TỔ TIÊN THIÊN CỔ 04 (Địa Đàng ở phương Đông)
(ĐC sưu tầm trên NET)
Lời nói đầu
Trong sách này tôi sẽ thuật lại việc tìm kiếm và phân tích những chứng cứ liên hệ đến một số cư dân của một vùng lục địa đã mất - những người hơn 7000 năm trước đã có công làm nảy sinh các nền văn hóa lớn chẳng những ở Viễn Ðông mà cả ở Trung và Cận Ðông, và đã là tác giả nguyên thủy của vô số phốt-cơ-lo phổ biến khắp Á - Âu. Tôi đi đến kết luận rằng hầu hết vết tích khảo cổ của các nền văn hóa gốc (founder cultures) có địa bàn tại Ðông Nam Á này đã bị hủy diệt bởi một trận lụt khủng khiếp cuối Thời Ðại Băng Giá gần đây nhất (tr. XIII)
Trong thời gian nghiên cứu và viết sách, tôi nhận ra mình đang xây dựng trên cơ sở sáng kiến của một số người khác. Nhiều nhà địa chất học và hải dương học, chẳng hạn hai học giả Mỹ Bill Ryan và Walt Pitman, đã xem những thần thoại hồng thủy là sự thực tiền sử và đã bắt đầu nhận ra tầm mức khác thường của những đợt biển dâng hậu kỳ Băng Giá tại Hắc Hải cũng như tại vài nơi khác. Các nhà khảo cổ ở Hương Cảng và ở Mỹ như William Meacham và Wilhelm Solheim gần đây đã ra công quảng bá ý kiến cho rằng tổ tiên của cư dân Ða Ðảo và Nam Dương hiện nay thực ra đã sống ngay trên vùng lục địa bị ngập của Ðông Nam Á chứ không phải đã thiên di từ Trung Quốc như nhiều nhà ngữ sử học vẫn tưởng. Trong khoảng một trăm năm qua có nhiều học giả khác cũng từng cho rằng quê hương của người Ða Ðảo phải ở về phía nam và đông của Trung Quốc. Còn chuyên gia nhân chủng kiêm nhà nghiên cứu phốt-cơ-lo người Tô-cách-lan lừng danh, Ngài James Frazer, vào đầu những năm 1900 đã chỉ ra hàng trăm chỗ tương tự giữa nhiều thần thoại ở Âu châu và ở Á châu; trong phần hai của sách lập luận của tôi sẽ căn cứ vào một số những thần thoại này (tr. XIII-XIV)
Tuy nhiên, riêng phần tôi cũng có đề xuất vài ý kiến mới. Tôi tin rằng tôi là người đầu tiên chủ trương rằng Ðông Nam Á là nơi xuất phát của những yếu tố của văn minh Tây phương. Thứ đến, những chứng cứ di truyền học mà tôi sẽ trình bày cho thấy những người nói tiếng Ða Ðảo đã bắt đầu thiên di ra khắp Thái Bình dương từ vùng Ðông Nam Á, chứ không phải từ Trung Quốc. Và sau cùng, cố gắng phân tích những chỗ móc nối về phốt-cơ-lo của tôi - dựa trên công trình tiền phong của Frazer – thiết tưởng có giá trị khẳng định mối liên hệ Ðông-Tây, đồng thời cung cấp một cơ sở luận lý cho ý nghĩa nguyên thủy của nhiều thần thoại và phốt-cơ-lo Tây phương (tr. XIV)
Dẫn nhập chung
Ðông Nam Á (ÐNÁ) là một trong những khu vực văn hóa phong phú nhất, cổ nhất và đa dạng nhất trên thế giới. Vậy mà các sử gia đã nghiễm nhiên giả định rằng văn hóa ÐNÁ chỉ là một loại con thứ của hai nền văn minh lục địa lớn ở Á châu là Ấn Ðộ và Trung Quốc. Quan điểm khinh thị dễ dãi ấy không công bằng và mâu thuẫn với rất nhiều chứng cứ về độ cổ xưa và mức tinh tế độc đáo của vùng đất này (tr. 1)
ÐNÁ về văn hóa đa dạng lạ lùng như thế, nên tôi không khỏi kinh ngạc trước hiện tượng thiếu hẳn tò mò về nguồn gốc của những nền văn minh độc đáo nơi đây. Một ví dụ ở Tây phương về khuynh hướng thiên vị văn hóa có thể thấy trong thái độ khi khám phá ra một ngữ hệ mới. Hai trăm năm trước, người ta bỗng nhận biết đa số các ngôn ngữ ở Ấn Ðộ và ở Âu châu đều thuộc vào một ngữ hệ duy nhất, nay gọi là nhóm ngôn ngữ Ấn - Âu. Hiểu biết này được kể là một trong những thành quả trí tuệ lớn nhất đương thời. Nỗ lực tìm hiểu lại mình mà nó làm nảy nở còn được xem là đã đóng góp quan trọng vào phong trào Lãng mạn. Trong khi ấy, việc khám phá ra nhóm ngôn ngữ Nam Ðảo vài năm trước đó lại không hề gây được chút chú ý nào cho mãi đến thập kỷ 1970. Những thứ tiếng nói đã lan xa tận Madagascar, tận đảo Easter, lan tới Ðài Loan, Hawaii và Tân Tây Lan đều thuộc vào cùng một ngữ hệ với các ngôn ngữ ở ÐNÁ. Chúng đã lan khắp Thái Bình dương và có lẽ khắp Ấn Ðộ dương trước khi Phật ra đời (tr. 3-4)
Sách về nguồn gốc của các nền văn minh trên thế giới tránh hẳn vùng ÐNÁ. Ghi chép về các nước trong khu vực thường chỉ dành vài dòng cho phần tiền sử và tập trung vào những nền văn hóa chịu ảnh hưởng Ấn Ðộ và Trung Quốc trong vòng 2000 năm qua và sau đó là những thời kỳ thuộc địa. Cho mãi đến gần đây, hầu như chỉ có văn hóa đồ đồng Ðông Sơn và những tiền thân của nó ở Việt Nam trong thiên kỷ -1 là nền văn minh phức tạp sớm duy nhất được xem là nội sinh. Các nhà nhân địa học (1) có để ý cư dân các đảo ở Thái Bình dương có những tín ngưỡng cổ xưa, mang tính hoặc tôn giáo hoặc pháp thuật hoặc thần thoại, khá giống tín ngưỡng ở Âu châu và Cận Ðông. Họ điển hình giả định đấy là do ảnh hưởng từ Tây sang Ðông. Mặc dầu không hề có chứng cứ gì về một dòng chảy như thế trước khi người Âu châu bắt đầu đi thám hiểm thế giới mới tương đối gần đây (tr. 4)
Về quan điểm lệch lạc (2) này, có những nguyên nhân khác ngoài thái độ kiêu ngạo về văn hóa. Thứ nhất, ở ÐNÁ, ngoại trừ trường hợp Thái Lan và Việt Nam, các nhà khảo cổ chỉ mới “gãi” qua những địa điểm khảo cổ Thời Ðá Mới và Thời Ðồ Ðồng đã phát hiện. Thứ hai, là tình trạng thiếu hẳn những văn kiện đọc được thuộc vào thời tiền-Ấn. Thứ ba, có lẽ quan trọng hơn cả, là sự kiện rất có thể hầu hết những địa điểm đáng chú ý nhất trong vùng hiện nay lại đang nằm sâu dưới nước (tr. 4)
Nhiều khám phá khảo cổ mới đây đã làm lung lay định kiến rằng khu vực này là do Trung Quốc và phương Tây khai hóa. Nông nghiệp có hệ thống đã bắt đầu ở Nam Dương rất lâu trước khi xuất hiện ở Cận Ðông, nơi ta quen nghĩ là cái nôi của cuộc Cách Mạng Ðá Mới ở Cựu Thế Giới. Ở Nam Dương đã tìm thấy bằng chứng là việc trồng khoai mỡ và khoai môn dại (wild yam and taro) khởi sự trong khoảng năm -15000 đến năm -10000. Hơn nữa, việc trồng lúa rất có thể đã diễn ra ở vùng bán đảo Thái Lan trong thiên kỷ -6 hay -7, tức sớm hơn ở Trung Quốc nhiều (tr. 4)
Di vật Thời Ðại Ðồng có niên đại sớm bất ngờ đã được tìm thấy ở các địa điểm mộ táng ở Ban Chiang, ở nam Thái Lan và ở Phùng Nguyên thuộc bắc Việt Nam. Tuổi ước lượng cho những địa điểm này chưa đạt nhất trí, nhưng mới đây một số niên đại C14 đáng tin cậy từ những mảnh trấu còn dính trong nồi cho thấy ở Ban Chiang vào đầu thiên kỷ -2 Thời Ðại Ðồng đã bắt đầu. Có hai niên đại sớm đặc biệt - một khoảng gần 5000 năm cách ngày nay và một nữa khoảng gần 6000 năm cách ngày nay. Hai số liệu sau, nếu chính xác, sẽ là sớm ngang với ở những địa điểm Cận Ðông cổ nhất, và tức là sớm hơn ở Trung Quốc (tr. 4-5)
Như tôi sẽ trình bày chi tiết trong phần II của sách này (chương 8-16), có bằng chứng cho thấy một nền văn minh cổ vô danh nào đó đã kích thích sự phát triển ở vùng bờ biển tây bắc của Ấn Ðộ Dương (...) Cả (...) Ai Cập và Sumer cũng đều có cổ tích và chứng cứ về ảnh hưởng từ phương Ðông vào thời sơ khai (tr. 8)
Nhiều nhà khảo cổ đã đề xuất có ảnh hưởng Ðông phương ở Ai Cập vào thời tiền-Triều trước năm -3000 (...) Do thiếu chọn lựa nào khác, người ta thường cho rằng ảnh hưởng từ phương Ðông này xuất phát từ khu vực Lưỡng Hà. Nhưng liên hệ giữa Lưỡng Hà và Ai Cập thực ra nặng tính anh-em hơn mẹ-con. Cổ thư Ai Cập Book of the Dead, vốn được xem là chứa nhiều tư liệu thuộc thời tiền-Triều, nhắc đến phương Ðông 16 lần, chủ yếu bằng một giọng khiếp sợ (tr. 8-9)
Ở Lưỡng Hà, những câu nói liên hệ đến ảnh hưởng Ðông phương còn rõ ràng hơn. Nổi tiếng hơn cả là những lời trong Kinh Thánh, vốn dựa vào các văn bản Sumer cổ. Theo Sáng Thế Ký (Genesis), Ðịa Ðàng ở phương Ðông. Sáng Thế Ký chép: “khi con người thiên di từ phương đông, họ gặp một đồng bằng (...) tên Shinar (Sumer) và họ định cư ở đó.” Họ xây tháp Babel và rồi gặp nạn bất đồng ngôn ngữ (tr. 9)
Về mặt ngữ học, người Sumer không giống ai khác trong khu vực. Họ nói một thứ tiếng “kết dính” (agglutinative) không có liên hệ gì với ngôn ngữ của các láng giềng Ấn-Âu hay Semitic xung quanh (...) Ða số học giả cho rằng người Sumer đến từ một nơi nào đó ở phía đông, và họ đã thạo dùng thuyền buồm, nhưng nơi ấy ở đâu thì ý kiến vẫn chưa thống nhất. Hiện nay có bằng chứng từ nhiều nguồn cho thấy đã có một đợt biển dâng lớn trước khi người Sumer thiên di đến Lưỡng Hà (tr. 9)
Vào cao điểm của Thời Ðại Băng Giá cách nay khoảng 18 đến 20 ngàn năm, ÐNÁ là một lục địa lớn gấp đôi Ấn Ðộ, gồm những vùng đất bây giờ ta gọi là bán đảo Ấn-Trung, nước Mã Lai Á, và nước Nam Dương. Biển Nam Hải, vịnh Thái Lan và biển Java, khi ấy đều khô ráo, nối tất cả lại với nhau. Về mặt địa chất, ÐNÁ bấy giờ được gọi là thềm Sunda (...) Sau Thời Ðại Băng Giá, thềm Sunda mất đi một diện tích tương đương với cả nước Ấn Ðộ (...) Một dải đất khổng lồ khác ở bờ phía đông châu Á cũng bị dìm sâu dưới nước. Giữa Hàn, Nhật, Trung Quốc và Ðài Loan trước là đất nay là Hoàng Hải (3) và Ðông Hải (4). Vào Thời Ðại Băng Giá, những bến cảng dọc ven biển phía nam của Trung Quốc bây giờ, như Hương Cảng, vốn ở sâu hàng trăm dặm trong nội địa (tr. 10)
Sách này bàn về khả năng khi biển bắt đầu dâng lớn lần sau cùng cách nay khoảng từ 7500 đến 8000 năm thì đợt cuối trong diễn tiến thiên di khỏi thềm Sunda cũng khởi sự. Ðã xảy ra nam thiên về phía châu Úc, đông tiến vào khu vực Thái Bình Dương, tây tiến vào Ấn Ðộ Dương và bắc tiến vào nội địa châu Á. Hậu duệ của nhóm đông tiến, hiện sinh sống trên các nhóm đảo Melanesia, Polynesia và Micronesia, nói những thứ tiếng thuộc ngữ hệ Nam Ðảo, tức cùng ngữ hệ với các thứ tiếng nói của cư dân vùng ÐNÁ hải đảo. Khi di tản bằng thuyền biển lớn nhóm này có chở theo gia súc và một số cây thực phẩm. Trong nhóm di tản về hướng tây có kẻ đem kỹ thuật trồng lúa vào Ấn Ðộ. Những cư dân ở phía bắc thềm Sunda chạy lên vùng đất sau được gọi là bán đảo Ấn-Hoa và lên châu Á nội địa, lập ra những văn hóa phức tạp ở tây nam Trung Quốc, ở Miến Ðiện và Tây Tạng. Một số di vật rực rỡ của những nền văn minh cổ xưa này nay chỉ mới bắt đầu được khám phá (tr. 10)
Trong tất cả các cuộc di tản vừa giả thiết, những kẻ tỵ nạn về phía đông, phía Thái Bình Dương, chắc đã giữ được văn hóa nguyên thủy toàn vẹn hơn cả. Từ ấy cho đến lúc người Âu sang, họ luôn sống tương đối cách biệt với thế giới bên ngoài (...) Những du khách đầu tiên như thuyền trưởng Cook trong thế kỷ 18 đã không khỏi chú ý đến tình trạng xã hội nhiều đẳng cấp phức tạp và năng khiếu hải hành đặc biệt của họ. Tài đi biển cần thiết cho sinh tồn, còn xã hội giai cấp dường như muốn nói lên một quá khứ huy hoàng (tr. 11)
Ðời sống tinh thần của người Ða Ðảo tràn ngập thần thánh. Trong tất cả các nhóm Thần Mặt Trời luôn luôn đứng đầu và trong vài nhóm được gọi là Ra, y như ở Cổ Ai Cập. Hầu như không ngoại lệ, huyền thoại của họ đều nhắc đến một thứ địa đàng ở về phía tây hay tây bắc (...) Ðiều tôi đề xuất ở đây là những bước phát triển này (5) đã xảy ra ở Ðông Nam Á trước ở Tây Á, và khi di tản cư dân ÐNÁ đã đem sáng kiến của mình theo mà kích thích sự phát triển của các nền văn hóa Ðá Mới ở Trung Quốc, Ấn Ðộ, Lưỡng Hà, Ai Cập và Crete (tr. 11)
Giới thiệu phần I
(...) Trong nửa thứ nhất này của sách, để chứng minh giả thuyết Chạy Lụt tôi sẽ dùng bốn phương pháp quen thuộc của nhà tiền sử là địa chất học, khảo cổ học, ngôn ngữ học và di truyền học. Khi tổng hợp nên giả thuyết, tôi biết rằng có một số yếu tố hoàn toàn chắc chắn, một số khác là những khám phá mới nhưng đã ổn định, và một số khác nữa còn mang tính phỏng đoán và đang gây nhiều tranh luận (tr. 17)
Ðể làm mọi việc đơn giản, tôi sẽ bắt đầu với những tư liệu đã ổn định về các trận lụt (...) Trong hai mươi năm qua ngày càng có thêm nhiều bằng chứng cho thấy việc biển dâng sau Thời Ðại Băng Giá đã không diễn ra từ từ; ba lần băng sụp thình lình, lần cuối cách nay chỉ 8000 ngàn năm, đã gây thảm họa ở những bờ biển nhiệt đới có thềm lục địa phẳng (...) Ðiều chưa biết chắc chắn là ảnh hưởng cụ thể của những biến cố kinh hoàng này đối với cư dân ở Ðông Nam Á và các vùng duyên hải thuộc khu vực Ấn Ðộ - Thái Bình dương (tr. 17)
Hồ sơ hải dương cho thấy biển đã dâng ít nhất 120 mét trong ba trận lụt, bắt đầu cách nay khoảng 14000, 11500 và 8000 năm. Thời kỳ biển dâng nhanh này dẫn đến ba hệ quả liên hệ đến bằng chứng sinh hoạt loài người. Thứ nhất, ở ÐNÁ và Trung Quốc, nơi có thềm lục địa phẳng, mọi thứ bằng chứng về sinh hoạt ở các vùng duyên hải và vùng đất thấp cận duyên trước 8000 năm trước giờ đều nằm sâu dưới nước. Thứ hai, trong đợt biển dâng thứ ba và chót, nước đã lan rộng khắp thềm lục địa, và chỉ mới bắt đầu rút cách nay khoảng 5500 năm. Những khu định cư mới lập ra trong khoảng thời gian giữa biển tiến (lần 3) và biển lùi nay đều bị lấp dưới phù sa (...) Thứ ba, cư dân những vùng lụt tất nhiên phải di tản, đem theo mọi thứ sáng kiến qua nơi khác (tr. 18)
Những hệ quả đoán được này có để lại vết tích trên lịch sử cuộc Cách Mạng Ðá Mới ở khu vực Á - Âu. Những nước ở về phía bờ Thái Bình của châu Á dường như đã bắt đầu cách mạng khá lâu trước phía Tây, nhưng dường như đã dừng lại. Cách nay khoảng 12500 năm, không lâu sau trận lụt thứ nhất, đồ gốm xuất hiện ở phía nam nước Nhật. Khoảng 1500 năm sau đó có bằng chứng gốm xuất hiện ở Trung Quốc và bán đảo Ấn-Trung. Những niên đại gốm này sớm hơn niên đại gốm ở các khu vực Lưỡng Hà, Ấn Ðộ hay Ðịa Trung Hải từ 2500 đến 3500 năm. Ðá dùng để mài ngũ cốc hoang đã có mặt ở các đảo Solomon thuộc tây nam Thái Bình Dương 26000 năm trước, trong khi cư dân ở Thượng Ai Cập và Nubia dường như mới biết dùng cách nay khoảng 14000 năm, còn ở Palestine thì chỉ mới 12000 năm (tr. 18-19)
(...) Ở Cận Ðông (...) nồi gốm - thứ di vật bền bỉ ưa thích của các nhà khảo cổ - xuất hiện (...) 1000 năm sau nông nghiệp (...) Có quái lạ không, khi dường như cư dân ở Nhật, Trung Quốc và bán đảo Ấn-Trung biết làm nồi hàng mấy ngàn năm rồi mới biết trồng lúa! Tại sao có hiện tượng kỳ dị này? (tr. 19)
Do lụt, bằng chứng nông nghiệp sớm ở các vùng duyên hải nay hẳn đang chìm sâu dưới biển (tr. 20)
Tình trạng gần như trống không của tiền sử Ðá Mới ở ÐNÁ dẫn đến hai quan điểm khảo cổ đối chọi nhau. Một bên - bên đa số - chủ trương thời đại Ðá Mới ở ÐNÁ hải đảo bắt đầu có lẽ cách nay chỉ mới khoảng 4000 năm, do di dân xuống từ Trung Quốc thông qua Ðài Loan và Phi Luật Tân. Bên kia, trong đó có tôi, cho rằng tổ tiên của người ÐNÁ hiện đại đã sống ngay tại đó vào cuối Thời Ðại Băng Giá và chẳng những đã phát triển kỹ thuật hải hành và nông nghiệp sớm hơn dân Cận Ðông mà hơn 7000 năm trước còn đã bắt đầu chèo thuyền đi khắp Thái Bình dương và ghé khắp bến thuộc châu Á (tr. 20)
Chứng cứ sau cùng, và có lẽ nhiều sức thuyết phục hơn cả - về sự việc cư dân hiện tại của Ðông Nam Á vốn vẫn ở đấy từ Thời Ðại Băng Giá, rồi bắt đầu tứ tán khi biển dâng - nằm ngay trong những cái dzen trong người họ (xem chương 6 và 7). Những mốc dzen (gene markers) đặt thổ dân ÐNÁ ở ngay dưới gốc của những chủng hệ Á châu và cho thấy họ đã lang thang khắp bốn phương đến tận châu Mỹ và khu vực Trung Ðông. Một mốc đặc biệt - gọi là “đồ án Ða Ðảo” (“Polynesian motif”) vì tìm thấy ở quá nhiều người Ða Ðảo - xuất phát từ cư dân vùng đảo Maluku (Moluccas) ở đông Nam Dương trong Thời Ðại Băng Giá. Sự kiện cái mốc này đến nay vẫn chưa tìm thấy ở Trung Quốc, Ðài Loan hay Phi Luật Tân mâu thuẫn với thuyết đa số và gợi lên một tiền sử ÐNÁ xưa cũ hơn nhiều (tr. 20-21)
Giới thiệu phần II
Tôi tin rằng Ðông Nam Á là trung tâm sáng kiến sau Thời Ðại Băng Giá và rằng chính việc gieo rắc những sáng kiến này đã dẫn đến những bước nhảy vọt về kỹ thuật ở các nơi khác. Người Nam Ðảo có thể đã góp kỹ thuật hải hành, pháp thuật, tôn giáo, thiên văn học, khái niệm đẳng cấp và khái niệm vua. Người nói tiếng Nam Á có thể đã góp những sáng kiến thực tế hơn như việc trồng ngũ cốc, và cả nghề luyện đồng (tr. 221)
Những đợt di cư này tỏa ra từ hai trung tâm chủng-ngữ (ethno-linguistic) trên thềm Sunda cũ - quê hương của người Nam Ðảo ở đông Nam Dương quanh vùng Sabah, Sulawesi và Maluku, và quê hương của người Nam Á trên vùng đất nay là một phần của Biển Đông (VN) (tr. 222)
(...) những móc nối văn hóa có nguồn gốc cổ xưa nhất giữa ÐNÁ và Cận Ðông là những cái không lấy tay sờ được nhưng vẫn nằm bền bỉ trong phốt-cơ-lo (...) nội dung câu chuyện có thể sống lâu hơn tất cả những thứ ngôn ngữ đã được dùng để kể nó (tr. 224)
(...) chúng ta sẽ xem xét những thần thoại cốt lõi khác của truyền thống văn hóa Tây phương được chép bên cạnh thần thoại lụt trong mười chương đầu của Sáng Thế Ký (...) cho mỗi câu chuyện gốc ở Tây phương chúng ta lại tìm thấy một cội nguồn Ðông phương và một cách giải thích hợp lý hoặc từ Maluku hoặc từ bán đảo Ấn-Trung. Theo nhiều học giả trong thế kỷ này, cái bản chất kỳ dị, phức tạp và khó xảy ra của huyền thoại Tây phương hẳn đã trồi lên từ những đáy sâu của tiềm thức. Theo sự phân tích của tôi thì những đặc điểm ấy lại bắt nguồn từ một số ý đơn giản và cơ bản rất có thể đã xuất phát từ ÐNÁ rồi được kết hợp đi kết hợp lại đến khi biến thành những huyền thoại vừa rối rắm vừa huy hoàng được chép lại lần đầu trên những con dấu và thẻ ở Lưỡng Hà vào buổi bình minh của lịch sử (tr. 225)
Lời kết
(...) có bằng chứng là 8000 năm trước ở một số vùng cao thuộc Sumatra và Java đã từng có những khoảnh rừng lớn bị dọn trống (tr. 476)
(...) Wilhelm Solheim cho rằng những cư dân sớm của ÐNÁ hải đảo vào lúc này đã biết trồng củ, thuần hóa thú, thu hoạch cây và thạo nghề đi biển. Rất có thể họ đã nói những thứ tiếng tiền thân của tiếng Nam Ðảo sau này (...) Họ có thể đã hoàn chỉnh một mạng lưới mậu dịch đường biển tỏa lên tận Nhật và Hàn 7000 năm trước (...) Họ hàng của họ, rất có thể đã nói tiếng Nam Á, định cư trên ÐNÁ lục địa tách biệt hẳn với họ và có để lại di vật. Từ lâu vẫn bị tưởng nhầm là còn ở thời kỳ săn bắn - hái lượm, những người Hòa Bình và Bắc Sơn thực ra đã thạo các nghề định cư như trồng củ, trồng lúa và làm nồi gốm (tr. 476)
Tôi đã dành phần lớn chương I vào cố gắng thuyết phục rằng người Nam Ðảo đã đông tiến vào Thái Bình dương sớm hơn, khoảng hơn 6000 năm trước. Cố gắng ấy có mục đích cụ thể. Mặc dầu việc tiến vào Thái Bình dương không liên hệ trực tiếp với tình hình văn hóa lan tỏa từ Ðông sang Tây, vấn đề thời điểm sẽ làm đảo lộn hết quan điểm cổ điển về tiền sử ÐNÁ. Nói đơn giản, giả thuyết phổ thông hiện nay về một “chuyến xe lửa tốc hành từ Trung Quốc ra Ða Ðảo” tùy thuộc vào một niên đại trễ cho chuyến xe ấy, tức mới khoảng năm -1500. Nếu chuyến xe thực ra chẳng những đã không bao giờ đến gần Trung Quốc mà đã rời ÐNÁ ngay sau trận lụt chót, thì sẽ hoàn toàn hợp lý khi giả sử rằng có một số kẻ phiêu lưu khác đã dong buồm thẳng về hướng tây cũng vào thời ấy (tr. 476)
Hồ sơ khảo cổ về những thành tựu của phương Ðông tiền sử gồm nhiều khoảng trống hơn là sự kiện, nhưng nó chứa những mảnh vụn gợi nhiều mất mát hơn phương Tây vẫn tưởng. Vài trong số những mảnh sớm nhất là những thuyền nhân đã đến các đảo Solomon gần 30000 năm trước, những món đồ gốm làm ở Nhật 12500 năm trước, những cư dân vùng cao ở New Guinea từng tháo cạn nước đầm lầy để trồng khoai môn 9000 năm trước, những niên đại trồng lúa sớm bất ngờ ở bán đảo Mã Lai mang ý nghĩa rất có thể chính dân nơi đây sau đó đã đem nông nghiệp lúa vào Ấn (tr. 476)
Trên lục địa châu Á, từ cuối trận lụt chót, chúng ta bắt đầu thấy những khu định cư Tân Thạch “mới” dọc theo duyên hải phía đông và nam của Trung Quốc và ở Việt Nam. Nhưng những nhà khảo cổ Ðông phương nhạy bén đã nảy ra ý thử nhìn bên dưới lớp phù sa mới đắp trên những dải đất ven biển bằng phẳng này, và quả nhiên họ tìm thấy dấu vết những văn hóa Tân Thạch sớm hơn, trước lụt. Ở Thái Lan và Việt Nam từ thiên kỷ -5 cũng bắt đầu thấy xuất hiện những khu định cư trong nội địa, chẳng hạn ở Ban Chiang. Có lẽ cư dân ở đây là dân sống ven biển chạy lụt (...) Nền văn hóa San Xing Dui ở Trung Quốc (tỉnh Tứ Xuyên), thuộc Thời Ðại Ðồng và có niên đại cách nay khoảng 3200 năm, cũng có nhiều móc nối văn hóa với ÐNÁ hải đảo hơn là với Hoa Bắc (tr. 477)
Về bằng chứng đã xảy ra chuyện thiên di về hướng tây, chúng ta có thể dẫn ngay sự hiện diện của người Munda ở trung Ấn, tại những nơi tìm thấy dấu vết trồng lúa đầu tiên, có lẽ khoảng 7000 năm trước. Người Munda có liên hệ cả về chủng tộc lẫn ngôn ngữ với những người Môn--Khơ-me ở Ðông Dương, và dù cách biệt nhau hàng ngàn ki-lô mét và hàng ngàn năm, vẫn dùng chung nhiều từ thuộc văn hóa lúa cũng như một số thuật ngữ thời đồng đỏ - đồng pha. Ðiều này có thể là chứng cứ khi tây tiến họ đã đem theo một văn hóa đã định hình (tr. 478)
Chúng ta cũng đã tìm thấy móc nối về di truyền và ngôn ngữ giữa những thuyền nhân Nam Ðảo với một số dân tộc ở miền nam Ấn. Tuy liên hệ về ngôn ngữ ở đây kém hiển nhiên so với tình hình ở phía bắc, những mốc dzen cổ xưa rõ ràng dẫn ta về vùng ÐNÁ hải đảo. Có thể những vị khách lạ đầu tiên từ phương đông chính là giống người Naga huyền thoại từng du nhập gia vị và tục thờ rắn (tr. 478)
(...) Những mốc dzen này tương ứng với một độ da dạng cao, do đó cho ta biết di dân đã ở lại lâu dài tại Nam Á. Một số mốc độc đáo khác trong nhóm dzen globin lại cho thấy một dòng chảy từ Ðông sang Tây xuyên qua Ấn Ðộ mà đến tận Lưỡng Hà (tr. 479)
(...) Mốc dzen cũng bắc hành lên tận vùng nồi nấu dzen (genetic melting pot) ở chân núi phía đông của Hy Mã Lạp Sơn. Hiện tượng này củng cố lập trường cho rằng dân hỗn tạp ở đây là những kẻ tỵ nạn ngược sông từ phương nam chứ không phải là những tiền nhân của một cuộc phân tán từ Tây Tạng. Bức tranh di truyền như thế vẽ nên một cuộc phân tán cổ xưa từ ÐNÁ ra khắp bốn phương theo với nước lụt (tr. 479)
Cá nhân tôi cho rằng mặc dầu đã có xảy ra chuyển giao kỹ thuật lớn lao (từ Đông sang Tây) trong một thời gian dài, những bài học mới quan trọng nhất từ phương Ðông là (...) làm cách nào dùng đẳng cấp, chính trị, pháp thuật và tôn giáo để khống chế thành quả lao động của kẻ khác (tr. 483)
(...) Ở Ai Cập và Lưỡng Hà những nhà cai trị đầu tiên đều hoặc là thần thánh hoặc là chức sắc, và đều được sự ủng hộ của một giai cấp chức sắc. Vào một thời điểm nào đó, ai đó đã nảy sáng kiến biến thiên văn học - vốn là thứ kiến thức thực dụng trong nông nghiệp và hải hành mà người Ðông phương nhất định đã thành thạo - thành khoa “chiêm tinh” nhằm lung lạc quần chúng (...) Các chiêm tinh gia ở Lưỡng Hà đã đoán hậu vận bằng cách xem xét bộ lòng của một con thú, y như hiện nay người ÐNÁ, từ dân quê đến bậc vương giả, vẫn còn làm (tr. 484)
(...) Ở Anh quốc, “biết chỗ đứng của mình” mới cách nay vài thập kỷ hãy còn là cơ bản trong sinh hoạt xã hội. Vậy mà cái cơ cấu giai cấp đè nặng lên nước Anh hơn bất kỳ nước nào khác ở Âu châu vẫn chưa là gì so với những hệ thống đẳng cấp hiện vẫn tồn tại trong những xã hội Nam Ðảo truyền thống từ Madagascar đến Bali đến Samoa. Tiếng Bali vẫn bảo lưu nhiều danh hiệu giúp người tầng lớp này xưng hô với tầng lớp khác cho đúng cách. Từng ngôi làng ở Samoa vẫn còn quý tộc. Cái ám ảnh giai cấp này như thế rõ ràng không phải là một tập tục mà người Nam Ðảo mới học lại từ người Ấn (tr. 484)
Cuộc hành trình đi tìm quá khứ mà tôi vừa thuật lại bắt đầu từ một câu nói tình cờ của một cụ già trong một ngôi làng Thời Ðại Ðá ở Papua New Guinea. Từ những thắc mắc chuyên môn về tình hình dzen và bệnh sốt rét trên hòn đảo ấy, tôi đã đi đến nhận thức rằng những trận lụt hậu kỳ Băng Giá đã làm những cư dân biết trồng trọt và biết đi biển vốn sống ven biển ở ÐNÁ phải tẩu tán khắp bốn phương, đến đâu gieo mầm văn hóa đến đấy. Âm vang của những đợt thiên di này vẫn còn nghe thấy được ở phương Tây trong những văn bản cổ như Huyền thoại Gilgamesh và mười chương đầu của Sáng Thế Ký. Một số ý chính của cổ thư vẫn bàng bạc khắp toàn bộ văn chương kinh điển tự cổ chí kim (tr. 485)
Và những gì còn lại ở Ðông Nam Á ngày nay chỉ có thể giúp ta nhìn thoáng thấy Ðịa Ðàng đã mất (tr. 485)
Văn Hóa Lương Chữ Trải Khắp Bách Việt
"Kinh Dương Vương cai trị nước Xích Quỷ truyền đến đời Hùng Vương lập
nước Văn Lang với bờ cõi rộng lớn Đông giáp Nam Hải, Tây đến Ba Thục,
Bắc đến Động Đình Hồ, Nam đến nước Hồ Tôn Tinh (Chiêm Thành) chia nước
làm 15 bộ..."
Câu chuyện nói trên tưởng như huyền thoại được ghi trong sách Dã sử Lĩnh
Nam Chích Quái của Trần Thế Pháp (1370-1400) bỗng nhiên được minh chứng
bằng cổ vật thời Đồ Đá Mới, được ông Shi Xingeng đào được ở làng Lương
Chữ (Liangzchu), Chiết Giang vào năm 1936. Từ sự khai quật này các học
giả Hoa Kỳ và Trung Hoa đã gọi tên là Văn Hóa Lương Chữ.
Điều lạ lùng là các cổ vật Lương Chữ đã trải rộng khắp Miền Gió Mùa, gắn
liền với Văn Minh Luá Nước và chăn nuôi gia súc là đất cũ của nước Cổ
Việt (Bách Việt) tương ứng với việc Sử gia Tư Mã Thiên (145 năm trước
Công Nguyên) mô tả "Năm Tân Mão (1109 trước Công Nguyên) đất Việt là
Thương Ngô, Uất Lâm, Hợp Phố, Giao Chỉ, Cửu Châu, Nam Hải, Nhật Nam đều
là phần đất của dân Việt xâm mình, cắt tóc để tránh giao long làm
hại..."
Về Văn Minh Lúa Nước, lý thuyết của Tiến sĩ Madeleine Colani khai quật
thóc hóa thạch ở Hòa Bình Việt Nam từ năm 1920 đến 1927 nói rằng nền Văn
Minh Hòa Bình có từ hàng ngàn năm trước Công Nguyên.
Lý thuyết của Colani tiếp đó được Tiến sĩ Solheim II của Đại Học Hawaii
của Hoa Kỳ xác nhận năm 1971 là Văn Minh Hòa Bình có từ 15 ngàn năm
trước Công Nguyên; hai nền Văn Hóa Long Sơn (Longshan) và Ngưỡng Thiều
(Yangshao) đều có gốc ở Văn Hóa Hòa Bình.
Trung Quốc Đã Bị Đồng Hóa Ngược Như Thế Nào Trên Đất Việt Nam Sau 1000 Năm Bắc Thuộc
Đặt lại vấn đề Nguồn gốc Dân tộc và văn minh Việt Nam
Hỏi một người Việt bình thường về nguồn
gốc dân tộc Việt Nam, câu trả lời mà người ta thường nghe là tổ tiên
của chúng ta xuất phát từ Trung Quốc. Ngay cả người có kiến thức rộng,
có quan tâm đến dân tộc và văn hóa Việt cũng có những ý kiến tương tự.
Đào Duy Anh, trong Việt Nam Văn hóa Sử cương; và Trần Trọng Kim, trong
Việt Nam sử lược, cũng từng cho rằng người Việt có nguồn gốc hoặc từ
Trung Quốc [1] hay từ Tây Tạng [2] dù họ có chút dè dặt và thận trọng
trong phát biểu. Gần đây, một người làm chính trị nhưng có quan tâm đến
văn hóa Việt Nam, Nguyễn Gia Kiểng, trong Tổ quốc ăn năn, cũng cho rằng
nước Văn Lang xưa kia là do người Trung Quốc sáng lập [3] ra.
Bản đồ Đông Nam Á vào thời đại Băng Hà
Có lẽ cái quan điểm dân tộc Việt có nguồn
gốc từ Trung Quốc đã ăn sâu vào tâm trí của chúng ta, nên văn minh Việt
Nam cũng được nghiễm nhiên suy luận là bắt nguồn từ văn minh Trung
Quốc. Quan điểm này phù hợp với sách vở của Trung Quốc.
Chẳng hạn như trong Hậu Hán thư , các sử gia của Trung Quốc, với một
giọng văn cực kỳ trịch thượng và kỳ thị chủng tộc, viết rằng tổ tiên ta
ngày xưa giống như loài “cầm thú”, xã hội thì chẳng có tôn ti trật tự gì
cả, phải đợi đến khi hai quan thái thú của họ là Tích Quang và Khâm
Diên dạy cho tổ tiên ta cách ăn mặc và cách trồng lúa. Sau đó các nhà sử
học này thản nhiên kết luận: “Miền Lĩnh Nam theo phong hóa Trung Quốc là bắt đầu từ hai thái thú ấy” [4].
Điều thú vị [hay đáng trách] là nhận xét này đã được giới có học của Việt Nam tiếp
nhận và lấy làm một thứ kinh điển, một câu văn giáo khoa, mà không có
một chất vấn tính trung thực, hay thách thức tính khoa học của nó [5].
Tính dễ dãi chấp nhận sử liệu ngoại bang của giới có học người Việt đã
vô tình gieo vào lòng nhiều người Việt một tâm lý tự ti, đánh giá thấp
nền văn hóa Việt Nam khi so sánh với các nền văn hóa khác, như của Trung
Hoa chẳng hạn. Đại diện cho sự đánh giá thấp này thì có nhiều, nhưng
một câu phát biểu trong Tổ quốc ăn năn của Nguyễn Gia Kiểng tưởng tóm
lược khá đầy đủ: “[…] chúng ta có lẽ là nền văn minh phù sa muộn
nhất. […] dấu ấn của nền văn minh phù sa: cần cù, nhẫn nại, nhưng thủ
cựu, thiếu sáng kiến và thiếu óc mạo hiểm. […]” [6] . Từ nhận định
đó, tác giả của TQĂN cho rằng tổ tiên của chúng ta qua nhiều ngàn năm,
tuy sống bên cạnh biển, mà chỉ nhìn biển với cặp mắt sợ hãi, không sáng
chế ra ra kỹ thuật hàng hải nào cả.
Thực ra, chẳng riêng gì giới trí thức
Việt Nam, ngay cả một phần lớn trong giới sử học Tây phương cũng từng
quan niệm, hay nói đúng hơn là giả định, rằng các nền văn minh Đông Nam Á
(kể cả của Việt Nam) chỉ là những chi nhánh của hai nền văn hóa lớn
hơn: Trung Hoa và Ấn Độ. Giả định này đã được dùng như là một sử liệu, một thuyết đáng tin cậy để dạy học cho học sinh
(trong đó có cả học sinh người Việt); và một cách vô tình, nó được lưu
truyền hết thế hệ này sang thế hệ khác như là một sự thật! Bởi vì qua
nhiều năm, chẳng ai chất vấn lý thuyết này, nên một cách nghiễm nhiên,
nó được xem là một “thuyết chính thống.”
Mãi đến thập niên 60s thuộc thế kỷ 20,
một số nhà khảo cổ học rất uy tín (phần lớn là Mỹ), dựa vào nhiều kết
quả của một loạt nghiên cứu ở Việt Nam và Thái Lan, đã bắt đầu chất vấn
sự chính xác và tính logic của thuyết chính thống trên đây [7]. Có thể
nói họ là những “con cừu đen” trong giới tiền sử học, vì đã can đảm
thách thức một quan điểm mà đại đa số đồng nghiệp đều mặc nhiên công
nhận. Nhưng họ không phải là những người đơn độc. Gần đây, đã có một số
nhà nghiên cứu từ Việt Nam, Thái Lan, và Nam Dương công bố nhiều dữ kiện
khảo cổ học cho thấy rằng thuyết văn hóa Đông Nam Á xuất phát từ văn
hóa Trung Hoa và Ấn Độ không còn đứng vững nữa.
Nhưng trong những nhà nghiên cứu chuyên
môn này, chưa ai trình bày dữ kiện một cách có hệ thống và nghiên cứu
một cách sâu xa bằng một nhà nghiên cứu “tài tử” là ông Stephen
Oppenheimer trong cuốn sách “Eden in the East: The Drowned Continent of Southeast Asia”
(tạm dịch là “Thiên đàng ở phương Đông: Lục địa chìm đắm của Đông Nam
Á) [8]. Trong tác phẩm này, qua những dữ kiện dồi dào được thu thập một
cách công phu từ nhiều ngành nghiên cứu khác nhau, Oppenheimer trực tiếp
thách thức cái thuyết chính thống, và làm thay đổi những quan niệm về
thời tiền sử mà chúng ta từng hiểu và từng được dạy. Đặc biệt, cuốn sách
đặt trọng tâm vào việc thẩm định lại các quan điểm về văn minh vào thời
tiền sử ở Đông Nam Á, tác giả cho rằng:
a. Trận đại hồng thủy [9] tương tự như trong Kinh Thánh là có thật và xảy ra vào cuối thời đại Băng hà (Ice Age).
b. Trận đại hồng thủy
này xảy ra khoảng 8000 năm về trước làm chìm đắm lục địa Đông Nam Á, và
làm cho dân chúng phải di tản đi các vùng đất khác để sống. Họ chính là
những người gầy dựng nên nền văn hóa Tân Đồ Đá (Neolithic cultures) của
Trung Quốc, Ấn Độ, Mesopotamia, Ai Cập và vùng đông Địa Trung hải, và do
đó, họ là những người cha đẻ và vun đắp các nền văn minh vĩ đại ở
phương Tây.
c. Những dân tộc thuộc quần đảo Polynesian không phải xuất phát từ Trung Quốc, nhưng có nguồn gốc từ Đông Nam Á.
d. Người Trung Quốc
không phải là người sáng chế ra kỹ thuật trồng lúa. Khoảng 9,000 đến
10,000 năm về trước, một số dân thuộc vùng Đông Nam Á đã là những nhà
canh nông chuyên nghiệp đầu tiên của nhân loại (chứ không chỉ sống bằng
nghề săn bắn), họ đã phát triển kỹ thuật trồng khoai và qua đó làm một
cuộc cách mạng nông nghiệp.
Nói một cách khác cho rõ ràng hơn, qua
công trình nghiên cứu này, Oppenheimer đề xuất một thuyết cho rằng Đông
Nam Á là cái nôi của văn minh nhân loại ngày nay. Thuyết này thể hiện
một thách thức rất lớn đến các tri thức về thời tiền sử đã và đang được
lưu truyền trong giới khoa bảng. Và do đó, Oppenheimer đã, lần đầu tiên,
đặt vùng Đông Nam Á vào vị trí xứng đáng của một vùng đất thường bị
lãng quên bên cạnh hai nền văn minh lớn là Trung Hoa và Ấn Độ.
Vùng đất giàu lịch sử nhưng bị lãng quên
Đông Nam Á là một trong những vùng đất
với nhiều sắc dân và nhiều nền văn minh phong phú nhất và cổ nhất của
nhân loại. Về mặt địa lý, có hai khu vực riêng biệt: một khu thuộc về
đất liền và một khu thuộc về hải đảo. Khu vực đất liền thực ra gồm hai
bán đảo: khu rộng lớn bao gồm Miến Điện (ngày nay gọi là Myanmar) thuộc
hướng Đông Bắc, Thái Lan ở giữa, và Lào, Cam-bốt, và Việt Nam thuộc
hướng Đông và Đông Nam; và khu nhỏ hơn bao gồm bán đảo Mã Lai, chạy dài
từ Thái Lan xuống tận Miến Điện.
Miến Điện có nhiều chùa chiền được kiến
trúc một cách phi thường, nhiều lâu đài được chạm khắc rất tinh vi. Ở
miền Bắc Thái Lan cũng còn lưu lại nhiều công trình kiến trúc vĩ đại
mang đậm ảnh hưởng của Phật giáo. Vịnh Hạ Long thuộc phía bắc Việt Nam
trồi lên những tác phẩm thiên nhiên như được chạm bằng đá vôi, mà có lẽ
từng là một vùng lục địa khoảng mười ngàn năm trước đây. Cổ Loa, một
huyện nhỏ của Việt Nam ngày nay, có lẽ là một trung tâm đô thị (hay một
thành phố) đầu tiên của vùng Đông Nam Á, với niên biểu được ước đoán vào
khoảng niên kỷ thứ ba trước Dương lịch. Những công trình kiến trúc ở
Huế và Đà Nẵng cho thấy sự tương phản giữa hai nền văn hóa Trung Hoa và
Ấn Độ. Thành phố Huế, tuy lâu đời hơn, nhưng có nhiều công trình kiến
trúc trẻ hơn, thành phố Đà Nẵng, nơi mà nhiều tháp Chàm còn lưu lại như
những dấn ấn của văn minh Ấn Độ. Cam-bốt có đền Angkor Wat nổi tiếng, và
nhiều dấu vết của một nền văn minh sáng chói trước đây. Ai là người đã
xây dựng những công trình này? Trong Thiên Đàng ở Phương Đông,
Oppenheimer chứng minh rằng chính những người dân địa phương đã xây
dựng những công trình đồ sộ này. Ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa và Ấn
Độ chỉ qua thương mại, chứ không phải qua xâm lăng.
Với một lịch sử lâu đời và nhiều nền văn
minh phong phú như thế, song Đông Nam Á lại không được các nhà sử học để
ý đến như các vùng đất khác. Đây là một ví dụ về thành kiến của giới sử
học Tây phương. Khoảng 200 năm trước đây, các nhà sử học khám phá rằng
phần lớn hai họ ngôn ngữ Ấn và Âu (Indian và European) thuộc vào một họ
ngôn ngữ mà ngày nay chúng ta gọi là nhóm Ấn-Âu (Indo-European language
group). Khám phá này được đánh giá như là một thành quả vĩ đại của tri
thức vào thời gian đó. Nhưng mỉa mai thay, trước đó vài năm, người ta đã
phát hiện ra một nhóm ngôn ngữ khác, có tên là Austronesian, nhưng
không đem lại một sự chú ý nào đáng kể trong giới khoa bảng Tây phương
cả. Nhóm ngôn ngữ này hiện diện rất rộng, từ các vùng như Madagascar,
Đài Loan ngày nay, Hawaii, và Tân Tây Lan, vượt Thái Bình Dương, đến tận
Ấn Độ dương khá lâu, có thể trước khi Phật Thích Ca ra đời.
Sách viết về nguồn gốc văn minh thế giới
hoàn toàn không đề cập đến Đông Nam Á. Ngay cả khi đề cập đến khu vực
này trong vài năm gần đây, các sách cũng chỉ viết một cách sơ sài vài
hàng, với giọng văn thiếu nghiêm túc, nhưng lại tập trung vào hai nền
văn minh Trung Hoa và Ấn Độ, nhất là vào thời 2000 năm trước đây. Mãi
đến thời gian gần đây, văn minh của Thời đại Đồng thiếc Đông Sơn (Bronze
Age), và các nền văn hóa trước đó (vào niên kỷ thứ nhất trước Dương
lịch) của Việt Nam mới được công nhận như là văn minh nguyên thủy trong
khu vực Đông Nam Á. Tuy nhiên, số lượng nhà khảo cổ học trực tiếp gắn bó
và chuyên môn nghiên cứu về các nền văn minh này vẫn còn rất ít, nếu
không muốn nói là chỉ “đếm đầu ngón tay”. Trong khi đó, các trung tâm
nghiên cứu thuộc các nước trong vùng như Việt Nam, Thái Lan, Nam Dương,
v.v. thì lại bị hạn chế về chuyên môn, lẫn thiết bị và tài chính để làm
có thể tiến hành những nghiên cứu loại tiền phong.
Khoảng trống lịch sử
Có lẽ vì những lí do kể trên, ngành khảo
cổ học, tuy với một bề ngoài mang vẻ chính xác cao, nhưng thực tế thì có
khá nhiều khoảng trống. Khoảng trống lịch sử đáng chú ý nhất là quá
trình tiến hóa sau thời kỳ nước biển bị dâng cao, và đặc biệt là vào
thời kỳ Đồ Đá Mới, khoảng 8000 năm trước đây, nhất là sự lãng quên cho
nền văn minh Đông Nam Á, vì thiếu dữ kiện. Thực vậy, ngoài Việt Nam và
Thái Lan là hai nước có nghiên cứu khảo cổ tương đối trưởng thành và có
khá nhiều dữ liệu gần đây, ở các nơi khác trong vùng, giới khảo cổ học
chỉ mới bới đào phần trên mặt của thời đại Đá mới và Đồng thiếc
(Neolithic và Bronze Age). Cộng thêm vào đó là sự thiếu thốn các văn bản
trong thời tiền sử thuộc vùng đất này cũng làm cho việc nghiên cứu thêm
nhiều khó khăn. Nhưng dù sao đi nữa, so với các vùng khác trên thế
giới, Đông Nam Á vẫn là một địa phương có nhiều thiếu sót về dữ kiện
trong thời tiền sử.
Trong “Thiên đàng ở phương Đông,”
Stephen Oppenheimer đặt một câu hỏi mà ai cũng phải suy nghĩ: người dân
vùng duyên hải Đông Nam Á làm gì khi mực nước biển [10] dâng cao làm
ngập xứ sở họ vào thời gần Thuộc kỷ pleitoxen? Câu trả lời của
Oppenheimer dựa vào ba lý lẽ quan trọng:
i. Thứ nhất,
vào thời cao điểm của Thời đại Băng hà (khoảng 20.000 đến 18.000 năm
trước đây), Đông Nam Á là một lục địa rộng gấp hai lần Ấn Độ ngày nay,
và bao gồm cả phần đất mà người Tây phương thường gọi là bán đảo Đông
Dương, Mã Lai Á và Nam Dương. Vào thời đó, Biển Nam (South China sea),
Vịnh Thái Lan và Biển Java là một vùng đất khô nối liền các khu vực của
lục địa. Theo địa chất học, bán phần của vùng đất bị ngập chìm này được
gọi là Thềm lục địa Sunda (tiếng Anh là Sundaland). Vùng đồng bằng của
thềm lục địa này bị chìm đắm rộng lớn bằng Ấn Độ ngày nay. Sau Thời đại
Băng hà, cuối cùng chỉ còn một số núi rải rác chung quanh quần đảo Mã
Lai. Vùng biển nối giữa Hàn Quốc, Nhật Bản, và Đài Loan mà ngày nay ta
gọi là Biển Đông (East China sea) từng là vùng đất liền. Một bằng chứng
rất thuyết phục mới nhất (ba năm trước đây) là những công trình xây cất,
tòa nhà được kiến trúc rất độc đáo vừa được khám phá dưới lòng biển
thuộc Đài Loan.
ii. Thứ hai,
Oppenheimer chứng minh rằng khoảng 9,000 đến 10,000 năm về trước, một số
dân vùng Đông Nam Á đã là trở thành những nhà canh nông chuyên nghiệp,
không chỉ là những người sống bằng nghề săn bắn ban sơ như giới khảo cổ
học Tây phương mô tả. Ông trình bày dữ kiện liên quan đến trồng trọt
khoai lang (khoai mỡ, yam) và khoai nước (taro) được tìm thấy ở Nam
Dương, mà tuổi cỡ 15,000 đến 10,000 trước Dương lịch; kỹ thuật trồng lúa
có xấp xỉ tuổi cũng được tìm thấy ở Mã Lai Á.
iii. Thứ ba,
dựa vào dữ kiện và các yếu tố địa chất học, Oppenheimer cho rằng vào
khoảng 8000 năm trước đây, mực nước biển tăng một cách đột ngột và gây
ra một trận đại hồng thủy, và trận lụt vĩ đại này đã làm cho những nhà
nông đầu tiên trên thế giới này phải di tản đi các vùng đất khác để mưu
sinh. Tuyến đường di cư là theo hướng nam về Úc Đại Lợi, hướng đông đến
Thái Bình Dương, và hướng tây đến ấn Độ Dương, và hướng bắc vào vùng đất
liền Á châu.
Lục địa SUNDA (vùng gạch chéo) trước khi chìm ngập – Ảnh: Oppenheimer
Trong quá trình di cư đến các vùng đất
mới, họ đem theo ngôn ngữ, truyền thuyết, quan niệm tôn giáo, kinh
nghiệm thiên văn, yêu thuật, và đẳng cấp xã hội đến vùng đất mới. Thực
vậy, ngày nay, dấu vết của cuộc di dân trên vẫn còn ghi đậm trong các
quần đảo Melanesia, Polynesia và Micronesia; dân chúng những nơi này nói
tiếng thuộc hệ ngôn ngữ Austronesian có nguồn gốc từ Đông Nam Á. Có lẽ
người ta không ngạc nhiên khi thấy trong các dân tộc vùng Đông Nam Á,
Trung Đông, Úc châu, và Mỹ châu đều có những câu truyện thần thoại về trận lụt vĩ đại này,
và các câu truyện này có độ tương tự rất cao. Điều này chứng tỏ rằng
các sắc dân này xuất phát từ một nền văn hóa nguyên thủy. Theo
Oppenheimer, những người tỵ nạn này là những hạt giống cho những nền văn
minh lớn khác mà sau này được phát triển ở Ấn Độ, Mesopotamia, Ai Cập,
và Địa trung hải.
Bản đồ 100 triệu năm trước – hình minh họa bởi sggdpost
Ngoài phần nghiên cứu về thần thoại và
truyền thuyết, Oppenheimer còn dùng một nguồn tài liệu đáng tin cậy nhất
và mang tính khoa học và chính xác hơn là di truyền học. Các dữ kiện di
truyền học chứng minh rằng các sắc dân trong quần đảo như Tân Guinea,
Polynesia, Melanesia, v.v. có cấu trúc di truyền tố giống với các sắc
dân thuộc vùng Đông Nam Á ngày nay. Gần đây, còn có một số nghiên cứu di
truyền học cho thấy người Hán có nguồn gốc từ Đông Nam Á và có thể cả
Bắc Á.
Ông Oppenheimer viết, “Lý thuyết mà tôi trình bày trong cuốn sách này. lần đầu tiên, đặt Đông Nam
Á vào trung tâm của các nguồn gốc văn hóa và văn minh. Tôi cho rằng
nhiều người phải di tản khỏi vùng duyên hải của họ ở phương Đông vì lụt
lội. Những người tỵ nạn này từ đó vun đắp những nền văn minh vĩ đại ở
phương Tây.”
Một vùng đất văn minh tiến bộ
Theo Oppenheimer, Atlantis của Đông Nam
Á, tạm gọi là “Sundaland”, bởi vì vùng này là một thềm lục địa Sunda,
nơi từng là trung tâm hàng đầu về cuộc cách mạng thời đại đồ đá mới
(Neolithic Revolution), bắt đầu phát triển kỹ thuật trồng trọt, dùng đá
để nghiền hạt lúa, vào khoảng 24,000 ngàn năm trước đây, tức là trước cả
Ai Cập và Palestine khoảng 10,000 năm.
The neolithic revolution – bắt đầu vào cuối kỷ băng hà
Một loạt khám phá khảo cổ gần đây đã đủ
để xét lại thuyết cho rằng Trung Quốc và Ấn Độ là hai nước đã khai hóa
hay truyền bá văn minh cho các nước thuộc vùng Đông Nam Á. Thực vậy,
khám phá về hạt lúa ở hang Sakai (miền Bắc Thái Lan) gần đây cho thấy cư
dân ở đây đã biết trồng lúa rất xưa, có thể trước cả thời kỳ nước biển
dâng cao vào khoảng 8000 năm về trước, ít nhất là từ thiên niên kỷ thứ 6
hay thứ 7 trước Dương lịch. Hệ thống nông nghiệp được tìm thấy ở Nam
Dương có niên biểu lâu đời hơn cả thời đại mà những thành tựu được xem
là “cách mạng” về trồng lúa ở Trung Quốc. Thực vậy, ở Nam Dương, kỹ
thuật về trồng khoai lang và khoai nước được ước đoán có tuổi từ 15000
đến 10000 năm trước Dương lịch. Ở Việt Nam, khám phá ở Phùng
Nguyên và bằng kỹ thuật định tuổi dùng Carbon-14 cho thấy tổ tiên ta
từng trồng trọt ngũ cốc khoảng 5000 đến 6000 năm trước đây, tức là còn
sớm hơn nhiều niên biểu của những thành tựu của người Trung Quốc.
Ngoài ra, Nhà khảo cổ học rất uy tín gốc Mỹ, Giáo sư Wilhelm G. Solheim
II, trong một loạt nghiên cứu từ 1965 đến 1968, cho thế giới thấy nền
văn minh Hòa Bình là nền văn minh nông nghiệp đầu tiên trên thế giới,
khoảng 15,000 năm trước dương lịch. Một Nhà khảo cổ học danh tiếng khác
người Úc, Giáo sư Peter Bellwood, đã từng viết rằng quê hương nguyên
thủy của cây lúa rất có thể là ở chung quanh vùng Đông Dương – Mã Lai –
Miến Điện, vì ở đây khí hậu nhiệt đới là môi trường thuận lợi cho việc
canh tác nông nghiệp. Trong Eden in the East,
Oppenheimer cũng có kết luận tương tự: thay vào một mô hình cho rằng
Trung Quốc là xứ sở nguyên thủy của kỹ thuật trồng lúa, chúng ta lại có
một mô hình khác mà trong đó các dân tộc “man di” nói tiếng Nam Á ở Đông
Dương dạy người Trung Quốc các kỹ thuật trồng lúa.
Không những trong lĩnh vực nông nghiệp,
mà ngay cả trong lĩnh vực kỹ nghệ chế biến, sản xuất, người Đông Nam Á,
mà đặc biệt là người Việt Nam, đã phát triển kỹ thuật làm đồ đồng, đồ
thiết và đồ gốm khá cao. Về các sản phẩm đồ đồng và thiếc, người dân ở
vào thời Phùng Nguyên đã từng sản xuất vũ khí, và mức độ sản xuất đã
tăng vọt trong thời đại Đông Sơn. Thực vậy, vào thời Phùng Nguyên (tức
là lúc thời kỳ khởi đầu của vù Hùng) tỷ lệ vũ khí tìm thấy trong các di
vật dưới 1%; nhưng đến thời cuối vua Hùng, tỷ lệ này tăng lên khoảng 50
đến 63%. Nhiều khí giới khai quật gần đây ở Đông Sơn cho thấy cư dân ở
đây là từng sản xuất nhiều vũ khí phức tạp (có chạm trổ tinh vi), có thể
đánh xa và gây tổn thương hàng loạt cho đối phương. Người Trung Quốc
vẫn cho rằng họ là người phát minh ra vũ khí dùng trong chiến trường.
Đối chiếu với những khám phá ở Đông Sơn và Phùng Nguyên, xem ra thuyết
người Trung Quốc khám phá ra vũ khí đầu tiên không còn vững nữa!
Về đồ gốm, người Việt Nam đã sản xuất
nhiều sản phẩm nghệ thuật công phu và thanh tú, và những sản phẩm này
không những được bán trong khắp vùng Đông Nam Á, mà còn xuất khẩu qua
tận xứ Melanesia. Thị trường xuất khẩu này đã hình thành trước sự ảnh
hưởng của Ấn Độ. Các dụng cụ bằng đá tìm được ở Úc châu cũng từ Hòa Bình
mà ra: tuổi của các đồ đá này được định là 14000 đến 20000 năm trước
Dương lịch. Đồ gốm ở Nhật với tuổi khoảng 10000 năm trước dương lịch
cũng xuất phát từ Hòa Bình. Giáo sư Solheim II nhấn mạnh
rằng cả hai nền văn minh nổi tiếng của Trung Hoa là Lung Shan và Yang
Sao đều xuất phát từ Hòa Bình. Như vậy, từ đồ gốm Phùng
Nguyên đến trống đồng Đông sơn, tất cả đều chứng minh nền văn minh Việt
Nam thời tiền sử đã đạt tới một trình độ cao trên thế giới. Quan trọng
hơn là những phát triển này xảy ra trước thời văn minh Lung Shan và Yang
Sao ở Trung Quốc.
Trước, và đặc biệt là trong, thời kỳ nước
biển dần dần dâng cao, người Sundaland di dân đến những vùng đất láng
giềng: Trung Quốc, Ấn Độ, Mesopotamia, và vài hòn đảo từ Madagascar đến
Phi Luật Tân, Tân Guinea, và sau này họ chiếm luôn vùng Polynesia cho
đến Hawaii và Tân Tây Lan. Họ là những người thầy ở các vùng đất mới,
dạy người địa phương những kỹ thuật trồng trọt và xây dựng. Người Hòa
Bình còn truyền bá văn minh nông nghiệp đến nhiều nơi trên thế giới:
Nhật, Đài Loan khoảng 4000 năm trước Dương lịch; Phi Luật Tân, Indonesia
khoảng 3000 năm trước Dương lịch; Madagasca và Đông Phi châu khoảng
2000 năm trước Dương lịch.
Bắc xuống Nam, hay Nam lên Bắc?
Theo thuyết của Oppenheimer thì người
Trung Quốc và Ấn Độ ngày nay có gốc gác từ Đông Nam Á, chứ không phải
nguồn gốc của người Đông Nam Á là ở Trung Quốc hay Ấn Độ. Đây cũng là
một đảo vòng xoay 180 độ về nguồn gốc dân tộc Việt Nam. Mà, xem ra
thuyết của Oppenheimer có nhiều “đồng minh.” Một số học giả khác (như
Madelaine Colani, J Hornell, P. V. van Stein, Heine Geldern, Bernard
Karlgren, N J Krom) cũng cho rằng làn sóng người từ Bắc Việt tràn xuống
phía Nam và vào Ấn Độ trước khi vùng này bị giống dân Aryan xâm chiếm. Giáo
sư Solheim II căn cứ trên những dữ kiện khảo cổ thì thấy rằng giống
người Hoà Bình tràn lan xuống phía nam, lên hướng bắc, và sang hướng
tây. Tại mỗi nơi, người Hòa Bình phối hợp với dân địa phương để tạo thành các chủng tộc mới của mỗi vùng.
Mới đây thuyết Bắc-tiến còn có căn cứ
khoa học vững vàng (dù lúc viết sách, ông Oppenheimer không biết đến),
đó là: trong một bài báo khoa học quan trọng được công bố trên Tạp chí
của Viện Hàn lâm Quốc gia Khoa học Mỹ (một tạp chí khoa học rất uy tín
trên thế giới) , một nhóm nghiên cứu thuộc Trường Đại học Texas (Mỹ) và
Viện Nghiên cứu Di truyền học Trung Quốc cho thấy nguồn gốc của người
Trung Hoa (và cả người Đông Á) rất có thể là do người từ Đông Nam Á di
dân lên [11], chứ không phải ở Bắc di dân xuống Nam! Như vậy, cho rằng dân tộc Việt là xuất phát phát từ người Trung Quốc có thể là một ngộ nhận. Phải hiểu ngược lại thì mới đúng !
Một vài nhận xét
Eden in the East
là một tác phẩm độc đáo, được soạn thảo rất công phu và khoa học. Điều
đáng chú ý là tác giả là một bác sĩ chuyên khoa về nhi đồng, không phải
là một nhà khảo cổ học. Tuy nhiên, với khả năng và kiến thức khoa học
của tác giả, ông đã tiếp nhận tri thức và xử lý thông tin từ nhiều nguồn
như di truyền học, nhân chủng học, thần thoại, văn học dân gian, ngôn
ngữ học, hải dương học, và khảo cổ học để cho ra đời một cuốn sách làm
cho nhiều nhà nghiên cứu Đông Nam Á học và khảo cổ học phải bất ngờ.
Thực vậy, Oppenheimer đã, không những trực tiếp chất vấn, mà còn thách
đố, những thuyết mà giới chuyên môn, kể cả các học giả Việt Nam đề ra và
chấp nhận như những “chân lý” thời tiền sử. Kể từ ngày xuất bản cuốn
sách cho đến nay (khoảng 3 năm), theo tôi biết, chưa một ai trong giới
chuyên môn về Đông Nam Á học chất vấn tính khoa học của thuyết mà
Oppenheimer đề xuất. Thực ra, tất cả những bài điểm sách (khoảng 20 bài)
mà tôi đọc qua không có một bài nào chất vấn cách làm việc hay khoa học
tính của tác giả; tất cả đều ngợi khen một cách nồng nhiệt. Có người
còn cho rằng đây là một quyển sách quan trọng vào bậc nhất trong ngành
Đông Nam Á học!
Đối với người viết bài này, một điểm yếu
của quyển sách là những dữ kiện hay bằng chứng liên quan đến các câu
chuyện thần thoại. Tác giả cố thuyết phục độc giả bằng cách trình bày
mối tương quan giữa các nền văn hóa bằng những câu chuyện thần thoại có
motif giống nhau, để từ đó chứng minh cho thuyết của ông (tức là văn
minh nhân loại xuất phát từ Đông Nam Á). Tác giả thậm chí còn dùng thống
kê học để thẩm định mối tương quan này! Tuy nhiên, tôi vẫn cảm thấy
những dữ kiện như thế có vẻ hời hợt, và thiếu tính thuyết phục cao. Đành
rằng, nhiều nền văn hóa, và đặc biệt là những văn hóa thuộc vùng Á châu
– Thái bình dương, có nhiều truyện thần thoại giống nhau, hay ít ra là
song song nhau về lụt lội. Đây không phải là những sự ám chỉ tối tăm đến
những sự kiện mang tính Freud trong tiềm thức nhưng là những sử kiện rõ
rệt liên đới đến những thảm họa khi mực nước biển dâng cao sau thời đại
Băng hà. Nhưng phương pháp xác định nguồn gốc của những câu chuyện thần
thoại này là một vấn đề.
Tuy nhiên, giữ cái điểm yếu đó trong khi
đọc sách, tôi vẫn phải công nhận tác giả đã khảo cứu rất cẩn thận, tiếp
thu và xử lý tài liệu rất chuyên môn. Thêm vào đó là lối hành văn trong
sáng, và lý luận vững vàng, tác giả đã làm cho chúng ta phải suy nghĩ
lại về nguồn gốc tổ tiên và văn minh của nhân loại ngày nay. Chúng ta
cần nhiều tác phẩm loại này hơn nữa trong lĩnh vực khảo cổ học để cho
thấy rằng tổ tiên chúng ta không chỉ sáng tạo ra địa cảnh (hay hải cảnh)
mà chúng ta đang sống, nhưng địa cảnh và hải cảnh cũng tạo ra chúng ta.
Tóm lại, nhiều khám phá khảo cổ học mới đây, và nhất là cuốn sách Eden in the East,
đã nhanh chóng đưa vùng đất bị lãng quên của Đông Nam Á vào một nơi
trang trọng của bản đồ thế giới, và là cái nôi của văn minh nhân loại
ngày nay. Và qua những khám phá này, chúng ta đã có dữ kiện để đặt lại
vấn đề nguồn gốc dân tộc và văn minh Việt Nam, chất vấn những thuyết mà
ta từng được dạy và từng tin như là những chân lý. Chúng ta có bằng
chứng để phát biểu rằng trước khi tiếp xúc với người Hán từ phương bắc
(Trung Quốc) đến, tổ tiên chúng ta đã tạo dựng nên một nền văn minh khá
cao, nếu không muốn nói là cao nhất trong vùng Đông Nam Á. Đô thị
cổ xưa nhất trong vùng là do tiền nhân của chúng ta xây dựng. Tổ tiên
chúng ta là những nhà kỹ thuật giỏi, đã biết sản xuất vũ khí để đánh
giặc, đã đúc được những trống đồng tinh xảo để truyền lại những ý tưởng
và triết lý cho hậu duệ, và cũng có thể nói họ cũng là những nghệ sĩ tài
ba, ham thích múa hát và thổi kèn. Tổ tiên chúng ta đã phát triển và
ứng dụng kỹ thuật trồng lúa trước người Hán, hay là những người thầy dạy
cho người Hán trồng lúa (chứ không phải ngược lại.) Và có thể tổ tiên
chúng ta cũng chính là tổ tiên của người Trung Quốc ngày nay. Đã đến lúc phải trả lại sự thực và danh dự cho tổ tiên chúng ta.
Nguyễn Văn Tuấn
Bài viết được đăng trên Tập san Tư Tưởng.
doremon360 bổ sung ảnh.
Bài viết được đăng trên Tập san Tư Tưởng.
doremon360 bổ sung ảnh.
Chú thích:
1. Trong Việt Nam Văn hóa Sử cương
(Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh tái bản năm 1992), ở trang 24-25,
Đào Duy Anh viết: “Nay ta hãy căn cứ vào sự nghiên cứu của các nhà sử
học, nhất là các vị giáo sư ở trường Viễn Đông bác cổ, mà xem gốc tích
của dân tộc ta như thế nào. Có người cho rằng tổ tiên ta phát xuất từ
Tây Tạng, sau theo lưu vực sông Nhị mà di cư xuống miền trung châu Bắc
Việt. Nhưng theo ông Aurousseau dẫn chứng có điều rất kỹ càng thì tổ
tiên ta lại là người nước Việt ở miền hạ lưu sông Dương Tử, sau bị nước
Sở (đời Xuân thu) đánh đuổi phải chạy xuống miền nam ở miền Quảng Đông,
Quảng Tây, rồi lần lần đến Bắc Việt và phía Bắc Trung Việt. Theo nhiều
nhà nhân chủng học hiện thời thì ở thời thượng cổ, giống người
Indonesian bị giống Aryan đuổi ở Ấn Độ mà tràn sang bán đảo Ấn Độ
Chi-na, làm tiêu diệt giống người thổ trước đầu tiên ở đây là giống
Melanesian rồi một phần trong đám di dân ấy đi thẳng mãi sang Nam Dương
quần đảo, còn một phần ở lại Ấn Độ Chi-na, ở phía nam thành người Chiêm
Thành và Cao Man sau đồng hóa theo văn hóa Ấn Độ, ở phía bắc thì hỗn hợp
với giống Mông Cổ ở Trung Hoa xuống mà thành người Việt Nam.”
2. Trong Việt Nam Sử Lược
(Trung tâm Học liệu Bộ Giáo dục xuất bản, Sàigòn, 1971), ở trang 5,
Trần Trọng Kim viết: “Theo ý kiến những nhà kê cứu của nước Pháp, thì
người Việt Nam và người Thái đều ở miền núi Tây Tạng xuống. Người Việt
Nam theo sông Hồng Hà lần xuống phía Đông nam, lập ra nước Việt Nam ta
bây giờ; còn người Thái thì họ theo sông Mê-kông xuống, lập ra nước Tiêm
la (tức là Thái Lan) và các nước Lào.
3. Lại có nhiều người Tàu và người Việt
Nam nói rằng nguyên khi xưa đất nước Tàu có giống Tam Miêu ở, sau giống
Hán tộc (tức người Tàu bây giờ) ở phía Tây Bắc đến đánh đuổi người Tam
Miêu đi, chiếm giữ lấy vùng sông Hoàng Hà lập ra nước Tàu, rồi dần dần
xuống phía nam, người Tam Miêu phải lẩn núp vào rừng hay là xuống ở miền
Việt Nam ta bây giờ.
4. Những ý kiến ấy là theo lý mà suy ra
đó thôi, chứ cũng chưa có cái gì làm chứng cho đích xác. Chỉ biết rằng
người Việt Nam ta trước có hai ngón chân cái giao lại với nhau, cho nên
Tàu mới gọi ta là Giao Chỉ; mà xem các loài khác, không có loài nào như
vậy, thì tất ta là một loài riêng, chứ không phải là loài Tam Miêu.”
5. Trong Tổ quốc ăn năn
(Paris, 2001), ở trang 122, Nguyễn Gia Kiểng viết: ” … cuộc Nam tiến của
người Trung Hoa đến Quảng Đông, Quảng Tây thì khựng lại vì gặp bức
tường núi gần 100 cây số. Chỉ có một số ít người vượt được núi, hợp với
thổ dân mà tạo ra nước Văn Lang.”
6. Sách Hậu Hán thư (tức
sử của Trung Quốc) chép: “Phàm đất thuộc bộ Giao Chỉ, tuy đã đặt quận,
huyện, nhập vào lãnh thổ Trung Quốc, nhưng ngôn ngữ vẫn khác nhau, phải
có thông ngôn mới hiểu. Người như cầm thú, không phân biệt trưởng ấu
(tức không có tôn ti trật tự), búi tóc ở gáy, đi chân không, lấy vải
quấn qua đầu làm áo. Sau đó những người tội phạm Trung Quốc đến ở lẫn
với họ, mới biết ngôn ngữ dần dần thấy hóa theo lễ. Đến thời Quang Vũ
Trung Hung, Tích Quang làm thái thú Giao Chỉ, Nhâm Diên làm thái thú Cử
Chân, bấy giờ mới dạy cho dân biết cày cấy, biết đội mũ đi giày, đặt mối
lái, dân mới biết hôn nhân, dựng học hiệu dạy lễ nghĩa …”
7. Trong một cuốn băng video ca nhạc mang tựa đề “Cây đa, bến cũ”
do Trung tâm Thúy Nga thực hiện và phát hành, người diễn đọc (Nhà văn
Nguyễn Ngọc Ngạn) lập lại câu văn của Hậu hán thư và phát biểu rằng Quan
thái thú Nhâm Diên là người đã dạy cho dân Việt Nam cách trồng lúa.
8. Trích Tổ quốc ăn năn (Paris, 2001) của Nguyễn Gia Kiểng, trang 306.
9. Về các bài báo khoa học mang tính tiền phong trong ngành khảo cổ học ở Đông Nam Á, xin xem những bài sau đây: (i) “On the improbability of Austronesian origins in South China,” của Giáo sư William Meacham, đăng trong Tạp san Asian Perspectives, quyển 25, năm 1984-5; (ii) “The nusantao and North-South dispersals,” của Giáo sư Wilhelm G. Solheim II, in trong “Indo-Pacific Prehistory Association Bulletin,” quyển 2, năm 1996; (iii) “Southeast Asia and Korea: from the beginings of food production to the first states,” cũng của Giáo sư Solheim II, in trong “The History of Humanity: scientific and cultural development,” quyển I: “Prehistory and the Beginning of Civilization,”
do UNESCO/Routledge (London) xuất bản năm 1994. Ngoài ra, độc giả có
thể tham khảo thêm các bài báo tiếng Việt liên quan đến đề tài này của
Tác giả Cung Đình Thanh trên Tạp san Tư Tưởng số 3, 4, và 7.
10. Sách “Eden in the East: the Drowned Continent of Southeast Asia,”
của Stephen Oppenheimer, Nhà xuất bản Phoenix (London), 1998. Sách khổ
13 x 20 cm, dày 560 trang, kể cả 47 trang tài liệu tham khảo và 28 trang
bảng danh mục, chữ loại nhỏ (Times cỡ 8). Giá đề 15 đô-la Canada, hoặc 9
sterling Anh.
11. Theo sách Genesis, và theo truyền
thuyết của nhiều nền văn minh cổ, ngày xưa có xảy ra một số trận lụt vĩ
đại (hay đại hồng thủy) phủ ngập cả trái đất. Huyền thoại về lụt nổi
tiếng nhất là câu chuyện về Noah, một giáo trưởng, được của Thượng đế,
xây dựng một chiếc thuyền lớn tên là Ark để gia đình ông ta và mọi sinh
vật có thể sống sót qua cơn lụt.
Về các phân tích di truyền học, có thể tham khảo các bài báo khoa học sau đây:
(i) “Genetic relationship of
populations in China”, của Bài báo của Giáo sư J. Y. Chu và đồng nghiệp
thuộc Trường Đại học Texas, đăng trên Tập san Proceedings of the
National Academy of Science (USA) 1998; số 95, trang 11763-11768
(ii) “Khám phá mới di truyền học về nguồn gốc con người ở Đông Nam Á,” của Nguyễn Đức Hiệp, đăng trên Tạp san Tư Tưởng, số 7, năm 2000, trang 9-13
(iii) “Y-chromosome evidence for a northward migration of modern
humans into Eastern Asia during the last Ice age” của B. Su và đồng
nghiệp, đăng trên Tạp san American Journal of Human Genetics, năm 1999,
số 65, trang 1718-1724.
Oppenheimer, S.“Địa đàng ở phương Đông”
Lời nói đầu
Trong sách này tôi sẽ thuật lại việc tìm kiếm và phân tích những chứng cứ liên hệ đến một số cư dân của một vùng lục địa đã mất - những người hơn 7000 năm trước đã có công làm nảy sinh các nền văn hóa lớn chẳng những ở Viễn Ðông mà cả ở Trung và Cận Ðông, và đã là tác giả nguyên thủy của vô số phốt-cơ-lo phổ biến khắp Á - Âu. Tôi đi đến kết luận rằng hầu hết vết tích khảo cổ của các nền văn hóa gốc (founder cultures) có địa bàn tại Ðông Nam Á này đã bị hủy diệt bởi một trận lụt khủng khiếp cuối Thời Ðại Băng Giá gần đây nhất (tr. XIII)
Trong thời gian nghiên cứu và viết sách, tôi nhận ra mình đang xây dựng trên cơ sở sáng kiến của một số người khác. Nhiều nhà địa chất học và hải dương học, chẳng hạn hai học giả Mỹ Bill Ryan và Walt Pitman, đã xem những thần thoại hồng thủy là sự thực tiền sử và đã bắt đầu nhận ra tầm mức khác thường của những đợt biển dâng hậu kỳ Băng Giá tại Hắc Hải cũng như tại vài nơi khác. Các nhà khảo cổ ở Hương Cảng và ở Mỹ như William Meacham và Wilhelm Solheim gần đây đã ra công quảng bá ý kiến cho rằng tổ tiên của cư dân Ða Ðảo và Nam Dương hiện nay thực ra đã sống ngay trên vùng lục địa bị ngập của Ðông Nam Á chứ không phải đã thiên di từ Trung Quốc như nhiều nhà ngữ sử học vẫn tưởng. Trong khoảng một trăm năm qua có nhiều học giả khác cũng từng cho rằng quê hương của người Ða Ðảo phải ở về phía nam và đông của Trung Quốc. Còn chuyên gia nhân chủng kiêm nhà nghiên cứu phốt-cơ-lo người Tô-cách-lan lừng danh, Ngài James Frazer, vào đầu những năm 1900 đã chỉ ra hàng trăm chỗ tương tự giữa nhiều thần thoại ở Âu châu và ở Á châu; trong phần hai của sách lập luận của tôi sẽ căn cứ vào một số những thần thoại này (tr. XIII-XIV)
Tuy nhiên, riêng phần tôi cũng có đề xuất vài ý kiến mới. Tôi tin rằng tôi là người đầu tiên chủ trương rằng Ðông Nam Á là nơi xuất phát của những yếu tố của văn minh Tây phương. Thứ đến, những chứng cứ di truyền học mà tôi sẽ trình bày cho thấy những người nói tiếng Ða Ðảo đã bắt đầu thiên di ra khắp Thái Bình dương từ vùng Ðông Nam Á, chứ không phải từ Trung Quốc. Và sau cùng, cố gắng phân tích những chỗ móc nối về phốt-cơ-lo của tôi - dựa trên công trình tiền phong của Frazer – thiết tưởng có giá trị khẳng định mối liên hệ Ðông-Tây, đồng thời cung cấp một cơ sở luận lý cho ý nghĩa nguyên thủy của nhiều thần thoại và phốt-cơ-lo Tây phương (tr. XIV)
Dẫn nhập chung
Ðông Nam Á (ÐNÁ) là một trong những khu vực văn hóa phong phú nhất, cổ nhất và đa dạng nhất trên thế giới. Vậy mà các sử gia đã nghiễm nhiên giả định rằng văn hóa ÐNÁ chỉ là một loại con thứ của hai nền văn minh lục địa lớn ở Á châu là Ấn Ðộ và Trung Quốc. Quan điểm khinh thị dễ dãi ấy không công bằng và mâu thuẫn với rất nhiều chứng cứ về độ cổ xưa và mức tinh tế độc đáo của vùng đất này (tr. 1)
ÐNÁ về văn hóa đa dạng lạ lùng như thế, nên tôi không khỏi kinh ngạc trước hiện tượng thiếu hẳn tò mò về nguồn gốc của những nền văn minh độc đáo nơi đây. Một ví dụ ở Tây phương về khuynh hướng thiên vị văn hóa có thể thấy trong thái độ khi khám phá ra một ngữ hệ mới. Hai trăm năm trước, người ta bỗng nhận biết đa số các ngôn ngữ ở Ấn Ðộ và ở Âu châu đều thuộc vào một ngữ hệ duy nhất, nay gọi là nhóm ngôn ngữ Ấn - Âu. Hiểu biết này được kể là một trong những thành quả trí tuệ lớn nhất đương thời. Nỗ lực tìm hiểu lại mình mà nó làm nảy nở còn được xem là đã đóng góp quan trọng vào phong trào Lãng mạn. Trong khi ấy, việc khám phá ra nhóm ngôn ngữ Nam Ðảo vài năm trước đó lại không hề gây được chút chú ý nào cho mãi đến thập kỷ 1970. Những thứ tiếng nói đã lan xa tận Madagascar, tận đảo Easter, lan tới Ðài Loan, Hawaii và Tân Tây Lan đều thuộc vào cùng một ngữ hệ với các ngôn ngữ ở ÐNÁ. Chúng đã lan khắp Thái Bình dương và có lẽ khắp Ấn Ðộ dương trước khi Phật ra đời (tr. 3-4)
Sách về nguồn gốc của các nền văn minh trên thế giới tránh hẳn vùng ÐNÁ. Ghi chép về các nước trong khu vực thường chỉ dành vài dòng cho phần tiền sử và tập trung vào những nền văn hóa chịu ảnh hưởng Ấn Ðộ và Trung Quốc trong vòng 2000 năm qua và sau đó là những thời kỳ thuộc địa. Cho mãi đến gần đây, hầu như chỉ có văn hóa đồ đồng Ðông Sơn và những tiền thân của nó ở Việt Nam trong thiên kỷ -1 là nền văn minh phức tạp sớm duy nhất được xem là nội sinh. Các nhà nhân địa học (1) có để ý cư dân các đảo ở Thái Bình dương có những tín ngưỡng cổ xưa, mang tính hoặc tôn giáo hoặc pháp thuật hoặc thần thoại, khá giống tín ngưỡng ở Âu châu và Cận Ðông. Họ điển hình giả định đấy là do ảnh hưởng từ Tây sang Ðông. Mặc dầu không hề có chứng cứ gì về một dòng chảy như thế trước khi người Âu châu bắt đầu đi thám hiểm thế giới mới tương đối gần đây (tr. 4)
Về quan điểm lệch lạc (2) này, có những nguyên nhân khác ngoài thái độ kiêu ngạo về văn hóa. Thứ nhất, ở ÐNÁ, ngoại trừ trường hợp Thái Lan và Việt Nam, các nhà khảo cổ chỉ mới “gãi” qua những địa điểm khảo cổ Thời Ðá Mới và Thời Ðồ Ðồng đã phát hiện. Thứ hai, là tình trạng thiếu hẳn những văn kiện đọc được thuộc vào thời tiền-Ấn. Thứ ba, có lẽ quan trọng hơn cả, là sự kiện rất có thể hầu hết những địa điểm đáng chú ý nhất trong vùng hiện nay lại đang nằm sâu dưới nước (tr. 4)
Nhiều khám phá khảo cổ mới đây đã làm lung lay định kiến rằng khu vực này là do Trung Quốc và phương Tây khai hóa. Nông nghiệp có hệ thống đã bắt đầu ở Nam Dương rất lâu trước khi xuất hiện ở Cận Ðông, nơi ta quen nghĩ là cái nôi của cuộc Cách Mạng Ðá Mới ở Cựu Thế Giới. Ở Nam Dương đã tìm thấy bằng chứng là việc trồng khoai mỡ và khoai môn dại (wild yam and taro) khởi sự trong khoảng năm -15000 đến năm -10000. Hơn nữa, việc trồng lúa rất có thể đã diễn ra ở vùng bán đảo Thái Lan trong thiên kỷ -6 hay -7, tức sớm hơn ở Trung Quốc nhiều (tr. 4)
Di vật Thời Ðại Ðồng có niên đại sớm bất ngờ đã được tìm thấy ở các địa điểm mộ táng ở Ban Chiang, ở nam Thái Lan và ở Phùng Nguyên thuộc bắc Việt Nam. Tuổi ước lượng cho những địa điểm này chưa đạt nhất trí, nhưng mới đây một số niên đại C14 đáng tin cậy từ những mảnh trấu còn dính trong nồi cho thấy ở Ban Chiang vào đầu thiên kỷ -2 Thời Ðại Ðồng đã bắt đầu. Có hai niên đại sớm đặc biệt - một khoảng gần 5000 năm cách ngày nay và một nữa khoảng gần 6000 năm cách ngày nay. Hai số liệu sau, nếu chính xác, sẽ là sớm ngang với ở những địa điểm Cận Ðông cổ nhất, và tức là sớm hơn ở Trung Quốc (tr. 4-5)
Như tôi sẽ trình bày chi tiết trong phần II của sách này (chương 8-16), có bằng chứng cho thấy một nền văn minh cổ vô danh nào đó đã kích thích sự phát triển ở vùng bờ biển tây bắc của Ấn Ðộ Dương (...) Cả (...) Ai Cập và Sumer cũng đều có cổ tích và chứng cứ về ảnh hưởng từ phương Ðông vào thời sơ khai (tr. 8)
Nhiều nhà khảo cổ đã đề xuất có ảnh hưởng Ðông phương ở Ai Cập vào thời tiền-Triều trước năm -3000 (...) Do thiếu chọn lựa nào khác, người ta thường cho rằng ảnh hưởng từ phương Ðông này xuất phát từ khu vực Lưỡng Hà. Nhưng liên hệ giữa Lưỡng Hà và Ai Cập thực ra nặng tính anh-em hơn mẹ-con. Cổ thư Ai Cập Book of the Dead, vốn được xem là chứa nhiều tư liệu thuộc thời tiền-Triều, nhắc đến phương Ðông 16 lần, chủ yếu bằng một giọng khiếp sợ (tr. 8-9)
Ở Lưỡng Hà, những câu nói liên hệ đến ảnh hưởng Ðông phương còn rõ ràng hơn. Nổi tiếng hơn cả là những lời trong Kinh Thánh, vốn dựa vào các văn bản Sumer cổ. Theo Sáng Thế Ký (Genesis), Ðịa Ðàng ở phương Ðông. Sáng Thế Ký chép: “khi con người thiên di từ phương đông, họ gặp một đồng bằng (...) tên Shinar (Sumer) và họ định cư ở đó.” Họ xây tháp Babel và rồi gặp nạn bất đồng ngôn ngữ (tr. 9)
Về mặt ngữ học, người Sumer không giống ai khác trong khu vực. Họ nói một thứ tiếng “kết dính” (agglutinative) không có liên hệ gì với ngôn ngữ của các láng giềng Ấn-Âu hay Semitic xung quanh (...) Ða số học giả cho rằng người Sumer đến từ một nơi nào đó ở phía đông, và họ đã thạo dùng thuyền buồm, nhưng nơi ấy ở đâu thì ý kiến vẫn chưa thống nhất. Hiện nay có bằng chứng từ nhiều nguồn cho thấy đã có một đợt biển dâng lớn trước khi người Sumer thiên di đến Lưỡng Hà (tr. 9)
Vào cao điểm của Thời Ðại Băng Giá cách nay khoảng 18 đến 20 ngàn năm, ÐNÁ là một lục địa lớn gấp đôi Ấn Ðộ, gồm những vùng đất bây giờ ta gọi là bán đảo Ấn-Trung, nước Mã Lai Á, và nước Nam Dương. Biển Nam Hải, vịnh Thái Lan và biển Java, khi ấy đều khô ráo, nối tất cả lại với nhau. Về mặt địa chất, ÐNÁ bấy giờ được gọi là thềm Sunda (...) Sau Thời Ðại Băng Giá, thềm Sunda mất đi một diện tích tương đương với cả nước Ấn Ðộ (...) Một dải đất khổng lồ khác ở bờ phía đông châu Á cũng bị dìm sâu dưới nước. Giữa Hàn, Nhật, Trung Quốc và Ðài Loan trước là đất nay là Hoàng Hải (3) và Ðông Hải (4). Vào Thời Ðại Băng Giá, những bến cảng dọc ven biển phía nam của Trung Quốc bây giờ, như Hương Cảng, vốn ở sâu hàng trăm dặm trong nội địa (tr. 10)
Sách này bàn về khả năng khi biển bắt đầu dâng lớn lần sau cùng cách nay khoảng từ 7500 đến 8000 năm thì đợt cuối trong diễn tiến thiên di khỏi thềm Sunda cũng khởi sự. Ðã xảy ra nam thiên về phía châu Úc, đông tiến vào khu vực Thái Bình Dương, tây tiến vào Ấn Ðộ Dương và bắc tiến vào nội địa châu Á. Hậu duệ của nhóm đông tiến, hiện sinh sống trên các nhóm đảo Melanesia, Polynesia và Micronesia, nói những thứ tiếng thuộc ngữ hệ Nam Ðảo, tức cùng ngữ hệ với các thứ tiếng nói của cư dân vùng ÐNÁ hải đảo. Khi di tản bằng thuyền biển lớn nhóm này có chở theo gia súc và một số cây thực phẩm. Trong nhóm di tản về hướng tây có kẻ đem kỹ thuật trồng lúa vào Ấn Ðộ. Những cư dân ở phía bắc thềm Sunda chạy lên vùng đất sau được gọi là bán đảo Ấn-Hoa và lên châu Á nội địa, lập ra những văn hóa phức tạp ở tây nam Trung Quốc, ở Miến Ðiện và Tây Tạng. Một số di vật rực rỡ của những nền văn minh cổ xưa này nay chỉ mới bắt đầu được khám phá (tr. 10)
Trong tất cả các cuộc di tản vừa giả thiết, những kẻ tỵ nạn về phía đông, phía Thái Bình Dương, chắc đã giữ được văn hóa nguyên thủy toàn vẹn hơn cả. Từ ấy cho đến lúc người Âu sang, họ luôn sống tương đối cách biệt với thế giới bên ngoài (...) Những du khách đầu tiên như thuyền trưởng Cook trong thế kỷ 18 đã không khỏi chú ý đến tình trạng xã hội nhiều đẳng cấp phức tạp và năng khiếu hải hành đặc biệt của họ. Tài đi biển cần thiết cho sinh tồn, còn xã hội giai cấp dường như muốn nói lên một quá khứ huy hoàng (tr. 11)
Ðời sống tinh thần của người Ða Ðảo tràn ngập thần thánh. Trong tất cả các nhóm Thần Mặt Trời luôn luôn đứng đầu và trong vài nhóm được gọi là Ra, y như ở Cổ Ai Cập. Hầu như không ngoại lệ, huyền thoại của họ đều nhắc đến một thứ địa đàng ở về phía tây hay tây bắc (...) Ðiều tôi đề xuất ở đây là những bước phát triển này (5) đã xảy ra ở Ðông Nam Á trước ở Tây Á, và khi di tản cư dân ÐNÁ đã đem sáng kiến của mình theo mà kích thích sự phát triển của các nền văn hóa Ðá Mới ở Trung Quốc, Ấn Ðộ, Lưỡng Hà, Ai Cập và Crete (tr. 11)
Giới thiệu phần I
(...) Trong nửa thứ nhất này của sách, để chứng minh giả thuyết Chạy Lụt tôi sẽ dùng bốn phương pháp quen thuộc của nhà tiền sử là địa chất học, khảo cổ học, ngôn ngữ học và di truyền học. Khi tổng hợp nên giả thuyết, tôi biết rằng có một số yếu tố hoàn toàn chắc chắn, một số khác là những khám phá mới nhưng đã ổn định, và một số khác nữa còn mang tính phỏng đoán và đang gây nhiều tranh luận (tr. 17)
Ðể làm mọi việc đơn giản, tôi sẽ bắt đầu với những tư liệu đã ổn định về các trận lụt (...) Trong hai mươi năm qua ngày càng có thêm nhiều bằng chứng cho thấy việc biển dâng sau Thời Ðại Băng Giá đã không diễn ra từ từ; ba lần băng sụp thình lình, lần cuối cách nay chỉ 8000 ngàn năm, đã gây thảm họa ở những bờ biển nhiệt đới có thềm lục địa phẳng (...) Ðiều chưa biết chắc chắn là ảnh hưởng cụ thể của những biến cố kinh hoàng này đối với cư dân ở Ðông Nam Á và các vùng duyên hải thuộc khu vực Ấn Ðộ - Thái Bình dương (tr. 17)
Hồ sơ hải dương cho thấy biển đã dâng ít nhất 120 mét trong ba trận lụt, bắt đầu cách nay khoảng 14000, 11500 và 8000 năm. Thời kỳ biển dâng nhanh này dẫn đến ba hệ quả liên hệ đến bằng chứng sinh hoạt loài người. Thứ nhất, ở ÐNÁ và Trung Quốc, nơi có thềm lục địa phẳng, mọi thứ bằng chứng về sinh hoạt ở các vùng duyên hải và vùng đất thấp cận duyên trước 8000 năm trước giờ đều nằm sâu dưới nước. Thứ hai, trong đợt biển dâng thứ ba và chót, nước đã lan rộng khắp thềm lục địa, và chỉ mới bắt đầu rút cách nay khoảng 5500 năm. Những khu định cư mới lập ra trong khoảng thời gian giữa biển tiến (lần 3) và biển lùi nay đều bị lấp dưới phù sa (...) Thứ ba, cư dân những vùng lụt tất nhiên phải di tản, đem theo mọi thứ sáng kiến qua nơi khác (tr. 18)
Những hệ quả đoán được này có để lại vết tích trên lịch sử cuộc Cách Mạng Ðá Mới ở khu vực Á - Âu. Những nước ở về phía bờ Thái Bình của châu Á dường như đã bắt đầu cách mạng khá lâu trước phía Tây, nhưng dường như đã dừng lại. Cách nay khoảng 12500 năm, không lâu sau trận lụt thứ nhất, đồ gốm xuất hiện ở phía nam nước Nhật. Khoảng 1500 năm sau đó có bằng chứng gốm xuất hiện ở Trung Quốc và bán đảo Ấn-Trung. Những niên đại gốm này sớm hơn niên đại gốm ở các khu vực Lưỡng Hà, Ấn Ðộ hay Ðịa Trung Hải từ 2500 đến 3500 năm. Ðá dùng để mài ngũ cốc hoang đã có mặt ở các đảo Solomon thuộc tây nam Thái Bình Dương 26000 năm trước, trong khi cư dân ở Thượng Ai Cập và Nubia dường như mới biết dùng cách nay khoảng 14000 năm, còn ở Palestine thì chỉ mới 12000 năm (tr. 18-19)
(...) Ở Cận Ðông (...) nồi gốm - thứ di vật bền bỉ ưa thích của các nhà khảo cổ - xuất hiện (...) 1000 năm sau nông nghiệp (...) Có quái lạ không, khi dường như cư dân ở Nhật, Trung Quốc và bán đảo Ấn-Trung biết làm nồi hàng mấy ngàn năm rồi mới biết trồng lúa! Tại sao có hiện tượng kỳ dị này? (tr. 19)
Do lụt, bằng chứng nông nghiệp sớm ở các vùng duyên hải nay hẳn đang chìm sâu dưới biển (tr. 20)
Tình trạng gần như trống không của tiền sử Ðá Mới ở ÐNÁ dẫn đến hai quan điểm khảo cổ đối chọi nhau. Một bên - bên đa số - chủ trương thời đại Ðá Mới ở ÐNÁ hải đảo bắt đầu có lẽ cách nay chỉ mới khoảng 4000 năm, do di dân xuống từ Trung Quốc thông qua Ðài Loan và Phi Luật Tân. Bên kia, trong đó có tôi, cho rằng tổ tiên của người ÐNÁ hiện đại đã sống ngay tại đó vào cuối Thời Ðại Băng Giá và chẳng những đã phát triển kỹ thuật hải hành và nông nghiệp sớm hơn dân Cận Ðông mà hơn 7000 năm trước còn đã bắt đầu chèo thuyền đi khắp Thái Bình dương và ghé khắp bến thuộc châu Á (tr. 20)
Chứng cứ sau cùng, và có lẽ nhiều sức thuyết phục hơn cả - về sự việc cư dân hiện tại của Ðông Nam Á vốn vẫn ở đấy từ Thời Ðại Băng Giá, rồi bắt đầu tứ tán khi biển dâng - nằm ngay trong những cái dzen trong người họ (xem chương 6 và 7). Những mốc dzen (gene markers) đặt thổ dân ÐNÁ ở ngay dưới gốc của những chủng hệ Á châu và cho thấy họ đã lang thang khắp bốn phương đến tận châu Mỹ và khu vực Trung Ðông. Một mốc đặc biệt - gọi là “đồ án Ða Ðảo” (“Polynesian motif”) vì tìm thấy ở quá nhiều người Ða Ðảo - xuất phát từ cư dân vùng đảo Maluku (Moluccas) ở đông Nam Dương trong Thời Ðại Băng Giá. Sự kiện cái mốc này đến nay vẫn chưa tìm thấy ở Trung Quốc, Ðài Loan hay Phi Luật Tân mâu thuẫn với thuyết đa số và gợi lên một tiền sử ÐNÁ xưa cũ hơn nhiều (tr. 20-21)
Giới thiệu phần II
Tôi tin rằng Ðông Nam Á là trung tâm sáng kiến sau Thời Ðại Băng Giá và rằng chính việc gieo rắc những sáng kiến này đã dẫn đến những bước nhảy vọt về kỹ thuật ở các nơi khác. Người Nam Ðảo có thể đã góp kỹ thuật hải hành, pháp thuật, tôn giáo, thiên văn học, khái niệm đẳng cấp và khái niệm vua. Người nói tiếng Nam Á có thể đã góp những sáng kiến thực tế hơn như việc trồng ngũ cốc, và cả nghề luyện đồng (tr. 221)
Những đợt di cư này tỏa ra từ hai trung tâm chủng-ngữ (ethno-linguistic) trên thềm Sunda cũ - quê hương của người Nam Ðảo ở đông Nam Dương quanh vùng Sabah, Sulawesi và Maluku, và quê hương của người Nam Á trên vùng đất nay là một phần của Biển Đông (VN) (tr. 222)
(...) những móc nối văn hóa có nguồn gốc cổ xưa nhất giữa ÐNÁ và Cận Ðông là những cái không lấy tay sờ được nhưng vẫn nằm bền bỉ trong phốt-cơ-lo (...) nội dung câu chuyện có thể sống lâu hơn tất cả những thứ ngôn ngữ đã được dùng để kể nó (tr. 224)
(...) chúng ta sẽ xem xét những thần thoại cốt lõi khác của truyền thống văn hóa Tây phương được chép bên cạnh thần thoại lụt trong mười chương đầu của Sáng Thế Ký (...) cho mỗi câu chuyện gốc ở Tây phương chúng ta lại tìm thấy một cội nguồn Ðông phương và một cách giải thích hợp lý hoặc từ Maluku hoặc từ bán đảo Ấn-Trung. Theo nhiều học giả trong thế kỷ này, cái bản chất kỳ dị, phức tạp và khó xảy ra của huyền thoại Tây phương hẳn đã trồi lên từ những đáy sâu của tiềm thức. Theo sự phân tích của tôi thì những đặc điểm ấy lại bắt nguồn từ một số ý đơn giản và cơ bản rất có thể đã xuất phát từ ÐNÁ rồi được kết hợp đi kết hợp lại đến khi biến thành những huyền thoại vừa rối rắm vừa huy hoàng được chép lại lần đầu trên những con dấu và thẻ ở Lưỡng Hà vào buổi bình minh của lịch sử (tr. 225)
Lời kết
(...) có bằng chứng là 8000 năm trước ở một số vùng cao thuộc Sumatra và Java đã từng có những khoảnh rừng lớn bị dọn trống (tr. 476)
(...) Wilhelm Solheim cho rằng những cư dân sớm của ÐNÁ hải đảo vào lúc này đã biết trồng củ, thuần hóa thú, thu hoạch cây và thạo nghề đi biển. Rất có thể họ đã nói những thứ tiếng tiền thân của tiếng Nam Ðảo sau này (...) Họ có thể đã hoàn chỉnh một mạng lưới mậu dịch đường biển tỏa lên tận Nhật và Hàn 7000 năm trước (...) Họ hàng của họ, rất có thể đã nói tiếng Nam Á, định cư trên ÐNÁ lục địa tách biệt hẳn với họ và có để lại di vật. Từ lâu vẫn bị tưởng nhầm là còn ở thời kỳ săn bắn - hái lượm, những người Hòa Bình và Bắc Sơn thực ra đã thạo các nghề định cư như trồng củ, trồng lúa và làm nồi gốm (tr. 476)
Tôi đã dành phần lớn chương I vào cố gắng thuyết phục rằng người Nam Ðảo đã đông tiến vào Thái Bình dương sớm hơn, khoảng hơn 6000 năm trước. Cố gắng ấy có mục đích cụ thể. Mặc dầu việc tiến vào Thái Bình dương không liên hệ trực tiếp với tình hình văn hóa lan tỏa từ Ðông sang Tây, vấn đề thời điểm sẽ làm đảo lộn hết quan điểm cổ điển về tiền sử ÐNÁ. Nói đơn giản, giả thuyết phổ thông hiện nay về một “chuyến xe lửa tốc hành từ Trung Quốc ra Ða Ðảo” tùy thuộc vào một niên đại trễ cho chuyến xe ấy, tức mới khoảng năm -1500. Nếu chuyến xe thực ra chẳng những đã không bao giờ đến gần Trung Quốc mà đã rời ÐNÁ ngay sau trận lụt chót, thì sẽ hoàn toàn hợp lý khi giả sử rằng có một số kẻ phiêu lưu khác đã dong buồm thẳng về hướng tây cũng vào thời ấy (tr. 476)
Hồ sơ khảo cổ về những thành tựu của phương Ðông tiền sử gồm nhiều khoảng trống hơn là sự kiện, nhưng nó chứa những mảnh vụn gợi nhiều mất mát hơn phương Tây vẫn tưởng. Vài trong số những mảnh sớm nhất là những thuyền nhân đã đến các đảo Solomon gần 30000 năm trước, những món đồ gốm làm ở Nhật 12500 năm trước, những cư dân vùng cao ở New Guinea từng tháo cạn nước đầm lầy để trồng khoai môn 9000 năm trước, những niên đại trồng lúa sớm bất ngờ ở bán đảo Mã Lai mang ý nghĩa rất có thể chính dân nơi đây sau đó đã đem nông nghiệp lúa vào Ấn (tr. 476)
Trên lục địa châu Á, từ cuối trận lụt chót, chúng ta bắt đầu thấy những khu định cư Tân Thạch “mới” dọc theo duyên hải phía đông và nam của Trung Quốc và ở Việt Nam. Nhưng những nhà khảo cổ Ðông phương nhạy bén đã nảy ra ý thử nhìn bên dưới lớp phù sa mới đắp trên những dải đất ven biển bằng phẳng này, và quả nhiên họ tìm thấy dấu vết những văn hóa Tân Thạch sớm hơn, trước lụt. Ở Thái Lan và Việt Nam từ thiên kỷ -5 cũng bắt đầu thấy xuất hiện những khu định cư trong nội địa, chẳng hạn ở Ban Chiang. Có lẽ cư dân ở đây là dân sống ven biển chạy lụt (...) Nền văn hóa San Xing Dui ở Trung Quốc (tỉnh Tứ Xuyên), thuộc Thời Ðại Ðồng và có niên đại cách nay khoảng 3200 năm, cũng có nhiều móc nối văn hóa với ÐNÁ hải đảo hơn là với Hoa Bắc (tr. 477)
Về bằng chứng đã xảy ra chuyện thiên di về hướng tây, chúng ta có thể dẫn ngay sự hiện diện của người Munda ở trung Ấn, tại những nơi tìm thấy dấu vết trồng lúa đầu tiên, có lẽ khoảng 7000 năm trước. Người Munda có liên hệ cả về chủng tộc lẫn ngôn ngữ với những người Môn--Khơ-me ở Ðông Dương, và dù cách biệt nhau hàng ngàn ki-lô mét và hàng ngàn năm, vẫn dùng chung nhiều từ thuộc văn hóa lúa cũng như một số thuật ngữ thời đồng đỏ - đồng pha. Ðiều này có thể là chứng cứ khi tây tiến họ đã đem theo một văn hóa đã định hình (tr. 478)
Chúng ta cũng đã tìm thấy móc nối về di truyền và ngôn ngữ giữa những thuyền nhân Nam Ðảo với một số dân tộc ở miền nam Ấn. Tuy liên hệ về ngôn ngữ ở đây kém hiển nhiên so với tình hình ở phía bắc, những mốc dzen cổ xưa rõ ràng dẫn ta về vùng ÐNÁ hải đảo. Có thể những vị khách lạ đầu tiên từ phương đông chính là giống người Naga huyền thoại từng du nhập gia vị và tục thờ rắn (tr. 478)
(...) Những mốc dzen này tương ứng với một độ da dạng cao, do đó cho ta biết di dân đã ở lại lâu dài tại Nam Á. Một số mốc độc đáo khác trong nhóm dzen globin lại cho thấy một dòng chảy từ Ðông sang Tây xuyên qua Ấn Ðộ mà đến tận Lưỡng Hà (tr. 479)
(...) Mốc dzen cũng bắc hành lên tận vùng nồi nấu dzen (genetic melting pot) ở chân núi phía đông của Hy Mã Lạp Sơn. Hiện tượng này củng cố lập trường cho rằng dân hỗn tạp ở đây là những kẻ tỵ nạn ngược sông từ phương nam chứ không phải là những tiền nhân của một cuộc phân tán từ Tây Tạng. Bức tranh di truyền như thế vẽ nên một cuộc phân tán cổ xưa từ ÐNÁ ra khắp bốn phương theo với nước lụt (tr. 479)
Cá nhân tôi cho rằng mặc dầu đã có xảy ra chuyển giao kỹ thuật lớn lao (từ Đông sang Tây) trong một thời gian dài, những bài học mới quan trọng nhất từ phương Ðông là (...) làm cách nào dùng đẳng cấp, chính trị, pháp thuật và tôn giáo để khống chế thành quả lao động của kẻ khác (tr. 483)
(...) Ở Ai Cập và Lưỡng Hà những nhà cai trị đầu tiên đều hoặc là thần thánh hoặc là chức sắc, và đều được sự ủng hộ của một giai cấp chức sắc. Vào một thời điểm nào đó, ai đó đã nảy sáng kiến biến thiên văn học - vốn là thứ kiến thức thực dụng trong nông nghiệp và hải hành mà người Ðông phương nhất định đã thành thạo - thành khoa “chiêm tinh” nhằm lung lạc quần chúng (...) Các chiêm tinh gia ở Lưỡng Hà đã đoán hậu vận bằng cách xem xét bộ lòng của một con thú, y như hiện nay người ÐNÁ, từ dân quê đến bậc vương giả, vẫn còn làm (tr. 484)
(...) Ở Anh quốc, “biết chỗ đứng của mình” mới cách nay vài thập kỷ hãy còn là cơ bản trong sinh hoạt xã hội. Vậy mà cái cơ cấu giai cấp đè nặng lên nước Anh hơn bất kỳ nước nào khác ở Âu châu vẫn chưa là gì so với những hệ thống đẳng cấp hiện vẫn tồn tại trong những xã hội Nam Ðảo truyền thống từ Madagascar đến Bali đến Samoa. Tiếng Bali vẫn bảo lưu nhiều danh hiệu giúp người tầng lớp này xưng hô với tầng lớp khác cho đúng cách. Từng ngôi làng ở Samoa vẫn còn quý tộc. Cái ám ảnh giai cấp này như thế rõ ràng không phải là một tập tục mà người Nam Ðảo mới học lại từ người Ấn (tr. 484)
Cuộc hành trình đi tìm quá khứ mà tôi vừa thuật lại bắt đầu từ một câu nói tình cờ của một cụ già trong một ngôi làng Thời Ðại Ðá ở Papua New Guinea. Từ những thắc mắc chuyên môn về tình hình dzen và bệnh sốt rét trên hòn đảo ấy, tôi đã đi đến nhận thức rằng những trận lụt hậu kỳ Băng Giá đã làm những cư dân biết trồng trọt và biết đi biển vốn sống ven biển ở ÐNÁ phải tẩu tán khắp bốn phương, đến đâu gieo mầm văn hóa đến đấy. Âm vang của những đợt thiên di này vẫn còn nghe thấy được ở phương Tây trong những văn bản cổ như Huyền thoại Gilgamesh và mười chương đầu của Sáng Thế Ký. Một số ý chính của cổ thư vẫn bàng bạc khắp toàn bộ văn chương kinh điển tự cổ chí kim (tr. 485)
Và những gì còn lại ở Ðông Nam Á ngày nay chỉ có thể giúp ta nhìn thoáng thấy Ðịa Ðàng đã mất (tr. 485)
_________________
Chú thích của người dịch:
Nguyên tác tiếng Anh: Eden in the East - The Drowned Continent of Southeast Asia, xuất bản lần đầu năm 1998 ở Anh quốc, do nhà Weidenfeld & Nicolson. Bản dịch này căn cứ vào ấn bản năm 2001, do nhà Phoenix, cũng ở Anh quốc. Stephen Oppenheimer tốt nghiệp Y khoa ở Ðại học Oxford, Anh quốc, năm 1971. Trong vài chục năm qua Oppenheimer chủ yếu sống ở vùng Viễn Ðông và Thái Bình Dương, nơi ông nghiên cứu nhi khoa nhiệt đới, đặc biệt là bệnh sốt rét. Chính trong khi xem xét tình hình phân bố một số đặc tính di truyền giúp miễn nhiễm mà ông nảy ra ý thử tìm hiểu về văn hóa Đông Nam Á cổ.
(1) Ethnographers, tức những người nghiên cứu tình hình phân bố của các chủng tộc hoặc dân tộc và mối liên hệ giữa họ với sinh môi.
(2) Blinkered, tức bị một cái gì đấy ám ảnh làm mờ lý trí.
(3) Hoàng Hải nằm giữa Trung Quốc và bán đảo Triều Tiên, đại khái ngoài khơi tỉnh Sơn Ðông. Gọi là Biển Vàng có lẽ vì chứa nhiều phù sa của sông Hoàng Hà.
(4) Ðông Hải đây là East China Sea, tức Biển Đông từ góc nhìn của người Trung Quốc, chứ không phải Biển Đông của ta, mà họ gọi là Nam Hải (South China Sea). Ðông Hải TQ đại khái kéo dài từ bắc Ðài Loan lên đến nam Nhật Bản, ngoài khơi các tỉnh Phúc Kiến, Triết Giang, Giang Tô.
(5) Tức chẳng hạn việc trồng lúa, chia đẳng cấp xã hội, khái niệm vua, pháp thuật, tôn giáo, thiên văn. (Xem dòng trước dòng được trích dịch.)
Chú thích của người dịch:
Nguyên tác tiếng Anh: Eden in the East - The Drowned Continent of Southeast Asia, xuất bản lần đầu năm 1998 ở Anh quốc, do nhà Weidenfeld & Nicolson. Bản dịch này căn cứ vào ấn bản năm 2001, do nhà Phoenix, cũng ở Anh quốc. Stephen Oppenheimer tốt nghiệp Y khoa ở Ðại học Oxford, Anh quốc, năm 1971. Trong vài chục năm qua Oppenheimer chủ yếu sống ở vùng Viễn Ðông và Thái Bình Dương, nơi ông nghiên cứu nhi khoa nhiệt đới, đặc biệt là bệnh sốt rét. Chính trong khi xem xét tình hình phân bố một số đặc tính di truyền giúp miễn nhiễm mà ông nảy ra ý thử tìm hiểu về văn hóa Đông Nam Á cổ.
(1) Ethnographers, tức những người nghiên cứu tình hình phân bố của các chủng tộc hoặc dân tộc và mối liên hệ giữa họ với sinh môi.
(2) Blinkered, tức bị một cái gì đấy ám ảnh làm mờ lý trí.
(3) Hoàng Hải nằm giữa Trung Quốc và bán đảo Triều Tiên, đại khái ngoài khơi tỉnh Sơn Ðông. Gọi là Biển Vàng có lẽ vì chứa nhiều phù sa của sông Hoàng Hà.
(4) Ðông Hải đây là East China Sea, tức Biển Đông từ góc nhìn của người Trung Quốc, chứ không phải Biển Đông của ta, mà họ gọi là Nam Hải (South China Sea). Ðông Hải TQ đại khái kéo dài từ bắc Ðài Loan lên đến nam Nhật Bản, ngoài khơi các tỉnh Phúc Kiến, Triết Giang, Giang Tô.
(5) Tức chẳng hạn việc trồng lúa, chia đẳng cấp xã hội, khái niệm vua, pháp thuật, tôn giáo, thiên văn. (Xem dòng trước dòng được trích dịch.)
- DI CHỈ VĂN HÓA LƯƠNG CHỬ LÀ KINH ĐÔ NƯỚC XÍCH QUỶ?
-
Hà Văn Thùy
Trong tất cả những nền văn hóa tiền sử được phát hiện trên đất
Trung Hoa, văn hóa Lương Chử có vai trò đặc biệt quan trọng. Là nền văn
hóa có diện tích bao phủ lớn nhất, với lượng hiện vật lớn và tiến bộ
nhất, với ký tự vào loại sớm nhất được phát hiện và đặc biệt là tòa
thành lớn, được xây dựng vững chắc nhất… Lương Chử là di tích của kinh
đô nhà nước cổ đại đầu tiên ở phương Đông. Do vậy, đó là nền văn hóa góp
phần quyết định soi sáng lịch sử phương Đông.
Trong bài này, cùng với việc giới thiệu những nét tiêu biểu của văn hóa Lương Chử, người viết lần đầu tiên đưa ra nhận định về vai trò của nó trong lịch sử.
I. Giới thiệu văn hóa Lương Chử (1)
Văn hóa Liangzhuđược phát hiện năm 1936 tại trấn Lương Chử, huyện Dư, thành phố Hàng Châu, tỉnh Chiết Giang, là nền văn hóa khảo cổ Hậu kỳ Đá Mới, tồn tại từ 3300 tới 2200 năm TCN, do văn hóa Mã Gia Bang và văn hóa Tung Trạch phát triển lên.
Văn hóa Liangzhu phân bố chủ yếu ở Thái Hồ, thuộc lưu vực sông Dương Tử, nơi người Việt cổ định cư, bao
gồm Dư Hàng Liangzhu, Nam Gia Hưng, Đông Thượng Hải, Tô Châu, Thường
Châu, Nam Kinh. Di chỉ còn được mở rộng ra phía tây đến An Huy, Giang
Tây, phía bắc tới bắc Giang Tô, lan tỏa tới gần Sơn Đông. Văn hóa Lương
Chử còn ảnh hưởng tới phía nam Sơn Tây. Vào thời điểm đó, sức mạnh của
Liangzhu chiếm một nửa Hoa lục, nếu trình độ kinh tế và văn hóa không
cao, thì không thể thực hiện được.
Văn
hóa ngọc Lương Chử đại diện cho làn sóng thứ hai của nền văn hóa ngọc
bích thời tiền sử phương Đông (làn sóng đầu tiên là văn hóa ngọc Hồng
Sơn, lưu vực sông Lao Hà, vùng Nội Mông). Ngọc bích có
tông, việt, hoàng (ngọc bán nguyệt), ngọc hình vương miện, ngọc hình
đinh ba, vòng tay, ngọc hình ống, Amanda, mặt dây chuyền, ngọc hình trụ,
hình nón, nhẫn ngọc. Ngọc thờ cúng (tông, bi, rìu) được đề cao, sau này được các vương triều Trung Nguyên thừa kế.
Công
cụ bằng đá khai quật ở Liangzhu có đá hình lưỡi liềm, đầu mũi tên, dáo,
rìu đục lỗ, dao đục lỗ, đặc biệt là cày đá và dụng cụ nhổ cỏ được sử
dụng, cho thấy nông nghiệp bước vào giai đoạn dùng cày. Đồ gốm đánh bóng màu đen là đặc điểm của gốm Lương Chử.Trên
gốm và ngọc bích xuất hiện một số lượng lớn các ký tự đơn hoặc nhóm
mang chức năng văn bản, các học giả gọi là "văn bản gốc." “Văn bản gốc”
cho thấy giai đoạn bắt đầu trưởng thành của ký tự tượng hình. Ký tự là
dấu hiệu quan trọng của xã hội văn minh (2).
Di tích thành phố cổ Liangzhu có thể được gọi là "thành phố phương Đông đầu tiên", là cái nôi của nền văn minh Trung Hoa, "bình minh của nền văn minh" phương Đông, là thánh địa của văn minh phương Đông, được xếp vào "Danh sách Di sản thế giới"
Thành
phố cổ ở phía bắc và phía nam thuộc về một nhánh của dẫy Thiên Mục Sơn.
Các bức tường thành được dựng ở phía tây nam và đông bắc, vì vậy các
chuyên gia kết luận rằng người xưa xây dựng thành phố về mặt địa lý một
cách cẩn thận và có quy hoạch.
Thành
phố cổ có bức thành theo hướng đông tây dài 1.500-1.700 m, chiều
Bắc-Nam khoảng 1.800-1.900 mét, hình chữ nhật hơi tròn. Một số phần của
bức thành còn lại cao 4 mét, mặt cắt 40 mét bề mặt, đáy 60 mét (so sánh
với bức tường thành phố cổ Tây An được xây dựng trong những năm Hồng Vũ
nhà Minh, chân thành 18 mét mặt rộng 15 m) bằng đất hoàng thổ nguyên
chất, đưa từ nơi khác tới, được đầm nén kỹ. Thành phía tây dài khoảng
1000 m, có mặt cắt từ 40 đến 60 mét, phía nam liền với Phượng Sơn, bắc
tiếp Đông Thiều Hoát. Tiếp theo, bức tường phía nam, bức tường phía bắc
và bức tường phía đông, ở dưới đáy đều có móng bằng đá, cùng khối lượng
lớn hoàng thổ được đầm nén. So với bức tường phía tây, ba mặt kia của
bức tường tương đối phức tạp hơn: rất nhiều nền đá được khai quật, những
bức tường đá bên ngoài tương đối lớn, bên trong nhỏ hơn. Thành đắp bằng
hoàng thổ, đôi khi thêm một lớp đất sét màu đen, tăng khả năng chống
thấm. Các nhà khảo cổ cho rằng những dấu vết còn lại chứng tỏ bức thành
phía tây được xây dựng đầu tiên, cho đến khi có kinh nghiệm xây dựng ba
bức thành kia.
Từ
vị trí, sự bố trí và đặc điểm cấu trúc của thành cổ Liangzhu được phát
hiện, các chuyên gia tin rằng có những cung điện, nhà vua và giới quý
tộc sống, chính là kinh đô của thời kỳ Liangzhu. Các nhà khảo cổ tin
rằng thành phố cổ đó thực sự là "nhà nước Liangzhu cổ đại." Việc phát
hiện thành phố cổ Liangzhu khiến cho một số người nghĩ rằng thứ thế các
triều đại của Trung Quốc nên được viết lại: hiện nay các triều đại Hạ,
Thương, Chu được coi là sớm nhất, nhưng vai trò này cần được trả cho
Liangzhu!
Năm
1986 -1987, di chỉ Phản Sơn Liangzhu được phát hiện. 11 ngôi mộ lớn
được khai quật, thu hơn 1200 miếng gốm, đá, ngà voi và ngọc khảm sơn
mài. Trong những năm gần đây, di chỉ văn hóa Liangzhu được tìm thấy tăng
từ 40 lên đến 135 địa điểm, với những làng, nghĩa trang, bàn thờ và các
di tích khác. Một số lượng lớn vật tùy táng được khai quật từ các ngôi
mộ, chiếm hơn 90% là ngọc bích, một biểu tượng của sự giàu có và quyền
thế. Ngọc rìu là một biểu tượng của sức mạnh quân sự và cung cấp thông
tin có giá trị. Đây là bộ sưu tập ngọc lớn nhất thế giới được tái xác
định, đặt tên, vì vậy đã đính chính sự nhầm lẫn lúc đầu cho là thuộc
thời Hán Vũ đế (thực sự là ngọc Liangzhu) đẩy lịch sử về phía trước 2000
năm.
Năm
1994 cũng tìm thấy các cơ sở xây dựng siêu khổng lồ, có diện tích hơn
300.000 m2, xác nhận sự bồi đắp nhân tạo của hoàng thổ, dày tới 10,2
mét, kỹ thuật và quy mô rộng lớn của nó vào loại hiếm trên thế giới.
Nghiên
cứu khảo cổ học cho thấy giai đoạn văn hóa Liangzhu, nông nghiệp đã bắt
đầu tiến vào thời kỳ cày đất, thủ công mỹ nghệ trở nên chuyên nghiệp
hơn, công nghiệp chế tác ngọc đặc biệt phát triển. Việc xuất hiện lượng
lớn ngọc bích thờ cúng đã mở ra khúc dạo đầu nghi thức xã hội, sự phân
biệt giữa lăng mộ lớn của quý tộc và mộ dân thường cho thấy sự gia tăng
của phân tầng xã hội. Ý nghĩa của sự phân biệt giàu nghèo cho thấy là
thông qua một số loại quyền lực xã hội đè lên xã hội gia tộc mà hình
thành. Công trình xây dựng số lượng lớn các ngôi mộ lớn đòi hỏi một mức
độ nhất định trật tự xã hội được đảm bảo, nếu không khó có thể thực
hiện. Việc xây dựng một xã hội có sự khác biệt tầng lớp tạo ra được liên
kết chặt chẽ. Có thể nói, trong giai đoạn văn hóa Liangzhu, gia tộc và
bộ tộc đã nổi lên với các nhà lãnh đạo chính quyền tập trung, một số
lượng lớn sức lao động được tổ chức, hình thành một cấu trúc xã hội quy
mô lớn.
Sự
tồn tại của quyền lực xã hội cũng được phản ánh đầy đủ trong sản xuất
ngọc bích. Chế tác ngọc là một quá trình lao động nhiều bước phức tạp,
do đó, ngọc bích là một sản phẩm thủ công mỹ nghệ chuyên nghiệp. Các đồ
trang trí thủ công đẹp nhất, cho biết mỗi miếng ngọc bích thể hiện rất
nhiều thành quả lao động, với trình độ cao. Điều này chứng tỏ sự phân
công giữa lao động trí óc và chân tay đã hình thành.
Trong
văn hóa ngọc Liangzhu có một mô hình rất bí ẩn liên tục xuất hiện, một
motipe đặc biệt khốc liệt của chiến trận, không thể không gợi nhớ tới
chiến binh Si Vưu. Si Vưu là lịch sử cổ xưa của Đông Nam man huyền
thoại, chiến đấu và chiến thắng lặp đi lặp lại, tôn kính như vị thần
chiến tranh. Văn hóa rìu đá Liangzhu phát triển cao, cho thấy rằng người
Liangzhu có vũ khí tinh nhuệ và dũng mãnh trong chiến trận.
Sau
khi Si Vưu bị vương triều Hoàng Đế đánh bại, văn hóa Liangzhu bước vào
thời kỳ suy thoái. Truyền thuyết nói một vài bộ lạc liên minh với Si Vưu
gồm nhóm Đông Di, Sơn Đông và các bộ lạc sống trong lưu vực sông Dương
Tử. Tù trưởng bộ tộc Si Vưu có một liên minh bộ lạc lớn được gọi là Cửu
Lê, phạm vi của nó bao gồm tất cả các nền văn hóa Liangzhu bản địa,
người Lê Liangzhu mạnh mẽ nên đứng đầu Cửu Lê. Trong Cửu Lê có một chi
gọi là Vũ nhân hoặc Vũ dân. Họ suy tôn chim, thú, làm tổ tiên, và do đức
tin đó, thờ phượng chim, thú. Theo mô hình bí ẩn trên nền văn hóa ngọc
bích Liangzhu, con chim con thú, là vật tổ của người Liangzhu. Vì vậy,
rất có thể người Liangzhu là Vũ nhân hoặc Vũ dân.
Trong
các di chỉ lớn của nền văn minh tiền sử phương Đông, thì Liangzhu lớn
nhất, mức phát triển cao nhất. Các nhà khảo cổ ngày 29 Tháng 11 năm 2007
tại Hàng Châu, thông báo rằng 5000 năm trước, thành phố cổ diện tích
hơn 2.900.000 m2 đã được tìm thấy trong vùng lõi của di tích Liangzhu.
Giáo sư Đại học Bắc Kinh Nghiêm Văn Minh và các nhà khảo cổ khác chỉ ra
rằng đây là các di chỉ thành phố giai đoạn văn hóa Liangzhu lần đầu tiên
được phát hiện ở khu vực sông Dương Tử, có thể được gọi là "thành phố
phương Đông đầu tiên." Thành phố cổ Liangzhu cho thấy nền văn hóa
Liangzhu 5.000 năm trước đã bước vào một giai đoạn phát triển trưởng
thành của nền văn minh thời tiền sử. Nằm trong lãnh thổ Dư huyện, "nhóm
di chỉ Liangzhu" là trung tâm văn hóa Liangzhu. Ban Di sản Quốc gia cho
biết: nhóm di sản Liangzhu sẽ trở thành đền thờ năm ngàn năm của nền văn
minh Trung Quốc.
II. Khảo cổ soi sáng lịch sử
Từ những tri thức hiện có cho phép đưa ra nhận định sau:
Cho
tới 5000 năm trước, trên lục địa Đông Á, người Việt cổ đã xây dựng nền
nông nghiệp phát triển. Do cày được đưa vào trồng trọt nên năng suất lao
động tăng, lương thực dư thừa, kích thích hoạt động thủ công và thương
mại. Một mạng lưới buôn bán ngọc bằng đường biển hình thành, đưa ngọc
được khai thác từ các mỏ ở Đài Loan tới các quốc gia quanh Biển Đông.
Do
phải chung tay trị thủy hai dòng sông Hoàng Hà và Dương Tử nên các bộ
tộc nông nghiệp phải liên minh với nhau và nhà nước cổ đại hình thành từ
rất sớm. Thời kỳ này các tộc du mục ở bờ bắc Hoàng Hà và phía tây tăng
cường cướp phá khu vực dân cư nông nghiệp trù phú. Do yêu cầu chống xâm
lăng nên sự liên minh giữa các bộ lạc người Việt, cùng huyết thống, cùng
tiếng nói và văn hóa trở nên chặt chẽ hơn.
Có
thể lúc này hai nhà nước cổ ra đời: phia tây là nhà nước Ba Thục gồm
vùng đất Ba Thục phía tây Trung Quốc và Thái Lan, Miền Điện do vị vua
thần Can Công lãnh đạo. Ở phần còn lại của Hoa lục, cùng với Đông Dương
là nhà nước do Thần Nông trị vì. Vương quốc của Thần Nông rất rộng lớn,
gồm lưu vực Hoàng Hà và Dương Tử. Theo tiến trình Bắc tiến của người
Việt, lưu vực sông Dương Tử điều kiện tự nhiên thuận lợi và được khai
thác sớm nên có sự phát triển trước, trở thành trung tâm lớn mạnh về
kinh tế, văn hóa, chính trị, quân sự. Do vị trí đặc biệt của nó nên vùng
Lương Chử của Thái Hồ trở thành kinh đô của các vương triều Thần Nông.
Khoảng
năm 4879, Đế Minh, hậu duệ của Thần Nông chia đất, phong vương cho con
là Đế Nghi cai quản lưu vực Hoàng Hà và Kinh Dương Vương cai quản lưu
vực Dương Tử. Như trong truyền thuyết, Kinh Dương vương lập nước Xích
Quỷ, địa giới phía bắc tới nam Dương Tử, phía đông là Biển Đông, phía
Tây giáp Ba Thục và phía nam tới miền Trung Việt Nam.
Trong
thời kỳ này, các bộ lạc du mục phía bắc tăng cường cướp phá phía nam
Hoàng Hà. Tình thế này buộc nhà nước của Đế Nghi và Kinh Dương Vương và
sau này là Đế Lai và Lạc Long Quân tăng cường vũ trang và liên minh với
nhau chống giặc.
Khoảng
năm 4698, liên quân của các bộ lạc Mông Cổ do họ Hiên Viên dẫn đầu mở
cuốc tấn công lớn vào Trác Lộc bờ nam Hoàng Hà. Liên quân Việt của Đế
Lai và Lạc Long Quân chống trả ngoan cường nhưng rồi thất bại. Đế Lai tử
trận.
Một
kịch bản tôi từng đề xuất là, sau thất bại này, Lạc Long Quân dẫn đoàn
quân dân Việt lên thuyền theo Hoàng Hà ra biển, đổ bộ vào Nghệ An. Tại
đây ông được người địa phương đón tiếp, sau đó tôn con trưởng của ông
lên làm vua, gọi là Hùng Vương, lập kinh đô ở Việt Trì, đặt tên nước là
Văn Lang. Dựa vào địa giới trùng nhau của Văn Lang và Xích Quỷ, có thể
cho rằng, đây là việc dời đô và đổi quốc hiệu của triều đình Lạc Long
Quân. Tại kinh đô Việt Trì, các triều đình của Hùng Vương tiếp tục lãnh
đạo dân Văn Lang-Xích Quỷ xây dựng đất nước và chi viện cuộc kháng chiến
trường kỳ của người dân lưu vực Hoàng Hà. Khoảng năm 4300, do cuộc xâm
lăng của vương triều Hoàng Đế, nhà nước Hùng Vương không còn quản lý
được vùng đất này, kinh đô Lương Chử bị bỏ phế. Văn hóa Lương Chử suy
vong…
Trên
đây là sự đoán định của tôi về quá trình hình thành và tan rã của nhà
nước đầu tiên ở phương Đông mà kinh đô là Lương Chử. Sự đoán định dựa
trên cơ sở sau:
1.
Về thời điểm: văn hóa Lương Chử nảy sinh, suy đồi trùng với thời gian
truyền thuyết về việc xuất hiện vua Thần Nông rồi Đế Minh chia đất,
phong vương cho Kinh Dương Vương lập nước Xích Quỷ. Tiếp đó và việc hình
thành nhà nước Văn Lang.
2. Về địa giới: văn hóa Lương Chử phân bố rộng trong địa giới của nhà nước Xích Qủy huyền thoại.
3.
Truyền thuyết về nhà nước Xích Quỷ rất phổ biến trong các tộc người
phương Đông. Điều này cho thấy, chỉ duy nhất nhà nước Xich Quỷ từng xuất
hiện nơi đây trong quá khứ.
4. Hình trong ngọc Lương Chử thường khắc " thần nhân thú diện-神人獸面"
để tôn thờ mà ngày nay các nhà nghiên cứu nghĩ rằng đây là Viêm Đế hoặc
Si Vưu v v... Cái mà người ta gọi là " thú diện" thì đây chính là gương
mặt của con rồng, từ thời Tần, Hán cho đến ngày nay người ta vẫn vẽ
gương mặt của con rồng như vậy. Đây chính là dấu ấn "con Rồng cháu tiên"
như truyền thuyết của người Việt. Học giả Trung Quốc gọi dân cư Lương
Chử là “Vũ nhân hay Vũ dân.” Do vũ và bàng cùng thuộc về chim nên có thể hiểu người dân thờ chim này nhận mình là Hồng Bàng, như trong truyền thuyết về họ Hồng Bàng.
5.
Dân cư Lương Chử là hai chủng người Việt cổ Indonesian và Melanesian.
Đó cũng chính là hai chủng người Việt từ 40.000 năm trước đi lên khai
phá Trung Hoa, đã mang công cụ đá mới Hòa Bình lên, rồi sáng tạo đồ gốm
đầu tiên và cây lúa đầu tiên ở di chỉ Động Người Tiên phía Nam Dương Tử.
6.
Qua nhiều ký tự được khắc trên ngọc Lương Chử cho thấy, vào thời Lương
Chử, chữ của người Việt đã trưởng thành. Chữ Lương Chử thô sơ hơn Giáp
Cốt văn Ân Khư và có trình độ tương đương với chữ khắc trên đá Cảm Tang,
cho thấy, có sự thống nhất về văn hóa rộng lớn trong quốc gia Xích Quỷ ở
phía nam Dương Tử. Chữ Lương Chử, Cảm Tang là tiền bối của Giáp Cốt văn
Ân Khư.
7. Trong tài liệu Về Thiên-đài nơi tế cáo của vua Minh, bác sĩ Trần Đại Sĩ ghi cuộc điều tra điền dã của ông như sau:
“Thiên-đài là ngọn đồi nhỏ, cao 179m, đỉnh tròn có đường thoai thoải đi lên. Trên đỉnh có ngôi chùa nhỏ, nay để hoang…
Tại
thư viện Hồ-nam tôi tìm được một tài liệu rất cũ, giấy hoen ố, nhưng
chữ viết như phượng múa rồng bay, gồm 60 trang. Đầu đề ghi: “Thiên-đài
di sự lục. Trinh-quán tiến sĩ Chu Minh-Văn soạn.” Trinh-quán là niên
hiệu của vua Đường Thái-Tông, từ năm Đinh-Hợi (627) đến Đinh-Mùi (647)
nhưng không biết Chu đỗ tiến-sĩ năm nào ?
Tuy
sách do Chu Minh-Văn soạn, nhưng dường như bản nguyên thủy không còn.
Bản này do người sau sao chép lại vào đời Thanh Khang-Hy. Nội dung sách
có ba phần. Phần của Chu Minh-Văn sọan, phần chép tiếp theo Chu
Minh-Văn, của một sư ni tên Đàm-Chi, không rõ chép vào bao giờ. Phần thứ
ba chép pháp danh các vị trụ trì từ khi lập chùa tới thời Khang-Hy
(1662-1772).
Tài
liệu Chu Minh-Văn cũng nhắc lại việc vua Minh đi tuần thú phương Nam,
kết hôn với nàng tiên sinh ra Lộc Tục. Vua lập đàn tại núi này để tế cáo
trời đất, vì vậy đài cũng mang tên Thiên-đài núi cũng mang tên
Thiên-đài sơn. Minh-Văn còn kể thêm :
«
Cổ thời trên đỉnh núi chỉ có Thiên-đài thờ vua Đế Minh, vua Kinh-Dương.
Đến thời Đông-Hán, một tướng của vua Bà tên Đào Hiển-Hiệu được lệnh rút
khỏi Trường-sa. Khi rút tới Quế-dương ông cùng nghìn quân lên Thiên-đài
lễ, nghe người giữ đền kể sự tích xưa. Ông cùng quân sĩ nhất định tử
chiến, khiến Lưu Long thiệt mấy vạn người mới chiếm được núi. Về đời
Đường để xóa vết tích Việt-Hoa cùng Nam Bắc, các quan được sai sang đô
hộ Lĩnh-Nam mới cho xây chùa tại đây ».(5)
Tài
liệu này là chứng cứ cho thấy truyền thuyết Đế Minh tuần thú phương
Nam, tới núi Thiên Đài lập đàn tế cáo trời đất xuất hiện từ xa xưa và
phổ biến ở vùng Giang Nam. Đó cũng là thêm bằng chứng về việc ra đời
nước Xích Quỷ.
8.
Thục Thư trong Tam Quốc Chí viết rằng, Hứa Tịnh là người phía bắc, tỵ
nạn xuống miền nam, sau này làm quan viết sử cho Lưu Bị, lên tới chức Tư
đồ (司徒).
Trước trận Xích Bích, Tào Tháo sai người do thám hậu phương của Lưu Bị
và Tôn Quyền. Vì nể tình quen biết với người của Tào Tháo đã cậy nhờ nên
Hứa Tịnh viết thư vắn tắt cho Tào Tháo biết rằng: Ông đã đi từ Hội Kế (Cối Kê - Hàn Châu ngày nay), qua Giao Châu, Đông Âu, Mân Việt, cả vạn dặm mà không thấy đất Hán.
[许靖给曹操的信说:从会稽“南至交州,经历东瓯、闽越之国,行经万里,不见汉地” – Từ Hội Kế nam chí Giao Châu, kinh lịch Đông Âu, Mân Việt chi quốc, hành kinh vạn lý, bất kiến Hán địa.]
Bốn chữ bất kiến Hán địa (不见汉地
) của Hứa Tịnh chứng tỏ rằng: Phía nam, dù đã nằm trong quốc gia Hán
mấy trăm năm nhưng không phải là đất Hán mà thực tế vẫn là Việt! Đến
cuối thời Hán, vùng Giang Nam vẫn là đất Việt thì hàng nghìn năm trước
đây đã là đất Việt.
Có
thể kể thêm những điều nói lên sự tương đồng giữa vương quốc Lương Chử
và nhà nước Xích Quỷ nhưng theo tôi, với những chuyện xảy ra 4000 – 5000
năm trước, có được chứng cứ như vậy đã là quá đủ!
III. Kết luận
Dù
không ít hoài nghi. Dù bị sử gia triều Nguyễn cho là “ma trâu thần rắn”
hoang đường. Dù bị coi là “sản phẩm của văn hóa Tàu”… thì từ bao đời
nay, Hồng Bàng thị truyện vẫn như ngọn hải đăng tỏa ánh sáng và sức
nóng, vừa chỉ đường, vừa tiếp sức cho dân tộc Việt trong cuộc gian truân
bơi ngược dòng lịch sử tìm lại cội nguồn. Đến nay, rất may mắn, trí tuệ
nhân loại giúp ta tìm được những bằng chứng vững chắc xác định hơn 5000
năm trước, nước Xích Quỷ là một thực thể tồn tại với bề rộng mênh mông,
khối dân cư đông đảo, sức mạnh kinh tế lớn lao cùng nền văn hóa rực
rỡ. Không chỉ kiến trúc thành trì đồ sộ, chế tác số lượng lớn đồ ngọc
tinh xảo mà chữ viết đã trưởng thành. Phát hiện ra kinh đô Lương Chử để
từ đó khẳng định Xích Quỷ - Văn Lang là nhà nước có thật từng tồn tại
trong quá khứ là khám phá trọng đại nhất của tộc Việt. Hy vọng rằng, từ
đây người Việt sẽ nhìn lại mình để sống xứng đáng với tổ tiên.
Sài Gòn 20.10. 2014
Tài liệu tham khảo:
1. 良渚文化_互动百科 - www.baike.com/wiki/良渚文化
3. 良渚文化甲骨文
4. 良渚文化玉器 - https://www.google.com.vn/search?q=%E8%89%AF%E6%B8%9A%E6%96%87%E5%8C%96%E7%8E%89%E5%99%A8&;biw=693&bih=572&tbm=isch&tbo=u&source=univ&sa=X&ei=eL9FVO-rJYStmAXijoLoBQ&ved=0CCUQ7Ak
5. Trần Đại Sĩ. Về Thiên-đài nơi tế cáo của vua Minh. - http://www.vietnamvanhien.net/NuiNguLinh.pdf
Nguồn: Tác giả
Nhận xét
Đăng nhận xét