虫, như thế ta thấy chữ Khoa ban đầu vốn cũng không có bộ trùng虫. Tất nhiên nếu như thế thì cũng có nghĩa là chữ Khoa vốn không phải chữ Khoa 科 này, vì nó vốn là một chữ có nghĩa riêng biệt.
Theo tôi điều 4.2 là hợp lý, vì nếu biết rằng hai chữ 夸斗 chỉ con Nòng Nọc, thì họ chỉ cần thêm bộ Trùng虫vào thế là xong, mất dấu vết ban đầu. Sao họ không làm? Chứng tỏ rằng họ không biết khái niệm Khoa đẩu đã cụ thể bằng hai chữ夸斗 nhưng chắc chắn họ biết rằng loại chữ họ đang kế thừa trước đây gọi là chữ Vuông hay Khoa đẩu. Điều này cho thấy rằng, vì họ không phải là chủ nhân của loại chữ Vuông, nên đã làm mọi cách để khái niệm này đi vào quên lãng; đồng thời sáng tác ra hai chữ Khoa đẩu khác, nhằm tránh dấu vết của người Việt. Tuy nhiên với những gì được giải thích về chữ Khoa đẩu trong Thuyết văn giải tự và Khang Hy và những gì đã chứng minh trên cho thấy rằng chữ Khoa đẩu chính là chữ Vuông, hay ngày nay ta gọi là chữ Hán.
Chính vì 夸斗 Khoa đẩu liên quan đến vấn đề con chữ của người Việt, nên trong câu chuyện Chữ Đồng Tử mới đề cập đến cái khố, cái khố này theo tôi, được viết bằng chữ 袴, chứ không phải chữ 褲, như câu chuyện đã thể hiện. Đây là bằng chứng cho thấy sự tam sao thất bổn, điều này xảy ra không phải chỉ với chữ này, mà ngay trong tranh “Lão Oa giảng đọc”  người ta đã nhầm lẫn giữa chữ Oa 蛙 là Cóc đực và Oa là  蜗 Cóc cái. Tất nhiên điều ấy có thể thông cảm được, vì trải qua biết bao thăng trầm, vậy mà người xưa đã gìn giữ và lưu truyền đến ngày nay, thì với những chi tiết nhỏ như vậy, nhầm lẫn là chuyện khó tránh khỏi.
  1. Tại sao lại đặt tên loại chữ này là Khoa đẩu – Nòng nọc.
Như vậy là tôi đã trình bày về nguồn gốc của chữ Khoa đẩu, một vấn đề cuối cùng nữa, đó là tại sao người xưa lại đặt tên loại chữ đó là Khoa đẩu?
Như đã trình bày trước, người Việt cổ lấy con cóc tượng trưng cho dương, nhái tượng trưng cho âm, vậy tại sao họ không lấy tên hai con này đặt tên cho loại chữ mà họ sáng tạo ra mà lại đặt tên là chữ Nòng nọc. Đây là một câu hỏi cần có câu trả lời.
Người xưa nói “văn dĩ tải đạo 文以載道” chữ nghĩa chuyên chở đạo lý của con người, trong dịch học thì đạo chính là âm dương nhất thể vậy, khái niệm này được thể hiện qua câu “nhất âm nhất dương chi vị đạo”. Với mục đích như vậy, nếu lấy con cóc đặt tên thì chỉ có phần dương, còn nếu lấy nhái đặt tên thì chỉ có phần âm, như vậy không phù hợp với mục đích của Văn 文. Ngược lại con nòng nọc thì hình thể của nó thể hiện được cả hai khái niệm, đầu tròn – âm, đuôi dài – dương. Đầu không nhúc nhích được – tĩnh, đuôi dùng để bơi – động, cả hai không thể tách rời nhau được; đồng thời nó là nguồn gốc sinh ra cóc, nhái, nói cách khác nòng nọc có tiêu chí của bản thể – Hà đồ và cóc nhái có tiêu chí của Lạc thư. Với các tiêu chí này, con nòng nọc đáp ứng được tiêu chí câu “nhất âm nhất dương chi vị đạo”, chính vì vậy mà người xưa mới đặt tên loại chữ này là Khoa đẩu – Nòng nọc.
  1. Kết.
Tóm lại chữ Khoa đẩu là một loại chữ của người Lạc Việt, không phải là chữ thần tiên, nó là một loại chữ có thật, nó được hình thành từ khái niệm Âm – Nòng và Dương – Nọc, hai khái niệm này không những thể hiện một cách trừu tượng, mà còn được biểu thị bằng hình ảnh cụ thể, đó là con nòng nọc, hình ảnh tại di chỉ khảo cổ ở Cảm Tang, Quảng Tây, Trung quốc, là một minh chứng. Chữ Nòng nọc ấy chẳng biến mất đi đâu cả, nó chỉ thay tên đổi họ mà thôi, nó chính là chữ Hán hiện nay. Câu chuyện chữ Khoa đẩu là chữ thần tiên, chỉ là thủ thuật của kẻ cưỡng đoạt, nhằm che dấu nguồn gốc loại chữ vốn không phải của mình mà thôi, chính vì vậy mà cho đến nay, ngoài khái niệm phương tự ra, họ không có một tài liệu nào phân tích, cho thấy một cách cụ thể về cách sáng tạo tự dạng trong chữ Hán theo triết lý dịch học, trong khi đó, họ lại cho rằng dịch học là sản phẩm văn hóa tuyệt vời của dân tộc họ. Cũng chính vì vậy, ngay cả hai chữ Khoa đẩu hiện nay họ đang sử dụng, cũng không phải là hai chữ được sáng tác từ thời kỳ đầu của Dịch học (không có bộ) mà do họ tự ghi lại, có thể thông qua những kẻ thuật lại, nên các con chữ ấy chỉ là chữ hài thanh, một phương pháp sáng tạo chữ, hình thành sau khi chữ tượng hình, biểu ý đã đạt đến số lượng bão hòa.


Chú thích:
  1. 汉字的故事 – 汉文字的祖先仓颉和造字的传说 – 郁乃尧.
  2. Ta thấy người Việt xưa đã dùng chữ Huyền để chỉ lý tính Âm, như Lưu Huyền trong câu chuyện Tân Lang (Trầu cau) hay, Ứng Huyền trong truyện Việt Tỉnh Cương (Giếng Việt)
  3. 方域 – Phương vức – Vuông vức, rõ ràng ngày trước ta đọc chữ 方 này là vuông, đây là chữ của người Việt, nếu là chữ Hán cớ sao ta không đọc phương vức.
  4. “Khâm định Việt sử thông giám cương mục”, Tiền biên, quyển 1 .
  5. luoyue.net/newsimg/s0e67729f-2dfc-4cb6-97f3-6c5f978ba7bf.JP

Người Inca thắt nút dây để ghi nhớ thông tin như thế nào?


Trong khi đối chiếu với các văn bản xa xưa của những người Tây Ban Nha đi chinh phục châu Mỹ , Manny Medrano – một sinh viên thuộc Đại học Harvard, Mỹ – đã giải mã được bí ẩn những nút thắt trên dây vốn được người Inca sử dụng để lưu giữ thông tin và những số liệu thống kê khi chưa có hệ thống chữ viết.
Hầu hết những hiểu biết của chúng ta về các nền văn minh thời Trước Cristo Colombo (Tiền Colombo) đều đến từ những người Tây Ban Nha đi chinh phục châu Mỹ, những người này (đáng tiếc) đã hủy hoại hoặc làm hư hỏng nhiều đồ vật và tư liệu của người bản địa trong thời gian chinh phục Thế giới Mới.
Trong số các hiện vật đang được bảo tồn, có vài trăm sợi dây có nút thắt (quipus – một thuật ngữ có nghĩa là “nút thắt” trong tiếng Két soa, thứ ngôn ngữ thông dụng trong nền văn minh Inca) – đã thoát khỏi sự tàn phá điên cuồng của những kẻ đi chinh phục (người Tây Ban Nha). Chúng là những sợi dây được bện với ba loại nút thắt khác nhau.
Mật mã thông tin của người Inca (Ảnh: ancient-origins)
Từ lâu, các nhà khoa học và  khảo cổ học cho rằng các sợi dây này được dùng để lưu giữ các thông tin hành chính liên quan đến  kinh tế và điều tra dân số.
Khi chưa có hệ thống chữ viết, việc sắp xếp các nút thắt trên các sợi dây này là một công cụ nguyên bản của người Incas để lưu giữ số liệu.
Cách đọc theo các sợi dây
Manny Medrano- sinh viên mới 21 tuổi, đang nghiên cứu toán học và khảo cổ học tại trường Đại học danh giá Harvard nằm ở bờ Đông nước Mỹ.
Từ 3 năm nay, anh trợ giúp giáo sư Gary Urton –  Chủ nhiệm khoa Nhân loại học tại Đại học Harvard, một chuyên gia lớn về các nền văn minh thời Tiền Colombo – trong các nghiên cứu và học cách giải mã những biểu tượng cổ xưa, gồm cả những sợi quipus nổi tiếng.
Sự phức tạp của chúng đã được một sinh viên Harvard bẻ mã (Ảnh: ancient-origins)
Nhờ nghiên cứu một cách tỉ mỉ 6 sợi dây quipus vừa được phát hiện tại một viện bảo tàng ở Lima, Peru, Manny đã giải mã được ý nghĩa của những nút thắt trên dây; những thông tin mà nhiều năm qua, nhiều nhà khoa học uyên bác chưa phát hiện ra được.
Tôi chưa bao giờ giải mã được toàn bộ thông điệp của những sợi dây này. Nhưng Manny đã làm được khi tập trung nghiên cứu vào màu sắc của dây và cấu trúc “hai mặt” của chúng”, Gary Urton giải thích.
Trước khi có chữ viết, người Inca sử dụng nút thắt dây để lưu trữ thông tin (Ảnh: ancient-origins)
Theo giáo sư, đó là sự đối chiếu so sánh giữa những sợi dây quipus và một số văn bản của những người thực dân Tây Ban Nha viết vào thế kỷ 17 đã dẫn tới những diễn giải mới.
Tôi đã nghiên cứu 600 quipus ở Bắc Mỹ và Châu Âu – không chỉ về màu sắc của chúng, mà còn về cách các sợi dây được treo buộc cùng nhau và được bện về bên trái hoặc bên phải. Có rất nhiều cách thể hiện và tôi biết chúng tôi sẽ có một khám phá tuyệt vời nếu có thể đối chiếu chúng với những tin tức mà người Tây Ban Nha đã viết về người Incas vào thời điểm đó”, anh sinh viên cho biết.
Nó tái hiện tiếng nói của người Inca
Khi đối chiếu tin tức thông tin trên các văn bản hiện có với những nút thắt trên 6 sợi dây đang được xem xét, anh sinh viên trẻ đã phát hiện ra  hai tài liệu trên cùng nói về một ngôi làng ở Peru, nơi có 132 nhân khẩu thuộc bộ tộc Recuay.
Qua nghiên cứu các sợi quipus, Manny đã có thể hiểu được thông tin về những cư dân này như cấp bậc xã hội và gia tộc của họ – những thông tin  không bao giờ có thể xác định được nếu không xem xét tỉ mỉ các sợi dây bện quipus.
Bảng giải mã Manny Medrano đưa ra (Ảnh: ancient-origins)
Tôi tập trung ý tưởng vào những con số hoặc những nội dung đang ẩn chứa trong các nút thắt và những sợi dây. Điều quan trọng là phải quay lưng lại với những gì mà các nhà sử học châu Âu luôn nói về những nền văn hoá này, để cố hiểu những gì người Inca nói về chính bản thân họ “, anh sinh viên cho biết về nghiên cứu của mình.
Những phát hiện của hai thày trò (Manny và vị giáo sư của anh) đã được đăng trên tạp chí khoa học Ethnohistory; Chúng  có thể giúp làm sáng tỏ những bí ẩn hàng thế kỷ chắc chắn đang ẩn dấu ở những sợi quipus khác.
Hoài Anh

Chữ viết của người Inca ẩn giấu trong các nút thắt

Hơn 500 năm trước khi máy tính ra đời, những người Inca sống trên dãy núi Andes (Peru) đã phát minh ra một mã nhị phân 7 bit để lưu trữ thông tin, và thể hiện chúng bằng những chiếc khipu thắt nút. Phát hiện này thách thức quan niệm lâu nay, rằng Inca là nền văn minh đồ đồng lớn duy nhất không có ngôn ngữ chữ viết.
s
Một chiếc khipu của người Inca.
Khipu, trong tiếng Quechua (ngôn ngữ chính thức của đế chế Inca) nghĩa là “nút”. Vật trang trí này gồm một sợi dây chính, từ đó toả ra nhiều dây đối xứng nhau (có thể gắn theo các dây cấp hai hoặc cấp ba), trên có nhiều nút thắt hoặc các mấu. Năm 1923, nhà khoa học lịch sử Leland Locke đã chứng tỏ rằng khipu không chỉ là vật trang trí bình thường, mà là một loại bàn tính bằng sợi, trong đó các mấu có chức năng lưu trữ kết quả phép tính, giống như các hạt gỗ trên bàn tính của người Trung Hoa. Tuy nhiên, quy luật của Locke chỉ giải được một phần nhỏ trong số 600 khipu tìm thấy trên vùng đất này.
Do không ai giải mã được các nút đó, nhiều học giả lập luận khipu thực chất chỉ là những đồ tự tạo ngẫu nhiên của ai đó trong cộng đồng Inca. Một số người thậm chí còn xem chúng như những “vật ghi nhớ”, với mục đích kể lại các câu chuyện cổ hoặc nhắc chủ nhân của nó phải làm việc gì đó.
Tuy nhiên mới đây, Gary Urton, giáo sư chuyên nghiên cứu thời kỳ tiền Columbus tại Đại học Harvard (Mỹ) lại đưa ra một phỏng đoán có tính cách mạng trong cuốn “Signs of the Inka Khipu”. Ông cho rằng những mô hình thắt nút này không chỉ tuân theo một tiêu chuẩn thống nhất, mà còn thể hiện cho một hệ chữ viết trình độ cao, tương đương với chữ viết được phát triển bởi người Sumer (ở Lưỡng Hà), người Ai Cập, người Maya (Trung Mỹ) và người Trung Quốc. Tuy không một loại nào trong các hệ chữ viết trên linh hoạt được như hệ chữ alphabet (hệ chữ có thể biểu diễn vô hạn các âm tiết), nhưng ở thời kỳ đầu của nền văn minh nhân loại, chúng đều là những bước tiến vượt bậc trong khả năng của con người, nhằm ghi lại thế giới xung quanh một cách hiệu quả hơn so với cách thể hiện nguyên thuỷ bằng tranh.
Phân tích 32 chiếc khipu được tìm thấy năm 1997 (cùng với 225 xác ướp trong một hang đá ở miền bắc Peru), Urton và cộng sự khám phá ra rằng, bất kỳ một người nào được huấn luyện đều có thể dịch được mã của khipu. Trên 3 chiếc trong số đó, họ đã nhận thấy có những trình tự tương hợp có thể dùng truyền tải các dữ liệu số.
“Chúng tôi đã có bằng chứng đầu tiên về một hệ thống kiểm soát và đối chiếu. Nó là dấu hiệu rõ ràng cho thấy, những người Inca không hề lưu trữ thông tin theo cách chỉ có một bản duy nhất và chỉ có một mình người lập mới hiểu được nó”, Urton nói.
Ông cũng cho rằng mã nhị phân khipu có thể lưu giữ ít nhất 1.536 dữ liệu thông tin (so với dạng chữ nêm nguyên thuỷ của người Sumer chỉ có 1.300-1.500 ký tự, hay 600-800 ký tự tượng hình của người Ai Cập và Maya). Con số này là kết quả của phép tổ hợp từ 7 cách chọn lựa (như chất liệu, hướng quay, hướng thắt nút, màu sắc…) trong quá trình chế tạo khipu. Chẳng hạn, mỗi khipu chỉ có thể được làm từ bông hoặc len. Người dệt nó sẽ phải chọn một trong hai loại vật liệu này khi tạo ra chuỗi thắt nút của mình. Họ cũng sẽ phải quyết định hướng thắt hút thuận hay ngược chiều kim đồng hồ, và chọn một trong số 24 màu có thể dùng để dệt sợi... Tổng cộng những phép hoán đổi đó cho ra 1.536 cách “viết” một ký tự khipu.
Nếu phát hiện của Urton là đúng, thì người Inca không chỉ đã lựa chọn bộ mã nhị phân - nền tảng toán học cho hoạt động của máy tính - ít nhất 5 thế kỷ trước khi con người thực sự phát minh ra computer, mà còn để lại cho thế giới một ngôn ngữ “chữ viết” ba chiều duy nhất được biết tới nay (các ngôn ngữ hiện tại đều được thể hiện trên một bề mặt phẳng, như giấy, tường…).
So với những nền văn minh Hy Lạp hoặc La Mã cổ, Inca chỉ là tâm điểm của một số rất nhỏ các nghiên cứu, do vậy, còn nhiều bí ẩn xung quanh tộc người này chưa được khám phá. Việc tiếp tục giải mã khipu có thể phần nào làm sáng tỏ nhiều câu hỏi về nền văn minh đó, như bằng cách nào họ có thể xây dựng các bức tường với độ khớp hoàn hảo mà không hề dùng đến vật liệu gắn kết, hoặc họ đã dùng gì để xây dựng nên "thành phố mất tích" Machu Picchu.
B.H. (Theo Discovery)


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét