(Tiến công, từ ngày 22 tháng 12 năm 1949 đến ngày 27 tháng 1 năm 1950)
Cuối
năm 1949, ở chiến trường chính Bắc Bộ, quân và dân ta mở chiến dịch Lê
Lợi, chủ động tiến công địch ở Hoà Bình và đẩy mạnh tiến công địch ở
nhiều nơi như Bắc Ninh, Bắc Giang, Lạng Sơn, Vĩnh Phúc, v.v... Để phối
hợp với chiến dịch Lê Lợi, Liên khu uỷ và Bộ tư lệnh Liên khu 4 quyết
định mở chiến dịch Lê Lai tại Bình - Trị - Thiên, nhằm mục đích: Giam
chân quân cơ động Pháp, không cho chúng tiếp viện ra Bắc Bộ, tiêu diệt
một bộ phận sinh lực địch, xây dựng và mở rộng căn cứ cách mạng ở vùng
đồng bằng.
Chiến dịch diễn ra chủ yếu trên địa bàn phía nam tỉnh
Quảng Bình và phía bắc tỉnh Quảng Trị, cụ thể là các huyện Quảng Ninh,
Lệ Thủy, Phong Điền và Hải Lăng. Đây là dải đất hẹp nhất của miền Trung
(chiều ngang từ biển Đông tới biên giới Việt - Lào chỉ hơn 40
ki-lô-mét), nhưng lại là địa bàn chiến lược quan trọng, là chiếc cầu nối
liền hai miền Nam – Bắc và nối với vùng Trung Lào. Địa thế hiểm trở
“Biển giăng trước mặt, núi vây ba bề”. Địa hình mấp mô lồi lõm, dốc và
thấp dần từ tây sang đông. Phía tây là dãy núi Trường Sơn hiểm trở, phía
đông là những dải đồng bằng hẹp ven biển, nằm giữa hai vùng núi và đồng
bằng là những dải đồi bát úp, sát mép biển là những bãi, cồn, động cát
trắng. Nhiều chỗ đồi núi chạy ra sát biển như đèo Ngang, đèo Lý Hoà. Địa
hình càng thêm phức tạp vì có hệ thống sông ngòi và đường giao thông
chia cắt thành từng tuyến song song theo hướng tây - đông. Sông ngòi ở
vùng này ngắn và dốc. Toàn bộ sông ngòi xuất phát từ hàng trăm khe suối
của dãy Trường Sơn đổ xuống các con sông Ròn, sông Gianh, sông Lý Hoà,
sông Dinh, Kiến Giang, sông Nhật Lệ thuộc tỉnh Quảng Bình; sông Hiền
Lương, sông Cam Lộ (tức sông Hiếu), sông Quảng Trị (Thạch Hãn) thuộc
tỉnh Quảng Trị. Đây là mạng lưới giao thông thuỷ quan trọng. Quân Pháp
thường lợi dụng các con sông lớn cho tàu thuỷ, ca nô thọc sâu thăm dò,
phá hoại chiến khu của ta. Ngược lại, ta cũng lợi dụng sông ngòi để vận
chuyển vũ khí và lương thực để đánh địch. Ngoài đường thuỷ, mạng lưới
giao thông ở đây còn bao gồm đường bộ, đường sắt và đường không, nối
Quảng Bình với chiến trường cả nước và vùng Trung Lào, Hạ Lào. Thực hiện
mưu đồ khai thác thuộc địa, thực dân Pháp đã cải tạo, nâng cấp hai
tuyến “ Thượng đạo” (đường giao thông vùng cao) và “Hạ đạo” (giao thông
ven biển) có từ thời phong kiến thành tuyến đường sắt Bắc - Nam và quốc
lộ 1A chạy suốt chiều dài ba tỉnh Bình - Trị - Thiên. Đồng thời chúng
còn mở tỉnh lộ số 1, số 2, quốc lộ 9 từ Cửa Việt, Quảng Trị sang Lào qua
cửa khẩu Lao Bảo và đường “không trung thiết lộ”1. Sân bay Đồng Hới là cửa khẩu đường không đi các nơi.
Đồng
bằng ở Quảng Bình, Quảng Trị nhỏ, hẹp, nằm ven hạ lưu các con sông, chỉ
chiếm 9,3 phần trăm diện tích tự nhiên. Nhưng chiến dịch Lê Lai lại nổ
ra chủ yếu trên “đồng bằng hai huyện” Lệ Thủy, Quảng Ninh; nơi đây là
vựa thóc chủ yếu của Quảng Bình, vốn là nơi tranh chấp quyết liệt giữa
ta và địch. Dân cư trong vùng đông đúc và tinh thần kháng chiến rất cao.
Hầu hết các làng xã đều có đội dân quân du kích, nhiều làng đã thực
hiện “rào làng chiến đấu”, xây dựng làng thành những pháo đài, đã nhiều
lần phá tan các cuộc càn lớn của quân Pháp. Khi Liên khu mở chiến dịch,
các làng kháng chiến đều trở thành hậu phương tại chỗ, nơi nuôi giấu
quân, chuyển tải thương và vũ khí đạn dược của chiến dịch, và cũng là
nơi tổ chức những mũi đánh phối hợp với chủ lực của Liên khu2.
Giữa năm 1949 (trước chiến dịch), lực lượng địch trên địa phận Quảng Bình
có khoảng 4.000 tên, do trung tá Ni-ốc (Niox) chỉ huy. Thực hiện ráo
riết “kế hoạch Rơ-ve”, chúng đóng thành 45 vị trí đồn bốt, cụ thể: khu
vực nam và bắc sông Gianh có 10 vị trí chính và ba vị trí hương vệ; khu
vực Bố Trạch tám vị trí; khu vực Quảng Ninh bảy vị trí; khu vực Lệ Thuỷ
chín vị trí chính và hai đồn hương vệ; thị xã Đồng Hới bốn vị trí. Phía
tây địch đóng hai vị trí lẻ ở sát biên giới Việt - Lào. Ngoài ra chúng
còn lập hành lang chốt giữ dọc theo tỉnh lộ số 4 và số 2, từ Thượng Lâm
(Lệ Thủy) ra Sen Bàng, từ Troóc kéo ra Tiên Lệ (Quảng Trạch). Với một
loạt đồn bốt dày đặc nối tiếp nhau, chúng định bịt chặt các cửa ngõ
chiến khu và uy hiếp các tuyến giao thông vận tải của ta ở phía tây. Ở
vùng đồng bằng và địch hậu, quân Pháp tăng cường vây ráp, phục kích các
ngả đường hòng lùng bắt cán bộ và cướp đoạt hàng hóa, của cải của đồng
bào. Những vùng xa xôi chúng cho máy bay cất cánh từ sân bay Đồng Hới
thường xuyên đánh phá để gây tổn thất cho ta. Nhưng kể từ ngày Trung
ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh phát động toàn quốc kháng chiến, quân
và dân Quảng Bình, Quảng Trị đã liên tục nổi dậy tiến công, phá được
nhiều đồn bốt, diệt nhiều sinh lực địch, trong đó đã phá được 55 hội tề -
chỗ dựa về chính trị của quân Pháp. Qua nhiều trận diệt đồn, nhiều trận
chống càn, trước khi bước vào chiến dịch, bộ đội và dân quân du kích đã
có nhiều kinh nghiệm trong tổ chức và thực hành chiến đấu.
Lực lượng ta:
Tháng 10 năm 1949, theo chỉ thị của Bộ, Liên khu 4 quyết định thành lập
“Mặt trận Bình - Trị - Thiên”, lực lượng chủ lực có ba trung đoàn bộ
binh (95, 101 và 18); tiểu đoàn công pháo 888, đại đội thông tin và đại
đội quân báo3. Lực
lượng vũ trang địa phương có ba đại đội bộ đội địa phương và dân quân du
kích của ba tỉnh Bình - Trị - Thiên. Ngoài ra, trên để tăng cường cho
lực lượng tham gia chiến dịch trung đoàn 57. Trung đoàn 57 vào hoạt động
ở vùng bắc Quảng Bình nên trung đoàn 18 vượt U Bò, Ba Rền vào vùng đồng
bằng nam Quảng Bình hoạt động. Trung đoàn 101 vượt quốc lộ 1 về đứng
chân ở đồng bằng Thừa Thiên. Trung đoàn 95 từ Quảng Trị hành quân ra
vùng Quảng Ninh và Lệ Thủy - hướng tiến công chính của chiến dịch.
Chiến
dịch do Đảng ủy và Bộ tư lệnh Liên khu 4 trực tiếp chỉ đạo; Bộ tư lệnh
Mặt trận Bình - Trị - Thiên trực tiếp chỉ huy; đồng chí Hà Văn Lâu làm
Tư lệnh chiến dịch, đồng chí Hoàng Anh, Bí thư Phân khu ủy làm Chính ủy.
Phòng chính trị triển khai ngay đợt giáo dục, quán triệt nhiệm
vụ chiến dịch cho toàn mặt trận. Khí thế ra quân lập công ở các đơn vị
rất cao. Đội văn công được thành lập và xuống từng trung đoàn ca hát,
động viên bộ đội và nhân dân. Đồng thời cho ra đời nhà in và tờ báo
“Người lính” của Mặt trận để hướng dẫn tư tưởng, hành động và động viên
phong trào thi đua của các lực lượng vũ trang trên toàn Mặt trận. Ta đã
in và phát tán 2.500 tờ truyền đơn, 300 tờ tin “Dân quân” cổ vũ phong
trào chiến đấu của các địa phương. Phòng hậu cần mở rộng xưởng quân
giới, tiến hành sửa chữa và sản xuất vũ khí, đạn dược; củng cố bệnh xá
của Mặt trận và các trạm cứu thương của chiến dịch. Các trung đoàn chủ
lực hiệp đồng chặt chẽ với các cơ quan dân chính đảng địa phương huy
động sức người, sức của tới mức tối đa, tổ chức tuyến hậu cần tại chỗ
bảo đảm tốt các khâu: tiếp lương, tải đạn, cứu chữa và vận chuyển thương
binh, tử sĩ. Cơ quan tham mưu, đại đội quân báo của Mặt trận và thành
phần chỉ huy, trinh sát của các trung đoàn tiến hành trinh sát thực địa,
nắm quy luật hoạt động và sự bố phòng của địch, điều chỉnh kế hoạch tác
chiến cho phù hợp. Các trung đoàn chủ lực tranh thủ huấn luyện cho bộ
đội với nội dung theo định hướng “chiến đấu chính quy, tiến tới thành
lập đại đoàn” và kết hợp huấn luyện, xây dựng phong trào chiến tranh du
kích cho lực lượng vũ trang địa phương. Trước ngày chiến dịch chính thức
nổ súng, khí thế thi đua giết giặc lập công của toàn mặt trận rất sôi
sục.
Thực hiện kế hoạch tác chiến “tạo đà” trước khi bước vào
chiến dịch, trung đoàn 95 trên đường cơ động ra nam Quảng Bình đã liên
tiếp tổ chức phục kích địch ở Thanh Lê diệt 52 tên, ở Dốc Miếu diệt gọn
hai trung đội địch, thu toàn bộ vũ khí, ở Bồ Bản diệt 90 địch, phá huỷ
20 ô tô. Trung đoàn 18 vượt qua dốc U Bò, vận động xuống Lệ Kỳ đánh
địch. Trung đoàn 101 vừa hành quân tới Quảng Điền, Hương Trà đã phục
kích diệt gọn hai trung đội địch ở Bôn Trì, Bôn Phổ, tập kích diệt đồn
Thuỷ Cầu. Trung đoàn 57 vào tới bắc Quảng Bình cũng tiến hành tập kích
diệt địch ở Đơn Sa, quấy rối địch ở Ba Đồn, phục kích diệt 100 tên địch ở
Thanh Lê. Trên hướng Trung Lào, bộ đội ta và bạn cũng liên tiếp phục
kích đánh địch trên đường số 9, triệt phá tề ngụy ở Ba-na-phào và
Na-ha-xay. Bộ đội địa phương và dân quân du kích trên toàn mặt trận cũng
tích cực hoạt động tác chiến, đã đánh mìn lật nhào đoàn tàu địch ở Đá
Bạc (Phú Lộc), Hải Đạo (Hải Lăng), gài bom phá kho địch ở ga Huế, dùng
địch vận hạ đồn Lao An, Mỹ Chánh, Phù Ốc. Đại đội 361 bộ đội địa phương
cùng dân quân du kích Lệ Thuỷ phục kích diệt gọn trung đội địch, thu
toàn bộ vũ khí ở đoạn đường thôn Trung Lực xã Duy Tân, sau đó vây ép và
diệt đồn Thượng Lâm và vị trí hương vệ An Lạc. Dân quân du kích liên tục
phục kích và đánh phá giao thông trên quốc lộ 1, tỉnh lộ 2 và đường số
9. Quân và dân hai huyện Lệ Thủy và Quảng Ninh liên tiếp quấy rối, bức
hàng, bức rút các đồn Võ Xá, Vạn Xuân, Cổ Hiền, Lệ Kỳ và vị trí hương vệ
Xuân Bồ. Ta bao vây chặt đồn Mỹ Trạch - một vị trí tiền tiêu của địch ở
phía tây nam Lệ Thuỷ, khiến quân địch ở đây đông mà không dám ra ngoài
càn quét như trước đây, do đó đã tạo thuận lợi cho các đơn vị chủ lực
hành quân chiếm lĩnh trận địa xuất phát tiến công trước ngày chiến dịch
chính thức mở màn.
__________________________________ 1.Không
trung thiết lộ là đường dây cáp trên không trung, vận chuyển người qua
lại bằng chiếc thùng sắt trượt trên dây cáp. Không trung thiết lộ ở
Quảng Bình được bắc từ xóm Cụp (Minh Hoá) sang Ba-na-phào (Lào). 2.Nhiều
làng ở Quảng Bình (như Hiển Lộc, Cự Nẫm...) xây dựng trung đội du kích
36 người, cạnh đó là đội dân quân 70 người. Toàn tỉnh có 35.558 dân
quân. Nhiều căn cứ du kích hình thành và phát triển như: Căn cứ Hoàng
Hoa Thám, Lê Khiếu, Duy Tân ở Lệ Thuỷ; Minh Trạch, Ninh Trạch, Lệ Trạch ở
Quảng Trạch; Tây Trạch ở Bố Trạch, v.v… Chỉ tính riêng đợt tháng 1 năm
1949 phát động ủng hộ dân quân nhân dân toàn tỉnh đã ủng hộ được 121.406
đồng (bạc giấy), 10 đồng bạc (bạc), 237 mẫu ruộng, năm mảnh vườn, ba
ngôi nhà, 213 kg bông, 3.465 kg lúa, 90 thùng bắp, hàng trăm trâu, bò,
lợn và gia súc gia cầm. Nhiều địa phương còn lập quỹ đỡ đầu, mua sắm
súng đạn trang bị cho dân quân. Trước chiến dịch, Đảng ủy và ủy ban
kháng chiến các làng, xã đều tổ chức lực lượng cơ động và vật chất tại
chỗ, sẵn sàng cung cấp cho bộ đội bất cứ lúc nào cần đến. 3.Sau
lễ thành lập Mặt trận (được tổ chức ở Chiến khu Ba Lòng, Quảng Trị),
trung đoàn 95 đứng chân ở Quảng Trị, xây dựng thành đơn vị chủ lực cơ
động của Mặt trận; được ưu tiên về quân số trang bị, biên chế hoàn chỉnh
với ba tiểu đoàn bộ binh: 227 (chuyển từ 101 sang), 302 và 310, và một
số phân đội trực thuộc cơ quan trung đoàn bộ. Trung đoàn 101 có hai tiểu
đoàn bộ binh 319 và 328. Trung đoàn 18 đứng chân ở Quảng Bình, có tiểu
đoàn 274 và tiểu đoàn 436 chủ lực Liên khu 4 vừa từ Thanh - Nghệ - Tĩnh
vào mặt trận. Theo sự thoả thuận của Trung ương Đảng hai nước Việt -
Lào, đáp ứng yêu cầu của Bộ chỉ huy Mặt trận Trung Lào, ngoài đại đội 55
đã được đưa sang Lào từ giữa năm 1948, Bộ tư lệnh Mặt trận Bình - Trị -
Thiên đưa thêm tiểu đoàn độc lập 364 sang phối hợp với bộ đội Pa-thét
Lào hoạt động ở nam, bắc đường số 9 (Xa-van-na-khét). Như vậy là lực
lượng của Mặt trận được chia thành hai khối: Trung đoàn 95 là lực lượng
cơ động, trung đoàn 101, trung đoàn 18 và các đơn vị quân tình nguyện ở
Trung Lào là lực lượng chủ lực tài chỗ.
Logged
...Chuyện bình thường, chiến tranh người trai ấy quên mình, anh dâng hiến mùa xuân cho tương lai...
« Trả lời #26 vào lúc: 24 Tháng Sáu, 2012, 04:27:01 PM »
Chiến dịch chia làm hai đợt.
Đợt 1 (từ ngày 22 đến ngày 31 tháng 12 năm 1949):
Đêm
22 tháng 12 năm 1949, trung đoàn 18 được tăng cường một đại đội phóng
bom, phối hợp với lực lượng vũ trang địa phương tiến công đồn Vạn Xuân,
nhưng vì lực lượng địch ở đây mới được tăng cường nên cuộc tiến công của
ta không thành, trung đoàn chuyển sang bao vây, đồng thời tổ chức lực
lượng đánh quân tiếp viện.
Suốt ba ngày đêm mưa, rét nhưng bộ
đội và dân quân du kích vẫn giấu mình trong lùm cây, động cát kiên trì
chờ địch. Đến Nô-en (ngày 25-12), thiếu tá Lơ-briu-giơ (Lebrouse) chỉ
huy phân khu nam Quảng Bình, đích thân dẫn hai đại đội Âu - Phi và một
trung đội trợ chiến từ Đồng Hới hành quân vào phối hợp với bộ phận chiếm
đóng ở Hoà Luật, giải vây cho Vạn Xuân. 18 giờ chiều, địch tới Thạch Xá
Hạ, lọt vào trận địa phục kích của tiểu đoàn 227 trung đoàn 95 do đồng
chí Lê Thuyết chỉ huy. Ta bất ngờ nổ súng, diệt và bắt gọn cánh quân này
của địch; diệt và làm bị thương 30 tên, bắt 50 tên, trong đó có cả
thiếu tá Lơ-briu-giơ, một đại úy và hai trung úy; thu 60 súng, hai máy
vô tuyến điện, phá hỏng bảy xe. Ta bị thương nhẹ sáu đồng chí.
Ta
tiếp tục triển khai trận địa phục kích trên dọc quốc lộ 1, nhưng địch
hoảng sợ không dám đưa quân tiếp viện cho đồn Vạn Xuân. Ngày 30 tháng
12, tướng Lơ-brit phải hạ lệnh rút quân khỏi đồn Vạn Xuân và sau đó là
đồn Thượng Lâm. Vùng tự do của ta được mở rộng, phía tây khu vực sông
Kiến Giang, Lệ Thuỷ được giải phóng.
Ngày 31 tháng 12, được ta
tuyên truyền giác ngộ, vệ binh đoàn ở đồn Cổ Hiền đã nổi dậy làm binh
biến, diệt ba sĩ quan Pháp, đưa toàn bộ vũ khí, trang bị về với kháng
chiến. Sự kiện này đã tác động tích cực đến số binh lính ngụy ở các đồn
khác, do đó những ngày tiếp theo, quân ta đã tiến công và diệt gọn đồn
Đôn Sa, bao vây và bức rút địch ở đồn Phú Hoà (có bảy lính khố đỏ quay
về với cách mạng).
Trong khi ta tập trung lực lượng hoạt động ở
hướng Quảng Ninh và Lệ Thuỷ, địch đã tăng cường binh lực và vũ khí cho
một số vị trí phía bắc như Troóc, Cổ Giang, Hà Lời và phòng thủ tuyến
tỉnh lộ 2, đồng thời cho quân nống ra càn quét một số xã như Hải Trạch,
Trung Trạch, v.v...
Trước tình hình đó, Bộ chỉ huy chiến dịch
lệnh cho trung đoàn 57 tiến vào vùng bắc Quảng Bình. Từ ngày 13 tháng 12
năm 1949 đến ngày 15 tháng 1 năm 1950, trung đoàn đã đánh một loạt vị
trí quan trọng của địch ở tuyến phòng thủ sông Gianh như Đại Nam, Hoà
Ninh, Hướng Phương, Đơn Sa, Phù Kinh, giải phóng một vùng rộng lớn ở nam
và bắc sông Gianh.
Ở phía nam, quân địch sợ không dám ra; chấp
hành mệnh lệnh của Bộ tư lệnh, trung đoàn 95 và 18 chuyển sang phối hợp
cùng lực lượng vũ trang địa phương tiến hành tổng phá tề ở vùng nam
Quảng Bình. Toàn bộ hệ thống đồn bốt địch từ Quán Hầu vào tới Sen Hạ
nhanh chóng bị vây chặt. Binh lính trong các đồn lo sợ chui vào cố thủ
không dám ra ngoài. Lính địch ở các đồn Thượng Lãm, Vạn Xuân bỏ đồn co
cụm về các vị trí lớn. Lực lượng vũ trang địa phương diệt đồn Xá, Cồn
Lý. Nhân dân trong vùng tự võ trang bằng giáo mác, gậy gộc,vây bắt tề
điệp, giải tán hương vệ. Ở nhiều làng như Xuân Bồ, Uẩn Áo, Xuân Dục,
Xuân Hoà, Mỹ Trạch, Thuận Trạch... tuy nằm sát quốc lộ 1 và gần đồn địch
nhưng trước sức mạnh áp đảo của quần chúng, bọn hào lý đã ra hàng và
giao nộp vũ khí. Hai trung đoàn thu hồi được hàng trăm tấn lúa trong các
kho của địch giao lại cho chính quyền địa phương cấp cho nhân dân.
Phong trào kháng chiến của các làng xã phát triển mạnh và vững, trở
thành những điển hình của Bình - Trị - Thiên và cả nước. Đợt 1 chiến
dịch kết thúc.
Đợt 2 (từ ngày 15 đến ngày 27 tháng 1 năm 1950):
Từ
giữa tháng 1 năm 1950, trung đoàn 95 được lệnh bí mật hành quân vào nam
Thừa Thiên cùng trung đoàn 101 chuẩn bị đợt hoạt động mới. Vào tới bắc
Quảng Trị, một bộ phận của tiểu đoàn 227 phối hợp với đại đội bộ đội địa
phương Lê Hồng Phong tập kích bốt Chợ De, bao vây đồn Cửa Tùng, diệt
hai trung đội địch, bắt sống một trung úy Pháp.
Bị thua đau ở
phía nam Quảng Bình, bộ chỉ huy quân Pháp ở Bình - Trị - Thiên tìm cách
phản kích giữ vững vùng bắc sông Gianh. Ngày 27 tháng 2 năm 1950, Pháp
tập trung quân ứng chiến mở cuộc hành quân bằng đường thuỷ vào vùng có
đồng bào theo đạo Thiên Chúa mà ta vừa giải phóng. Phán đoán đúng âm mưu
địch, trung đoàn 57 cùng lực lượng vũ trang địa phương tổ chức phục
kích ở bến đò Phù Trịnh, La Hà. 8 giờ, địch lọt vào trận địa phục kích,
ta nổ súng, đại bác vào bộ binh địch ở các đồn xung quanh như Tiên Lệ,
Ba Đồn nổ súng ứng cứu, quân địch trên bốn ca nô củng cố đội hình để
phản kích nhưng đã bị quân ta đánh quyết liệt. Cả tiểu đoàn địch bị tan
rã, hơn 120 tên bị diệt, ta bắt 10 tù binh Pháp và một số tay sai dẫn
đường. Bốn ca nô địch bị hỏng nặng. Số địch sống sót rút chạy về Thanh
Khê, bỏ lại hàng trăm súng. Trước sức uy hiếp của ta, địch buộc phải rút
tiếp ở các vị trí chiếm đóng: Troóc, Cổ Giang, Cao Lao, Tiên Lệ. Ta
triệt hạ tiếp ba đồn hương vệ: Phù Kinh, Hoà Bình, Hướng Phương.
Sáng
ngày 27 tháng 1, hai trung đoàn 95 và 101 hành quân vào tới Hương Trà,
tỉnh Thừa Thiên. Lợi dụng thời cơ này, địch lập tức tập trung ba tiểu
đoàn ở Triệu Phong và Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị càn quét vào các xã Lương
Mai, Phò Trạch, Phong Chương, Phong Lai, Vân Trình... Lực lượng vũ
trang địa phương tổ chức chống càn. Được cấp trên đồng ý, hai trung đoàn
(95 và 101) hành quân thần tốc quay trở lại vùng Triệu Phong và Hải
Lăng. Địch cho máy bay bắn phá, ném bom vào trận địa quân ta. Đến tối 27
tháng 1, không chịu nổi đòn đánh trả quyết liệt của hai trung đoàn 95
và 101, quân Pháp phải hủy bỏ cuộc hành quân càn quét, lợi dụng đêm tối
tháo chạy về Huế. Ta diệt và bắt gần 400 tên địch, thu hơn 50 súng các
loại. Chiến thắng ở Lương Mai, Phò Trạch, Lê Thuyết đã kết thúc chiến
dịch Lê Lai.
Trong hơn một tháng chiến đấu, bốn trung đoàn chủ
lực của Liên khu đã đánh một trận vây điểm diệt viện, một trận vận động
phản kích quy mô cấp trung đoàn và gần 30 trận đánh nhỏ. Ta loại khỏi
vòng chiến đấu 1.370 tên, bắt sống 152 tên, phần lớn là lính Âu - Phi và
Pháp; tiêu diệt gọn một đại đội, đánh thiệt hại nặng hai tiểu đoàn, tạo
thuận lợi để lực lượng vũ trang địa phương diệt nhiều đồn bốt nhỏ và
các vị trí hương vệ, cùng nhân dân nổi dậy diệt tề, trừ gian và làm công
tác binh địch vận đạt hiệu quả tốt.
Đây là chiến dịch đầu tiên ở
chiến trường Bình - Trị - Thiên đo Bộ Tư lệnh Liên khu 4 chỉ đạo, Bộ Tư
lệnh Mặt trận Bình - Trị - Thiên trực tiếp chỉ huy, chiến dịch đã hoàn
thành tốt nhiệm vụ, đạt được các mục tiêu đề ra. Kế hoạch tác chiến cụ
thể, sát hợp với khả năng và tình hình tương quan lực lượng. Nét nổi bật
của nghệ thuật chiến dịch là sự hiệp đồng chặt chẽ giữa các lực lượng:
đánh điểm, vây điểm và phục kích diệt viện; giữa chủ lực và lực lượng vũ
trang địa phương. Biết vận dụng phương châm, phương pháp tác chiến chủ
động, linh hoạt, đặc biệt là giữa tiến công của bộ đội chủ lực với binh
vận, địch vận, nổi dậy phá tề, trừ gian của lực lượng vũ trang địa
phương và quần chúng, trong đó việc vận động binh lính đồn Cổ Hiền và
một số nơi khác làm binh biến trở về với cách mạng là một điển hình xuất
sắc. Chỉ huy các cấp đã sâu sát nắm chắc đơn vị, quyết đoán, sắc sảo,
xử trí tình huống kịp thời, chính xác. Chiến dịch đạt được hiệu suất cao
cả về tiêu diệt địch và giải phóng đất đai, củng cố và mở rộng vùng
giải phóng ở đồng bằng Quảng Bình; nâng cao lòng tin tưởng và tinh thần
cách mạng của quân và dân trên toàn Mặt trận Bình - Trị - Thiên. Chiến
dịch còn để lại nhiều bài học quý về nghệ thuật chỉ đạo chiến dịch và
vận dụng các hình thức chiến thuật trong đánh điểm diệt viện và vận động
tiến công phản kích phá càn.
Logged
...Chuyện bình thường, chiến tranh người trai ấy quên mình, anh dâng hiến mùa xuân cho tương lai...
« Trả lời #27 vào lúc: 29 Tháng Sáu, 2012, 07:01:46 PM »
CHIẾN DỊCH VÕ NGUYÊN GIÁP
(Tiến công, từ ngày 10 tháng 1 đến ngày 31 tháng 3 năm 1950 ).
Đầu
năm 1950, Bộ tư lệnh Liên khu 5 chủ trương mở chiến dịch tiến công trên
địa bàn bắc Quảng Nam, lấy tên là chiến dịch Võ Nguyên Giáp; thời gian
từ ngày 10 tháng 1 đến ngày 31 tháng 3 năm 1950; nhằm mục đích: Phối hợp
với chiến trường chính Bắc Bộ, tiêu hao và kìm chân địch, không cho
chúng tăng viện ra Bắc Bộ, triệt đường giao thông tiếp tế của thực dân
Pháp từ Đà Nẵng ra Huế, uy hiếp thành phố Đà Nẵng, bồi dưỡng lực lượng
ta, đẩy mạnh chiến tranh du kích, làm tan rã ngụy quân, ngụy quyền, thu
hẹp phạm vi chiếm đóng của quân địch.
Lực lượng địch trên địa bàn
có trên 6.000 tên, đóng chủ yếu trong các trại lính và hệ thống đồn bốt
quanh thị xã Đà Nẵng và dọc tuyến giao thông huyết mạch quốc lộ 1 từ Đà
Nẵng ra Huế.
Lực lượng ta tham gia chiến dịch có hai trung đoàn 210 và 1081
đến cuối chiến dịch tăng cường thêm hai đại đội bộ đội địa phương của
hai tỉnh Quảng Ngãi và Bình Định; phối hợp với bộ đội chủ lực của liên
khu, lực lượng dân quân du kích Quảng Nam và tự vệ thành phố Đà Nẵng
tham gia đánh phục kích, quấy rối, tải thương và tiếp tế hậu cần.
Bộ
chỉ huy chiến dịch đã lo đủ cho mỗi chiến sĩ bình quân mỗi ngày sáu
lạng gạo. Lượng lương thực, thực phẩm dự trữ chủ yếu huy động trong nhân
dân. Dưới sự lãnh đạo của các cấp uỷ đảng, nhân dân Quảng Nam - Đà Nẵng
tuy rất khó khăn về đời sống kinh tế, nhưng tinh thần kháng chiến rất
cao, đã thực hiện “nhường cơm sẻ áo cho bộ đội đánh thắng”. Trước chiến
dịch đã may đủ cho mỗi chiến sỹ một bộ quân phục; đáp ứng đầy đủ gạo và
thực phẩm cho hơn một tháng chiến đấu (khi kết thúc chiến dịch gạo ở Hoà
Vang còn 15 tấn, ở các huyện phía nam còn 20 tấn chưa sử dụng đến).
Nhân dân đã tham gia 70 vạn ngày công phục vụ chiến dịch.
Đồng chí Đàm Quang Trung làm Tư lệnh chiến dịch, đồng chí Nguyễn Đôn làm Chính ủy.
Phương châm tác chiến là:
Đánh điểm diệt viện kết hợp với đánh phục kích trên tuyến giao thông
quốc lộ 1A, chủ yếu đoạn qua đèo Hải Vân. Chiến dịch chia làm ba đợt.
Đợt 1 (từ ngày 10 tháng 1 đến ngày 6 tháng 2 năm 1950):
Theo
kế hoạch, ngày 10 tháng giêng nổ súng đánh trận phục kích đoàn xe của
quân Pháp trên đèo Hải Vân và tiến công diệt bốt địch ở phía tây bắc
huyện Hoà Vang làm hiệu lệnh mở màn cho toàn chiến dịch. Nhưng quá trình
chuẩn bị chiến trường, cán bộ tham mưu để mất tài liệu, kế hoạch tác
chiến bị lộ nên không thực hiện được trận mở màn, do đó chiến dịch bị
chững lại, chậm so với kế hoạch. Tuy nhiên từ ngày 10 tháng 1, lực lượng
bộ đội địa phương và dân quân du kích vẫn nổ súng tiến công địch ở
nhiều nơi trong vùng chúng tạm chiếm.
Ngày 19 tháng 1, có cơ sở
làm nội ứng, đại đội địa phương và du kích tiến công và diệt đồn Ngũ
Giáp, diệt và bắt hai trung đội địch, thu toàn bộ vũ khí. Sau đó, ta
đánh phục kích trên đường số 1 (đoạn Đà Nẵng - Vĩnh Điện), diệt sáu xe
tiếp tế của địch từ Vĩnh Điện ra, đồng thời diệt và bắt hai trung đội
khác; buộc địch phải điều quân cơ động đến đối phó.
Trên hướng
chính, Bộ tư lệnh chiến dịch quyết định để lại một bộ phận đánh các trận
nhỏ, còn lực lượng cơ bản của trung đoàn 108 cơ động về chiến khu Phú
Túc. Tối 2 tháng 2, trung đoàn từ Phú Túc bí mật hành quân xuống Điện
Hoà. Được nhân dân che chở giữ bí mật và bố trí ăn, ở cho bộ đội, trung
đoàn bí mật triển khai bố trí trận địa phục kích tại Thanh Quýt. Trưa 6
tháng 2, một trung đội địch thực hiện “An ninh lộ trình” từ Đà Nẵng tiến
ra; sau đó một đoàn xe 14 chiếc, có một đại đội Âu - Phi hộ tống từ Đà
Nẵng hành quân ra, lọt vào trận địa phục kích. Quân ta bất ngờ và đồng
loạt nổ súng, tiêu diệt đại đội lê dương, bắt 50 tên, thu 100 súng các
loại, phá huỷ toàn bộ đoàn xe 14 chiếc. Sau trận đánh, nhân dân xông ra
đường thu chiến lợi phẩm, đồng thời dùng rơm rạ đốt khói mù mịt để che
mắt địch, tạo điều kiện thuận lợi cho đơn vị lui quân an toàn. Đợt 1
chiến dịch kết thúc.
Đợt 2 (từ ngày 7 tháng 2 đến ngày 14 tháng 3 năm 1950):
Bộ
chỉ huy chủ trương đẩy mạnh các hoạt động trong toàn tỉnh. Bộ đội địa
phương, dân quân du kích và nhân dân đã phá hoại các đường giao thông,
phục kích diệt bọn địch đi lẻ, diệt tề, bắt gián điệp, quấy rối đồn bốt,
nổi trống mõ, thanh la làm thanh viện từ huyện này sang huyện khác, uy
hiếp tinh thần địch. Đêm 15 tháng 2, một bộ phận đột nhập thành phố Đà
Nẵng, đánh vào khu vực ngã năm và ngã ba Cai Lang nhưng kết quả chiến
đấu không đáng kể. Ngày 14 tháng 3, đợt 2 chiến dịch kết thúc.
Đợt 3 (từ ngày 15 đến ngày 31 tháng 3 năm 1950):
Đêm
15 tháng 3, quân ta tiến công đồn Cẩm Lệ bằng nội ứng. Đêm 20 tháng 3,
ta diệt đồn Hòn Bàng bằng phương pháp cường tập. Ở bắc Hoà Vang, các đơn
vị đánh nhiều trận phục kích nhỏ, và tập kích đánh vào Nam Ô, Gò Ông
Tự, Liên Chiểu, Tùng Sơn và Hưởng Phước. Đêm 31 tháng 3, ta đột nhập vào
thành phố Đà Nẵng lần thứ hai và kết hợp đánh phá giao thông. Kết thúc
chiến dịch.
Kết quả: Địch bị diệt 417 tên, bị thương 278
tên, bị bắt 99 tên và 454 tên tề điệp. Ta phá hủy 17 xe vận tải, ba đầu
máy xe lửa, 12 toa xe lửa, thu 203 súng; giải phóng một khu vực rộng 600
km2, gồm toàn bộ vùng Duy Xuyên và phía tây huyện Đại Lộc; mở rộng được
căn cứ du kích ở Điện Bàn, Hoà Vang.
Qua ba tháng chiến đấu, chiến dịch đã đạt được những mục tiêu cơ bản đề ra là tiêu
diệt sinh lực địch, bồi dưỡng lực lượng ta; mở rộng vùng giải phóng,
thu hẹp vùng chiếm đóng của địch, củng cố và phát triển phong trào chiến
tranh du kích. Riêng mục tiêu “Triệt đường vận chuyển, uy hiếp thị
xã Đà Nẵng” đề ra như vậy là quá cao, không phù hợp nên không thực hiện
được.
Nét nổi bật của nghệ thuật chiến dịch ở đây là: Đã phối
hợp chặt chẽ các hoạt động của ba thứ quân (bộ đội chủ lực, bộ đội địa
phương và dân quân du kích), huy động được sức dân tham gia, tạo nên sức
mạnh tổng hợp cho chiến dịch. Hai là, trong quá trình diễn biến, Bộ chỉ
huy đã biết điều chỉnh lực lượng, thay đổi cách đánh một cách kịp thời,
uyển chuyển, do đó tác chiến của bộ đội đạt được hiệu quả tốt. Song,
chưa chú trọng giữa tác chiến với xây dựng lực lượng quân sự địa phương.
Đây là một trong những chiến dịch thành công của Liên khu 5 trong những
năm đầu kháng chiến chống Pháp.
___________________________________ 1.Trong
cuốn “Quảng Nam Đà Nẵng lịch sử chiến tranh nhân dân” tập 1, Nxb QĐND,
1994 trang 140 ghi: “Lực lượng tham gia chiến dịch có trung đoàn 210 chủ
lực của Liên khu và lực lượng vũ trang tỉnh.
Logged
...Chuyện bình thường, chiến tranh người trai ấy quên mình, anh dâng hiến mùa xuân cho tương lai...
« Trả lời #28 vào lúc: 29 Tháng Sáu, 2012, 07:22:19 PM »
CHIẾN DỊCH BẾN CÁT 11
(Tiến công, từ ngày 25 đến ngày 27 tháng 1 năm 1950)
Chiến
dịch diễn ra chủ yếu trên hai tuyến đường số 7 và số 14 đoạn từ Bến Cát
đi Dầu Tiếng, dài 36 ki-lô-mét. Địa hình tương đối bằng phẳng, hai bên
đường là rừng chồi, vườn cao su xen kẽ ruộng lúa và làng mạc, nhưng do
chiến tranh, dân đã đi sơ tán, khu vực tác chiến cây cối rậm rạp và vắng
vẻ. Phía đông, cách trục đường bộ 7,5 ki-lô-mét có tuyến đường sắt Thủ
Dầu Một - Lộc Ninh và đường 13 đi Lào. Phía tây nam có sông Sài Gòn chảy
song song với đường 14 qua các vùng tự do của ta như xã An Thành, Phú
An Nhơn và An Diễn thuộc Thủ Dầu Một; Phú Mỹ Hưng, An Nhơn Tây thuộc Gia
Định. Cả ba tuyến giao thông (bộ, sắt, thủy) đều rất quan trọng đối với
quân sự và kinh tế của cả ta và địch. Đối với ta, các tuyến giao thông
nối liền các vùng tự do, các khu căn cứ; đối với địch là tuyến huyết
mạch hàng ngày chở vũ khí, phương tiện chiến tranh, chở quân từ Sài Gòn -
Gia Định lên Tây Ninh đi càn quét và ngược lại, chở cao su từ Dầu Tiếng
về. Cuối 1949 đầu 1950, địch liên tiếp mở nhiều cuộc hành quân càn quét
uy hiếp vùng giải phóng phía đông và đông bắc Sài Gòn - Gia Định, cắt
đứt và uy hiếp các tuyến đường nói trên, làm cho sự liên lạc, vận chuyển
của ta luôn bị gián đoạn, đặc biệt ở vùng Long Nguyên và Thanh Tuyền.
Do đó đã trực tiếp ảnh hưởng đến hoạt động của hai liên trung đoàn 306 -
312 thuộc Sài Gòn - Chợ Lớn và 301 - 310 của Khu 7, dẫn tới tình trạng
thiếu lương thực, đạn dược, ảnh hưởng đến sức khoẻ và tinh thần của bộ
đội. Bước sang 1950, địch càng ráo riết càn quét, phong toả vùng Hớn
Quản và bắc Bến Cát của Khu 7, xây dựng hệ thống cứ điểm, tháp canh kết
hợp với lực lượng cơ giới tương đối mạnh trên hai trục lộ 14 và số 7;
thực hiện chiếm đóng huyện Hóc Môn, vừa trực tiếp chia cắt, uy hiếp khu
căn cứ của ta, vừa bảo vệ cơ sở cao su Dầu Tiếng - Hớn Quản và tuyến vận
chuyển của chúng.
Để đối phó với âm mưu của địch, giành lại thế
chủ động, Bộ tư lệnh khu Sài Gòn – Chợ Lớn chủ trương mở chiến dịch Bến
Cát 1 nhằm mục đích tiêu hao một số sinh lực địch bằng đánh vận chuyển
và công đồn, diệt tháp canh để đánh viện. Tác chiến kết hợp với phá hoại
để mở rộng khu căn cứ của ta từ đường số 1 (Gia Định) đến đường 13 (Thủ
Dầu Một), chủ yếu là khu Long Nguyên - Thanh Tuyền.
Phương châm tác chiến:
Đánh phục kích kết hợp với địa lôi chiến để tiêu diệt các đoàn xe địch
từ Bến Cát đi Dầu Tiếng là chủ yếu. Bao vây uy hiếp cứ điểm, tháp canh,
tổ chức chặn viện để tiêu hao địch, đồng thời phá hoại cầu, đường đi đôi
với kêu gọi bức hàng.
Lực lượng tham gia chiến dịch gồm2:
Hai tiểu đoàn chủ lực thuộc hai liên trung đoàn 306 - 312 và 301 - 310;
hai đại đội độc lập; một đại đội trợ chiến và các lực lượng dân quân du
kích, công an xung phong, đội công binh của khu Sài Gòn - Chợ Lớn, một
trung đội công binh của Nam Bộ. Vũ khí có: 12 quả Badômìn, 16 mìn nhỏ,
hai Badôca, sáu cối (60mm và 81mm), 25 súng phóng lựu đạn; sáu đại liên,
61 trung liên, 17 tiểu liên, lựu đạn và súng trường trang bị đủ cho
chiến đấu viên.
Bộ chỉ huy chiến dịch gồm: Đồng chí
Nguyễn Văn Thi làm Chỉ huy trưởng; Trần Đình Xu làm Chỉ huy phó; Lê Đức
Anh-tham mưu trưởng. Sở chỉ huy ngày đầu chiến dịch đặt tại Thanh Tuyền
và cuối chiến dịch đặt tại An Thành.
Thời gian hoạt động ấn định
là một tuần bắt đầu từ ngày 25 tháng 1 năm 1950; nếu có điều kiện sẽ
kéo dài thêm. Ban chỉ huy chiến dịch đã lên kế hoạch tác chiến cụ thể
từng ngày và phân công nhiệm vụ cho các đơn vị.
Ngày 25, nhiệm
vụ tiêu diệt đoàn xe trên tuyến Bến Cát - Dầu Tiếng giao cho hai đại đội
của tiểu đoàn chủ lực thuộc liên trung đoàn 306 - 312, hai đại đội của
tiểu đoàn chủ lực liên trung đoàn 301 - 310; bố trí trận địa từ xóm Cò
Trạch đến Lâm Vồ.
Nhiệm vụ công đồn Bến Súc (đêm 25) giao cho
một đại đội của tiểu đoàn chủ lực thuộc liên trung đoàn 301 - 310 và một
bộ phận trợ chiến, được tăng cường bốn súng cối, bảy súng phóng lựu,
chín trung liên và một Badôca.
Ngày 26, tiến hành bao vây cứ điểm, uy hiếp tháp canh, đánh viện và phá hoại.
Khu
vực từ Bến Cát đến Rạch Bắp (đường số 7), do một đại đội chủ lực và năm
tiểu đội dân quân du kích đảm nhiệm. Nhiệm vụ vây cứ điểm Rạch Bắp và
sáu tháp canh trên trục lộ; tổ chức đánh viện từ Bến Cát lên, ngăn chặn
việc sửa đường và cầu của địch.
Khu vực từ Rạch Bắp đến cứ điểm
Bà Thiện, do một đại đội chủ lực và trung đội dân quân du kích Thanh
Tuyền đảm nhiệm. Nhiệm vụ bao vây các tháp canh, chặn và đánh viện từ cứ
điểm Bà Thiện ra tạo thuận lợi cho dân quân huyện Bến Cát phá giao
phong đoạn từ Rạch Kiến xuống Rạch Bắp và dân quân huyện Hóc Môn phá
đoạn từ cầu Xi Nô đến cầu Xả Nghi.
Bố trí một đại đội tăng cường
gồm 16 tiểu đội bộ binh và hai trung đội trợ chiến từ ngã ba Bến Cỏ đến
bến đò An Thuận, có nhiệm vụ diệt và đánh lui các tàu địch trên sông
Sài Gòn. Nhiệm vụ ở những ngày tiếp sau tùy theo tình hình để phân công.
Lực lượng địch trong địa bàn chiến dịch gồm: hai vị trí, bốn cứ điểm và 14 tháp canh. Lực lượng bố trí như sau:
Vị
trí Dầu Tiếng có 640 tên, trong đó có 150 lính lê dương, hai đại bác
105mm, tám thiết giáp, hai xe tăng, 50 xe vận tải, hai máy bay trinh
sát, vũ khí đạn dược đầy đủ; Bến Cát có 100 quân, một thiết giáp, 13 xe
vận tải, một đại bác 105mm, vũ khí đầy đủ.
Bốn cứ điểm: Rạch
Bắp, Rạch Kiến, Bến Súc và Bà Thiện, mỗi cứ điểm bố trí từ một đến hai
trung đội, từ một đến hai khẩu cối (60mm và 80mm), hai đến ba trung
liên, tiểu liên và súng trường đầy đủ. Riêng ở Rạch Kiến có một đại bác
105mm.
Mỗi tháp canh bố trí từ bốn đến sáu lính, trang bị tiểu
liên, súng trường và lựu đạn. Riêng hai tháp canh Bưng Công và Cây Cam
có một trung đội và một khẩu trung liên.
Hàng tuần có hai chuyến
xe vào thứ 4 và thứ 7, sáng từ Dầu Tiếng xuống Bến Cát chở cao su,
chiều chở lương thực, hàng hoá ngược lại. Mỗi chuyến có từ 14 đến 16 xe,
có hai thiết giáp và 50 tên địch hộ tống, đội hình kéo dài 6 ki-lô-mét.
Trước khi đi, các bốt có một đến ba tiểu đội ra dò mìn và tuần đường để
đề phòng ta phục kích.
Bộ chỉ huy chiến dịch đã triệu tập ba hội nghị để tổ chức thảo luận kế hoạch chiến đấu và phân công công việc chuẩn bị.
Ngoài
thành phần quân báo, trinh sát, Bộ chỉ huy đã phân công cán bộ phòng
tham mưu và cán bộ trực tiếp chỉ huy đi nghiên cứu thực địa, nắm vững
tình hình địa hình, quy luật hoạt động của địch để bổ sung kế hoạch
chung; đồng thời xây dựng kế hoạch tác chiến thuộc phạm vi mình phụ
trách. Bộ chỉ huy chiến dịch đã tổ chức hiệp đồng chiến đấu giữa hai khu
và tổ chức thảo luận giữa các đơn vị có liên quan để trong quá trình
chuẩn bị chiến đấu và chiến đấu, hành động các đơn vị ăn khớp, nhịp
nhàng.
Trong huấn luyện quân sự, các đơn vị đã có nhiều kinh
nghiệm đánh phục kích nên chỉ tập trung huấn luyện vào khâu yếu là “công
đồn”. Những đơn vị được phân công đánh đồn Bến Súc đã chọn một địa hình
tương tự, cấu trúc đồn bốt giả để luyện tập cho bộ đội trước một tháng.
Bộ chỉ huy chiến dịch cũng đã phái cán bộ tham mưu đến đơn vị công binh
giúp đỡ, bàn bạc xây dựng kế hoạch phá cầu.
Công tác chính trị:
Phòng Chính trị khu Sài Gòn - Chợ Lớn được chỉ định là cơ quan chính
trị chiến dịch. Trong những ngày chuẩn bị, đã xây dựng và triển khai kế
hoạch giáo dục, động viên bộ đội thi đua thực hiện cho kỳ được mục đích
của chiến dịch. Tuyên truyền và động viên quần chúng nhân dân ủng hộ và
tham gia phục vụ chiến dịch, đồng thời phân công cán bộ chính trị đi sát
để chỉ đạo và giúp đỡ từng đơn vị thực hiện công tác chính trị. Đặc
biệt chú trọng công tác địch vận, ngụy vận, Miên vận trước và trong quá
trình chiến đấu, tổ chức các đội tuyên truyền có trang bị đủ các phương
tiện (loa, truyền đơn, v.v...).
Chuẩn bị hậu cần: Bộ chỉ huy
chiến dịch đặc biệt chú ý hai vấn đề lớn là đạn dược và lương thực. Về
đạn dược, ngoài cơ số đã có ở đơn vị, Bộ chỉ huy chỉ thị cho công xưởng
sản xuất cấp tốc thêm 200 quả đạn cối, 35 quả Badômìn, 500 lựu đạn
phóng, 400 lựu đạn gài và đạn Badôca. Về lương thực, mỗi người
mang theo năm ngày gạo. Ngoài ra còn chuẩn bị thêm một vạn lít gạo
(tương đương tám tấn); và dầu, đường, muối đầy đủ. Riêng công tác quân y
thì đơn vị tự lo và tổ chức trạm, thuốc men, v.v... có kế hoạch và
triển khai đủ trước ngày nổ súng.
15 giờ 30 phút ngày 25 tháng
1, quân ta đồng loạt nổ súng tiến công các đồn Bến Súc, Rạch Bắp và chặn
đánh đoàn xe địch trên đường 14 đoạn từ Bến Súc lên cầu Suối Dứa. Quân
địch cố thủ trong đồn (tường xây dày bằng đá), dùng hỏa lực mạnh khống
chế các mũi tiến công của ta. Quân ta không tiến được chỉ bắn đạn cối
rồi rút lui. Cuộc chiến đấu trên đường 14 diễn ra quyết liệt đến 18 giờ
tối: Quân ta tổ chức thành năm trận địa phục kích ở các xóm Cò Trạch,
Bến Chùa, Sam Bông, Gò Mối và Lâm Vồ. Khi hai xe thiết giáp và hai xe
vận tải đi vào trận địa, sở chỉ huy biết rõ là xe tuần đường, điện xuống
trận địa, nhưng vì thông tin hỏng nên tiểu đoàn trưởng nhận định là
“đoàn vận tải” nên ra lệnh nổ súng. Địch trong xe thiết giáp phối hợp
với bốt gác đường bắn trả quyết liệt. Quân ta chỉ diệt được chín tên
địch, bắt một tên; phá huỷ một đại bác và ba xe thiết giáp. Ta hy sinh
năm, bị thương 24; 18 giờ, các trận địa phục kích rút quân.
Trên
đường số 7, ta tổ chức hai bộ phận bố trí gần đồn Bến Cát và đồn Rạch
Bắp. 15 giờ 30 phút, địch phát hiện ta đặt địa lôi, cho hai tiểu đội ra
gỡ. Ta nổ súng đánh và đuổi chúng vào cứ điểm Rạch Bắp, tiến hành bao
vây. Địch cho pháo ở Bến Cát và Rạch Kiến bắn vào trận địa ta, đồng thời
cho hai xe thiết giáp, tám xe vận tải chở đầy lính từ Bến Cát lên tiếp
viện. Bộ phận phục kích gần Bến Cát nổ súng. Sau 10 phút ta rút lui.
Địch chết 41 tên và bị thương một số, ba xe vận tải bị hỏng nặng. Ta hy
sinh hai và bị thương hai chiến sĩ. 18 giờ 20 phút, bộ phận bao vây Rạch
Bắp chuyển ra đường bố trí đánh phục kích, dùng địa lôi đánh hỏng nặng
một xe thiết giáp. Địch dùng súng và lựu đạn chống trả. Trời tối ta
không xung phong được nên lui quân.
Đêm 25, bộ phận phá hoại, đánh sập được cầu Suối Cát, còn cầu Bến Cát vì nghiên cứu chưa kỹ, nên khi đánh chỉ hư hỏng nhẹ.
Đêm
26 tháng 1, ta bao vây cứ điểm Rạch Kiến và các tháp canh, do bị lộ nên
địch cho quân xông ra, ta nổ súng, địch chống trả và được sự chi viện
hoả lực ở Rạch Kiến nên ta chỉ diệt được một tên, làm bị thương hai tên.
Ta tiến hành rải truyền đơn và kêu gọi các tháp canh nhưng không có kết
quả.
13 giờ ngày 27 tháng 1, địch tiếp viện và nối lại giao
thông. Thấy không còn yếu tố bất ngờ nữa, Ban chỉ huy ra lệnh kết thúc
chiến dịch và lui quân về căn cứ Thanh Tuyền.
Kết quả: Địch chết
61 tên, bị thương 23 tên, bị bắt hai tên. Ta hy sinh tám người, bị
thương 29 người, mất một súng ngắn và hai súng trường. Ta thu được của
địch hai trung liên, bốn tiểu liên, 10 lựu đạn, 300 viên đạn, phá huỷ
một xe vận tải, hai cầu, một ca nông 24mm; đánh hỏng một cầu.
Trong
ba ngày chiến đấu, ta đã làm gián đoạn giao thông của địch trong một
thời gian khá dài, địch phải dùng máy bay tiếp tế cho sở cao su Dầu
Tiếng và bị động đối phó, giảm bớt hoạt động trên đường số 5 Hóc Môn và
đoạn đường xe lửa Dĩ An - Lái Thiêu.
Về phía ta không đạt được
mục đích của chiến dịch. Do điện thoại hỏng: cán bộ chỉ huy cấp tiểu
đoàn lại không nắm vững quy luật vận chuyển của địch nên đã đánh nhầm xe
tuần đường. Kỹ thuật đánh địa lôi và bộc phá kém (hầu hết địa lôi không
trung đích, bộc phá phá cầu không đạt kết quả). Chỉ huy không tập trung
đơn vị, lại bố trí phân tán rời rạc, một số đơn vị kỷ luật kém, không
báo cáo, tự động rút lui, tự động gỡ địa lôi để lỡ thời cơ đánh xe thiết
giáp mà người chỉ huy không nắm được. Ban chỉ huy máy móc, thiếu linh
hoạt, khi tình hình đã thay đổi mà vẫn bám kế hoạch cũ nên bỏ lỡ nhiều
cơ hội diệt địch; không bố trí lực lượng dự bị, không dự kiến đối phó
khi tình huống khó khăn nên khi lui quân để địch truy kích mà không đánh
được, khiến cho chiến dịch bị động, không giành được thắng lợi.
Những
khuyết điểm, nhược điểm về khả năng, trình độ chiến đấu, chiến thuật và
trình độ thực hành chiến dịch bộc lộ trong đợt hoạt động đã để lại
những kinh nghiệm thiết thực cho quá trình “vận động chiến tiến tới” về
sau. Nó là cuộc diễn tập cho chiến dịch Bến Cát 2 diễn ra vào dịp cuối
năm này.
_______________________________________ 1.Tài
liệu tổng kết (đề ngày 28 tháng 9 năm 1961) của Cục tác chiến ghi
“Chiến dịch Bến Cát - Dầu Tiếng 1”. Nhưng thực chất chiến dịch chỉ diễn
ra trên địa bàn huyện Bến Cát, hơn nữa để phân biệt rõ với chiến dịch
Bến Cát 2 diễn ra cuối năm 1950, ở nhiều tài liệu, sách và ở bài viết
này, chúng tôi lấy tiêu đề là “Chiến dịch Bến Cát 1”. Trong “Lịch sử Sài
Gòn - Chợ Lớn...”. Nxb thành phố Hồ Chí Minh, trang 211 viết “Chiến
dịch Bến Cát thực chất là đợt hoạt động quân sự trong ba ngày từ 25 đến
27 tháng 1 năm 1950... 2.Hồ
sơ lưu trữ VL-11.951 ghi: Lực lượng phối hợp giữa hai khu (Khu Sài Gòn -
Chợ Lớn và Khu 7) cho phép tập trung quân tương đương một trung đoàn.
Logged
...Chuyện bình thường, chiến tranh người trai ấy quên mình, anh dâng hiến mùa xuân cho tương lai...
« Trả lời #29 vào lúc: 29 Tháng Sáu, 2012, 07:27:24 PM »
CHIẾN DỊCH CAO LÃNH
(Tiến công, từ ngày 26 tháng 1 đến ngày 1 tháng 2 năm 1950)
Cuối
1949, phong trào chiến tranh du kích ở Khu 9 nói chung và vùng Đồng
Tháp Mười nói riêng phát triển mạnh. Để kìm giữ, căng kéo lực lượng
địch, không cho chúng yên tâm tăng viện cho chiến trường chính Bắc Bộ.
Phối hợp đắc lực với chiến trường chính Bắc Bộ, đầu 1950, Bộ tư lệnh Khu
9 chỉ đạo mở chiến dịch Cao Lãnh trong sáu ngày: Từ ngày 26 tháng 1 đến
ngày 1 tháng 2 năm 1950.
Bộ chỉ huy chiến dịch gồm các đồng chí
ban chỉ huy trung đoàn 115 (chủ lực của khu): Đồng chí Đặng Văn Thông,
trung đoàn trưởng làm chỉ huy trưởng; đồng chí Nguyễn Như Văn làm tham
mưu trưởng; đồng chí Giọng (tiểu đoàn 309) làm chỉ huy phó chiến dịch.
Mục tiêu của chiến dịch là:
Tiêu hao, tiêu diệt sinh lực địch; đánh đồn và tháp canh, mở rộng vùng
giải phóng. Giành dân, xây dựng cơ sở cách mạng trong vùng địch tạm
chiếm, phá rã chính quyền địch tại địa phương. Tiến hành vũ trang tuyên
truyền và công tác địch vận, lôi kéo binh lính địch về với nhân dân.
Tổng
An Tịnh thuộc huyện Cao Lãnh, tỉnh Sa Đéc (tỉnh Đồng Tháp ngày nay)
được chọn làm địa bàn chiến dịch. Đây là một cù lao nằm giữa hai con
sông Cao Lãnh (ở phía bắc) và Tiền Giang (ở phía nam), cù lao có chiều
dài 14 km, rộng tám km, là vùng đất phì nhiêu nhất của huyện, cây cối,
ruộng vườn xanh tốt, sông rạch chằng chịt. Chạy giữa dọc cù lao là con
lộ đá, bến phà Tân Tịch là cầu nối sang sông đi thị xã Sa Đec (cách 21
km về phía đông nam). Trên cù lao lại có nhiều con lộ bằng đất, đi lại
thuận lợi. Đây là vùng đất mềm, nhiều sông rạch nên cơ giới đi lại khó
khăn.
Tổng An Tịnh là vùng địch kiểm soát, gồm sáu xã Tịnh Thới,
Tân Tịch, Tân Thuận Đông, Tân An, Hoà An, Tân Thuận Tây và thị trấn Cao
Lãnh. Địch lợi dụng hai sông lớn làm chướng ngại vật thiên nhiên kết
hợp với hệ thống đồn bốt dọc theo ven sông hình thành vành đai phòng thủ
vững chắc bảo vệ hậu phương của chúng mà thị trấn Cao Lãnh là trung
tâm. Lực lượng địch ở đây gồm có: Đại đội 10 Hòa Hảo do tên Phan Văn
Phùng chỉ huy, đại đội 31 Hòa Hảo do tên Hồ Nhật Tảo chỉ huy đóng quân
từ Mỹ Tho, tổng An Tịnh đến xã Phong Mỹ. Ngoài ra còn có một số đơn vị
lính Cao Đài, một đại đội lính lê dương (Ma-rốc) là lực lượng hành quân
cơ động1; khi bị tiến
công, các đồn bốt trong phạm vi cù lao có thế tiếp viện nhanh chóng cho
nhau, hỏa lực bắn thẳng và vòng cầu từ thị trấn có thể chi viện trực
tiếp. Lực lượng cơ động và pháo cơ động trên sông sẵn sàng tổ chức các
cuộc hành quân, tiếp viện những nơi bị ta uy hiếp và các cuộc ngăn chặn
đường lui quân của ta. Đặc tính của lính ngụy Hòa Hảo là hay dùng lối
đánh “chim sẻ” để ngăn chặn ta, đồng thời tổ chức mạng lưới gián điệp và
báo động hành động của quân ta. Nhưng quân địch ở “địa bàn chiến dịch”
xa chỉ huy trung tâm, đường tiếp viện chủ yếu là bằng tàu trên sông Tiền
Giang vào, do đó nếu ta chặn được tàu, thì địch ở Cao Lãnh hoàn toàn bị
cô lập.
Về ta, phía bắc sông Cao Lãnh là vùng tự do của ta
thuận tiện cho việc tập kết, tiếp cận, tổ chức trạm tiếp tế, cứu thương,
v.v... Nếu phương tiện vận chuyển của ta dồi dào, ta có thể tiến công
địch từ nhiều hướng, mũi. Nhưng việc hành quân phải vượt qua nhiều sông
rạch, nếu bị lộ dễ bị địch dùng xung lực, hoả lực chia cắt đội hình và
bao vây tiêu diệt. Nhưng các chiến sĩ của ta rất thông thạo địa hình,
lại được quần chúng nhân dân đã giác ngộ cách mạng sẵn lòng che chở là
một thuận lợi rất cơ bản.
Lực lượng của ta tham gia chiến dịch gồm:
Tiểu đoàn 309 chủ lực của khu, một tiểu đoàn tập trung thuộc trung đoàn
115, một đại đội trợ chiến (đại đội 1028 trung đoàn 115), một trung đội
thủy lôi, một trung đội dân quân du kích tập trung và dân quân du kích
xã, công an xung phong, quốc vệ đội và cán bộ dân chính đảng địa phương.
Phương châm tác chiến là vây đồn diệt viện kết hợp với võ trang tuyên
truyền.
Kế hoạch tác chiến: Lực lượng chia thành hai bộ phận:
Bộ phận bao vây đồn bốt, đánh chặn viện, đánh tàu trên sông Cao Lãnh
gồm các tiểu đoàn 309, đại đội 1028 trợ chiến, trung đội thuỷ lôi
(thuộc đại đội 1031) và một bộ phận địa lôi. Bố trí cụ thể như sau:
Đại
đội 941 tiểu đoàn 309, một tổ thủy lôi, hai bộ phận của đại đội 1028
(có Badôca, 2AT, 1 trọng liên 12,7mm), bố trí dọc hai bên sông Cần Lố từ
nam và Thông Lưu đến tháp canh số 19, có nhiệm vụ tiêu diệt tàu và bộ
binh địch vào sông Cao Lãnh trên hướng Cần Lố và bảo vệ đường về cho đội
vũ trang tuyên truyền.
Một tiểu đội thuộc đại đội 941 tiểu đoàn
309, một tiểu đội 12,7mm bố trí lại ngã ba sông Cần Lố và Cao Lãnh, có
nhiệm vụ ngăn chặn tàu địch hoặc làm chậm bước tiến của chúng để đại đội
941 vận động về tăng cường cho đại đội 939 tiểu đoàn 309 chặn đánh tầu
địch.
Một trung đội của đại đội 939, tiểu đoàn 309, một tổ địa
lôi ba AT, bố trí trên bờ sông Cao Lãnh, đoạn ngã ba Rạch Bảy, có nhiệm
vụ dùng hỏa lực kết hợp với địa lôi ngăn chặn bộ binh địch từ thị trấn
và đồn số 9 ra hướng Cần Lố, ngăn chặn tàu địch khi chúng đã lọt qua hai
trận địa trên.
Hai trung đội của đại đội 909, tiểu đoàn 309,
một tổ địa lôi bố trí gần thị trấn (trên đồn 8 ) theo lộ mới đi Phong Mỹ
đến lô cốt số 4, có nhiệm vụ bao vây, nếu có điều kiện thì đánh chiếm
các lô cốt 4, 5, 6, 7, 8; dùng địa lôi kết hợp hoả lực ngăn chặn địch từ
thị trấn ra tiếp viện cho các lô cốt trên.
Đại đội 940 tiểu đoàn
309, bộ phận thuỷ lôi của 1031, một trung đội thuộc đại đội 1029 trung
đoàn 115, bộ phận trợ chiến của đại đội 1028 (có hai Pi-át, hai Badôca,
hai AT, hai trọng liên 12,7mm, một cối 60mm), một bộ phận địa lôi; bố
trí trên vàm sông Con (sông Tiền) phía tây Cao Lãnh, có nhiệm vụ tiêu
diệt bộ binh và tàu địch vào sông Cao Lãnh, bảo vệ đường về cho bộ phận
vũ trang tuyên truyền; đồng thời bao vây lô cốt số 1, số 3, tiêu diệt lô
cốt số 2 ở ngã ba lộ mới để tạo điều kiện đánh viện sau này. Các bãi
địa lôi bố trí ở khoảng gần lô cốt số 1; khoảng lộ mới đi Phong Mỹ và
khoảng gần rạch Cái Kích để kết hợp với các trung đội bộ binh tiêu diệt
quân địch từ hướng đổ bộ theo dọc sông Cao Lãnh và từ hướng lô cốt số 21
lên.
Bộ phận võ trang tuyên truyền trong tổng An Tịnh:
Gồm đại đội 1027, đại đội 1030, một trung đội của đại đội 1035, hai
trung đội của đại đội 1029 trung đoàn 115, một bộ phận địa lôi, hai
trung đội dân quân du kích tập trung, công an xung phong, quốc vệ đội và
cán bộ dân chính địa phương; có nhiệm vụ bao vây các lô cốt trong phạm
vi vũ trang tuyên truyền, đảm bảo cho việc vũ trang tuyên truyền thắng
lợi, trừ gian diệt tề và tổ chức đánh viện nhỏ. Bố trí như sau:
Hai
trung đội thuộc đại đội 1029, một trung đội địa lôi bố trí ở vùng Hòa
An từ Rạch Xếp sang Rạch Ba Khía đến rạch Cái Tôm có nhiệm vụ phong tỏa
địch ở thị trấn ra và từ bến phà Tân Tịch theo lộ đá Cao Lãnh lên, hỗ
trợ cho lực lượng dân quân du kích, công an xung phong và cán bộ địa
phương làm nhiệm vụ vũ trang tuyên truyền, diệt tề trừ gian trong phạm
vi xã Hòa An.
Hai trung đội của đại đội 1030 và một bộ phận địa lôi, có nhiệm vụ bao vây lô cốt 18, 14: ngăn chặn định từ bến phà lên.
Một bộ phận bao vây các lô cốt 15, 16, 17 và thiêu hủy kho dự trữ của địch, tổ chức đánh viện nhỏ trong khu vực.
Một trung đội quốc vệ đội và một tiểu đội dân quân du kích bao vây các lô cốt 21, 22 và 23.
Lực
lượng còn lại: Đại đội 1027, một trung đội thuộc 1030, trung đội 16 đại
đội 1035 phối hợp với công an xung phong, hai trung đội dân quân du
kích, cán bộ địa phương tiến hành vũ trang tuyên truyền, diệt tề trừ
gian trong các xã Tịnh Thới, Tân Tịch, Tân Thuận Đông ở giai đoạn đầu,
sau đó chuyển lên vùng Hòa An và Tân Thuận Tây. Trường hợp trở ngại thì
bằng mọi cách làm vũ trang tuyên truyền trong khu vực một ngày đêm xong.
Phương tiện chỉ huy: Có ba đài vô tuyến điện bố trí một đài ở
Ban chỉ huy chiến dịch và hai đài ở hai trận địa chặn tàu và bộ binh ở
Cần Lố và vàm Sông Con. Liên lạc giữa Ban chỉ huy và các mặt khác có tám
trạm, chủ yếu là liên lạc chạy bộ. Tổ chức năm trạm tiếp tế ở vùng tự
do sát mặt trận (Mỹ Ngải, Mỹ Trà, An Bình, Mỹ Tho) do các mẹ và các chị
phụ trách. Riêng bộ phận vũ trang tuyên truyền thì mang theo lương khô,
khi cần sẽ vận động đồng bào trong xã Hòa An giúp đỡ; ba trạm cứu thương
và ba trạm phẫu ở An Bình, Bình Trị và Mỹ Tho.
Công tác chính
trị, đã tập trung vào việc động viên bộ đội và dân quân xây dựng tinh
thần quyết thắng, phấn đấu hoàn thành nhiệm vụ. Tổ chức học tập mục
đích, ý nghĩa của chiến dịch, các chủ trương, chính sách đối với lính
ngụy và với nhân dân vùng địch tạm chiếm cho bộ đội và cán bộ dân chính
đảng địa phương; đề cao kỷ luật dân vận, kỷ luật chiến trường, chống
những hành động tham lam lấy chiến lợi phẩm hoặc quân phiệt, trả thù...
có ảnh hưởng xấu đến kháng chiến. Đồng thời đề ra kế hoạch, nội dung cho
các đội vũ trang tuyên truyền tổ chức các cuộc mít tinh, họp gia đình,
kêu gọi, truyền đơn... nhằm vạch rõ âm mưu “dùng người Việt đánh người
Việt” của địch; giải thích chủ trương chính sách của Chính phủ kháng
chiến cho đồng bào.
Hoạt động nghi binh: Ngày 22 tháng 1 năm
1950, ta đưa tin địch sẽ càn quét vùng Cao Lãnh. Ban chỉ huy trung đoàn
115 ra lệnh cho các cơ quan tỉnh và huyện lập tức rời khỏi địa phương,
đồng thời điều động một lực lượng về đối phó. Lệnh cho đơn vị bộ đội địa
phương đang hoạt động ở Hồng Ngự chuẩn bị đón lực lượng chủ lực về Tân
Châu, Hồng Ngự... Kết quả, chiến dịch đã giữ được bí mật đến phút chót,
khi ta nổ súng, địch vẫn lạc mục tiêu nên đã oanh tạc vùng Sầm Sai, Bầu
Giốc thuộc huyện Hồng Ngự trong hai ngày 27 và 28 tháng 1 năm 1950.
______________________________________ 1.Một
đại đội Pháp và Ma-rốc đóng ở thị trấn. Lực lượng Hòa Hảo gồm bốn cứ
điểm, mỗi cứ điểm có một trung đội lính, trang bị một trung liên, một số
súng trường và tiểu liên, 20 tháp canh với quân số một tiểu đội hoặc
nửa tiểu đội mỗi tháp canh, trang bị sáu đến bảy súng trường, một đến
hai tiểu liên và một số súng tự chế. Chúng thường đảo quân giữa các bốt
để nghi binh, che giấu việc thiếu quân số của chúng.
21 giờ 55 phút ngày 26 tháng 1, trung đội thuộc đại đội 1029 nổ súng
tiến công đồn trường học Tân An, hội đồng Vinh và đồn Ông Nhất, nhưng
không kết quả nên đã chuyển sang bao vây. Sáng sớm 27 tháng 1, Ban chỉ
huy chiến dịch tăng cường một cối 81mm cho đại đội 939, 6 giờ đơn vị nổ
súng tiến công các lô cốt số 4, 5, 6, 7, 8 và bắn đạn cối vào thị trấn
Cao Lãnh. Địch dùng hỏa lực trong thị trấn chi viện cho một trung đội
địch tiến ra đánh bật hai tiểu đội chặn viện của ta và bộ phận đánh bao
vây lô cốt số 6 (Chủ Sen) của đại đội 939; cả hai bộ phận này phải rút
sang rạch Ca Từ (sau lô cốt số 8 ), dùng tuyến rạch làm trận địa phòng
ngự ngăn chặn địch.
Sau 2 giờ chiến đấu, bao vây lô cốt 4, 5, 6
ta bị hy sinh hai đồng chí, bị thương hai người, bộ phận này nao núng
nên rút về rạch Bà Lời, bố trí hai bờ kênh ông Ca, do đó các lô cốt này
được giải tỏa.
Bộ chỉ huy lệnh cho đại đội 1028 đưa sang một
tiểu đội 12,7mm và một tiểu đội đại liên bắn chế áp địch, yểm trợ cho
đại đội 939 tiến hành bao vây các lô cốt lần thứ hai. Đến 11 giờ, đơn vị
đã giành được thế áp đảo địch, lập lại thế bao vây như trước. Cùng lúc,
hai trung đội của đại đội 1029 nổ súng vào các bốt phía tây thị trấn,
địch chống trả và cho một trung đội xuất kích, bị ta đánh lui, địch chết
và bị thương một số tên. Đến 10 giờ, được tăng cường gần hai trung đội,
địch tổ chức phản công lần thứ hai. Chỉ huy bộ phận này cảm thấy bị hở
sườn (vì bộ phận chặn viện và bao vây lô cốt số 8 đã rút), tư tưởng dao
động nên cho đơn vị rút về bố trí ngang với đồn Kinh Cụt (lô cốt số 7),
do đó việc vũ trang tuyên truyền ở vùng Hòa An và việc bảo vệ đường tiến
của đại bộ phận lực lượng vũ trang tuyên truyền không thực hiện được.
Bộ
phận vũ trang tuyên truyền chia thành hai cánh và tổ chức vượt sông ở
hai đoạn An Bình và sông Cần Lố. Địch phát hiện, báo động và tổ chức
những cuộc chống trả nhỏ. Cuộc tiến quân của ta vẫn thuận lợi. Quân ta
đánh, số quân này phải lui vào đồn bốt, ta bao vây theo kế hoạch và tổ
chức mít tinh vũ trang tuyên truyền, trừ gian, diệt tề trên các xã Tịnh
Thới, Tân Tịch, Tân Thuận Đông. Đến 10 giờ thì mất liên lạc với hướng
của đại đội 1029.
Sau khi thấy đại đội 939 và 940 tiến công các
lô cốt không thành công, nhất là chưa giải quyết được lô cốt số 2, đại
đội 939 không đủ sức hoàn thành nhiệm vụ, trung đội của đại đội 1029
không làm tròn nhiệm vụ, nên Ban chỉ huy chiến dịch quyết định chuyển
sang phương án 2 “Hoàn thành vũ trang tuyên truyền trong một ngày đêm”.
Tập trung lực lượng giải quyết một số lô cốt ven sông Cao Lãnh và lệnh
cho bộ phận vũ trang tuyên truyền tiến lên vùng Hòa An, Tân Thuận Tây;
nếu hoàn thành nhiệm vụ thì rút về tăng cường cho ba đại đội 939, 940,
941 trước sáng ngày 28 tháng 1 năm 1950.
Đến 24 giờ, bộ phận này
đã tổ chức mít tinh trên 20 địa điểm, phát 15.000 truyền đơn, họp gia
đình, giải tán hai ban hội tề của xã Hòa An và Tân An; bắt một số lính
bảo an, giải thích chính sách rồi tha tại chỗ, lấy lại 4.000 giạ lúa
(100 tấn) trả lại cho nhân dân, làm chủ tình hình ở sáu xã của tổng An
Tịnh.
1 giờ 30 phút, ta để lại dân quân du kích và quốc vệ đội
hoạt động, còn phần lớn lực lượng tiến công trong cù lao rút về căn cứ
để củng cố, chuẩn bị chiến đấu cho ngày hôm sau.
Lực lượng chặn
bộ binh và tàu ở vàm Sông Con được tăng cường thêm hai trung đội của đại
đội 1029, liên tiếp tổ chức tiến công lô cốt số 2 và 3, địch chống trả
yếu ớt và 6 giờ sáng 28 tháng 1, địch ở lô cốt số 2 xin thương thuyết
rồi đầu hàng lúc 7 giờ 20 phút; ta thu toàn bộ vũ khí, bắt toàn bộ quân
địch, san bằng lô cốt.
Đại đội 1030 và một trung đội của đại đội
1035 về hợp sức với đại đội 939 tiến công mạnh lô cốt 4, 5, 6, 7, 8, bắn
đạn cối vào thị trấn. Đến 15 giờ, vì ta bao vây không chặt, địch ở lô
cốt số 6 bỏ chạy, ta thiêu hủy lô cốt. Địch cho tàu theo sông Tiền vào
tiếp viện, đồng thời cho lính Hòa Hảo đổ bộ lên vàm Tân Thuận Tây (gần
đồn số 1), khoảng 50 tên theo lộ Hòa An định đánh vào lực lượng ta phía
ngoài thị trấn. Hai tàu đổ bộ khác dưới sự chi viện của pháo và máy bay
ném bom, đi vào sông Cao Lãnh. Quân ta bố trí ở đây đã tiến đánh, địch
phải lui hết về đồn số 1. Bộ phận chặn tàu của ta đánh đắm một chiếc,
bắn bị thương một chiếc, làm nhiều địch chết và bị thương. Đến 17 giờ,
địch cho ba tàu đến bắn dữ dội vào mặt trận ta và kéo hai tàu bị đắm và
bị thương về Sa Đéc. Hướng Cần Lố, Ban chỉ huy tăng cường đại đội 1027
triển khai chiến đấu với đại đội 941, nhưng mặt này vẫn yên tĩnh. Do đó,
gần tối 28 tháng 1, Bộ chỉ huy chiến dịch rút hai trung đội của đại đội
1207, một tiểu đội 12,7mm và một Badôca về tăng cường cho đại đội 940.
Đại đội 1030 bố trí chặn viện mặt thị trấn và chuẩn bị tiến công tiêu
diệt bốt số 7, bao vây bốt số 8. Đại đội 939 uy hiếp các lô cốt 4, 5 và
6.
Trong đêm 28 tháng 1, ta tiến công mãnh liệt các lô cốt ở ven
sông Cao Lãnh. Đến 8 giờ sáng ngày 29 tháng 1, địch ở lô cốt 3 bỏ chạy
sang lô cốt 4, ta phát hiện chậm nên không diệt được địch, chỉ san bằng
lô cốt. Đại đội 1030 uy hiếp mạnh đồn số 7 (Kinh Cụt) bằng hỏa lực cối
81mm và 12,7mm, nên đến 17 giờ, địch đầu hàng, ta thu toàn bộ vũ khí và
bắt sống gần 30 lính ngụy.
Đến 24 giờ, quân ta hết đạn, Ban chỉ
huy chiến dịch cho các đơn vị phía tây Cao Lãnh rút, chỉ để lại đại đội
1030 và một trung đội của đại đội 1035 tiếp tục bao vây bắn phá các lô
cốt, kết hợp với dân quân du kích đột nhập quấy rối về phía Hòa An, Tân
Thuận Tây. Hai trung đội du kích chuyển xuống hoạt động nghi binh ở Mỹ
Xương và Bình Hàng Trung. Cũng trong đêm, ta thiêu hủy thêm hai hội quán
của bọn tề có vũ trang ở xã Hòa An; địch ở lô cốt số 23 hoang mang bỏ
chạy, dân quân vào phá sập.
Sáng 30 tháng 1, địch ở lô cốt số 4
và 5 bí mật rút lui, ta phát hiện khi chúng đang lội sông về phía Hoà
An, nổ súng diệt được vài tên, số còn lại chạy thoát. 16 giờ, một bộ
phận quân địch từ tàu thủy đổ bộ lên đoạn giữa đồn số 1 và lô cốt số 2,
vì chúng đã mất tinh thần nên khi mới đụng quân ta đã bỏ chạy tán loạn,
ta giết và làm bị thương một số, trong đó có một quan hai.
Ngày
31 tháng 1, Ban chỉ huy chiến dịch điều hai đại đội 1207 và 1030 trở lại
hoạt động tác chiến; địch ở lô cốt số 21 bỏ trốn, quân ta san bằng. Vì
đạn dược đã cạn nên 7 giờ ngày 1 tháng 2 năm 1950, Ban chỉ huy ra lệnh
kết thúc chiến dịch; đồng thời để lại đại đội 1030 cùng dân quân du kích
hoạt động ở vừng Mỹ Trà, Mỹ Ngải, Hòa An, Tân Thuận Tây, Tịnh Thới, Tân
Tịch để tuyên truyền và khuếch trương chiến quả.
Kết quả: Sau
sáu ngày đêm chiến đấu, ta tiêu diệt lô cốt số 2 và cứ điểm số 7, bức
rút và phá hủy sáu lô cốt khác; phá hủy hai hội quán của tề; đánh chìm
một tàu đổ bộ VP-15, bắn bị thương tàu VP-10; một máy bay; diệt 20 tên
Pháp và lê dương (có một quan hai thủy quân và một quan hai bộ binh), 75
lính ngụy (có hai chỉ huy); loại khỏi vòng chiến đấu 55 tên; bắt một
lính Pháp và 32 lính ngụy (có một chỉ huy); bắt và thả tại chỗ số đông
bảo an; giải tán hai ban hội tề của xã Hòa An và Tân An; giải phóng ba
xã Tân An, Hòa An, Tân Thuận Tây với 600 dân; thu 40 súng các loại. Ta
hy sinh 17 người, bị thương 30 người.
Mục đích đề ra rõ ràng và đã thực hiện được cơ bản1.
Thắng lợi rõ nhất là về mặt vũ trang tuyên truyền; bên cạnh đó đã tiêu
hao, tiêu diệt được một số lượng đáng kể sinh lực địch, san bằng được
một loạt lô cốt, thực hiện được kế hoạch vừa phá được tuyến phòng thủ
của địch, đập tan bàn đạp nơi xuất phát để đi càn quét, vừa ngăn chặn âm
mưu lấn chiếm của chúng một cách tích cực nhất; đã đẩy địch từ thế chủ
đóng tiến công phải rút về phòng ngự và phải có thời gian củng cố khôi
phục. Thắng lợi của hai mặt tuyên truyền vũ trang và tác chiến quân sự
đã gây được không khí hăng hái giết giặc lập công của bộ đội và dân quân
du kích, củng cố được lòng tin và sự ủng hộ kháng chiến của quần chúng
nhân dân.
Ưu điểm nổi bật là Ban chỉ huy chiến dịch đã xây dựng
được một phương án tác chiến tỉ mỉ, có nhiều giả định và đề ra được cách
đối phó cụ thể nên đã giúp cho chỉ huy các cấp chủ động, không bị lúng
túng khi diễn biến tình huống thay đổi. Công tác nghi binh cũng tiến
hành tốt, đạt hiệu quả cao. Ban chỉ huy đã vận dụng tốt đường lối chiến
tranh nhân dân, huy động và tổ chức được nhiều lực lượng vũ trang và
quần chúng nhân dân tạo nên sức mạnh to lớn của chiến dịch.
Nhưng
chiến dịch cũng bộc lộ rõ một số điểm yếu: “Thực chất đây không phải là
một chiến dịch mà là một đợt hoạt động vũ trang tuyên truyền tương đối
có quy mô”2. Trong
phương châm nhiệm vụ và trong kế hoạch tác chiến ý định “tiêu diệt địch”
không rõ ràng, nặng về bảo vệ đường và ngăn chặn địch để phục vụ cho vũ
trang tuyên truyền. Phân công nhiệm vụ chưa hợp lý (một đại đội 939 mà
giao bao vây một cứ điểm, năm lô cốt đồng thời phải chặn viện thì quá
sức, không làm nổi); công tác nắm địch nhiều lúc chưa chắc chắn dẫn đến
bố trí lực lượng phân tán, dàn trải, không tập trung lực lượng vào mục
tiêu chủ yếu, do đó bỏ lỡ nhiều cơ hội diệt địch, hạn chế đến kết quả,
thắng lợi chung.
____________________________________ 1.Hồ sơ: VL-11.829BQP ghi: “Chiến dịch Cao Lãnh không đạt được mục đích và nhiệm vụ đề ra”... tr. 67.
-NÓI NHƯ CON "KÉT", LÀM NHƯ CON "KẸT"! -QUAN "NỔ" = MỴ DÂN -Định hướng như ... cứt mà đòi lên "Thiên Đường". -Rồi đây, lịch sử sẽ chỉ rõ công - tội! ---------------------------------- SỞ HỮU ĐẤT ĐAI -Ranh giới lãnh thổ hình thành từ bao giờ? Lãnh thổ là một khu vực đất đai nhằm mưu sinh được cho là đã bị chiếm cứ bởi một cá thể, vài cá thể hay một cộng đồng sinh vật nào đó. Ở nhiều loài sinh vật đã có cái tạm gọi là "ý niệm bản năng" về lãnh thổ, đã có những "hành vi sinh học" nhằm xác định ranh giới lãnh thổ tuy còn mờ nhạt, cũng như những hành động bảo vệ lãnh thổ khi bị xâm phạm. Ở loài người, khi đã hình thành tập quán sống định cư lâu dài (bằng trồng trọt cây lương thực và chăn nuôi gia súc), thì khái niệm về lãnh thổ cũng trở nên rõ ràng và việc giữ gìn, bảo vệ lãnh thổ cũng trở nên có ý thức trước nạn xâm lấn của tập đoàn người khác. Nói tóm lại, việc phân định lãnh thổ, giành giật lãnh thổ và bảo vệ lãnh thổ có nguyên nhân sâu xa từ sự đấu tranh sinh tồn, mà xa hơn nữa, có thể tìm thấy gốc xuất phát trong "cố gắng tồn tại"- một qui luật nền tảng của Tự Nhiên. -Nếu xét về mặt hình thành lãnh thổ, thì dân tộc Việt đã định cư trên mảnh đất này từ rất lâu rồi. Nhưng lãnh thổ Việt Nam có lẽ chỉ được xác định tương đối dứt khoát vào thời các vua Hùng, đó là khu vực trong phạm vi châu thổ sông Hồng và miền duyên hải ở đó. Sau, cùng với quá trình lan tỏa dân cư tự phát xen lẫn tự giác, mà lãnh thổ Việt Nam mới có hình thù như ngày nay. Có lẽ vào buổi đầu, khái niệm sở hữu đất đai cũng tương tự như sở hữu lãnh thổ, nghĩa là người dân Việt có quyền sở hữu "cha truyền con nối" đất đai để sinh sống (làm nông nghiệp mà không có đất đai thì thật khốn khổ (!) và từ đây chúng ta phần nào hiểu được vì sao người Việt còn gọi lãnh thổ là "đất nước" và vì sao "quê hương, đất nước" là thiêng liêng!). Đến nay do quan niệm cộng sản về quyền sở hữu mà đất đai thuộc quyền "sở hữu toàn dân", nhà nước "tự cho phép" mình làm đại diện chủ sử hữu! -Việc sở hữu toàn dân về đất đai là đúng hay sai? Trước tiên, muốn trả lời câu hỏi đó phải trả lời được câu hỏi: sở hữu toàn dân là gì? Thiên nhiên và những thực phẩm có được từ thiên nhiên để sống còn, thuở đầu tiên không là của ai cả. Mọi người đều có thể kiếm sống ở bất cứ đâu, bất cứ lúc nào, miễn là có khả năng sinh tồn được. Về sau, trong quá trình phát triển xã hội, tình cảm con người ngày một sâu sắc nhờ có quá trình phát triển mọi mặt xã hội (chủ yếu là phát triển lực lượng dân cư!) tuân theo qui luật "đấu tranh sinh tồn" làm nảy sinh khái niệm "sở hữu". Sở hữu là sự chiếm đoạt được số đông thừa nhận những thứ trực tiếp hay gián tiếp có trong thiên nhiên hoặc nhân tạo giúp cho việc mưu sinh hay sống còn (gọi là của cải) cho một cá nhân, một tập đoàn hay một cộng đồng người, một dân tộc người chiếm đoạt (được gọi là "chủ sở hữu"). Lãnh thổ và sở hữu đất đai cũng từ đó mà hình thành. Đẻ ra khái niệm sở hữu của cải tức là đẻ ra một hướng lựa chọn mới để mưu sinh, tồn sinh và phát sinh. Đẻ ra sự tích lũy, sở hữu là đẻ ra thêm một hướng nữa trong mưu sinh, tồn sinh và phát sinh, lấy của cải cùng với sức lao động (thặng dư) tạo thêm ra của cải. Đó là cách nói vắn tắt nhất về quá trình mưu sinh mang yếu tố tất yếu hình thành nên sự bóc lột, chiến tranh, và nền kinh tế tư bản trong xã hội loài người. Lúc đầu, người ta chỉ biết khái niệm chung về sở hữu, mặc dù các hình thức sở hữu đã tồn tại rất sớm trong thực tế. Chính cuộc đấu tranh đi đòi quyền sống lâu dài và quyết liệt của quần chúng cần lao đã vạch ra rõ ràng sự khác nhau của các loại sở hữu và dẫn đến khái niệm công hữu, cộng sản. Ngày nay, người ta phân biệt hai loại sở hữu cơ bản trong thực tế là sở hữu tư nhân (tư hữu) và sở hữu tập thể (công hữu). Sở hữu toàn dân thuộc về công hữu. Công hữu là sở hữu không thuộc tư hữu mà thuộc của tất cả mọi người. Theo wikipedia: "Sở hữu trong kinh tế chính trị, là một phạm trù cơ bản, chỉ mối quan hệ giữa người với người trong việc chiếm dụng của cải. Nó là hình thức xã hội của sự chiếm hữu của cải. Nó có thể được luật hóa thành quyền sở hữu và được thực hiện theo cơ chế nhất định gọi là "chế độ sở hữu" và "Quyền sở hữu" bao gồm 3 quyền sau: chiếm hữu, sử dụng và định đoạt - Chiếm hữu: quyền nắm giữ tài sản/tiêu sản trong tay - Sử dụng: quyền sử dụng tài sản/tiêu sản theo ý muốn - Định đoạt: quyền quyết định cho mượn, cho thuê, bán, cầm cố, thế chấp, phá hủy Khi cho người khác/tổ chức khác mượn hoặc thuê tài sản/tiêu sản thì
ta đã trao cho họ 2 quyền: chiếm hữu và sử dụng. Còn quyền định đoạt vẫn
nằm trong tay ta. Người khác/tổ chức khác đó sẽ vi phạm pháp luật nếu
họ sử dụng quyền định đoạt (bán, cầm cố, thế chấp, phá hủy) đối với tài
sản/tiêu sản của ta". -Như vậy, công hữu là một khái niệm rất tương đối. Tùy phạm vi sử dụng mà nó có nghĩa riêng, chung hay tối nghĩa. Thí dụ lãnh thổ Việt Nam, nều xét trên bình diện thế giới, thì nó thuộc dạng tư hữu (của riêng người Việt Nam), nếu xét riêng trên lãnh thổ Việt Nam, thì nó là công hữu (của mọi người Việt Nam), nhưng "của mọi người" xét cho cùng là "không của ai cả". -Tương tự như vậy, đất đai, khi con người còn săn bắt-hái lượm, là không thuộc sở hữu của ai cả. Nhưng khi phương thức trồng trọt-chăn nuôi thành tập quán sống lâu dài, khi lao động trên một mảnh đất làm kế mưu sinh đã thành thói quen thì sở hữu tư nhân về đất đai ra đời. Có nhiều nguyên nhân, nhưng chủ yếu một mặt là do đòi hỏi về sự phát triển số lượng lực lượng lao động xã hội (cũng có nghĩa là sự phát triển nhu cầu lương thực xã hội), mặt khác là do kiếp đời người hữu hạn, cũng như sự phát triển văn minh lãnh thổ..., đã tất yếu làm xuất hiện đòi hỏi phải phân phối và phân phối lại đất đai. -Có thể nói, quan niệm sở hữu toàn dân về đất đai, nếu hiểu đúng đắn, là một yêu cầu của chính quần chúng, là một quan niệm tiến bộ, văn minh, vừa thỏa mãn với sự mưu sinh của quần chúng vừa phù hợp với sự phát triển đất nước! -Trên mạng thấy: Hiến
pháp năm 2013, được Quốc hội thông qua ngày 28/11/2013, tiếp tục nhất
quán khẳng định “… đất đai… là tài sản công thuộc sở hữu toàn dân do Nhà
nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý theo quy định của pháp
luật”. Tại Chương 1, Điều 4, Luật Đất đai năm 2013 ghi: “Đất đai thuộc
sở hữu toàn dân, do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý,
Nhà nước trao quyền sử dụng đất cho người sử dụng đất theo quy định của
Luật này”.
Nói
đất đai thuộc chế độ SHTD, do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống
nhất quản lý, điều này có nghĩa là, SHTD không phải là sở hữu nhà nước
về đất đai. Nhà nước chỉ là đại diện cho chủ SHTD, tức là toàn thể công
dân của một nước. Nhà nước thay mặt toàn dân quy định việc phân định các
quyền năng và cơ cấu các chủ thể thực hiện các quyền năng này nhằm khai
thác, sử dụng có hiệu quả đất đai. Và quy định việc phân chia lợi ích
thu được từ đất đai đáp ứng yêu cầu của toàn dân và của toàn xã hội.
Theo Luật Đất đai năm 2013, Nhà nước có được một tập hợp các quyền cơ
bản: Quyền sở hữu; quyền định đoạt và quyền quản lý.
Người
dân - người sở hữu, có các quyền năng, như: Quyền chiếm hữu, QSDĐ,
quyền hưởng thành quả lao động, kết quả đầu tư trên đất; quyền được bảo
vệ khi người khác xâm phạm đến QSDĐ hợp pháp của mình; quyền khiếu nại,
tố cáo, khởi kiện về những hành vi vi phạm QSDĐ hợp pháp của mình và
những hành vi khác vi phạm pháp luật về đất đai; quyền được chuyển đổi,
chuyển nhượng, quyền được giao dịch trên thị trường đất đai, quyền thế
chấp, thừa kế, cho, tặng QSDĐ. Đây là các quyền hoàn toàn chính đáng
trong khái niệm “sở hữu toàn dân”. Bởi người dân là chủ thể chính chứ
không phải Nhà nước.
Với
cách hiểu như trên thì SHTD về đất đai không phải là phạm trù, thuật
ngữ lý thuyết, trừu tượng, thuần túy mang tính pháp lý, mà là một phạm
trù kinh tế hiện thực.
-Luật pháp nói như vậy nhưng trên thực tế người ta vẫn hiểu thế này: lúc bình thường sở hữu đất đai coi như thuộc về tư hữu (vì coi như đều có cả ba quyền: chiếm hữu, sử dụng,mua bán), nhưng khi cần thì sự tư hữu ấy chuyển hóa thành công hữu, tức là thuộc sở hữu nhà nước (như đã nói, khái niệm "sở hữu toàn dân" là một khái niệm mông lung, bất định. Yêu cầu cụ thể hóa chủ sở hữu đất đai buộc lý tưởng cộng sản phải đi đến quan niệm "đại diện chủ sở hữu". Mà nhà nước đại diện cho một chủ sở hữu mông lung, không xác định được thì có khác gì là chính chủ sở hữu đâu?). -Từ xưa, lãnh thổ là môi trường sinh sống thường xuyên của một cộng đồng người (một dân tộc, một bộ lạc...) nhất định, đất đai là phần lãnh thổ mà người dân mưu sinh hàng ngày (thậm chí là kiếm tìm hạnh phúc!) trên đó. Đối với những nước còn thuần nông nghiệp (như Việt Nam) thì thành ngữ "tất đất tấc vàng" vẫn đúng. Mặt khác, do qui luật "đấu tranh sinh tồn" và tăng trưởng lạm phát số lượng dân cư chi phối, nên xuất hiện nhu cầu phân phối lại đất đai, nên hướng phát triển lên văn minh của xã hội loài người (nói riêng là cộng đồng người), kéo theo nhu cầu về đất đai lãnh thổ dùng vào việc công cộng, cải tạo, xây dựng lãnh thổ cho phù hợp, vững mạnh, tương xứng với nền văn minh ấy là tất yếu. -Vậy, việc sử dụng đất đai trong một lãnh thổ nhằm thỏa mãn hai mục đích. Hai mục đích đó, trong một xã hội phát triển lành mạnh, sáng suốt, xét cho cùng thì đều phục vụ cho mục đích chung, thường gọi là "quốc kế dân sinh". Mục đích thứ nhất, có tính thường xuyên, đóng vai trò cơ bản, chủ yếu, mặc định, quyết định đến sống còn, thịnh suy, an nguy xã hội là nuôi trồng thực phẩm, lương thực để đảm bảo đời sống người dân. Mục đính thứ hai, có tính lâu dài, nhân tạo, công cộng thuộc lãnh thổ, cũng rất quan trọng nhưng không quyết định trong "quốc kế dân sinh", thường được cho là có tính hỗ trợ (có đắc lực hay không thì chưa biết!) cho mục đích thứ nhất. -Đất nước Việt Nam ta sau chiến tranh, vượt qua thời lạc lối, đổi mới, phát triển nền kinh tế, hướng tới "dân giàu nước mạnh" cũng chính là nhằm đạt được hai mục đích trên.Tuy nhiên, một phần vì chưa thấm nhuần khái niệm "nhà nước nhân dân" (là nhà nước của dân, do dân và vì dân), một phần vì nạn tham nhũng (lấy danh nghĩa qui hoạch vì quốc kế dân sinh nhưng thực ra là vì tư lợi), phần nữa là chưa thấu đáo kiến thức, nên việc thực hiện hai mục đích ấy ở nhiều nơi chưa đồng bộ, chưa phù hợp, còn gây ra nhiều mâu thuẫn, nhiều phản ứng gay gắt, dần hình thành nguy cơ làm rạn vỡ niềm tin không thể hồi phục được của nhân dân đối với chính quyền. -Thử hỏi từ khi thực hiện "quốc kế dân sinh" đến nay (nhất là thời kỳ đầu!), đã có bao nhiêu cuộc đền bù giải tỏa cho người dân cực kỳ rẻ mạt, phi lý, đã có bao nhiêu cuộc cưỡng bức đất đai đầy ngang trái, bất công? Nhiều lắm, thậm chí là không đếm xuể! Ôi đất nước Việt Nam ngày nay, trong đó có bao nhiêu phần là máu xương của những người anh hùng giữ nước, có bao nhiêu phần là mồ hôi nước mắt của người dân? -Nguyên nhân chân chính của sự hình thành nhà nước trên một lãnh thổ là phối hợp hành động nhằm tạo ra (những) hành động chung, chính đáng, phù hợp, đạt hiệu quả tối ưu, phụng sự cho công cuộc mưu sinh của cộng đồng người sống trên lãnh thổ đó (gọi là "toàn dân"). Vì lẽ đó, không những đất đai là sở hữu toàn dân mà đại diện chủ sở hữu đất đai (tức nhà nước) cũng thuộc sở hữu toàn dân, nghĩa là dân có đủ ba quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt nhà nước(!). Đại diện cho toàn dân để sử dụng ba quyền đó và cả quyền sở hữu đất đai chính là quốc hội. Qua đây mà thấy, quốc hội phải là nơi hội tụ tinh hoa trí tuệ của một đất nước, có quyền lực tối cao, hoạt động độc lập như một thực thể và chịu trách nhiệm trực tiếp trước toàn dân. Nếu đúng chức năng, vai trò của quốc hội là cực kỳ quan trọng, nó quyết định đến sự tồn vong của cả một chế độ, và nếu xét trên bình diện cá nhân thì chủ tịch quốc hội là người có quyền lực cao nhất, chịu trách nhiệm chính và trực tiếp trước toàn dân về những quyết sách của nhà nước. -Trước đây, dưới ách đô hộ, bóc lột của quân xâm lược và triều đình phong kiến thối nát, nhân dân ta phải sống đời lầm than, đói khổ. Đảng cộng sản Việt Nam đã tiền phong chiến đấu hy sinh, dẫn dắt toàn dân làm cách mạng, mở đường, chỉ lối cho dân tộc đến bến bờ độc lập, tự do. Lúc đó Đảng nắm vai trò toàn quyền lãnh đạo là đương nhiên, chính đáng, hợp lòng dân, được đại đa số nhân dân hết lòng ủng hộ, ca ngợi và trung thành đi theo Đảng. Sau khi đập tan chính quyền thực dân, xây dựng nhà nước nhân dân, thành lập quốc hội, Đảng không còn trong sáng như xưa nữa, nhiều đảng viên dần đã có những biểu hiện ngày càng rõ ràng về sự thoái hóa, biến chất làm mất niềm tin của nhân dân, nhưng Đảng vẫn tự coi mình có quyền lãnh đạo nhà nước. Đây là một mâu thuẫn rất sâu sắc về mặt lý luận. Muốn lãnh đạo nhà nước thì Đảng phải thao túng quốc hội (qua đây mà thấy Đảng có cố gắng không độc tài đến mấy vẫn phải độc tài!). Chính vì thế mà quốc hội ngày nay vẫn là một thực thể phụ thuộc, chưa phải là nơi hội tụ đủ nhân tài, tinh hoa trí tuệ của toàn dân, chưa là đại diện chân chính của nhân dân cần lao, nghĩa là của dân tộc Việt. -Hoạt động duy nhất của nhà nước nhân dân là phụng sự "quốc kế dân sinh" làm "dân giàu nước mạnh". Có lẽ phải quan niệm lại cách sử dụng đất đai trong một lãnh thổ để thỏa mãn lâu dài cùng lúc hai mục đích "quốc kế dân sinh", để không còn có thể núp bóng danh nghĩa "vì dân" mà tư lợi. Nên chăng, cần cho rằng trong một đất nước đồng thời tồn tại hai quyền sở hữu đất đai là tư hữu và công hữu? Quyền tư hữu về đất đai là quyền sở hữu có tính tương đối, có giới hạn. Còn quyền công hữu về đất đai là quyền sở hữu có tính tuyệt đối, lâu dài. Trong khi thực thi hai quyền đó, có thể có lúc xảy ra trúc trắc, trái chiều, mâu thuẫn, nên để hòa hợp, hài hòa, thuận thảo hai mục đích và được đại bộ phận nhân dân ủng hộ, luôn luôn phải thỏa mãn nguyên tắc cơ bản là ưu tiên quyền sở hữu tư nhân, vì xét đến cùng thì nhà nước cũng chỉ là công cụ của toàn dân, cán bộ nhà nước, trước khi bước vào chấp nhận hoạt động "quan trường", phải thấm nhuần tư tưởng là đầy tớ phụng sự cho dân. Nghĩa là, khi nhà nước cần thu hồi một khu vực đất đai nào đó, phục vụ cho "quốc kế dân sinh", phải lấy đảm bảo kế sinh nhai lâu dài của nhân dân trong vùng qui hoạch làm tối thượng dù nhà nước có phải chịu thiệt thòi trước mắt (thực ra là toàn dân thiệt thòi chút ít vì cuộc sống của bộ phận dân cư khu vực), nghĩa là phải thực hiện nghiêm chỉnh các bước sau: 1, Lập dự án. Phân tích có khoa học ích lợi của công trình. Xác định xem công trình đã thực sự phù hợp về không gian và cả thời gian chưa. 2, xem xét cụ thể mức độ ảnh hưởng đến cuộc sống mưu sinh của người dân trong khu vực qui hoạch để có kế hoạch phân phối đất đai sản xuất mới và đền bù thỏa đáng. 3, Nhất quyết phải hỏi ý dân minh bạch, rõ ràng (trừ các công trình an ninh quốc phòng) và tôn trọng triệt để ý kiến phán quyết (theo số đông) của nhân dân (nếu ý kiến nhân dân là phủ định thì dứt khoát không triển khai!). -Nếu ngay từ đầu "các quan" thực hiện chính trực việc qui hoạch đất đai theo ba bước ấy, tin chắc rằng sự phản kháng của dân chúng như từng thấy (vụ Đoàn Văn Vươn, mở rộng Hà Nội, Dương Nội, Văn Giang, Fomosa...) đã không xảy ra, đã không phải chứng kiến những cảnh đau lòng. Vì dân tộc Việt, như đã thấy từ ngàn xưa, là dân tộc bất khuất, thông minh, biết lẽ phải, nhẫn nhịn, vị tha, hết mình ủng hộ nhà nước nếu nhà nước đó thực sự là "của dân, do dân và vì dân", tồn tại và hành động chỉ vì độc lập, tự do, ấm no, hạnh phúc của toàn dân, chứ tuyệt đối không có một mưu lợi nào khác. -Mong nhà nước nghĩ lại! -Vậy, có thơ rằng:
ÔNG ĐỊA
Cục đất có được chút màu bôi Bôi mình xanh đỏ, tô mắt môi Gấp miếng giấy bồi phe phẩy quạt Kiếm chỗ thâm trầm đặt đít ngồi
Kiếm chỗ thâm trầm đặt đít ngồi Khỏe re ông Địa được thăm nuôi Khỏi cần làm lụng mà no béo Phạch bụng nghênh nhòm tít mắt cười
Phạch bụng nghênh nhòm tít mắt cười Quyền cao chức cả, thế mà thôi Ai dám khinh ông là cục đất Cũng người, cũng ngợm, cũng như Trời
Cũng người, cũng ngợm, cũng như Trời E nỗi thằng Dân lúc thất thời Cáu ông, nó quẳng vù thiên lý Bay trúng bệ thờ, nát rã rời! Trần Hạnh Thu
--------------------------------------------------------------------- (ĐC sưu tầm trên NET)
9260. Bà Nghị bóp cổ doanh nghiệp, chiếm đất của dân, hút máu ngân hàng
Vợ chồng ông Trần Anh Tuấn và bà Nguyễn Thị Nguyệt Hường.
“Trong kinh doanh, cũng như ở nghị
trường, bạn không thể cứ chờ cơ hội đến, mà phải tự tìm kiếm hoặc tạo ra
nó”, đây là câu nói của bà Nguyễn Thị Nguyệt Hường được một số tờ báo
PR lên 9 tầng mây. Vâng bà Hường là người thông minh và nói rất hay,
thậm chí hành động của bà còn “tuyệt vời” hơn thế! Bà không chỉ tạo ra
cơ hội mà còn tận dụng nó đến mức tàn nhẫn! Nhằm mở rộng mối quan hệ làm
ăn, bà Hường đã tìm cách mua ghế đại biểu Hội đồng Nhân dân TP Hà Nội,
rồi Đại biểu Quốc hội. Theo một số người dân phản ánh, bà Nghị này lần
nào về quận Tây Hồ tiếp xúc cử tri cũng được cờ rong trống mở. “Cử tri”
thì được chọn trước, khi về ai cũng hoan hỉ vì túi đã có phong bì dày.
Có ông cử tri cựu binh tuổi U70 thuộc dạng “hạnh kiểm tốt”, lần nào về
cũng khen chị Hường nức nở, gọi chị xưng em rối rít.
Có sự hậu thuẫn từ người chồng (Tuấn
“Chợ”), với lượng vốn được huy động từ các phi vụ ngầm thông qua nhiều
mối quan hệ, công ty của bà Hường ngày càng phát triển. Với “tầm nhìn xa
trông rộng”, bà Hường nhận thấy sản xuất không thể kiếm lời nhanh, chỉ
có đầu cơ hạ tầng cho các doanh nghiệp khác thuê mới “kiếm lời” cao hơn. Năm 2006, bà Nguyễn Thị Nguyệt Hường
thành lập Tập đoàn Đầu tư Phát triển Việt Nam (VID Group). Nhận thấy
Hưng Yên gần Hà Nội và đang cần phát triển khu công nghiệp, lập tức vợ
chồng bà Hường săn tìm các lô đất ở Phố Nối, Hưng Yên là địa điểm đầu
tiên.
Mức
độ ô nhiễm nặng nề của các con sông tại Khu công nghiệp Phố Nối A, tỉnh
Hưng Yên xả thải gây ô nhiễm nguồn nước, ảnh hưởng nặng đến môi trường,
khiến người dân vô cùng lo lắng và bức xúc. Ảnh: báo PL Plus
Tại đây bà Hường đã cấu kết với Tập đoàn
Lifan của Trung Quốc, mua chuộc giới chức địa phương tỉnh Hưng Yên,
thâu tóm 25 hecta đất nông nghiệp của người dân với giá đền bù rẻ mạt,
đẩy hàng trăm gia đình vào cảnh “ly nông”. Sau đó cho các doanh nghiệp
sản xuất thuê lại với giá cắt cổ. Khi thu được số tiền khổng lồ từ Cụm
Công nghiệp Lifan (Hưng Yên), trong cơn say máu làm giàu, bất chấp thủ
đoạn, bà Hường tiếp tục cấu kết với quan chức các địa phương, vung tiền
thâu tóm đất nông nghiệp để lập tiếp 2 khu công nghiệp tại Hải Dương
(Nam Sách, Phúc Điền), rồi Quang Minh (Vĩnh Phúc), Đài Tư (Hà Nội);
Thạch Thất – Quốc Oai (Hà Nội); Đồng Văn II (Hà Nam)… Chỉ trong thời
gian ngắn, bà Hường đã thâu tóm hơn 2.000ha đất nông nghiệp. Không biết
bà Hường đã bỏ ra bao nhiêu tiền để “đi đêm” với các quan chức địa
phương, người ta chỉ biết KCN Quang Minh của bà được TP.Hà Nội đã mở
ngay tuyến xe buýt 53 từ trung tâm TP đến KCN Quang Minh của bà để làm
bệ phóng.
Hàng
chục người dân đứng bên con kênh đen kịt “vạch tội” việc khu công
nghiệp Quang Minh gây ô nhiễm môi trường. Ảnh: Nguyễn Hưng.
Hàng
chục người dân xã Tiền Phong và thị trấn Quang Minh đứng bên con kênh
đen kịt “vạch tội” khu công nghiệp Quang Minh xả thải gây ô nhiễm. Ảnh:
Nguyễn Hưng.
Ép người dân nhượng đất cho các khu công nghiệp Sau khi bị mất đất sản xuất vào tay bà
Hường, nhưng phần lớn người dân vẫn quyết tâm bám trụ quê hương, cố chịu
đấm ăn xôi, quyết “ly nông, không ly hương” và sử dụng đồng vốn ít ỏi
từ việc đền bù giải phóng mặt bằng đầu tư chuyển đổi ngành nghề. Cay đắng thay, mong muốn chuyển đổi
ngành nghề dường như “quá sức” đối với một số người dân vốn quen với
ruộng đồng. Khoảng 2/3 số lao động của các hộ gia đình bị bà Hường “cướp
đất” cho dự án công nghiệp không đáp ứng được tiêu chí tuyển dụng của
các nhà máy công nghiệp vì quá tuổi, trình độ văn hoá thấp, không có tay
nghề chuyên môn,… Hệ quả tất yếu là số người thất nghiệp, ăn không ngồi
rồi ngày càng nhiều. Điển hình như ở xã Trưng Trắc (Văn Lâm),
nhiều hộ dân sau khi nhận tiền, không có việc làm, đã mua sắm xe máy,
ăn chơi tiêu xài dẫn đến đổ đốn, trở thành kẻ gieo rắc “cái chết trắng”
cho người thân, xóm làng. Nhìn căn nhà trống hơ trống hoác của mình, bà
H. (xã Trưng Trắc, Văn Lâm) ngậm ngùi kể: “Những tưởng có ít vốn từ việc
nhượng lại đất cho các dự án công nghiệp, nào ngờ hai thằng con và ông
chồng đều dính vào ma tuý. Không còn tiền hút chích, thằng lớn đổ bệnh
rồi sớm đi theo ông bà”. Bà H nghẹn ngào: “Ông chồng tôi và thằng bé…
được Nhà nước “nuôi” rồi.” Với bà, hình ảnh về một gia đình êm ấm xưa
kia chỉ còn là ảo ảnh. Cũng hoàn cảnh tương tự, sau gần 1 năm
“ngồi chơi xơi nước”, cầm trong tay mấy chục triệu đồng sau khi giao hết
đất nông nghiệp cho bà Hường làm dự án sản xuất xe máy Lifan với Trung
Quốc, bà Trần Thị Hải (xã Nghĩa Hiệp, Yên Mỹ, Hưng Yên) tính chuyện gửi
tiền vào ngân hàng. Số lãi hàng tháng không đủ chi tiêu cho cả nhà, cả 4
người con trong độ tuổi lao động của gia đình bà đều không tìm được
việc làm. Hơn 2 sào ruộng khoán còn lại cũng đành nhượng lại cho người
khác, gia đình lâm vào cảnh không còn đất canh tác. Hút máu doanh nghiệp Khi phóng viên đặt câu hỏi: “Bí quyết
nào VID Group thuyết phục được các đối tác đến đầu tư tại các khu công
nghiệp của mình?”, bà Hường đã trả lời: “Đơn giản đó là nói đúng sự
thực, trung thực, không được bưng bít thông tin hoặc khoa trương hình
thức”. Vâng, bà nói rất hay! Để hiểu thêm về độ trung thực, đạo đức kinh
doanh của bà Hường chúng ta hãy xem bà đã làm gì ở các khu công nghiệp
ấy. Điển hình như ở KCN Quang Minh (Mê Linh,
Hà Nội), một khu công nghiệp lớn nhất của bà Hường. Toàn bộ nước thải
của khu công nghiệp này đều xả trực tiếp ra môi trường. Theo Sở Tài
nguyên Môi trường Hà Nội, nước thải do khu công nghiệp Quang Minh xả ra
môi trường có hàm lượng độc tố cynaua (giống chất mà Formosa xả ra biển)
vượt 8 lần tiêu chuẩn cho phép, BOD5 vượt 13,5 lần, COD vượt 14,7 lần,
sunfua vượt hơn 4 lần, colifom vượt hơn 13 lần… Do quá bức xúc với tình
trạng ô nhiễm kéo dài do toàn bộ nước thải của khu công nghiệp Quang
Minh đều xả trực tiếp ra môi trường, người dân quanh đây nhiều lần viết
đơn kiện, tập trung phản đối và thậm chí lấp cống xả thải để ngăn chặn
dòng nước đen ngòm, thối hoắc này. Khu công nghiệp Thạch Thất – Quốc Oai
của bà Hường cũng xả nước thải làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến nguồn nước
và môi trường, người dân xã Phùng Xá (huyện Thạch Thất) rất bức xúc về
tình trạng nước thải của KCN này xả trực tiếp ra môi trường, gây ô nhiễm
nặng. Theo phản ánh của các doanh nghiệp trong
KCN, thì chính Công ty Nam Đức (một công ty của Bà Hường) đã ép các
doanh nghiệp trong KCN chấp nhận mức phí hạ tầng cắt cổ. Nhiều doanh
nghiệp bị Công ty Nam Đức khủng bố bịt cổng, bịt cống thoát nước, thậm
chí khi các doanh nghiệp xin các thủ tục hành chính tại nhiều cơ quan
quản lý nhà nước cũng bị từ chối với lý do chưa nộp phí hạ tầng… nên
đành phải chấp nhận ký hợp đồng và thanh toán tiền hạ tầng rất bất lợi,
một số doanh nghiệp phản ứng quyết liệt thì bị đưa ra Tòa, nhận bản án
bất công. Xung đột giữa chủ đầu tư KCN Quang Minh và các doanh nghiệp
“nóng” tới mức đơn thư gửi đi kêu cứu đã “rải đều” khắp các ban, ngành
từ Trung ương tới địa phương, có doanh nghiệp “uất ức” còn cùng công
nhân giăng biểu ngữ phản đối.
Chủ đầu tư mới chỉ làm được hệ thống đường nội bộ, cống thoát nước… ở Dự án khu nhà ở phục vụ KCN Đồng Văn II.
Trong KCN Đồng Văn II của bà Hường, thì
khu nhà ở phục vụ KCN vẫn dở dang và chủ đầu tư có biểu hiện “trở mặt”
với các nhà đầu tư góp vốn, mua đất ở dự án này. Theo quyết định của
UBND tỉnh Hà Nam phê duyệt thì dự án phải hoàn thành vào năm 2010. Dù đã
quá 6 năm, dự án vẫn hoang sơ, cỏ mọc um tùm. Phải chăng đây chỉ là thủ
đoạn chiếm đất để đầu cơ? Bà Hường chỉ quan tâm đến việc kiếm lời
từ các khu công nghiệp, không quan tâm đến phát triển bền vững cho các
doanh nghiệp, an sinh cho những người dân vùng dự án. Đấy, sự trung thực và đạo đức kinh doanh của bà Hường là như thế! Thâu tóm ngân hàng Không chỉ thâu tóm đất nông nghiệp của
nông dân, bà Hường còn thâu tóm ngân hàng để hút vốn nền kinh tế. Từ năm
2005, vợ chồng bà Hường bắt đầu âm thầm thâu tóm Ngân hàng Hàng Hải
(Maritime Bank) và lún sâu vào hoạt động cho vay kiếm lời phi pháp có
liên quan đến “siêu lừa” Huyền Như với giá trị lên đến hàng ngàn tỷ đồng
thông qua 3 công ty sân sau. Vậy mà không hiểu vì sao, “siêu lừa” Huyền
Như và các đồng phạm bị lôi ra xét xử, còn bà Hường vẫn bình an vô sự
tiếp tục vung tiền mua chuộc giới công thương thủ đô để được giới thiệu
ứng cử đại biểu Quốc hội. Bà Hường đã từng ngẫu hứng chia sẻ kiểu
dạy đời: “Khi làm kinh doanh, bạn không thể cứ chờ cơ hội đến với mình
mà phải tự tìm kiếm hoặc tạo ra nó. Trong công tác dân cử ở Hội đồng
nhân dân thành phố và Quốc hội cũng vậy”. Quả thật là như vậy, với tư
cách là Đại biểu Quốc hội, bà rất tích cực tham gia vào việc điều chỉnh
các chính sách về kinh tế như đất đai, tài chính, ngân hàng sao cho có
lợi cho hoạt động kinh doanh của bà, còn miếng cơm manh áo của người
nông dân bị mất đất, quyền lợi của doanh nghiệp trong các KCN thì bà mặc
kệ! Bà Nghị Nguyệt Hường còn tâm sự: “Tiếp
xúc cử tri là để lắng nghe ý kiến từ thực tế cuộc sống của người dân”.
Vâng, bà có nghe tiếng khóc của biết bao hộ dân bị buộc rời khỏi quê nhà
để “nhường” lại mảnh đất đẹp cho bà là dự án? Bà có nghe nỗi bức xúc
của biết bao hộ dân sống trong cảnh ô nhiễm mà các KCN của bà gây ra? Bà
có nghe sự chịu đựng của các doanh nghiệp đang thuê mặt bằng trong các
KCN của bà? Bà Hường cũng chia sẻ, “Ngày nay, một
công ty cần phải đem lại lợi ích cho cộng đồng nơi mình đang hoạt động
với những chương trình, mục tiêu cụ thể. Trong số đó, hoạt động từ
thiện, xã hội là một ví dụ và mình nên chủ động làm điều đó một cách vô
điều kiện”. Vâng, những lời nói của bà rất hay! Hay đây chính là màn
kịch mà bà dùng để xoa dịu và che đậy những hoạt động kinh doanh ”hút
máu” tàn nhẫn gây bức xúc trong dân?
Từ dung túng đến hợp thức hóa sai phạm pháp luật nghiêm trọng
Cập nhật: 14:02, Thứ 4, 29/06/2016
Sai phạm trong công tác quản lý và sử dụng đất trên địa bàn quận Hoàng
Mai, đã trở nên quá công khai, bất chấp sự phản đối của dư luận, các
công trình trái phép trên đất bãi sông Hồng, trong tuyến thoát lũ vẫn
tồn tại.
Doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu Việt Vương xây dựng trong tuyến thoát lũ sông Hồng, đe dọa an toàn đê và cầu Vĩnh Tuy
Không những không xử lý các công trình vi phạm, cấp chính quyền địa
phương còn đề xuất với UBND TP Hà Nội cho phép doanh nghiệp làm hồ sơ
hợp thức hóa các sai phạm!
Hy sinh đất công vì lợi ích doanh nghiệp
Việc UBND các phường tự ý cho thuê đất công là trái thẩm quyền. Sau khi
cho thuê đất lại không quản lý dẫn tới sử dụng đất sai mục đích và theo
nguyên tắc thì chủ tịch UBND các phường phải chịu trách nhiệm chính về
việc sử dụng đất công.
Đặt câu hỏi với ông Nguyễn Đức Thọ - Chủ tịch UBND phường Lĩnh Nam về
những doanh nghiệp được UBND phường kí hợp đồng ưu ái giao hàng chục
ngàn m2 đất để kiếm lời bằng cách cho thuê lại với giá cao hơn, phóng
viên Báo NNVN được trả lời một cách đơn giản rằng đây là vấn đề của lịch
sử đã có từ trước khi ông về nhậm chức.
Trên thực tế, Sở Tài nguyên và Môi trường cũng như UBND quận Hoàng Mai
đã có đợt kiểm tra về nội dung này sau khi nghe các doanh nghiệp đề đạt
nguyện vọng chính, Sở này lại kiến nghị UBND TP Hà Nội cho chủ trương xử
lý các tồn tại trong quản lý, sử dụng đất đai đối với trường hợp cho
thuê trái thẩm quyền bằng hình thức cấp có thẩm quyền kí hợp đồng cho
thuê và xử lý tài chính đối với tổ chức sử dụng đất nhằm tháo gỡ khó
khăn cho doanh nghiệp.
Thật kì lạ, nhìn vào quá trình phát triển thôn tính đất đai của các
doanh nghiệp như Hồng Anh, Thành Long, Linh Dao và Sơn Thanh, có thể nói
rằng các doanh nghiệp luôn được tạo điều kiện thuận lợi hết mức đến nỗi
họ ngang nhiên vi phạm Luật Đất đai, vi phạm Luật Đê điều trong nhiều
năm mà không vấp phải trở ngại, khó khăn gì từ chính quyền địa phương.
Giờ đây, khi công luận lên tiếng đòi xử lý vi phạm theo đúng quy định
của pháp luật thì chính quyền địa phương, Sở Tài nguyên - Môi trường lại
kiến nghị “tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp”?
Vướng mắc duy nhất của các doanh nghiệp kể trên chính là pháp luật.
Những năm qua họ đã ỷ thế được cán bộ thực thi pháp luật ở cấp phường,
cấp quận “ngó lơ” nên đã bất chấp pháp luật đầu tư các công trình xây
dựng hàng chục thậm chí hàng trăm tỉ đồng trong tuyến thoát lũ.
Đây là những sai phạm nghiêm trọng, có chủ đích, với âm mưu thôn tính
hàng chục hecta đất công, đất nông nghiệp nên cần phải xử lý nghiêm để
ngăn chặn những hành vi vi phạm pháp luật kế tiếp. Nhưng rõ ràng kiến
nghị của Sở TN-MT cùng các cấp chính quyền quận Hoàng Mai là chưa phù
hợp với quy định của pháp luật.
Bởi lẽ, với những vi phạm pháp luật nghiêm trọng như thế liệu UBND TP Hà Nội có đủ thẩm quyền để “hợp thức hóa”?
Chúng ta đang ở trong một xã hội pháp quyền, mọi vi phạm cần phải bị xử
lý theo quy định của pháp luật. Trong trường hợp này, các lãnh đạo
phường Lĩnh Nam, Thanh Trì có sai phạm vì đã tự ý cho thuê đất công trái
thẩm quyền thì kết luận thanh tra cần phải xem xét trách nhiệm và đề
xuất phương án kỉ luật.
Ngoài ra, đối với các doanh nghiệp thuê đất của phường nhưng sử dụng
không đúng mục đích, tự ý cải tạo làm biến đổi bề mặt đất thì phải xử
phạt thật nặng và thu hồi lại đất công, tiến hành cưỡng chế đập bỏ toàn
bộ diện tích xây dựng vi phạm Luật Đê điều. Sau khi thu hồi nếu UBND TP
Hà Nội muốn sử dụng quỹ đất đó để cho thuê, cũng phải làm theo luật, tổ
chức đấu giá công khai.
Thực thi pháp luật, kiến nghị theo pháp luật Sở TN-MT phải làm được như vậy mới là hợp tình, hợp lý và hợp pháp.
Ảnh: Kiên Cường
Tiếc rằng, ngay cả lãnh đạo Sở TN-MT cũng bị thuyết phục bởi lợi ích
của doanh nghiệp nên đã ra một văn bản kết luận không có tính khả thi.
Các doanh nghiệp vi phạm nói trên đồng loạt làm hồ sơ xin TP Hà Nội giao
đất nhưng không được chấp thuận vì còn vướng Luật. Nhưng vô hình chung
chính văn bản này lại trở thành một chủ trương, một “chỗ dựa” để cấp
phường, cấp quận tiếp tục dung túng cho các doanh nghiệp sai phạm.
Bán chức trách, lo lợi cá nhân
Bản thân ông Thọ với tư cách là Chủ tịch UBND phường Lĩnh Nam cũng nhiệt liệt ủng hộ chủ trương này.
Ông khẳng định, kiến nghị của Sở TN-MT là đúng và sẵn sàng kí mọi giấy
tờ để hợp thức cho các doanh nghiệp đang vi phạm nhằm “tháo gỡ khó khăn,
tạo điều kiện cho doanh nghiệp phát triển”.
Đứng ở phương diện cá nhân, có lẽ quan điểm của ông Thọ đúng, vì ông
không phải chịu trách nhiệm với những sai phạm của người tiền nhiệm. Còn
chủ trương “hợp thức hóa sai phạm” cũng là của UBND quận, của Sở TN-MT
nên ông chỉ là người làm theo, không mắc khuyết điểm mà vừa được lòng
doanh nghiệp lại vừa được lòng lãnh đạo.
Nhưng đứng ở góc nhìn của một công chức, một lãnh đạo phường chịu trách
nhiệm với nhân dân, với đất nước, thì quan điểm này còn quá vì lợi ích
cá nhân.
Vì một lãnh đạo phường mà không giữ vững tinh thần thượng tôn pháp
luật, nhìn thấy những vi phạm pháp luật nghiêm trọng xảy ra trên địa bàn
mà không kiên quyết ngăn chặn, ngược lại còn bày tỏ thái độ ủng hộ thì
thật chưa xứng đáng để nhân dân đặt niềm tin.
Làm lãnh đạo phường nhưng ông Thọ để công trình nhà cao tầng vi phạm
Luật Đê điều của Cty Thành Long nằm trong tuyến thoát lũ sông Hồng mà
không kiên quyết xử lý, tức là ông vẫn chưa làm tròn chức trách, bổn
phận của mình.
Tất nhiên, đã nói đến đê điều phải kể cả đến trách nhiệm của Chi cục Đê
điều & PCLB Hà Nội. Trong hàng chục công trình xây dựng vi phạm
Luật Đê điều và đặc biệt là công trình hoành tráng của Cty Thành Long,
Chi cục Đê điều & PCLB đều biết rõ và thậm chí còn có văn bản phúc
đáp đơn xin cải tạo nhà của ông Vũ Văn Thảo – GĐ Cty Thành Long, xác
định nhà của ông Thảo nằm trong nhóm “những công trình nhà ở hiện có
không phù hợp với quy hoạch, phải di dời” và chỉ cho phép cải tạo, sửa
chữa chứ không được xây mới mở rộng. Công trình vi phạm của ông Thảo nằm
cách Hạt quản lý đê số 3 không xa vậy nhưng ông Thảo cứ xây lên hết
tầng này đến tầng khác mà Hạt quản lý đê không lập biên bản đình chỉ.
Trao đổi với Báo NNVN về việc này, ông Phạm Hùng Lân – Hạt trưởng cũng
có quan điểm giống hệt như Chủ tịch phường Lĩnh Nam, là phải “tạo điều
kiện để doanh nghiệp phát triển”.
Ông Lân cho biết, khi xây nhà, chủ doanh nghiệp cũng trình bày vì nhu
cầu kinh doanh, bộ mặt doanh nghiệp cần phải làm trụ sở đàng hoàng, rồi
nhu cầu vay vốn ngân hàng... nên ông cũng có ý hỗ trợ, tạo điều kiện cho
doanh nghiệp.
Chia sẻ sự cảm thông với người Hạt trưởng “lụy tình” với doanh nghiệp
nhưng Báo NNVN xin nhắc ông nên dành một chút thời gian để nhớ đến chức
trách, nhiệm vụ của mình trước khi mở biên tạo điều kiện cho các doanh
nghiệp... vi phạm pháp luật.
Kiên Cường
Thư bạn đọc huyện Bát Xát (Lào Cai) về vi phạm Luật Đất đai?
Ban Biên tập |
Thứ Tư, 09/10/2013 04:07 GMT +7
Đề
nghị UBND huyện Bát Xát và cấp có thẩm quyền tỉnh Lào Cai quan tâm sớm
giải quyết nội dung đơn thư phản ánh của hai ông Nguyễn Tiến Hùng và
Phan Văn Thắng đại diện cho 70 hộ dân thị trấn Bát Xát bị thu hồi đất có
những biểu hiện vi phạm Luật Đất đai mà người dân bị thiệt hại kéo dài
nhiều năm.
Tạp chí điện tử Văn hiến Việt Nam vừa
nhận được đơn đề ngày 10/5/2013 của hai ông Nguyễn Tiến Hùng và Phạm
Văn Thắng đại diện cho 70 hộ dân thị trấn huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai bị
thu hồi đất phản ánh như sau:
"Năm 2005, huyện Bát Xát có thu hồi 6ha của 70 hộ dân của thị trấn để
làm chợ trung tâm huyện nhưng chính quyền không thông báo cho người dân
biết lý do thu hồi, không công khai phương án bồi thường, thậm chí còn
không đưa quyết định thu hồi đất cho người dân có đất bị thu hồi. Chính
quyền đã tước đi quyền dân chủ của nhân dân chúng tôi?
Về bồi thường: Chỉ có 8.000,đ/m2 ruộng lúa nước hai vụ và được tỉnh Lào
Cai hỗ trợ thêm 1.000,đ/m2 tổng cộng là 9.000,đ/m2. Còn đối với hỗ trợ
ổn định đời sống theo điều 28 và Khoản 2 Điều 10 Nghị định 197/2004/NĐ -
CP thì tỉnh không áp dụng theo quy định của Chính phủ nên người dân
không được hưởng, đất thu hồi xong thì làm chợ một phần, một phần thì
chia lô làm đất ở bán đấu giá, còn một phần thì bỏ hoang, trong khi đó
người dân mất đất sản xuất không có việc làm. Dân hỏi ông Phó Chủ tịch
huyện Hoàng Đăng Khoa thì nói rằng đó không phải là bỏ hoang mà là đang
đợi những nhà đầu tư. Dân hỏi đợi nhà đầu tư đến bao giờ, ông Phó Chủ
tịch trả lời, có thể là nay mai hoặc 5 năm, 10 năm hoặc lâu hơn nữa …?
Qua buổi trả lời của ông Phó Chủ tịch UBND huyện Bát Xát và các ban
ngành liên quan, ngày 23/01/2013, nhân dân chúng tôi muốn hỏi là một
lãnh đạo, là một đảng viên mà trả lời nhân dân như thế liệu có đúng là
một lãnh đạo và là Phó Chủ tịch huyện không ? Thị trấn chúng tôi thành
lập từ năm 1994, nhà đã có số, phố đã có tên, đất nông nghiệp của chúng
tôi nằm ở trung tâm thị trấn, bốn mặt đều tiếp giáp với khu dân cư. Vậy
đất nông nghiệp của nhân dân chúng tôi bị thu hồi để xây dựng chợ trung
tâm có nằm xen kẽ trong khu dân cư không ?.. khi xây dựng chợ, huyện đã
lấy tiêu đề “Xây dựng chợ Trung tâm huyện Bát Xát”, dự án khởi công vào
năm 2005 như thế thị trấn đã thành lập được 11 năm, mà các ban ngành và
Phó Chủ tịch huyện trả lời là: Đất nông nghiệp thu hồi làm chợ trung tâm
không nằm trong khu dân cư, vậy đất nông nghiệp của nhân dân chúng tôi
bị thu hồi làm chợ thì gọi là đất nằm ở đâu ?
Đến năm 2008, huyện Bát Xát còn thu hồi đất của 50 hộ dân để xây dựng
dự án hạ tầng kỹ thuật đường tổ 7 và thu hồi mở rộng cả hai bên làm đất ở
để bán đấu giá, cũng không thông báo cho người dân biết lý do thu hồi
đất, không niêm yết công khai phương án bồi thường và không đưa quyết
định thu hồi đất cho người dân bị thu hồi đất. Phần thu hồi mở rộng hai
bên để bán đấu giá quyền sử dụng đất, nhân dân chúng tôi không được biết
việc làm đó. Vậy UBND huyện và ông Phó chủ tịch huyện Hoàng Đăng Khoa
đã làm đúng với quy định của Luật Đất đai?
Cho đến ngày 01/11/2012, gia đình tôi và các hộ gia đình khác mới nhận
được 01 bản phôtô Quyết định thu hồi đất của UBND huyện Bát Xát. Theo
quy định của pháp luật, Quyết định phôtô không có giá trị pháp lý, chỉ
là tài liệu tham khảo. Như vậy, sau 07 năm thu hồi đất của nhân dân làm
nhiều dự án, UBND huyện Bát Xát mới có Quyết định (bản phôtô) về thu hồi
đất gửi xuống cho nhân dân. Vậy UBND huyện Bát Xát đã vi phạm nghiêm
trọng quy định của Chính phủ tại Điều 9 khoản a của Nghị định 97, theo
quy định thì cơ quan chính quyền huyện Bát Xát đã chậm gửi hay cố tình
không gửi Quyết định thu hồi đất xuống cho nhân dân chúng tôi thì phải
chịu trách nhiệm chi trả toàn bộ theo chính sách đền bù, hỗ trợ tại thời
điểm có Quyết định thu hồi đất gửi xuống cho từng hộ gia đình".
Đề nghị UBND huyện Bát Xát và cấp có thẩm quyền tỉnh Lào Cai quan tâm
sớm giải quyết nội dung đơn thư phản ánh nêu trên của hai ông Nguyễn
Tiến Hùng và Phan Văn Thắng đại diện cho 70 hộ dân thị trấn Bát Xát bị
thu hồi đất có những biểu hiện vi phạm Luật Đất đai mà người dân bị
thiệt hại kéo dài nhiều năm.
Tranh chấp đất đai tại chùa Sơn Cao (Vĩnh Phúc): Xâm phạm đất của cơ sở tôn giáo
LĐ - 185Đỗ Văn
Chùa Sơn Cao (TP.Vĩnh Yên) đang có nguy cơ bị xâm phạm.
Mặc dù Luật Đất đai quy định rõ đất của cơ sở tôn giáo (chùa, nhà thờ…)
khác với đất tín ngưỡng (đình, đền, miếu…), nhưng Sở TNMT tỉnh Vĩnh Phúc
vẫn quyết định lấy đất của chùa Cao Sơn (phường Ngô Quyền, TP.Vĩnh Yên)
đem cấp cho Ban hộ tự làng Gẩu (thuộc phường Đống Đa, TP.Vĩnh Yên) xây
dựng lại đình làng Gẩu.
Điều bất thường của ông chánh thanh tra tỉnh
Đình làng Gẩu trước kia nằm ở khu vực lò vôi phường Đống Đa, nay khu vực
này là Cung Văn hóa Thiếu nhi tỉnh Vĩnh Phúc. Những năm 90 của thế kỷ
trước, đình Gẩu đổ nát, ngày 24.6.1991 UBND tỉnh Vĩnh Phú có văn bản cho
phép người dân làng Gẩu di chuyển, xây dựng lại đình với diện tích 12m2
trong khuôn viên của chùa Sơn Cao.
Từ năm 2013, Ban hộ tự đình Gẩu muốn xin phép xây dựng lại đình, thế
nhưng cơ quan chức năng đã không thể cấp phép xây dựng do giấy chứng
nhận QSDĐ thuộc nhà chùa. Từ đây xảy ra tranh chấp liên miên giữa Ban hộ
tự đình Gẩu và nhà chùa, khiến đau đầu các cơ quan chức năng của tỉnh
Vĩnh Phúc và TP.Vĩnh Yên.
Theo Sở TNMT tỉnh Vĩnh Phúc, chùa Sơn Cao (còn gọi là chùa Gẩu) có niên
đại từ lâu đời. Năm 2006, chùa được cấp giấy chứng nhận QSDĐ với diện
tích 1.050,4m2 kể cả cổng tam quan của chùa. Theo ông Nguyễn Văn Lộc –
Giám đốc Sở TNMT tỉnh: “Khi hoàn tất thủ tục công nhận quyền SDĐ chùa
Sơn Cao, chính quyền địa phương và cộng đồng dân cư làng Gẩu, phường
Đống Đa không có ý kiến gì về việc chia tách khu đất theo đề nghị hiện
nay”.
Liên quan đến tranh chấp đất đai tại chùa Sơn Cao, Thanh tra tỉnh Vĩnh
Phúc đã phải vào cuộc và có kết luận. Để làm rõ vụ việc, PV Báo LĐ đã
liên lạc với ông Nguyễn Văn Bắc – Chánh thanh tra tỉnh. Tuy nhiên, ông
Bắc cho rằng trách nhiệm trả lời báo chí là của Sở TNMT tỉnh. Khi PV đề
nghị được làm việc thì ông Bắc trả lời: “Tôi không trả lời cái việc đó
được, việc đó là việc của Sở TNMT có trách nhiệm trả lời”.
Điều lạ lùng hơn là trong khi PV Báo LĐ đang phỏng vấn Đại đức Thích Tâm
Vượng – Trụ trì chùa Sơn Cao - thì điện thoại của đại đức đổ chuông
liên hồi. Đại đức Thích Tâm Vượng cho biết ông Bắc – Chánh thanh tra
tỉnh - gọi và bật loa cho PV cùng nghe. Trong cuộc điện thoại này, ông
Bắc đã lớn tiếng đe nẹt thầy chùa và buông lời khuyên đừng có trả lời
báo chí thì “mọi chuyện sẽ êm đẹp”(?!).
Chính quyền tỉnh tự… mâu thuẫn(!?)
Ngày 7.3.2014, UBND tỉnh Vĩnh Phúc đã có CV số 978/UBND-PC2 về việc giải
quyết đất đai liên quan đình làng Gẩu và chùa Sơn Cao “đồng ý chủ
trương di chuyển đình làng Gẩu đến một vị trí khác phù hợp thuộc địa
giới hành chính của phường Đống Đa (theo đề xuất của Sở TNMT, CA
tỉnh)...”. Thế nhưng, đến ngày 24.6.2014, UBND tỉnh Vĩnh Phúc lại có CV
nêu ý kiến của Chủ tịch UBND tỉnh: “Giao Chủ tịch UBND TP.Vĩnh Yên chủ
trì phối hợp với lãnh đạo các sở: TNMT, Xây dựng, VHTTDL, Nội vụ, thanh
tra - kiểm tra thực tế, thống nhất phân định rõ diện tích mốc giới đất
chùa Sơn Cao, đình làng Gẩu, đường đi chung (trong tổng số 1.050,4m2).
Chưa hết, ngày 30.7.2014, Sở TNMT tỉnh đã ra thông báo thu hồi giấy
chứng nhận QSDĐ của chùa Sơn Cao với lý do: Giấy chứng nhận QSDĐ cấp năm
2006 “có sai sót, chưa đúng quy định của pháp luật được thanh tra tỉnh
kết luận, kiến nghị tại báo cáo số 59/BC-TTr ngày 25.7.2014”. Thế nhưng,
cũng chính Sở TNMT tỉnh trước đó đã nêu quan điểm: “Văn bản 522/HC ngày
24.6.1991 của UBND tỉnh Vĩnh Phú (cũ) trả lời nhân dân xóm Gẩu không
phải là quyết định hành chính nên chưa đủ cơ sở pháp lý khi giải quyết
tranh chấp đất đai” và khẳng định việc cấp giấy chứng nhận QSDĐ cho chùa
Sơn Cao năm 2006 là “đúng quy định của pháp luật” (các CV số:
199/BC-STNMT ngày 12.8.2013; 345/BC-STNMT ngày 31.12.2013...).
Liên quan đến tranh chấp đất ở chùa Sơn Cao, ngày 1.3.2014, Ban Tôn giáo
Chính phủ - Bộ Nội Vụ cũng đã có CV gửi tỉnh Vĩnh Phúc nêu ý kiến:
“Không nên cấp giấy chứng nhận QSDĐ cho đình Gẩu trong khuôn viên chùa
Sơn Cao, vì diện tích đất còn lại trong khuôn viên chùa không nhiều
(khoảng 200m2); diện tích đình quá nhỏ (12m2); về lâu dài tiềm ẩn những
phức tạp có thể phát sinh về trật tự xã hội trong sinh hoạt tín ngưỡng,
tôn giáo”.
Vẫn còn tình trạng 'xâm phạm' đất lúa
Báo
cáo Quốc hội vừa qua, Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Nguyễn Minh
Quang cho biết, nhiều địa phương còn sử dụng đất chuyên trồng lúa để
xây dựng các khu công nghiệp dẫn đến nhiều hộ nông dân thiếu đất hoặc
không có đất để sản xuất.
Vẫn còn địa phương sử dụng đất lúa để xây dựng các khu công nghiệp. Ảnh Internet.
Theo Bộ trưởng
Nguyễn Minh Quang, việc quy hoạch để chuyển mục đích sử dụng đất nông
nghiệp, nhất là đất chuyên trồng lúa nước sang mục đích khác chưa được
tính toán kỹ lưỡng, do đó vẫn còn tình trạng dân không có đất để sản
xuất.
Theo kết quả tổng
hợp từ 63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, tính đến ngày
31-12-2012 kết quả thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất cấp quốc
gia như sau: Nhóm đất nông nghiệp cả nước có 26.404.486 ha, trong đó
đất trồng lúa là 4.053.338 ha (riêng đất chuyên trồng lúa nước 3.184.291
ha).
Cụ thể, số diện
tích chuyển đổi cơ cấu sử dụng đất trong nội bộ đất nông nghiệp 2 năm
2011 và 2012 là 21.150 ha, trong đó đất chuyên trồng lúa nước chuyển
sang đất trồng cây lâu năm là 8.273 ha; Đất chuyên trồng lúa nước chuyển
sang đất lâm nghiệp là 3.351 ha; Đất chuyên trồng lúa nước chuyển sang
đất nuôi trồng thuỷ sản là 2.793 ha.
Cũng theo Bộ Tài
nguyên và Môi trường, trong 2 năm 2011 và 2012 cả nước đã khai thác đưa
vào sử dụng 387.704 ha đất cho các mục đích nông nghiệp và phi nông
nghiệp; hiện nay cả nước còn 2.466.913 ha đất chưa sử dụng.
Nguyên nhân của
những tồn tại trên được chỉ ra là do hiện nay vẫn còn thiếu một số quy
định, hướng dẫn triển khai như quy trình chuẩn lập quy hoạch sử dụng
đất, định mức sử dụng đất, kinh phí lập và triển khai thực hiện quy
hoạch, kế hoạch sử dụng đất, tiêu chí thẩm định, hướng dẫn công khai,
điều kiện và thủ tục hành nghề tư vấn quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất…
Bên cạnh đó, việc
quản lý, thực hiện quy hoạch sử dụng đất sau khi được xét duyệt, chưa có
chế tài đủ mạnh; tình trạng lấn chiếm đất, tự chuyển mục đích sử dụng
đất không theo quy hoạch chưa được phát hiện và xử lý kịp thời, dẫn đến
khi thực hiện quy hoạch, chi phí bồi thường vượt quá dự kiến ban đầu.
Quy định cơ quan nhà nước có thẩm quyền không tiến hành điều chỉnh hoặc
huỷ bỏ quy hoạch đối với khu vực quy hoạch đã quá thời hạn 3 năm kể từ
ngày công bố nhưng chưa thực hiện cũng là nguyên nhân gây hiện tượng
"nhờn luật", làm gia tăng diện tích đất chưa đưa vào sử dụng.
Bộ trưởng Nguyễn
Minh Quang cho biết, để nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về
đất đai, phát huy tốt tiềm năng, nguồn lực đất đai cho phát triển kinh
tế - xã hội, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, trong các tháng còn lại của
năm 2013 sẽ thực hiện việc thanh tra, kiểm tra có trọng tâm, trọng điểm
việc chấp hành pháp luật đất đai, quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, công
tác giao đất, cho thuê đất, chuyển mục đích sử dụng đất của các địa
phương. Đồng thời tập trung kiểm tra, rà soát, hệ thống hoá các văn bản
quy phạm pháp luật đất đai để tiếp tục hoàn thiện chính sách, pháp luật
về đất đai; đôn đốc và theo dõi các địa phương trong quá trình tổ chức
thực hiện và xử lý các vấn đề phát sinh liên quan đến quá trình áp dụng
các văn bản pháp luật về đất đai.
Tại kỳ họp thứ 2,
Quốc hội khóa XIII, Quốc hội đã thông qua Nghị quyết về quy hoạch sử
dụng đất đến năm 2020 và Kế hoạch sử dụng đất 5 năm 2011-2025 cấp quốc
gia, trong đó phải giữ đất trồng lúa đến năm 2020 là hơn 3,8 triệu ha để
đảm bảo an ninh lương thực cũng như sinh kế của người nông dân.
Theo Chủ tịch Quốc
hội Nguyễn Sinh Hùng, với đà giảm nhanh hiện nay nếu không có biện pháp
quy hoạch, có kế hoạch sử dụng đất thật chặt chẽ, xử lý nghiêm những tập
thể, cá nhân làm sai quy hoạch, sẽ khó đảm bảo giữ được 3,8 triệu ha
đất lúa. Bởi theo Chủ tịch Quốc hội, an ninh lương thực quốc gia là vấn
đề cốt lõi, không chỉ đảm bảo đời sống cho đại đa số dân cư nông thôn mà
còn đảm bảo an sinh xã hội, giữ gìn an ninh chính trị và trật tự xã
hội.
- Theo Hải Quan
Chính quyền vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong vụ cưỡng chế thu hồi đất ở Thạnh Hóa, Long An!
Chính
quyền huyện Thạnh Hóa và chính quyền tỉnh Long An đã vi phạm pháp luật
nghiêm trọng, cụ thể là vi phạm Luật đất đai 2003 và Nghị định
197/2004/NĐ-CP. Những cơ quan nhà nước đã vi phạm pháp luật trong vụ án
này là: UBND huyện Thạnh Hóa, UBND tỉnh Long An, Tòa án nhân dân huyện
Thạnh Hóa, Tòa án nhân dân Tỉnh Long An.
Cái
sai của UBND huyện và UBND tỉnh lẽ ra phải được tòa án điều chỉnh cho
đúng pháp luật, nào ngờ, quan chức bênh vực nhau, kéo bè kéo cánh. Cả
tòa án nhân dân huyện Thạnh Hóa và Tòa án nhân dân tỉnh Long An đều vi
phạm pháp luật, xử ép người dân. Sau những phiên tòa oan trái là sự tham
gia của hàng trăm cán bộ công an và lực lượng cưỡng chế làm náo động cả
khu vực chợ Tuyên Nhơn, huyện Thạnh Hóa, tỉnh Long An. Sự việc trở nên
nhức nhối, chấn động khi 13 người trong thân nhân của 3 hộ bị cưỡng chế
đã đứng lên chống lại sự cưỡng chế đất và gây thương tích cho các nhân
sự phía chính quyền ngày 14/4/2015.
Ngày 4/8/2015, VKSND
huyện Thạnh Hóa ra một bản cáo trạng dài 17 trang dành cho 12 người bị
khởi tố tội “chống người thi hành công vụ” và “cố ý gây thương tích”
trong vụ cưỡng chế đất ở Thạnh Hóa Long An ngày 14/4/2015. Bản cáo trạng
nêu chi chít, đầy đặc những tình tiết bất lợi cho những người bị cưỡng
chế mà không có tình tiết nào chỉ ra nguyên nhân sâu xa của sự việc chấn
động dư luận này.
Sự việc càng làm người quan tâm quặn
lòng thắt ruột khi người thứ 13 vừa bị bắt và có nguy cơ bị khởi tố
trong vụ án này là cháu Nguyễn Mai Trung Tuấn vừa tròn 15 tuổi. Ba mẹ
cháu cũng nằm trong danh sách những người bị bắt và khởi tố theo Điều
257 BLHS về tội “chống người thi hành công vụ”.
Gia đình
cháu Tuấn bị mất đất lại có đến 3 người phải đối diện tù tội, chỉ còn
lại duy nhất người em gái của Tuấn đang tại ngoại, cháu chưa đủ hiểu
biết để có thể bảo vệ tốt cho ba mẹ và anh đang bị bắt giam. Vì đâu nên
nỗi? Do họ “chống người thi hành công vụ” ư? Chúng ta cần phân tích để
nhận ra nguyên nhân, bản chất của nó. Có như vậy mới mong hoàn thiện hệ
thống luật pháp và quản lý nhà nước một cách thấu tình đạt lý. Bởi bản
chất con người thường có xu hướng chống lại thế lực làm tổn hại lợi ích
của của mình, và mức độ phản kháng sẽ tăng lên kịch trần khi họ bị “kẻ
mạnh” đẩy vào bước đường cùng phải mang nỗi uất hận của một con người
“không còn gì để mất”!
Chính quyền địa phương vi phạm pháp luật nghiêm trọng!
Phân
tích sau đây sẽ cho thấy sự sai trái của chính quyền địa phương. Sự
phân tích dựa trên luật pháp tại thời điểm áp dụng để thực hiện dự án
thu hồi đất: Luật đất đai 2003 và Nghị định 197/2004/NĐ-CP. Số liệu đưa
ra trong bài viết này dựa trên sự thẩm định thực tế của người viết.
Tại
buổi họp báo, ông Nguyễn Văn Tạo - chủ tịch UBND huyện Thạnh Hóa cho
biết: “Nguyên nhân chủ yếu là do họ không đồng ý với mức giá bồi thường,
ban đầu là 80 ngàn đồng/m2. Sau đó, UBND tỉnh Long An đã nâng mức giá
lên 300 ngàn đồng/m2, đúng mức giá đền bù của nhà nước theo từng giai
đoạn đã được quy định nhưng họ cũng không chịu. Đồng thời họ cũng cho
rằng diện tích mà các bản đồ trích đo là không chích xác và không đủ
diện tích đất thực của họ. Chúng tôi đã vận động, giải thích rõ nhiều
lần họ vẫn không chịu. Họ đã ở trên diện tích đất ấy mấy chục năm nhưng
do khu vực trên là đất công nên cả ba hộ dân đều chưa có giấy chủ quyền.
Tuy cả ba hộ dân trên không thống nhất chọn phương án tái định cư nhưng
huyện cũng ban hành quyết định giao nền tái định cư cho cả 3 hộ. Cả 3
hộ không nhận. Suốt quá trình từ năm 2009 đến nay, ông Can đã có 5 lần
khiếu nại, ông Tài có 3 lần khiếu nại và bà Nhanh có 1 lần khiếu nại,
UBND huyện đều giải quyết theo đúng quy định.” – Lời ông Tạo đăng trên
Báo tuổi trẻ ngày 15/4/2015.
Theo Điều 56 Luật đất đai
2003, giá đền bù cho 3 hộ bị cưỡng chế phải đảm bảo nguyên tắc “Sát với
giá chuyển nhượng quyền sử dụng đất thực tế trên thị trường”. Giá đền bù
căn cứ vào Giá đất do Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung
ương quy định được công bố công khai vào ngày 01 tháng 01 hàng năm.
Những
mảnh đất này thuộc khu vực chợ Tuyên Nhơn, huyện Thạnh Hóa, tỉnh Long
An. Năm 2007-2008, dựa vào đâu mà chính quyền đưa ra giá đền bù là
80.000đồng/m2 ? Trong khi tại thời điểm 2007-2008 giá thị trường là 2
triệu đồng/m2 . Chính quyền Thạnh Hóa cố giấu đi cái thực tế, chỉ nói
những cái trên giấy mực do chính họ ban hành. Tại sao chính quyền không
cho Công ty định giá bất động sản tham gia định giá độc lập cho công
bằng?. Được biết, hiện nay có nhiều công ty định giá bất động sản hoạt
động, chi phí định giá không cao, công việc định giá rất dễ dàng, nhanh
chóng. Chi phí định giá sẽ rất nhỏ so với chi phí mà chính quyền đi vận
động, họp hành và cưỡng chế. Rõ ràng chính quyền đã sai trái. Nguyên
nhân của sự sai trái này ai cũng có thể dễ dàng hiểu được khi những lô
đất của quanh đó thuộc KDC (giáp chợ Tuyên Nhơn) mọc lên được bán với
giá hàng chục lần giá đền bù.
Ông Nguyễn Văn Tạo - chủ
tịch UBND huyện Thạnh Hóa cho rằng khu vực này là “đất công”, nói theo
ngôn ngữ luật pháp thì chính quyền cho rằng các hộ bị thu hồi đất thuộc
“đối tượng không được bồi thường đất”. Vì thế mà chính quyền không đền
bù thỏa đáng (sát giá thị trường) mà chỉ đền bù mức giá “rẻ mạt”. Điều
này hoàn toàn vi phạm Luật đất đai 2003 và Nghị định 197/2004/NĐ-CP như
đã phân tích trên đây.
Từ đó kéo theo sự sai trái của
chính quyền trong vấn đề đất tái định cư, chính quyền địa phương đã
“bán” cho người bị thu hồi đất những nền đất cách đó gần 3km với giá
800.000đ/m2 , trả trong vòng 2 năm. Vị trí khu tái định cư có giá trị
thấp hơn nhiều so với vị trí đất thu hồi, người bị thu hồi đất lại không
được cấp mà phải “mua” với giá 800.000đ/m2
Trong khi theo Nghị định 197/2004/NĐ-CP, quyền tái định cư của người bị thu hồi đất được qui định rất rõ ràng như sau:
Khoản
2 Điều 6 (Nghị định 197/2004/NĐ-CP): “Người bị thu hồi đất đang sử
dụng vào mục đích nào thì được bồi thường bằng việc giao đất mới có cùng
mục đích sử dụng, nếu không có đất để bồi thường thì được bồi thường
bằng giá trị quyền sử dụng đất tại thời điểm có quyết định thu hồi;
trường hợp bồi thường bằng việc giao đất mới hoặc bằng nhà, nếu có chênh
lệch về giá trị thì phần chênh lệch đó được thực hiện thanh toán bằng
tiền.”
Khoản 1 Điều 13(Nghị định 197/2004/NĐ-CP): “ Người
sử dụng đất ở khi Nhà nước thu hồi đất mà phải di chuyển chỗ ở được bồi
thường bằng giao đất ở mới, nhà ở tại khu tái định cư hoặc bồi thường
bằng tiền theo đề nghị của người có đất bị thu hồi và phù hợp với thực
tế ở địa phương.”
Lẽ ra chính quyền phải sửa sai, nào ngờ
sai trái nối tiếp sai trái, tòa án cũng bênh vực quan chức của UBND, xử
những hộ gia đình này thua kiện. Họ trở thành “dân oan” khiếu kiện hết
cấp này đến cấp khác vẫn vô vọng, bế tắc.
Thật khôi hài,
sau đó UBND nâng giá đền bù lên 300.000đ/m2, quá ít ỏi so với giá thị
trường. Hiện nay (2015), giá thị trường đất nền khu vực này là
15-20trđ/2, gấp 50-60 lần giá đền bù! Ngoài phần đền bù này, chính quyền
còn hỗ trợ mỗi hộ 20 triệu đồng nếu hộ đó không “mua” đất tái định cư.
Ác nhân thất đức
Xuất
phát từ sai trái của chính quyền mà người dân thiệt hại quá lớn. Đất
của hộ ông Can, giá thị trường là 1,5 tỷ đồng mà đền bù chỉ 23 triệu
đồng. Phần tài sản gắn liền với đất(nhà cửa) được đền bù 100.584.580
đồng... Tổng cộng, hộ ông Can chỉ nhận được 133.722.120 đồng. Với số
tiền đền bù ít ỏi, hộ ông Can không thể nào mua đất xây nhà mới.
Chính
quyền địa phương đã vi phạm pháp luật nghiêm trọng đẩy người dân đến
bước đường cùng, đối diện nguy cơ không nhà cửa, sống lang thang màn
trời chiếu đất. Điều này thật ác nhân thất đức. Những người làm quan có
hiểu biết pháp luật tại sao họ hành xử vô cảm lạnh lùng đến thế, họ
không mang dòng máu con người chăng?!
Chưa hết, chính
quyền còn lập đoàn vận động, tuyên truyền rằng đất thu hồi là “đất công”
không được cấp sổ nên đền bù như thế là “đúng qui định của pháp luật”,
sẽ cưỡng chế ai chống lại quyết định thu hồi, mỗi ngày sẽ cưỡng chế 2
hộ. Người dân thấp cổ bé họng, hoang mang lo lắng, do hiểu biết pháp
luật kém, lại e ngại va chạm chính quyền nên họ đã nhận tiền đền bù giá
rẻ mạt, nhiều hộ dân cứ tưởng rằng đất không có sổ đỏ thì không thể được
đền bù nhiều hơn, họ cắn răng chịu đựng sự oan ức, chấp nhận ký tên
nhận tiền. Thương thay!
Những ông quan chức vô cảm, quan
liêu, thiếu trách nhiệm và vi phạm pháp luật cho tới giờ này vẫn còn
chễm chệ trên những chiếc ghế, gieo nỗi oan khiêng cho người dân.
UBND
huyện Thạnh Hóa được UBND tỉnh Long An phân quyền, trực tiếp làm việc
với người bị thu hồi đất và ra những quyết định trái pháp luật. UBND
tỉnh Long An cũng vi phạm pháp luật, vì chiếu theo Nghị định
197/2004/NĐ-CP, trách nhiệm của ủy ban nhân dân tỉnh tại Khoản d,đ,e
Điều 43 qui định như sau:
d) Phê duyệt giá đất; ban hành
bảng giá tài sản tính bồi thường, quy định các mức hỗ trợ và các biện
pháp hỗ trợ theo thẩm quyền; phương án bố trí tái định cư, phương án đào
tạo chuyển đổi nghề theo thẩm quyền được giao;
đ) Chỉ đạo
các cơ quan có liên quan thực hiện việc giải quyết khiếu nại, tố cáo
của công dân về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư theo thẩm quyền pháp
luật quy định;
e) Bảo đảm sự khách quan, công bằng khi xem
xét và quyết định việc bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước
thu hồi đất theo thẩm quyền quy định tại Nghị định này;
Cái
sai của UBND huyện và UBND tỉnh lẽ ra phải được tòa án điều chỉnh cho
đúng pháp luật, nào ngờ, quan chức bênh vực nhau, kéo bè kéo cánh. Cả
tòa án nhân dân huyện Thạnh Hóa và Tòa án nhân dân tỉnh Long An đều vi
phạm pháp luật, xử ép người dân. Sau những phiên tòa oan trái là sự tham
gia của hàng trăm cán bộ công an và lực lượng cưỡng chế làm náo động cả
khu vực chợ Tuyên Nhơn, huyện Thạnh Hóa, tỉnh Long An. Sự việc trở nên
nhức nhối, chấn động khi 13 người trong thân nhân của 3 hộ bị cưỡng chế
đã đứng lên chống lại sự cưỡng chế đất và gây thương tích cho các nhân
sự phía chính quyền ngày 14/4/2015.
Báo chí nhà nước im lặng trước sự sai trái của chính quyền địa phương
Một câu hỏi nữa là tại sao sự sai phạm của chính quyền ở Long An không hề bị đưa lên báo chí trong nước?
Một
thứ quyền lực vô hình đáng sợ bao trùm lên hệ thống báo chí cũng như
truyền thông nhà nước, trong một chế độ mà lĩnh vực truyền thông bị kiểm
soát nghiêm ngặt và lệ thuộc nhiều vào quyền lực nhà nước. Tại sao vụ
án ở Tiên Lãng truyền thông rầm rộ còn vụ án này thì không?
Đó
chính là vì lý do “nhạy cảm” khi gia đình Nguyễn Trung Can gồm ông Can,
vợ và con trai ra đường hô to “đả đảo cộng sản” và những khẩu hiệu động
chạm chế độ. Hộ bà Phùng Thị Ly cũng phản đối chính quyền. Nguyên nhân
đưa đến sự việc này là do những hộ này bị chính quyền dồn đến đường
cùng, cuộc sống lao đao khốn đốn. Họ đã khiếu kiện mỏi mòn từ Tòa án sơ
thẩm, đến phúc thẩm rồi đến tối cao. Tất cả đều vô vọng. Quyền lợi chính
đáng của họ không được hệ thống thực thi pháp luật bảo vệ. Hệ thống báo
chí và truyền thông nhà nước vì sự “nhạy cảm”, không muốn bị rắc rối
bởi sự việc “liên quan chính trị” nên đành câm nín khiến cho sự oan ức
bị dồn nén đến cực độ và bùng nổ ngay ngày cưỡng chế 14/4/2015.
Trong
những bài báo nhà nước viết về vụ cưỡng chế này đều căn cứ vào những
lời của quan chức địa phương, giấu đi những yếu tố hết sức quan trọng
trong vụ án chấn động, điều này đã gây tổn thất không đo đếm được cho
nạn nhân là 3 hộ bị cưỡng chế đồng thời gây thiệt hại kinh tế cho toàn
bộ 109 hộ dân bị thu hồi đất trong vụ việc này.
Sau vụ
cưỡng chế ngày 14/4/2015, lực lượng an ninh chìm ẩn mình quanh khu đất
cưỡng chế nhằm giám sát theo dõi những ai đến tiếp xúc người trong gia
đình những hộ cưỡng chế. Nhiều người đã bị bắt về trụ sở khi đặt chân
đến đây. Điều này gây khó khăn cho những nhà báo, blogger hay những
người đấu tranh cho tự do ngôn luận trong việc tiếp cận sự thật. Bản
thân người viết bài này khi đến gần nơi bị cưỡng chế để thăm gặp và tìm
hiểu thông tin đã bị an ninh chặn đường sách nhiễu khi đang trên đường
về.
Chính quyền nên sửa sai như thế nào
Năm
2011, Vụ án Đoàn Văn Vươn với mùi gas, tiếng súng còn dư âm khiến dư
luận bất bình với cách hành xử sai trái của chính quyền Tiên Lãng. Thế
nhưng, chính quyền Thạnh Hóa, Long An không rút ra bài học nào, lại
trượt trên vết xe đổ gây tổn thất nặng nề cho người dân và mất uy tín
chính quyền.
Ngọn lửa dân oan đang lan tỏa khắp từ Nam ra
Bắc lên đến hàng nghìn người, họ là những người bị mất mát cả vật chất
và tinh thần, thiết nghĩ dân oan cần được cảm thông hơn là đàn áp, xử
tù.
Chính quyền đã bắt giữ cháu Nguyễn Mai Trung Tuấn, 15
tuổi, trong khi trước đó cha mẹ cháu đều bị bắt giam vì chống lại sự
cưỡng chế. Dư luận trên mạng cho rằng theo pháp luật, chính quyền không
được giam giữ cháu Tuấn vì hành vi của cháu Tuấn không thuộc trường hợp
"phạm tội rất nghiêm trọng do cố ý hoặc phạm tội đặc biệt nghiêm
trọng". Vì vậy, dựa trên Bộ luật hình sự, chính quền cần xem xét phóng
thích cháu Tuấn để giảm áp lực dư luận.
Chợt nhớ, bài học
từ câu chuyện Hòa thượng Thích Quảng Đức tự thiêu đã dẫn đến cuộc đảo
chính quân sự lật đổ chính quyền và giết chết Tổng Thống Ngô Đình Diệm.
Trong
vụ án này, chính quyền cần sửa sai để an lòng dân, trả lại quyền lợi
chính đáng theo pháp luật cho những người dân thấp cổ bé họng không may
mắn bị thu hồi đất.
Cần xử lý những quan chức và cán bộ
liên quan. Không nên để xã hội rối loạn, khủng hoảng từ thói trịch
thượng, quan liêu, thiếu trách nhiệm, chèn ép người dân thấp cổ bé họng
và ngồi xổm lên luật pháp của quan chức địa phương.
Trong khi các hộ
đều còn một diện tích đất sau khi thu hồi, Chủ tịch xã lại “nại” ra lý
do các hộ lấn chiếm đất để cắt điện, nước và “cưỡng chế” biển số nhà.
Không chỉ vậy, có những phương án đền bù “khống” được “vô tình” lập ra.
Những lời giải thích “khập khiễng”
Dân trí đã phản ánh về những chuyện “lạ” ở xã Phú Diễn, huyện Từ
Liêm, Hà Nội qua 2 bài viết: “Lạ lùng” một cuộc “cưỡng chế” biển số nhà”
và “Hàng trăm hộ dân bị “cấm điện” giữa thủ đô”. Đi sâu tìm hiểu nguyên
nhân dẫn đến những sự việc này, phóng viên không khỏi bất ngờ trước
những lời giải thích “khập khiễng” của các cán bộ xã Phú Diễn.
Ông Phí Lê Bình, Chủ tịch UBND xã Phú Diễn, khẳng định rằng, xã không
cho các hộ dân ở tổ 1 và tổ 2 dùng điện và không cho treo biển số nhà
nữa vì các hộ dân không còn đất nữa, đất của họ đã bị thu hồi hết để mở
đường 32. Theo ông Bình, toàn bộ các hộ dân tổ 1 và 2 ở mặt đường 32 cũ
đã bị thu hồi hết đất. “Đất còn lại họ đang sử dụng để ở và làm cửa hàng
kinh doanh là do lấn chiếm, mà mới lấn chiếm 2-3 năm gần đây thôi…” –
ông Bình khẳng định.
Tuy nhiên, ông Bình cứ khất lần khi phóng viên đề nghị được tiếp cận
các tài liệu về nguồn gốc đất, hiện trạng sử dụng đất của các hộ dân
trước khi bị thu hồi một phần để mở đường 32 và các phương án đền bù, hỗ
trợ tái định cư…
Theo tài liệu chúng tôi thu thập được, các phương án bồi thường, thu
hồi đất mà huyện Từ Liêm lập khi tiến hành GPMB mở đường 32 lại “tố cáo”
lời nói của ông Bình. Hầu hết các hộ dân ở đây đều còn một diện tích
đất để sử dụng sau khi bị thu hồi.
Cụ thể, hộ ông Khúc Minh Cường (số nhà 100, tổ 2) bị thu hồi 79,2m2,
diện tích còn lại là 28,4m2; hộ ông Lê Đức Dương (số nhà 30, tổ 2) sau
khi bị thu hồi, đất còn lại là 14,5m2; hộ bà Nguyễn Thị Thái (số nhà 14,
tổ 2) sau khi bị thu hồi 82m2, diện tích đất còn lại là 14,1m2; hộ bà
Nguyễn Thị Tâm (số nhà 38, tổ 2) bị thu hồi 172,5m2, diện tích còn lại
của bà Tâm là 21,5m2; hộ ông Lê Thiện Quý (ở tổ 1) sau khi bị thu hồi
77,6m2, diện tích đất còn lại là 28,6m2;…
Đáng chú ý, nội dung ghi chú trong các phương án mà huyện Từ Liêm lập
ra cho thấy những phần đất còn lại nói trên đều được các hộ sử dụng
trước 15/10/1993 hoặc từ sau năm 1993 đến trước 1/7/2004. Những phương
án chi tiết bồi thường, hỗ trợ và tái định cư nói trên đối với các hộ
đều do Hội đồng bồi thường hỗ trợ và tái định cư huyện Từ Liêm lập ra,
có chữ ký của Phó Chủ tịch UBND huyện Nguyễn Kim Vinh, lãnh đạo các
phòng chức năng của huyện và cả chữ ký của chính ông Phí Lê Bình – Chủ
tịch UBND xã Phú Diễn.
Những điều nói trên càng trở nên rõ ràng khi PV làm việc với ông Trần
Bằng, Phó Chủ tịch UBND xã Phú Diễn, người trực tiếp phụ trách mảng địa
chính nơi đây. Tại buổi làm việc với PV, ông Bằng thừa nhận, sau khi
thu hồi thì các hộ vẫn còn đất và họ có quyền lợi hợp pháp đối với phần
đất còn lại này. Theo ông Trần Bằng, phần đất này cũng không phải là đất
các hộ mới lấn chiếm như lời ông Chủ tịch UBND xã Phí Lê Bình, mà nhiều
hộ đã sử dụng từ trước ngày 15/10/1993.
Ai “đạo diễn” phương án bồi thường “khống”?
Trong quá trình tìm hiểu về những sai phạm trong quản lý đất đai nơi
đây, chúng tôi đã phát hiện những dấu hiệu sai trái trong việc lập các
phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư.
Một trường hợp điển hình là phương án đền bù hỗ trợ thu hồi đất do cơ
quan chức năng của huyện Từ Liêm lập, ghi tên chủ hộ bị thu hồi đất là:
Trần Thị Nguyệt Ánh (địa chỉ tại tổ 2 Phú Diễn). Theo Quyết định số
7464/QĐ-UBND “về việc phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định
cư chi tiết đối với hộ gia đình bà Trần Thị Nguyệt Ánh – địa chỉ: Phú
Diễn, Từ Liêm, Hà Nội khi Nhà nước thu hồi đất để thực hiện dự án: Cải
tạo, nâng cấp, mở rộng QL32 đoạn Cầu Diễn – Nhổn, tại xã Phú Diễn, huyện
Từ Liêm” được Chủ tịch UBND huyện Từ Liêm ký ngày 5/7/2010, hộ chị
Nguyệt Ánh bị thu hồi 52,3m2 đất thuộc diện “Đất lưu không chân cầu vượt
hộ gia đình tự sử dụng từ ngày 15/10/1993 đến trước ngày 1/7/2004”.
Quyết định này giao Chủ tịch Hội đồng bồi thường hỗ trợ và tái định
cư (TĐC) huyện đôn đốc Trung tâm phát triển Quỹ đất phối hợp với UBND xã
Phú Diễn thanh toán tiền bồi thường, hỗ trợ đối với hộ gia đình chị
Trần Thị Nguyệt Ánh. Tuy nhiên, qua điều tra, tìm hiểu, phóng viên đã
phát hiện sự thật rằng đây là chuyện “người thật, mà việc không thật”.
Chị Trần Thị Nguyệt Ánh, người được ghi tên trong các văn bản nói
trên, 25 tuổi, sống cùng bố mẹ tại tổ 2 Phú Diễn và không hề có mảnh đất
nào để mà thu hồi như trên. Trần Thị Nguyệt Ánh là con gái của ông Trần
Quốc Đạt và bà Nguyễn Thị Hòa, trú tại số nhà 108 tổ 2 Phú Diễn. Gia
đình ông bà Đạt – Hòa có 2 sổ hộ khẩu tại địa chỉ này, một sổ đứng tên
chủ hộ là ông Trần Quốc Đạt, một sổ đứng tên chủ hộ là chị Trần Thị
Nguyệt Ánh.
Thực tế mảnh đất của ông bà Đạt – Hòa tại 108 tổ 2 Phú Diễn chỉ có
60,2m2 và năm 2010 đã bị thu hồi toàn bộ để phục vụ dự án mở đường 32.
Chị Trần Thị Nguyệt Ánh ở cùng bố mẹ và cũng không hề có mảnh đất nào
khác và tại tổ 2 Phú Diễn, Ánh lại càng không có đất để mà bị thu hồi.
Khi phóng viên tìm đến gặp trực tiếp tại nhà thì cả ông Đạt, bà Hòa và
chị Nguyệt Ánh đều khẳng định điều này. Chị Ánh quả quyết: “Tôi làm gì
có đất nào để mà thu hồi như phương án này. Có lần ông Trần Bằng, Phó
Chủ tịch UBND xã Phú Diễn gọi điện thoại thông báo tôi đến nhận đền bù,
hỗ trợ, tôi mới ngớ ra và tất nhiên là không đến nhận vì tôi làm gì có
đất đâu để mà thu hồi với hỗ trợ…” (!?).
Gia đình chị Ánh còn cung cấp cho phóng viên các bản phương án bồi
thường, hỗ trợ có đóng dấu đỏ như nói trên. Bà Hòa chỉ vào Quyết định số
7464/QĐ-UBND của UBND huyện, kèm theo “phương án chi tiết bồi thường,
hỗ trợ và tái định cư đối với hộ gia đình Trần Thị Nguyệt Ánh” và nói
rằng: “Cháu Nguyệt Ánh không hề có mảnh đất nào và chúng tôi không biết
gì về việc này cả. Tôi nhớ trước đó mấy tháng, ông Trần Bằng có mượn sổ
hộ khẩu của cháu Ánh nói là để làm chế độ bồi thường cho gia đình tôi
tốt hơn, mượn đến mãi sau mới trả. Tôi nghi ngờ họ lạm dụng sổ hộ khẩu
của cháu Nguyệt Ánh để “đạo diễn” việc đền bù, nhằm tư lợi cá nhân”.
Phương án đền bù hỗ trợ nói trên đối với hộ Trần Thị Nguyệt Ánh chỉ
thể hiện việc bồi thường, hỗ trợ bằng tiền, chưa có phương án TĐC. Tuy
nhiên, theo khẳng định của Chủ tịch UBND xã Phú Diễn Phí Lê Bình với PV
thì do các khu đất bố trí TĐC không đủ nên hiện có nhiều hộ vẫn chưa có
đất TĐC, nhưng tối thiểu mỗi hộ cũng được 40m2 đất TĐC.
Lời khẳng định này của ông Chủ tịch UBND xã là hoàn toàn có căn cứ,
bởi năm 2010 Ban Chỉ đạo GPMB thành phố đã có Tờ trình 268/TTr-BCĐ đề
nghị UBND thành phố cho áp dụng bổ sung chính sách TĐC khi thực hiện
GPMB dự án đường 32 (đoạn Cầu Diễn – Nhổn) trên địa bàn huyện Từ Liêm.
Tờ trình này đã được UBND thành phố chấp thuận bằng văn bản số
3485/UBND-TNMT do Phó Chủ tịch UBND thành phố Vũ Hồng Khanh ký ngày
19/5/2010. Theo đó, những hộ gia đình ở khu vực này có đất bị thu hồi
GPMB (dù đó là đất không thuộc diện được bồi thường hoặc hỗ trợ về đất
theo giá đất ở) mà không còn nơi ăn ở nào khác thì được giao một suất
đất TĐC là 40m2.
Chiếu theo cơ chế đã được UBND thành phố chấp thuận đó, hộ Trần Thị
Nguyệt Ánh đương nhiên sẽ nhận được một suất đất TĐC 40m2. Tính theo thị
giá ở khu TĐC Xuân Phương (không dưới 70 triệu đồng/m2), nếu phương án
“khống” này trót lọt, người ta sẽ “ẵm” ngon vài tỷ đồng. Theo chị Nguyệt
Ánh, do bản thân không có đất bị thu hồi, nên chị không đến lấy tiền hỗ
trợ theo phương án bỗi thường hỗ trợ “khống” đó, còn đất TĐC có được
không và nếu được thì ai đã lấy suất TĐC đó, chị cũng không biết.
Theo tìm hiểu của chúng tôi, còn nhiều chuyện “lạ lùng” tương tự đã diễn ra tại đây. PV sẽ tiếp tục thông tin tới độc giả.
Theo Tiến Nguyên
Dân Trí
Người dân bất bình vì chính quyền "nhập nhèm" trong thu hồi đất
Chính quyền xã có đơn khởi kiện dân
sự, đề nghị tòa án nhân dân huyện tuyên bố hồ sơ chuyển quyền sử dụng
đất của người dân là vô hiệu để thu hồi đất (!).
Pháp
luật Plus nhận được phản ánh của bà Nguyễn Thị Hà và một số hộ dân ở
thôn Phú Hiền, xã Hợp Thanh, huyện Mỹ Đức, Hà Nội về việc chính quyền
địa phương "nhập nhèm" trong quá trình thu hồi đất.
Được biết,
ngày 16/1/1994 thôn Phú Hiền đã kí hợp đồng giao thầu ao, lạch cho ông
Nguyễn Văn Tuệ sử dụng để cấy lúa, thả cá, thời hạn sử dụng hợp đồng từ
1/1/2001 đến hết tháng 12/2014. Ngày 17/5/2005 UBND xã Hợp Thanh làm hồ
sơ chuyển quyền sử dụng đất lâu dài với diện tích 10.080 m2 cho ông Nguyễn Văn Tuệ (về sau có 30 hộ gia đình khác cùng sử dụng chung đất để sản xuất), số tiền đã đóng là 60.000.000 đồng.
Bộ
hồ sơ này có xác nhận của: ông Phạm Ngọc Thạch, Chủ tịch UBND xã Hợp
Thanh (thời điểm đó); ông Nguyễn Tiến Suông, cán bộ địa chính; ông
Nguyễn Văn Duân, Phó chủ tịch UBND xã Hợp Thanh là người thiết lập và ký
vào hồ sơ (hiện nay ông Duân là Chủ tịch UBND xã Hợp Thanh).
Hồ sơ chuyển quyền sử dụng đất có bút tích và chữ ký xác nhận của ông Duân.
Quá
trình được giao đất sử dụng lâu dài hằng năm gia đình ông Tuệ sử dụng
đúng mục đích, hoàn thành các nghĩa vụ đóng thuế cho Nhà nước, có chứng
từ xác nhận.
Trong giai đoạn này ông Phạm Ngọc Thạch, Chủ tịch
UBND xã Hợp Thanh đã trực tiếp ký văn bản bàn giao đất lâu dài và có kỳ
hạn cho 199 hộ dân, với tổng diện tích là 126.162 m2, tổng số tiền thu là hơn 4 tỷ đồng.
Phát
hiện ra nhiều hành vi sai trái, các cơ quan chức năng đã vào cuộc, đến
năm 2012 Tòa án nhân dân huyện Mỹ Đức đã tuyên án ông Thạch cùng đồng
bọn tội danh lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ
trong bản án số 70/2012/HSST.
"Liên quan đến các diện tích đất
sử dụng lâu dài và có thời hạn đã cấp cho 199 hộ dân do ông Thạch ký, và
gần 300 hộ dân khác được các thôn giao đất, hội đồng xét xử đã kiến
nghị UBND huyện Mỹ Đức xem xét giải quyết những tồn tại kéo dài, tạo
điều kiện thuận lợi cho nhân dân yên tâm trong cuộc sống và lao động",
bản án số 70/2012/HSST có nêu.
Câu chuyện nghịch lý xảy
ra từ đây, điều đáng nói là UBND xã Hợp Thanh không giải quyết bằng các
biện pháp hành chính mà đến ngày 7/4/2015 UBND xã Hợp Thanh có đơn khởi
kiện dân sự, yêu cầu Tòa án nhân dân huyện Mỹ Đức tuyên bố hồ sơ chuyển
quyền sử dụng đất của ông Nguyễn Văn Tuệ đứng tên là vô hiệu để thu
đất.
Yêu cầu này của UBND xã Hợp Thanh đã bị Tòa án nhân dân
huyện Mỹ Đức đình chỉ giải quyết trong Quyết định số: 04/2015/QĐ-DS ngày
23/12/2015.
Cũng trong ngày hôm đó (23/12/2015) UBND xã Hợp
Thanh đã gửi Báo cáo số: 68/BC-UBND đề nghị UBND huyện Mỹ Đức tiến hành
thu hồi toàn bộ diện tích đất tại khu vực ao Cửa làng của gia đình anh
Nguyễn Văn Tuệ.
Hai tháng sau, ngày 2/2/2016 UBND huyện Mỹ Đức đã ra Quyết định số: 224/QĐ-UBND về việc thu hồi 11.680 m2 đất nông nghiệp tại khu vực ao Cửa làng, thôn Phú Hiền với lý do đất giao trái thẩm quyền.
Liên
quan sự việc, dư luận đặt câu hỏi: Tại sao hồ sơ có bút tích và chữ ký
xác nhận của ông Nguyễn Văn Duân, Chủ tịch UBND xã Hợp Thanh, trong khi
những người liên quan như ông Phạm Ngọc Thạch, ông Nguyễn Tiến Suông đều
đã bị xử lý theo đúng quy định của pháp luật. Tuy nhiên, ông Nguyễn Văn
Duân vẫn chưa bị xử lý (?!).
Không chỉ vậy, tại sao hàng trăm
hộ dân khác được giao đất thời kỳ ông Phạm Ngọc Thạch là Chủ tịch xã Hợp
Thanh, nhưng chỉ thu hồi riêng diện tích đất của hộ ông Nguyễn Văn Tuệ.
Được biết, hiện nay một số diện tích đất được bàn giao trước đây đã đầu
tư xây dựng nhà cửa, một số đã chuyển nhượng.
Người dân cũng
thắc mắc là trong nội dung Báo cáo 68 có nêu: “Đến năm 2011 UBND xã mới
phát hiện ra diện tích ao cá đã giao cho ông Tuệ…”. Trong khi đó
17/5/2005 chính ông Duân là người đã khởi thảo và ký xác nhận vào phần
diện tích thửa đất của nhà ông Duệ.
Báo cáo 68 cũng nêu là hồ sơ
chuyển quyền sử dụng đất cho nhà ông Tuệ là “không có diện tích”. Điều
này gia đình ông Tuệ cho rằng không đúng thực tế, bởi vì ngay trong hồ
sơ do ông Duân ký phần xác nhận thì có cả số đo các cạnh. Như vậy Báo
cáo 68 của UBND xã Hợp Thanh gửi lên huyện Mỹ Đức liệu đã chính xác minh
bạch, đúng với thực tế?
Trả lời báo chí, ông Nguyễn Văn Tiệp,
Phó chủ tịch UBND xã Hợp Thanh cho biết: “Tôi mới lên làm nên việc này
không rõ, huyện đang xử lý”.
PV
Tỉnh Hậu Giang: Tranh chấp đất đai giữa chính quyền với người dân
Đăng lúc: Thứ ba - 04/11/2014 14:36
- Người đăng bài viết: Nguyễn Trung Tín
anh 1 ki 1
Bà Lê Thị Bạch 70 tuổi, thường trú số nhà 137 Đường B5, KV8, phường
Hưng Phú, quận Cái Răng, TP Cần Thơ gửi nhiều đơn tố cáo kêu oan đến
Báo Người cao tuổi. Sau khi cử nhóm phóng viên về điều tra, xác minh,
Báo Người cao tuổi nhận thấy nội dung đơn của bà Bạch nêu: “Chính quyền
nơi đây đã thu hồi bồi thường đất của gia đình bà một cách áp đặt, sai
trái, có mưu đồ trục lợi…” là có cơ sở:
Từ một quyết định thu hồi đất nhiều sai trái
Bà
Lê Thị Bạch 70 tuổi, thường trú số nhà 137 Đường B5, KV8, phường Hưng
Phú, quận Cái Răng, TP Cần Thơ gửi nhiều đơn tố cáo kêu oan đến Báo
Người cao tuổi. Sau khi cử nhóm phóng viên về điều tra, xác minh, Báo
Người cao tuổi nhận thấy nội dung đơn của bà Bạch nêu: “Chính quyền nơi
đây đã thu hồi bồi thường đất của gia đình bà một cách áp đặt, sai trái,
có mưu đồ trục lợi…” là có cơ sở:
Ngày
29/4/1989, UBND huyện Phụng Hiệp (nay là UBND thị xã Ngã Bảy), tỉnh Hậu
Giang ban hành Quyết định số 58/QĐ.UBH.89 về việc bồi thường thiệt hại
hoa lợi khu quy hoạch mặt bằng trung tâm thị trấn có nêu: “Nay bồi
thường cho ông Lê Văn Thậm (cha bà Lê Thị Bạch), ngụ Tập đoàn I, thị
trấn Phụng Hiệp, do quy hoạch mặt bằng thị trấn, bao gồm đất ruộng,
vườn, líp bị thiệt hại với tổng diện tích là 7.110m2. Trong đó đất ruộng
là 6.110m2 x 120 đồng = 733.200 đồng, đất líp: 1.000m2 x 140 đồng =
140.000 đồng, đất vườn: Không. Thành tổng số tiền là 873.200 đồng”.
Sau
khi nhận được Quyết định số 58, gia đình bà Bạch thấy thiếu mất nhiều
diện tích vừa sai với loại đất mà gia đình bà đã được kê khai theo 299
nên đã có đơn khiếu nại. Tại Công văn số 10/CV, ngày 1/9/2004 do Phòng
Giao thông – Xây dựng – Địa chính huyện trả lời Công văn số 458/STN-MT
về việc xin trích lục hồ sơ địa chính để Sở Tài nguyên và Môi trường báo
cáo Đoàn Đại biểu Quốc hội tỉnh Hậu Giang giám sát theo đơn khiếu nại
của bà Lê Thị Bạch. Theo đó, căn cứ vào sổ mục kê và bản đồ 299 được
UBND huyện Phụng Hiệp duyệt ngày 3/7/1984 thì số đất của ông Lê Văn Thậm
nằm trong quy hoạch đã đăng kí vào sổ mục kê các thửa số 79, loại đất
màu (DT 2.600m2); thửa số 80, loại đất vườn (DT 4.850m2); thửa số 83,
loại đất thổ cư (DT 1.200m2). Tổng diện tích 3 thửa là 8.650m2”. Như vậy
Quyết định 58 đã thu hồi, bồi thường thiếu của ông Thậm đến 1.540m2.
Theo biên bản và sơ đồ đo vẽ lập ngày 28/12/2005 của Đoàn Thanh tra tỉnh
với các ngành của địa phương thể hiện phần đất của gia đình bà Bạch
khiếu nại vẫn còn khá đầy đủ cọc ranh và là hình chữ nhật với chiều dài
160,3m, chiều rộng 54m có diện tích gần đúng số đất của ông Thậm như sổ
mục kê 299 đã thể hiện.
Từ
sự vênh hết sức vô lí trên, gia đình bà Bạch không đồng ý nhận tiền bồi
thường nên không kí vào nội dung cam kết do ông Tư Chùa cán bộ quản lí
đất đai của huyện ghi ở mặt sau tờ Quyết định 58. Cuộc hành trình khiếu
nại đến nay đã gần 30 năm, bà Bạch gửi đơn từ huyện lên tỉnh rồi đến
Trung ương… Mặc dù đã có nhiều văn bản từ Trung ương chỉ đạo, kiến nghị
tỉnh giải quyết nhưng Chủ tịch UBND tỉnh Hậu Giang vẫn tự tung tự tác
trên phần đất đang tranh chấp với gia đình bà Bạch.
Khiếu
nại không được giải quyết nên gia đình bà Bạch chưa giao đất mà vẫn ở
và sử dụng. Đến tháng 1/2004, căn nhà bị xuống cấp hư hỏng nặng có nguy
cơ đổ sập gây nguy hiểm tính mạng nên bà Bạch có đơn xin chính quyền sửa
chữa nhưng không được chấp thuận. Ngay sau đó gia đình bà tự tháo dỡ
những phần mục nát để sửa chữa lại thì chính quyền ập đến lập biên bản,
phạt hành chính, tiến hành cưỡng chế san phẳng khu nhà đã có trên đất
này từ hàng nửa thế kỉ, lấy đi toàn bộ đồ đạc, trong đó có 1 xe tải ,
đến nay không trả lại cho bà? Mặc dù bà Bạch liên tục khiếu nại các
quyết định hành chính do chính quyền ban hành trái luật nhưng vẫn không
được giải quyết. Bà nhiều lần khởi kiện các quyết định đó ra TAND huyện
Phụng Hiệp, Tòa án từ chối thụ lí? Quá bức xúc, bà gửi đơn phản ánh đến
TAND tỉnh Hậu Giang. Ngày 29/5/2006 TAND tỉnh Hậu Giang có Công văn số
68/2006/CV.TA gửi lãnh đạo TAND huyện Phụng Hiệp: “Ngày 27/2/2004, bà Lê
Thị Bạch tiếp tục khiếu nại đối với Quyết định số 173/QĐ.CT.UB ngày
20/2/2004 của Chủ tịch UBND huyện Phụng Hiệp. Song vì cho rằng Chủ tịch
UBND huyện Phụng Hiệp không giải quyết đơn khiếu nại nên bà Bạch đã liên
tiếp khởi kiện vụ án hành chính tại TAND huyện Phụng Hiệp (ngày
4/4/2004; ngày 26/4/2004; ngày 5/5/2004) nhưng Tòa án huyện Phụng Hiệp
từ chối nhận đơn của bà. Theo Điều 36 Luật Khiếu nại tố cáo thì thời hạn
giải quyết khiếu nại lần đầu là 30 ngày và Điều 39 Luật Khiếu nại tố
cáo thì trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày hết hạn giải quyết quy định
tại Điều 36 Luật Khiếu nại tố cáo mà khiếu nại không được giải quyết…
Như vậy, việc khởi kiện vụ án hành chính tại TAND huyện Phụng Hiệp vào
các thời điểm trên là không trái với quy định của Điều 30 Pháp lệnh Thủ
tục giải quyết các vụ án hành chính.
Vì
vậy, việc Tòa án huyện Phụng Hiệp từ chối nhận đơn khiếu nại của bà
Bạch là không đúng quy định của pháp luật. Để khắc phục vấn đề này Tòa
án huyện cần áp dụng khoản 2 Điều 30 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ
án hành chính “vì những trở ngại khách quan khác” để tiếp tục thụ lí
giải quyết vụ án trên”.
Tuy
nhiên, trong khi gia đình bà Bạch đang khiếu tố, kiện tụng chưa được cơ
quan nào xem xét giải quyết, thì Chủ tịch UBND thị xã Ngã Bảy và lãnh
đạo tỉnh Hậu Giang ngang nhiên lấy số đất đó của gia đình bà cho thuê và
cấp nền cho một số người thân, cán bộ lãnh đạo của địa phương, cụ thể
cấp cho: “Nguyễn Hữu Hậu, Nguyễn Thị Kim Em, Nguyễn Hồng Nhi, Đặng Văn
Lời, Bùi Hoàng Lệ, Huỳnh Bá Lực, Huỳnh Thị Hạnh, Nguyễn Văn Trí, Nguyễn
Văn Dừa, Lê Văn Lợi, Trần Văn Cuộc. Đặc biệt, ông Trần Văn Cuộc là em rể
ông Sầm Trung Việt; ông Nguyễn Văn Dừa, ông Lê Văn Lợi là anh em bà con
với ông Sầm Trung Việt, cựu Chủ tịch UBND tỉnh Hậu Giang”.
Theo
quy định của pháp luật về đất đai, nếu người dân chưa được cấp GCNQSDĐ
(sổ đỏ) lần đầu thì khi Nhà nước quy hoạch, thu hồi đất và bồi thường
hoa lợi phải căn cứ vào sổ mục kê và bản đồ 299. Nếu sổ mục kê ghi loại
đất nào thì phải bồi thường theo loại đất đó. Luật pháp quy định rất rõ
ràng, vậy mà chính quyền nơi đây lại vẽ ra một kịch bản quá vụng về để
đưa số đất của gia đình bà Bạch thành 2 loại đất ruộng và đất líp là các
loại đất rẻ mạt nhất để tỉnh bồi thường là việc làm tùy tiện, trái pháp
luật cần phải được xem xét trách nhiệm của những người đứng đầu các cấp
chính quyền nơi đây để giữ vững kỉ cương phép nước.
Điều tra của Thế Bôn
Nguồn tin: nguoicaotuoi.org.vn
Vĩnh Phúc: Dự án Đầm Sáu Vó - “Lừa” dân và những Quyết định… trái luật? (Bài 1)
Thu Hương |
Chủ Nhật, 16/03/2014 17:33 GMT +7
Thu
hồi đất của dân để làm dự án nhưng không hề có một văn bản pháp lý nào.
Khi bị phát lộ, mới đẻ ra các văn bản trái luật. Tiền kinh phí của nhà
nước để thực hiện dự án nhưng rồi dự án vẫn để hoang 6 năm, người gây
nên những sai phạm và thiệt hại tài sản của dân và Nhà nước vẫn ung dung
thăng chức… Đây là những sự thật về cái gọi là dự án “Đầm
sáu Vó” tiếp tục gây xôn xao dư luận cũng như việc khiếu kiện kéo dài
của dân chưa được giải quyết, còn các cấp chính quyền vẫn “án binh bất
động” (?)
Hai năm khiếu kiện mới ra Quyết định Dự án?
Câu chuyện bắt đầu từ năm 2007, khi chính quyền xã Thanh Lãng, (nay là
thị trấn Thanh Lãng, huyện Bình Xuyên ( tỉnh Vĩnh Phúc) gọi 45 hộ dân
của tổ dân phố Độc Lập và Thống Nhất của thị trấn Thanh Lãng ra xã để
thông báo bằng “miệng” việc thu hồi đất của dân để làm “Dự án nuôi trồng
thủy sản Đầm Sáu Vó”. Trong cuộc họp mặt dân có lãnh đạo UBND xã Thanh
lãng và cả đại diện Ban quản lý (BQL) Dự án huyện Bình Xuyên về dự.
Ông Nguyễn Ngọc Bích thị trấn Thanh Lãng (Bình Xuyên) thắt lòng trước hàng chục ha ruộng cấy lúa của dân bị đào bới lên bởi dự án "ma" bỏ hoang nhiều năm nay?
Tuy
nhiên, thu hồi tổng diện tích bao nhiêu ha đất của dân để làm dự án này
và do ai là người ký Quyết định thu hồi thì người dân lại không được
biết. Dân yêu cầu được xem văn bản nhưng lãnh đạo xã và BQL Dự án đều
“bó tay”. Thế nhưng, không vì thế mà dự án bị dừng…
Bất chấp
quy định pháp luật về những căn cứ pháp lý để thu hồi đất của dân, chính
quyền xã, huyện vẫn “ép” dân nhận tiền giao đất khi không có một quyết
định thu hồi của cấp nào. Vì vậy, nhiều hộ đã phải gượng ép nhận tiền
giao đất. Nhiều hộ không tán thành cách thu hồi vô lý này nên đã không
nhận tiền.
Chủ tịch UBND thị trấn Thanh Lãng Nguyễn Huy Thắng xác nhận thời điểm thu hồi đất cho dự án không hề có văn bản pháp lý nào?
Ngay
sau đó, tháng 10 năm 2007, hàng chục xe và máy ủi đã ùn ùn kéo xuống
đào bới, múc đất ruộng để phá tan gần 10 ngàn m2 ruộng của dân ở khu
Đồng nước xiết. Tất cả các công trình thủy lợi bị tàn phá không thương
tiếc. Không những thế, nhiều mẫu ruộng của dân cũng không có nước để
gieo cấy. Hàng chục ha lúa kém năng suất do hệ thống kênh mương dẫn vào
ruộng bị phá hủy. Cả cánh đồng ruộng của dân trong tích tắc đã biến
thành bể nước. Sự phá hoại bất chấp luật pháp là của Công ty TNHH Phúc
Thành An; trụ sở của Công ty này đóng ở đâu? do ai chỉ đạo đưa máy xuống
phá ruộng của dân, vẫn còn là điều bí ẩn và khuất tất (?)
Việc
làm khuất tất của chính quyền và doanh nghiệp khiến người dân kiên
quyết bỏ cả công việc để kéo nhau ra xã, lên huyện, về tỉnh để hỏi cho
ra nhẽ. Biết không thể trốn tránh mãi, ngày 29-3-2010, ông Nguyễn Quốc
Hùng, khi ấy là Chủ tịch UBND huyện (hiện là Chủ nhiệm UBKT Tỉnh ủy Vĩnh
Phúc) mới giao cho người dân bản phô-tô Quyết định thu hồi đất số
3283/QĐ-UBND ngày 4-11-2009 của UBND huyện Bình Xuyên, do chính ông
Nguyễn Quốc Hùng kí.
Quyết định số 3283/QĐ-UBND ngày 4-11-2009 do ông Nguyễn Quốc Hùng khi đó là Chủ tịch UBND huyện Bình Xuyên ký (hiện là Chủ nhiệm UBKT Tỉnh ủy Vĩnh Phúc)
Nội
dung của Quyết định số 3283/QĐ-UBND ngày 4-11-2009 của UBND huyện Bình
Xuyên cho rằng: Căn cứ để UBND huyện Bình Xuyên ban hành quyết định này
là Quyết định số 3619/QĐ-CT ngày 26-10-2009 của Chủ tịch UBND tỉnh Vĩnh
Phúc, do Phó Chủ tịch Phùng Quang Hùng kí thay
(hiện ông Phùng Quang Hùng là Chủ tịch UBND tỉnh Vĩnh Phúc), nội dung
thu hồi 95.589m2 đất tại thị trấn Thanh Lãng, để triển khai công trình
nuôi trồng thủy sản Đầm Sáu Vó.
Vi phạm pháp luật nghiêm trọng
Từ việc thu hồi đất của dân không hề có bất kỳ một văn bản pháp lý nào
ngay từ đầu của UBND huyện Bình Xuyên và tỉnh Vĩnh phúc đã cho thấy,
dấu hiệu mập mờ về một dự án không có thật. Đó là nguyên nhân đẩy những
bức xúc của dân phải hành hương kéo nhau về các cấp Trung uơng và Thanh
tra Chính phủ để khiếu kiện.
Tại
báo cáo số 94/UBND-BC, ngày 26-8-2011 của UNND tỉnh Vĩnh Phúc gửi Thanh
tra Chính phủ, đã thừa nhận: UBND huyện Bình Xuyên vi phạm nghiêm trọng
quy định của pháp luật về thu hồi, bồi thường, hỗ trợ, GPMB…
Trong Quyết định số 3283/QĐ-UBND của UBND huyện Bình Xuyên (ngày
04-11-2009) do ông Nguyễn Quốc Hùng ký cho rằng: Căn cứ Quyết định số
361 của Chủ tịch UBND tỉnh Vĩnh Phúc “ V/v thu hồi đất để lập phương
án và bồi thường GPMB công trình: Nuôi trồng thủy sản Đầm Sáu Võ tại
thị trấn Thanh lãng, huyện Bình Xuyên, tỉnh Vĩnh Phúc (đợt I)”, căn cứ thứ 2 thì cho rằng: Xét đề nghị của Phòng Tài nguyên và Môi trường (ngày 4/11/2009) “V/v
xin thu hồi đất để lập phương án và bồi thường GPMB công trình: Nuôi
trồng thủy sản Đầm sáu Vó tại thôn Thống Nhất- Thị trấn Thanh lãng,
huyện Bình Xuyên, Tỉnh Vĩnh Phúc (đợt I)”.
Báo cáo số 94/UBND-BC, ngày 26-8-2011 của UNND tỉnh Vĩnh Phúc gửi Thanh tra Chính phủ, đã thừa nhận: UBND huyện Bình Xuyên vi phạm nghiêm trọng quy định của pháp luật về đất đai
Trong
cùng một ngày xuất hiện cùng 2 tờ trình. Phải chăng, sự “vội vàng” đẻ
“gấp” các văn bản của các cấp chính quyền tỉnh Vĩnh Phúc là nhằm để “hợp
lý” các văn bản trong việc thu hồi trái luật đất ruộng của dân. Đấy còn
là chưa kể đến quyết định của UBND huyện Bình Xuyên do ông Nguyễn Quốc
Hùng ký mang thể thức thu hồi đất chung, để giao cho chính UBND huyện và
kèm theo danh sách các hộ, trong đó có cả diện tích đất do UBND thị
trấn quản lí. Việc Chủ tịch UBND huyện Bình Xuyên Nguyễn Quốc Hùng ký
Quyết định số 3283/QĐ-UBND là trái pháp luật, trái thẩm quyền.
Việc ban hành Quyết định số 3619/QĐ-CT của Chủ tịch UBND tỉnh Vĩnh Phúc (ngày 26-10-2009) “V/v
thu hồi đất giao cho UBND huyện Bình Xuyên thực hiện việc lập phương án
bồi thường chi tiết, bồi thường GPMB công trình Nuôi trồng thủy sản đầm
Sáu Vó”, do Phó Chủ tịch UBND tỉnh Phùng Quang Hùng khi đó kí thay
Chủ tịch. Đây là văn bản trái thẩm quyền và vi phạm pháp luật. Đấy còn
chưa nói đến những mâu thuẫn trong nội dung 2 quyết định của Chủ tịch
UBND tỉnh Vĩnh Phúc Phùng Quang Hùng và Chủ tịch huyện Bình xuyên Nguyễn
Quốc Hùng đã ký.
Tại khoản 1, Điều 37 của Luật Đất đai năm 2003 quy định: “UBND
tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương quyết định giao đất, cho thuê
đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất đối với tổ chức...”. Cũng tại Luật này, khoản 1, Điều 44 quy định: “UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương quyết định thu hồi đất đối với tổ chức...”.
Việc ban hành hai nội dung thu hồi và giao đất trong cùng một quyết định còn trái với quy định tại Điều 32 Luật Đất đai 2003: “Việc
quyết định giao đất, cho thuê đất đối với đất đang có người sử dụng cho
người khác chỉ được thực hiện sau khi có quyết định thu hồi đất đó”. Việc
thu hồi đất trong Dự án Đầm Sáu Vó còn vi phạm nghiêm trọng vào Nghị
định 84/2007/NĐ- CP về trình tự, thủ tục của các cấp chính quyền huyện
Bình Xuyên và Tỉnh Vĩnh Phúc.
Với tổng mức đầu tư 9.980 triệu
đồng ở dự án này để đào bới gần chục ha ruộng của dân thành đầm nuôi
tôm cá nhưng rồi để tan hoang suốt 6 năm nay. Điều này cho thấy, sự vi
phạm pháp luật của các cấp chính quyền tỉnh Vĩnh Phúc trong việc thu hồi
đất để làm dự án này đã gây ra hậu quả pháp lý không hề nhỏ về sự thiệt
hại tài sản của người dân và Nhà nước?
Thế nhưng, những người
làm sai cũng như ký các văn bản đó hiện tại chưa bị cơ quan pháp luật
xem xét, thậm chí còn được thăng chức, như trường hợp ông Nguyễn Quốc
Hùng, nguyên Chủ tịch UBND huyện Bình Xuyên, được bầu vào Thường vụ Tỉnh
ủy, Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Tỉnh ủy Vĩnh Phúc. Ông Phùng Quang Hùng
từ Phó Chủ tịch thăng tiến lên làm Chủ tịch UBND tỉnh Vĩnh Phúc?
Trong khi đó, Nhà báo, Luật sư, thương binh Hà Tuấn Ngọc hoàn toàn không có chức vụ gì, từng có những bài viết phanh phui một số vụ tham nhũng liên quan đến không ít "quan chức" ở Vĩnh Phúc, khiến có kẻ phải ngồi tù, mất chức, chỉ xin ô đất ở TP Vĩnh Yên cho con gái làm nhà ở bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội “Lợi
dụng chức vụ quyền hạn trong khi thi hành công vụ” theo điều 281 Bộ
Luật Hình sự, hoàn toàn không đúng về tội danh nhưng ở hai cấp tòa sơ
thẩm là TAND thành phố Vĩnh Yên xử từ ngày 15 đến 17/7/2013, phúc thẩm
là TAND tỉnh Vĩnh Phúc xử ngày 24/9/2013 vẫn cố tình tuyên y án sơ thẩm:
Bị cáo Hà Tuấn Ngọc, 5 năm tù giam? Hà Tuấn Ngọc và gia đình đang kháng
án tiếp. Vậy công lý ở đâu? Cấp
có thẩm quyền ở Vĩnh Phúc nghĩ suy gì liên quan đến những vụ việc nêu
trên khi triển khai thực hiện Nghị quyết trung ương 4 (khóa) XI về "Mấy
vấn đề cấp bách xây dựng Đảng ta hiện nay"?
(Còn nữa)
Vĩnh Phúc: Dự án Đầm Sáu Vó - Dấu hiệu nghiêm trọng về hình sự? (Bài 2)
Việc Thu hồi cả chục ha
đất nông nghiệp để làm "Dự án nuôi trồng thủy sản Đầm Sáu Vó” ở thị trấn
Thanh Lãng, huyện Bình Xuyên nhưng lại không hề có các văn bản pháp lý.
Khi bị dân khiếu kiện quyết liệt, các cơ quan quản lý tỉnh Vĩnh Phúc
mới vội vàng “hợp thức hóa” bằng loạt văn bản pháp lý chồng chéo. Hàng
tỉ đồng để đầu tư dự án chỉ để đào bới ruộng của dân lên rồi bỏ hoang
nhiều năm, để lại hậu quả nặng nề cho người dân, ai chịu trách nhiệm…?
“Trảm trước tấu sau”?
Tháng
10 năm 2007, người dân phố Độc lập và Thống Nhất của thị trấn Thanh
Lãng (huyện Bình uyên- tỉnh Vĩnh Phúc) đã bất ngờ chứng kiến cảnh hàng
chục xe ủi, máy xúc kéo nhau xuống đồng rồi múc đất, phá tan hoang gần
10 ha ruộng cấy lúa của dân tại khu đồng nước xiết biến thành ao hồ. Khi
bị dân truy vấn, chính quyền thị trấn Thanh Lãng trả lời: Đắp bờ bao để
phục vụ Dự án phát triển kinh tế địa phương. Trong khi đó, toàn bộ quy
trình thực hiện dự án để lấy đất của dân lại không hề dựa trên một văn
bản pháp lý nào liên quan đến thủ tục thu hồi đất, GPMB…
Ông Nguyễn Ngọc Bích thị trấn Thanh Lãng (Bình Xuyên) thắt lòng trước hàng chục ha ruộng cấy lúa của dân bị đào bới lên bởi dự án "ma" bỏ hoang nhiều năm nay?
Việc
đền bù hỗ trợ trong dự án này khi thu hồi đất nông nghiệp của dân cũng
không thông báo. Sau 2 năm đi khiếu kiện, người dân mới được biết đơn vị
phá ruộng của dân là Công ty TNHH Phúc Thành An để thực hiện cái gọi là
"Dự án Nuôi trồng thủy sản Đầm sáu Vó”.
Như đã thông tin: Thấy
sự vô lý, bất công của các cấp chính quyền, các hộ dân đã khiếu nại lên
các cơ quan cấp huyện. Mãi đến ngày 29-3-2010, ông Nguyễn Quốc Hùng, khi
ấy là Chủ tịch UBND huyện (hiện là Chủ nhiệm UBKT Tỉnh ủy Vĩnh Phúc)
mới giao cho người dân bản phô-tô Quyết định thu hồi đất số 3283/QĐ-UBND
ngày 4-11-2009 của UBND huyện Bình Xuyên, do chính ông Nguyễn Quốc Hùng
kí. Nội dung QĐ đó cho rằng, căn cứ để UBND huyện Bình Xuyên ban hành
Quyết định này là Quyết định số 3619/QĐ-CT (ngày 26/10/2009) của Chủ
tịch UBND tỉnh Vĩnh Phúc do Phó Chủ tịch UBND tỉnh Phùng Quang Hùng kí
thay (nay là Chủ tịch UBND tỉnh Vĩnh Phúc), nội dung thu hồi 95.589m2
đất tại thị trấn Thanh Lãng, để triển khai công trình Nuôi trồng thủy
sản Đầm Sáu Vó.
Quyết
định số 3619/QĐ-CT (ngày 26/10/2009) của Chủ tịch UBND tỉnh Vĩnh Phúc
do Phó Chủ tịch UBND tỉnh Phùng Quang Hùng kí thay (nay là Chủ tịch UBND
tỉnh Vĩnh Phúc) thu hồi 95.589m2 đất tại thị trấn Thanh Lãng làm dự án
"ma" để bỏ hoang hóa nhiều năm nay
Như
vậy, UBND huyện Bình Xuyên đã thu hồi đất của dân theo kiểu “trảm trước
tấu sau” bị mọi người đặt câu hỏi về tính pháp lý của những văn bản
này, liệu có phải là những văn bản thật hay văn bản “giả” được ra đời
chỉ để “hợp lý hóa” những sai phạm về Luật Đất đai đối với cái gọi là
“Dự án nuôi trồng thủy sản Đầm Sáu Vó”?
Trong báo cáo số
94/UBND-BC, ngày 26 tháng 8 năm 2011 của UBND tỉnh Vĩnh Phúc gửi Thanh
tra Chính phủ đã thừa nhận những sai phạm này: UBND huyện Bình Xuyên đã vi phạm nghiêm trọng quy định của pháp luật của pháp luật về thu hồi, bồi thường, hỗ trợ, GPMB.
Tại
Quyết định số 3283/QĐ-UBND kí ngày 4/11/2009 thể hiện xét đề nghị của
phòng Tài nguyên & Môi trường, còn tờ trình của UBND thị trấn Thanh
Lãng kí cùng ngày 4/11/2009. Đây là bằng chứng thể hiện sự đối phó bằng
văn bản nhằm hợp thức hóa việc làm sai trái về thu hồi trái phép đất
nông nghiệp cho dự án “ma” nhưng đã bộc lộ “giấu đầu hở đuôi” của những
người có chức quyền ở huyện Bình Xuyên và thị trấn Thanh lãng.
Điều
khuất tất nữa, ở Quyết định của UBND huyện Bình Xuyên thì mang thể thức
thu hồi đất chung để giao cho chính UBND huyện (kèm theo danh sách các
hộ), trong đó có cả diện tích đất do UBND thị trấn quản lý. Điều này có
thể khẳng định, Quyết định số 3283/QĐ-UBND của huyện Bình Xuyên do ông
Nguyễn Quốc Hùng, khi ấy là Chủ tịch UBND huyện ký là trái pháp luật,
trái thẩm quyền.
Khoản 1, điều 37 Luật Đất đai 2003 quy định:
“UBND tỉnh, Thành phố trực thuộc Trung ương Quyết định giao đất, cho
thuê đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất đối với tổ chức…”. Còn
Khoản 1, Điều 44 của Luật này quy định: “UBND Thành phố trực thuộc Trung
ương Quyết định thu hồi đất đối với tổ chức…” chứ không phải thẩm quyền
UBND cấp huyện. Ở Điều 32 Luật này cũng quy định: “Việc quyết định giao
đất, cho thuê đất đang có người sử dụng cho người khác chỉ được thực
hiện sau khi có Quyết định thu hồi đất đó”.
Như vậy, đối chiếu
với các khoản Điều, Khoản trên của Luật Đất đai thì Quyết định số
3619/QĐ-CT (ngày26/10/2009) của Chủ tịch UBND tỉnh Vĩnh Phúc “V/v thu
hồi đất, giao UBND huyện Bình Xuyên thực hiện lập phương án bồi thường
chi tiết, bồi thường GPMB..” do Phó chủ tịch Phùng Quang Hùng khi đó kí
thay Chủ tịch UBND tỉnh. Đây là một văn bản vừa trái thẩm quyền, vừa vi
phạm nghiêm trọng pháp luật về đất đai.
Việc thu hồi đất trong Dự
án Đầm Sáu Vó của UBND huyện Bình Xuyên và UBND tỉnh Vĩnh Phúc còn vi
phạm nghiêm trọng từ Điều 49 đến Điều 59 Nghị định 84/2007/NĐ- CP của
Chính phủ về trình tự, thủ tục thu hồi đất và thực hiện việc bồi thường,
hỗ trợ tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất của dân, nhất là đối với
đất nông nghiệp canh tác lúa nước.
Dân được ăn “bánh vẽ”?
Với
tổng mức đầu tư 9.980 triệu đồng ở "Dự án Nuôi trồng thủy sản Đầm Sáu
Vó”, số tiền này được dùng để múc đất, đào cả chục ha ruộng của dân
thành Đầm nuôi tôm cá nhưng chỉ để đấy? Cá thì không thấy, chỉ một vùng
nước mênh mông ở giữa cánh đồng, khiến người dân không có đất canh tác,
thất nghiệp, trở nên đói nghèo, bị bần cùng hóa. Điều này cho thấy, sự
vi phạm pháp luật nghiêm trọng của các cấp chính quyền ở Vĩnh Phúc trong
việc thu hồi đất để làm dự án “ma” đã gây ra hậu quả pháp lý không hề
nhỏ về sự thiệt hại tài sản cho người dân và Nhà nước?
Báo cáo số 94/UBND-BC, ngày 26-8-2011 của UNND tỉnh Vĩnh Phúc gửi Thanh tra Chính phủ đã thừa nhận: UBND huyện Bình Xuyên vi phạm nghiêm trọng quy định của pháp luật về đất đai
Tại báo cáo số 94/UBND-BC, ngày 26-8-2011 của UNND tỉnh Vĩnh Phúc gửi Thanh tra Chính phủ, đã thừa nhận: “UBND huyện Bình Xuyên vi phạm nghiêm trọng quy định của pháp luật về thu hồi, bồi thường, hỗ trợ, GPMB…” Tuy
vậy, mục tiêu được các cấp chính quyền trình bày trong bản Báo cáo này
khá đẹp như: Dự án đảm bảo tiêu nước cho lưu vực là 8.710 ha đất huyện
Bình Xuyên. Trong đó, 190ha Đầm Sáu Vó sản xuất chắc một vụ lúa, kết hợp
một vụ nuôi cá ổn định, giải quyết việc làm, nâng cao đời sống nhân
dân”.
Chủ tịch UBND thị trấn Thanh Lãng Nguyễn Duy Thắng xác nhận thời điểm thu hồi đất cho dự án không hề có văn bản pháp lý nào?
Thực
tế, không giống những gì dự án đã “vẽ” ra đem lại lợi ích cho dân mà để
lại cả một vùng hoang hóa, ảnh hưởng tới đời sống của người dân, hàng
chục mẫu ruộng khô héo, không có nước gieo cấy.
Thế nhưng, phần kết luận của báo cáo này, UBND tỉnh Vĩnh Phúc lại cho rằng: “Hồ
sơ, thủ tục thu hồi đất, bồi thường GPMB để thực hiện dự án …cho đến
nay là đầy đủ theo quy định của pháp luật” và “UBND huyện Bình Xuyên
chậm ra Quyết định thu hồi là sai sót thực tế, nhưng đã được khắc phục
để đảm bảo quyền lợi của các hộ dân theo đúng quy định của pháp luật…”
Thực
chất, phần kết luận này có ý bao che sai phạm của các cán bộ lãnh đạo
UBND huyện Bình Xuyên nhằm “dối trên, lùa dưới” để thoát hiểm. Vậy mà,
những người chịu trách nhiệm sai phạm trong dự án này thời điểm đó là
ông Nguyễn Quốc Hùng (Chủ tịch UBND huyện Bình Xuyên) không mất chức mà
còn được được bổ nhiệm vào Thường vụ Tỉnh ủy, Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra
Tỉnh ủy để đi kiểm tra, kỷ luật người khác? Đối với Phó Chủ tịch UBND
tỉnh Phùng Quang Hùng, người kí thay Chủ tịch tỉnh khi đó Quyết định thu
hồi đất trái thẩm quyền, trái pháp luật thì được lên chức Chủ tịch UBND
tỉnh Vĩnh Phúc?
Tại cuộc đối thoại với dân Thanh Lãng ngày 6
tháng 10 năm 2013, Chủ tịch UBND tỉnh Phùng Quang Hùng không phản biện
được những câu hỏi, phản bác lập luận của dân về sai phạm xung quanh 2
dự án (Dự án xây dựng Cụm công nghiệp – làng nghề mộc thị trấn Thanh
Lãng thu hồi gần 12 ha ruộng đã gần chục năm nay vẫn chưa đưa vào sử
dụng theo đúng mục đích dự án mà một phần diện tích đã phân lô bán nền
cho các hộ dân nơi khác đến xây nhà kiên cố, tiền vào túi ai? Số đất còn
lại bị các hộ gần đó làm bãi chứa gỗ, cỏ mọc um tùm dùng để chăn thả
trâu, bò, trong khi nhiều hộ dân không có đất để sản xuất, đời sống gặp
nhiều khó khăn và Dự án nuôi trồng thủy sản “Đầm Sáu Vó” gần 10 ha).
Nhưng ông Phùng Quang Hùng lại hứa hẹn: “Tôi không ghi vào biên bản
nhưng giao UBND huyện, bàn với UBND xã, sau 10 ngày nữa báo cáo rồi tôi
sẽ có văn bản chỉ đạo ngay, ngày 24/6/2013 phải xong dự án…”
Vậy
mà lời hứa của Chủ tịch UBND tỉnh Vĩnh Phúc Phùng Quang Hùng đã “theo
gió mà bay”. Đã gần một năm nay, người dân vẫn không thấy kết quả từ lời
hứa chắc nịch ấy của vị Chủ tịch UBND tỉnh Vĩnh Phúc. Thậm chí đến
tháng tiếp dân vừa rồi, Chủ tịch UBND tỉnh Phùng Quang Hùng cũng “lặn”
mất tăm.
Trả
lời báo chí về sai phạm ở dự án này, Chánh văn phòng UBND tỉnh Vĩnh
Phúc Bùi Minh Hồng (ảnh trên) bao biện: "Tỉnh đã có chỉ đạo giải quyết
và trả lời dân".
Nhưng
giải quyết cách nào khi mà dự án đã gần 10 năm nay vẫn để hoang hóa,
dân vẫn khiếu kiện vượt cấp tới các cơ quan Trung ương, đất ruộng của
dân từ “mượn” chuyển sang phân lô bán nền, tiền đầu tư hàng chục tỉ đồng
để đào ruộng của dân thành đầm nhưng chính quyền đã bỏ mặc, chỉ khổ
dân? Các văn bản có “dấu hiệu” giả để hợp thức hóa việc làm sai trái…?
Do đó, Dự án nuôi trồng thủy sản “Đầm Sáu Vó” có “dấu hiệu” vi phạm
nghiêm trọng về hình sự (?)
Người dân Thị trấn Thanh Lãng (huyện
Bình Xuyên) và dư luận tỉnh Vĩnh Phúc vẫn đang chờ một câu trả lời khả
thi nhất, cần một sự chỉ đạo, vào cuộc quyết liệt của cơ quan pháp luật
cao nhất để điều tra, làm rõ những sai phạm ở dự án “ma” "nuôi trồng
thủy sản Đầm Sáu Vó” cũng như Dự án xây dựng Cụm công nghiệp – làng nghề
mộc thị trấn Thanh Lãng, sớm thu hồi đất trả lại cho dân có đất canh
tác. Đồng thời trên cơ sở đó xử lý thật nghiêm những cán bộ mắc sai phạm
liên quan đến những dự án “ma” này theo quy định của pháp luật, góp
phần lập lại trật tự kỷ cương phép nước ở nơi đây.
Tại huyện Bình Xuyên, tỉnh Vĩnh Phúc: Dân lao đao vì chính quyền “hô biến” hàng trăm nghìn m2 thành… hoang hóa
(GĐVN) Chỉ riêng một xã, hai dự án “màu hồng” được chính quyền “vẽ lên
cho vui”, thu hồi cả trăm nghìn m2 đất “bờ xôi ruộng mật” rồi phân lô
bán, số còn lại để đấy. Người dân biết, làm đơn tố cáo liên miên, nhưng
xem ra “trời xanh chẳng thấu”.
Không những thế, những sai phạm cá nhân lại được
chính quyền địa phương khắc phục bằng cách lấy gần chục tỷ đồng ngân
sách để “sửa sai” giúp cho những vị quan đó không thăng quan tiến chức
thì cũng “hạ cánh” an toàn. Chỉ khổ người nông dân “thấp cổ bé họng”,
đấu tranh để rồi… tránh đâu?.
Thu hồi đất “bờ xôi ruộng mật” để… bỏ hoang?
Thực
hiện nhiệm vụ thúc đẩy kinh tế các địa phương, định hướng đến năm 2020,
ngày 31/01/2005, UBND tỉnh Vĩnh Phúc ra Quyết định 337/QĐ-UBND về việc
Phê duyệt Báo cáo nghiên cứu kỹ thuật đầu tư xây dựng hạ tầng kỹ thuật
cụm công nghiệp làng nghề (CCN –LN) xã Thanh Lãng với tổng diện tích
119.363m2. Theo đó, ngày 07/09/2005, UBND tỉnh có QĐ 2790/QĐ-UBND về
việc thu hồi và giao đất cho UBND huyện Bình Xuyên triển khai bồi thường
giải phóng mặt bằng, đầu tư xây dựng hạ tầng kỹ thuật cụm công nghiệp
làng nghề xã Thanh Lãng (giai đoạn 1), diện tích thu hồi 92.318,4m2
(trên 83.000m2 là đất nông nghiệp) tại xứ đồng rau xanh của xã. Thấy “dự
án hay” khi vừa phát triển kinh tế làng nghề, người dân có công ăn việc
làm, lại bảo vệ được môi trường nên ai nấy đều nhiệt tình làm theo lời
chính quyền.
Sau 8 n ăm triển khai dự án, CCN -LN, ngoài một phần đất được chính quyền "cắt" ra để bán, còn lại vẫn là bãi đất hoang
Mất
đất sản xuất, nhưng vẫn còn hi vọng được vào cụm công nghiệp làm việc
nên người dân Thanh Lãng vẫn cố gắng “lay lắt” đợi chờ. Hơn 1 năm sau,
dự án vẫn chỉ là bãi đất trống, người dân chán nản, nhưng đành “cắn răng
chịu đựng”.
Hàng trăm hộ dân Thanh Lãng còn
đang bàng hoàng vì mất đất sản xuất thì chỉ hơn một năm sau, một dự án
tầm cỡ không kém tiếp tục “đổ bộ” xuống đồng đất nơi đây. Quyết định
1389/QĐ–UBND, ngày 16/06/2006 của UBND tỉnh Vĩnh Phúc chính thức phê
duyệt đầu tư xây dựng dự án nuôi trồng thủy sản đầm Sáu Vó với diện tích
190ha, trong đó có 125ha thuộc xã Thanh Lãng.
Theo
ông Trần Văn Lựu, người dân tổ dân phố Thống Nhất (Thanh Lãng) bức xúc:
“Chỉ bằng những lời nói suông, và hứa hẹn sau khi triển khai dự án, con
em mất đất sẽ được ưu tiên học nghề….và mời dân ra UBND xã nhận tiền,
thậm chí chẳng cần nói với dân vẫn lấy đất canh tác của dân, san lấp
xong giờ thì bỏ hoang”.
Ông Nguyễn Ngọc Bích, ở
khu Thống Nhất (Thanh Lãng) cho biết thêm: Việc lập dự án thiếu công
khai, dân chủ, không đúng trình tự, không có quyết định thu hồi đất cho
từng cá nhân, cấp sổ đỏ cho các phần diện tích dự án trùng lên diện tích
đất nông nghiệp đã có sổ đỏ…Mặc dù chúng tôi gửi đơn lên các cấp nhiều
lần nhưng đến nay vẫn chưa được giải quyết”. Tại Công văn số
1392/TDTW(ngày 25/5/2012) của Văn phòng Trung ương Đảng cũng thể hiện rõ
lời ông Bích và gần 200 hộ dân thôn Thống Nhất. Bà Nguyễn Thị Gái,
người cùng thôn bức xúc: “Tôi còn chưa biết đó là chủ trương gì, chỉ
thấy hai dự án đã biến những con đường nội đồng, tuyến bờ bao bị cào xé
tan hoang”.
Những tưởng, sau việc làm “đi tắt
đón đầu” đó của huyện Bình Xuyên thì dự án sẽ triển khai nhanh hơn nhưng
8 năm qua, cả hai dự án vẫn gần như “dậm chân tại chỗ”, đất đai thu hồi
bị bỏ hoang trong khi người dân không có ruộng để sản xuất.
Ông
Trần Văn Lựu, tổ trưởng thôn Thống Nhất, đại diện cho hơn 200 hộ cho
biết: “Mãi đến cuối năm 2009, dự án CCN-LN mới chôn được vài cột điện và
xây xong căn nhà điều hành; còn dự án nuôi trồng thủy sản ở đầm Sáu Vó
sau khi quần nát “bờ xôi ruộng mật” của dân thì gần như... để nguyên”.
Điều
khiến người dân vô cũng bức xúc, là những diện tích đất phục vụ dự án
làng nghề của họ đã im lìm đội nón ra đi. Theo phản ánh của ông Lựu, sau
khi san lấp mặt bằng xong, chính quyền quay ra đấu giá đất bán và cấp
sổ đỏ cho khoảng 50 hộ khác, số còn lại hiện vẫn để để hoang hóa... cũng
như hàng chục hộ dân khác, họ chưa một lần thấy Quyết định thu hồi đất
nhưng diện tích đất phục vụ dự án của dân đã được sang tên, đổi chủ!?.
Ng ười dân lao đao, đói khổ vì chính quyền thu hồi đất nông nghiệp để... bỏ hoang
Gần
8 năm trôi qua, ông Bích, ông Lựu và hơn 200 hộ dân đã bao lần đâm đơn
đi tìm công lý, nhưng đất ruộng vẫn bị bỏ hoang còn cán bộ các cấp thì
mặc sức hứa suông. Ngay khi có quyết định mới, người dân nơi đây vẫn
phải chịu thiệt thòi. Theo Nghị định 69/NĐ-CP ngày 13/08/2009 của Chính
phủ và QĐ 59/2009/QĐ-UBND của UBND tỉnh Vĩnh Phúc về ban hành quy định
thực hiện bồi thường khi nhà nước thu hồi đất thì áp giá đền bù trên địa
bàn tỉnh Vĩnh Phúc với giá chung là 73 triệu đồng/sào (360m2) nhưng
không hiểu lý do gì mà khi tiền đến tay người dân chỉ còn 67 triệu
đồng/sào. Cũng theo ông Bích, đa phần người dân đều không hiểu tiền đó
gồm những khoản gì, chỉ nghe cán bộ giải thích đại khái là tiền đền bù
dự án.
Về vấn đề này, ông Nguyễn Duy Thắng, Chủ
tịch UBND xã Thanh Lãng cho biết: “CCN-LN được HĐND xã thông qua năm
2004, UBND huyện và tỉnh Phê duyệt thành lập cụm làng nghề sản xuất gỗ
tập trung và đến năm 2009 cho cơ chế đất dịch vụ và đất được đem ra bán
đấu giá cho dân làm nhà ở”.
Khi được hỏi tại sao
đất của CCN –LN lại được phân lô bán, ông Thắng “mạnh miệng” cho biết,
tất cả đều có trong dự án đã được phê duyệt. Tuy nhiên, khi chúng tôi
yêu cầu cung cấp quyết định phê duyệt, ông Thắng lại “ậm ờ” và không
cung cấp được.
Nghi án lấy tiền công để khắc phục sai phạm riêng
Theo
đơn trình bày của 200 hộ dân ở Thanh Lãng: Ngày 25/8/2005, chính quyền
xã Thanh Lãng triệu tập họp dân thôn Thống Nhất về việc xây dựng CCN-LN,
có cả ông Bình cán bộ địa chính huyện về dự. Ông Nguyễn Đăng Tình (khi
đó là Chủ tịch UBND xã) tuyên bố: “Dự án này chỉ thuê đất của bà con 8
năm (từ năm 2005 đến 2013), sau đó lại trả ruộng cho bà con và chỉ hỗ
trợ về hoa màu chứ không đền bù đất”. Giá thuê đất trong 8 năm hạng 1
được tính 14.514.000 đồng/sào; hạng 2 là 14.104.000 đồng/sào. Nhiều ý
kiến không đồng thuận, do 2/3 diện tích ở đây là đất 10% trồng rau xanh,
nhiều hộ là gia đình chính sách, thương binh, liệt sĩ. Kết quả, cuộc
họp bất thành. Đến tháng 10/2005, UBND xã mời bà con ra lấy tiền, nhưng
không giao một thứ giấy tờ gì. Chính quyền xã “ép” dân nhận tiền, rồi
tiến hành san lấp mặt bằng.
Năm 2009, dân chưa
thấy làng nghề đâu, chỉ thấy một số nhà 3 - 4 tầng kiên cố mọc lên. Dân
tá hỏa, nhiều lần lên huyện hỏi, mãi đến ngày 29/3/2010, ông Nguyễn Quốc
Hùng, Chủ tịch UBND huyện mới đưa cho bà con bản phô-tô Quyết định số
1466/QĐ-UBND của UBND tỉnh, thu hồi đất, giao cho huyện Bình Xuyên làm
chủ dự án xây dựng CCN-LN.
Suốt từ năm 2009 đến
nay, nhân dân gửi đơn đi nhiều nơi, hết huyện rồi tỉnh tiến hành thanh
tra, ra nhiều văn bản trả lời, song tất cả đều chung chung, bao che cho
sai phạm. Tính đến nay, huyện đã bán đấu giá 50 suất đất ở, giải thích
là để lấy kinh phí xây dựng hạ tầng. Song, thực tế không có công trình
hạ tầng nào được xây dựng, gần 10ha đất bị bỏ hoang hóa suốt hơn bảy năm
nay, trong khi dân thiếu đất canh tác, rơi vào cảnh thất nghiệp...
Căn
cứ các tài liệu thu thập được và kết quả xác minh của chúng tôi, những
nội dung trình bày của nhân dân là có cơ sở, các sai phạm biểu hiện ở
cấp độ nghiêm trọng, hậu quả để lại rất nặng nề. Mặc dù trong quá trình
nhân dân khiếu nại, chính quyền có đưa ra các văn bản, quyết định liên
quan (tất cả đều là bản phô-tô), song tại thời điểm thu hồi đất người
dân không được nhận bất cứ văn bản, quyết định nào, điều này cũng được
ông Nguyễn Duy Thắng, Chủ tịch UBND thị trấn Thanh Lãng xác nhận.
Toàn
bộ quy trình thu hồi đất, ở CCN-LN Thanh Lãng vẻn vẹn có hai văn bản:
Quyết định thu hồi đất số 2790/QĐ-UBND của UBND tỉnh Vĩnh Phúc; Quyết
định thu hồi đất số 1466/QĐ-UBND của UBND huyện Bình Xuyên, có danh sách
các hộ kèm theo. Khoan nói đến những dấu hiệu bất thường của hai quyết
định trên, thì việc thu hồi đất đã vi phạm nghiêm trọng các quy định của
pháp luật.
Trường hợp tương tự, Dự án Nuôi
trồng thủy sản đầm Sáu Vó, không cần hỏi dân chính quyền đã ngang nhiên
lấy đất nông nghiệp của dân, hơn hai năm sau khi dân phản ứng mới ra
quyết định thu hồi.
Căn cứ tài liệu, tháng
10/2007, nhân dân thôn Thống Nhất bàng hoàng chứng kiến cảnh hàng chục
xe ủi, máy xúc ùn ùn kéo đến, múc đất, phá tan trên 10.000m2 đất nông
nghiệp của dân tại khu đồng nước xiết. Hệ thống thủy lợi, đường giao
thông nội đồng bị tàn phá, hàng chục mẫu ruộng không có nước để gieo
cấy, hàng chục héc-ta kém năng suất do hệ thống dẫn nước bị phá hủy. Bà
con hỏi, chính quyền trả lời là đắp bờ bao phục vụ dự án phát triển kinh
tế địa phương. Trong khi toàn bộ công việc lấy đất của dân, biến một
vùng rộng lớn thành mương nước... không hề căn cứ vào quyết định, trình
tự thủ tục nào liên quan đến việc thu hồi đất GPMB. Thậm chí việc đền
bù, hỗ trợ khi đất nông nghiệp bị thu hồi, dân cũng không được thông
báo...
Ông Nguyễn Duy Thắng, Chủ tịch UBND xã Thanh Lãng thừa nhận: Việc thu
hồi đất của huyện không hề có quy hoạch và quyết định thu hồi...
Ông
Nguyễn Duy Thắng, Chủ tịch xã Thanh Lãng thẳng thắn thừa nhận rằng đúng
là dự án tại đồng Sáu Vó này không hề có quy hoạch và quyết định thu
hồi.
Sai phạm là thế, nhưng huyện Bình Xuyên lại
“cố đấm ăn xôi”, bởi cũng theo ông Thắng: “Khi thấy dân kiến nghị
nhiều, UBND huyện Bĩnh Xuyên đã khắc phục bằng cách thuê người đến múc
hơn 7000m2. Nghe đâu số tiền cũng hơn 6 tỷ đồng...”.
Nếu
đúng như lời ông Thắng nói thì quả thực vấn đề đã trở nên cực kỳ nghiêm
trọng, bởi không chỉ sai về thủ tục, lãnh đạo huyện Bình Xuyên còn vi
phạm luật nghiêm trọng khi lấy tiền ngân sách để khắc phục sai lầm cá
nhân. Vấn đề này thiết nghĩ cơ quan chức năng cần vào cuộc làm rõ để
tránh dư luận xấu trong nhân dân. Bởi theo tìm hiểu của chúng tôi, người
dân không chỉ bức xúc về chuyện thu hồi đất của dân sai quy trình, mà
những cá nhân lãnh đạo làm sai đó, người thì thăng quan tiến chức, người
thì “hạ cánh” an toàn…
Những dự án trên đã được
các cấp chính quyền địa phương thừa nhận là có sai sót, nhưng không
hiểu vì lí do gì cho đến nay vẫn chưa dược giải quyết!? Để đảm bảo quyền
lợi cũng như ổn định đời sống nhân dân, cơ quan chức năng cần nhanh
chóng vào cuộc giải quyết dứt điểm sự việc trên.
Báo GĐVN sẽ tiếp tục thông tin vụ việc đến bạn đọc.
(VTC
News) – Do bức xúc trong việc thu hồi đất, ông Tưởng đã dùng dao đâm 2
cán bộ của đoàn công tác Trung tâm Khai thác quỹ đất huyện Thăng Bình,
Quảng Nam tại buổi họp với 61 hộ dân bị giải tỏa.
Vào
khoảng 9h sáng 23/3, trong lúc đoàn cán bộ của Trung tâm Khai thác quỹ
đất huyện Thăng Bình tiến hành họp dân để giải tỏa xây dựng Trường Trung
cấp Cảnh sát nhân dân tại xã Bình Phục( huyện Thăng Bình), trong đó có
phần đất giải tỏa của gia đình ông Nguyễn Văn Tưởng (48 tuổi, trú thôn
Ngọc Sơn Tây, xã Bình Phục, huyện Thăng Bình, Quảng Nam).
Trong
lúc cán bộ của Trung tâm chuyển micro để ông Tưởng phát biểu ý kiến thì
bất ngờ bị ông Tưởng rút dao thủ sẵn trong người ra đâm. Tiếp đó ông
Tưởng quay sang đâm ông Nguyễn Xuân Mai, Phó Giám đốc Trung tâm Khai
thác quỹ đất đứng gần đó khiến 2 người này bị thương. Theo
bà Lê Thị Thanh Mai, Phó Chủ tịch UBND huyện Thăng Bình cho biết, đoàn
công tác của Trung tâm Khai thác quỹ đất huyện Thăng Bình tiến hành họp
61 hộ dân trong diện giải tỏa đền bù để lấy ý kiến của người dân về bố
trí tái định cư. Tuy nhiên trong lúc cán bộ đoàn công tác đưa micro để
ông Tưởng phát biểu thì bất ngờ ông Tưởng rút dao ra đâm làm 2 người bị
thương.
Theo
người nhà ông Tưởng, nguyên nhân dẫn đến vụ việc trên là do quá bức xúc
trong việc đền bù giải tỏa mà gia đình cho là chưa thỏa đáng nên Nguyễn
Văn Tưởng đã dùng dao đâm vào hai cán bộ của đoàn công tác. Sau
khi bị người dân tại cuộc họp can ngăn, ông Tưởng chạy về nhà tiếp tục
mang dao để uy hiếp. Nhưng đoàn công tác đã kịp thời chạy thoát ra khỏi
địa bàn và gọi công an. Sau khi thấy công an đến, ông Tưởng sợ bỏ chạy
về nhà rồi uống thuốc độc là cyanua tự sát. Sau đó hơn 20 phút người nhà
đưa ông Tưởng đi cấp cứu và ông đã chết trên đường đi cấp cứu.
Trong
báo cáo số 36 cùng ngày của UBND huyện Thăng Bình gửi các cơ quan chức
năng và UBND tỉnh Quảng Nam cho biết nguyên nhân dẫn đến vụ việc như
sau: Hộ ông Nguyễn Xong có 3 khẩu. Trong đó có ông Nguyễn Văn Tưởng
thuộc diện giải phóng mặt bằng và tái định cư. Gia đình ông Tưởng được
bố trí 1 lô đất tái định cư và được hổ trợ 100% tiền chênh lệch sử dụng
đất theo qui định. Tuy nhiên, ông Tưởng có lô đất ở 87 m2 đã được cấp
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nhưng chưa xây dựng nhà ở cũng được
thu hồi và không được bố trí tái định cư lại lô đất khác.
Bức
xúc trước sự việc, ông Tưởng làm đơn khiếu nại và được Chủ tịch UBND
huyện Thăng Bình Nguyễn Văn Ngữ tiếp và xử lý đơn thư khiếu nại theo
thẩm quyền đã đồng ý cấp cho ông Tưởng một lô đất trong khu tái định cư
với diện tích 100 m2 nhưng phải nộp tiền sử dụng đất theo quy định. Tuy
nhiên ông Tưởng không đồng ý và Chủ
tịch UBND huyện Thăng Bình Nguyễn Văn Ngữ nêu rõ quan điểm nếu không
đồng ý với nội dung giải quyết của UBND huyện, thì ông Tưởng có quyền
khiếu nại lên cấp có thẩm quyền. Hiện cơ quan chức năng huyện Thăng Bình tiến hành điều tra làm rõ.
Thùy Dương
Nhiều sai phạm trong đền bù giải toả, tái định cư
Cập nhật: 08/03/2016 10:35
(Thanh tra)- Dự án (D.A) nâng cấp quốc lộ (QL) 24 đi qua
huyện Mộ Đức và Đức Phổ của tỉnh Quảng Ngãi có chiều dài 8km, với tổng
mức đầu tư gần 400 tỷ đồng. D.A triển khai năm 2009, đến nay D.A vẫn ì
ạch do vướng đền bù giải phóng mặt bằng.
Nhiều
hộ dân Phổ Phong đã nhận tiền đền bù giải toả và đất tái định cư nhưng
chưa chịu bàn giao mặt bằng cho D.A QL 24. Ảnh: Ngọc Phó
Do vậy, đã làm tăng giá trị D.A,
giá trị bồi thường từ 72,3 tỷ đồng lên 127 tỷ đồng. Chưa hết, trong quá
trình kiểm kê, áp giá đền bù thiệt hại về tài sản, không ít trường hợp
lợi dụng chiếm đoạt tiền Nhà nước…
Tháng 4/2000, vợ chồng ông Dương Nguyễn Nhật Triệu (công nhân Đội Quản lý đường sắt 403 Đức Phổ)gửi đơn xin đất làm nhà tạm trên khu đất trống phía Nam, gần nhà chắnđường
sắt chạy qua xã Phổ Phong, huyện Đức Phổ. Ông Triệu cam kết sau này Nhà
nước lấy lại sẽ tự nguyện tháo dỡ nhà, trả lại đất. Đơn được lãnh đạo
Xí nghiệp Quản lý đường sắt Nghĩa Bình ký xác nhận, đóng dấu.
Tuy nhiên, khi triển khai giải phóng mặt
bằng D.A QL 24, hộ ông Triệu không tháo dỡ tài sản trả lại đất mà cho
rằng mình mua đất của bà Trần Thị Mỹ Lệ để làm nhà. Ông Triệu đưa ra
giấy viết tay làm cơ sở đòi đền bù, tái định cư.
Nhiều lần các cơ quan chức năng đến vận
động hoặc thông báo áp dụng biện pháp cưỡng chế thì vợ ông Triệu xách
can xăng ra trước nhà gây áp lực…
Rốt cuộc, Trung tâm Phát triển quỹ đất
huyện phải chi trả cho hộ ông Triệu gần 600 triệu đồng và bố trí 1 lô
đất tái định cư. Dù đã nhận tiền đền bù đợt 1/2016, đến nay ông Triệu
vẫn chưa chịu tháo dỡ nhà cửa, bàn giao mặt bằng thi công.
Còn trường hợp ông Huỳnh Hiệt (thôn Hiệp
An) tự bao chiếm 1.257m2 đất phần trăm do UBND xã quản lý rồi bỏ trống
hơn 30 năm nay. Sau đó, ông Hiệt kê khai và được UBND huyện Đức Phổ cấp
sổ đỏ năm 2006, thuộc dạng đất trồng cây hằng năm.
Khi Nhà nước thu hồi 1.079m2 đất phục vụ
D.A QL 24, phải chi trả tiền đền bù cho ông Hiệt hơn 262 triệu đồng và
Chủ tịch UBND huyện Lê Văn Mùi “ép” UBND xã phải ký hồ sơ xác nhận cho
ông Hiệt nhận tiền.
Vụ việc này đã gây bất bình trong nhân
dân. Sau khi công luận phản ứng quyết liệt, Thanh tra tỉnh vào cuộc xác
minh, chỉ rõ việc cấp đất, đền bù đất không đúng quy định đã kiến nghị
Chủ tịch UBND huyện Đức Phổ khẩn trương ra quyết định thu hồi sổ đỏ của
ông Hiệt cũng như dừng việc chi trả tiền đền bù đất đai.
Không nhận được chế độ đền bù, ông Hiệt
liên tục có hành vi gây cản trở thi công công trình D.A QL 24, nhưng địa
phương chưa có biện pháp xử lý nghiêm minh.
Từ đơn tố cáo của công dân, cơ quan chức
năng đã làm rõ việc bà Thới Thị Hải Yến, Phó Chủ tịch UBND xã Phổ Phong
(nhiệm kỳ 2011 - 2016) thiếu gương mẫu, không động viên gia đình chấp
hành pháp luật mà bao che cho người nhà trục lợi tiền đền bù giải toả.
Bản thân bà Yến còn tự ý đổ đất lập vườn trên đất trồng lúa, thiếu trung
thực trong việc kê khai nguồn gốc sử dụng đất của hộ gia đình mình. Cụ
thể: Đất gia đình bà Yến sử dụng từ năm 1984, nhưng bà Yến kê khai sử
dụng từ ngày 6/12/1980 để lập hồ sơ được hỗ trợ đền bù về đất khi Nhà
nước thu hồi phục vụ D.A QL 24 và nhận hơn 8,7 triệu đồng.
Vụ việc được phát hiện, nhưng ý thức tự
giác khắc phục hậu quả của bà Yến chưa kịp thời. UBND huyện Đức Phổ đã
ban hành Quyết định số 1060/QĐ-UBND về thi hành kỷ luật đối với bà Yến
bằng hình thức cảnh cáo.
Hiện tại, D.A QL 24 trên địa bàn xã Phổ
Phong, nhất là khu vực hai bên đầu cầu vượt đường sắt còn gần 20 trường
hợp đã nhận tiền đền bù nhưng chưa chịu bàn giao mặt bằng cho đơn vị thi
công mà tái chiếm đất xây nhà, vật kiến trúc….
Trong công tác kiểm kê áp giá đền bù về
đất, nhiều trường hợp không có quyết định thu hồi đất vẫn chi trả tiền.
Nhiều hộ không thuộc diện bố trí đất tái định cư nhưng vẫn được nhận
đất. Cá biệt, có chủ hộ đã chết hàng chục năm nhưng vẫn được nhận đất
tái định cư.
Trước thực trạng trên đề nghị UBND tỉnh
Quảng Ngãi sớm chỉ đạo kiểm tra toàn diện việc đền bù giải toả, bố trí
tái định cư tại D.A QL 24 nhằm xử lý triệt để các sai phạm cũng như các
trường hợp cố tình gian lận hoặc chây lỳ, gây thiệt hại không nhỏ cho
ngân sách và ảnh hưởng đến tiến độ của toàn D.A.
Nguyễn Ngọc Phó
Dân “tố” huyện thu hồi đất không đền bù, huyện chấp nhận ra toà tranh luận
Ông Võ Thắng (SN 1977, trú thôn Đức Bố 2, xã Tam Anh Bắc, huyện
Núi Thành, Quảng Nam) đại diện cho 6 hộ dân cùng thôn đã có đơn gởi các
cơ quan chức năng của tỉnh Quảng Nam để tố cáo về vụ việc “có dấu hiệu
của tội phạm trong việc bồi thường, hỗ trợ giải phóng mặt bằng xây dựng
thao trường tổng hợp Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh Quảng Nam - Quân khu 5 tại
thôn Đức Bố 2 (xã Tam Anh Bắc, huyện Núi Thành, Quảng Nam).
Người dân chỉ đám keo chưa được đền bù đã bị chặt hạ chất đống
Theo nội dung đơn, các gia đình này có diện tích đất nông nghiệp tại
thôn Đức Bố 2 (xã Tam Anh Bắc, huyện Núi Thành, tỉnh Quảng Nam) khai
hoang quản lý sử dụng ổn định, công khai từ trước năm 2000 không có ai
tranh chấp, chính quyền địa phương không có ý kiến gì.
Đến năm 2006, diện tích đất này trúng vào diện bị ảnh hưởng của dự án
xây dựng thao trường tổng hợp Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh Quảng Nam (QK 5)
đã được các cấp chính quyền địa phương kiểm kê lập biên bản và áp giá
bồi thường, hỗ trợ về đất gắn liền với tài sản trên đất. Tuy nhiên giá
bồi thường, hỗ trợ về đất và tài sản gắn liền trên đất quá thấp, không
đúng quy định của pháp luật các hộ khiếu nại đến UBND xã Tam Anh Bắc và
UBND huyện Núi Thành để được xem xét giải quyết theo đúng quy định của
pháp luật.
Trong đó, hộ ông Võ Thắng và Võ Toàn (SN 1973, anh ruột ông Thắng) có
diện tích đất là 2.500m2, ông Võ Đức Hảo (SN 1953, có diện tích đất
300m2), ông Nguyễn Văn Thành (SN 1965, có diện tích đất 1.000m2), bà Võ
Thị Thọ (SN 1963, có diện tích đất 750m2 và ông Đỗ Viết Chiến (SN 1972,
có diện tích đất 350m2).
Đơn tố cáo của người dân gởi các cơ quan chức năng tỉnh Quảng Nam
“Chúng tôi không được xem xét giải quyết và thực tế UBND huyện Núi
Thành không ra quyết định thu hồi đất chi tiết đối với từng hộ gia đình,
cá nhân, quyết định bồi thường, hỗ trợ về đất gắn liền với tài sản trên
đất theo quy định của Luật Đất đai năm 2003 cho chúng tôi và thực tế dự
án treo không thực hiện nên các hộ gia đình chúng tôi vẫn trực tiếp
quản lý sử dụng đất không có cơ quan, tổ chức, cá nhân nào tranh chấp và
chính quyền địa phương cũng không có ý kiến gì nên chúng tôi nghỉ rằng
quyền và lợi ích hợp pháp của chúng tôi chưa bị ảnh hưởng nên không có
khiếu nại, kiến nghị gì”, đơn của các hộ dân trình bày.
Tháng 8/2015, diện tích đất này bị ảnh hưởng của dự án xây dựng công
trình đường trục chính khu liên hợp công nghiệp, du lịch, đô thị Việt -
Hàn do Nhà nước có điều chỉnh quy hoạch. Các hộ này chỉ được kiểm kê bồi
thường về tài sản trên đất (cây cối, hoa màu trên đất), còn đất không
được bồi thường, hỗ trợ theo quy định của pháp luật.
Thư trả lời của VKS ND tỉnh Quảng Nam yêu
cầu các hộ dân chuyển đơn sang Cơ quan CSĐT Công an tỉnh Quảng Nam để
được xem xét, giải quyết
Do không được bồi thường đối với diện tích đất bị thu hồi nên các hộ
này đã khiếu nại đến UBND huyện Núi Thành để được xem xét giải quyết
theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, UBND huyện Núi Thành không ra
quyết định giải quyết khiếu nại và đã bác đơn khiếu nại của các hộ này
với lý do đất do UBND xã Tam Anh Bắc quản lý và vào năm 2006 đã thu hồi
đất giao cho Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh Quảng Nam để thực hiện dự án. Vì
vậy, hiện nay Nhà nước thu hồi đất của Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh Quảng Nam
nên không xem xét bồi thường, hỗ trợ về đất cho các hộ dân này.
Theo hồ sơ của người dân cung cấp, năm 2006, UBND huyện Núi Thành phê
duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ GPMB xây dựng thao trường tổng hợp
Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh Quảng Nam tại thôn Đức Bố 2 với số tiền trên 1
tỉ đồng của 31 hộ gia đình, cá nhân và 3 đơn vị có tài sản,vật kiến
trúc, cây cối hoa màu và đất đai sử dụng hợp pháp trong phạm vi giải
tỏa, trong đó có các hộ gia đình này.
Clip người dân trao đổi với PV
Thực tế một số hộ chưa nhận tiền bồi thường, hỗ trợ về đất, tài sản
gắn liền trên đất và UBND huyện Núi Thành không có quyết định thu hồi
đất chi tiết đối với từng hộ gia đình, cá nhân thuộc diện bị thu hồi đất
và quyết định bồi thường, hỗ trợ về đất theo quy định của Luật Đất đai
năm 2003 và Luật Đất đai năm 2013 giao cho họ.
“Như vậy, tiền bồi thường, hỗ trợ cán bộ cơ quan nào đã “ăn” mất của
chúng tôi dẫn đến tính chất vụ việc phức tạp, gây thiệt hại về tài sản
của chúng tôi và bức xúc, bất bình tại địa phương. Cụ thể là chúng tôi
chưa hề nhận tiền bồi thường, hỗ trợ về đất, tài sản trên đất số tiền
bồi thường, hỗ trợ nêu trong quyết định trên và hiện số tiền đó ở đâu?
Ai nhận? Việc thanh quyết toán như thế nào? UBND huyện Núi Thành không
có quyết thu hồi đất chi tiết đối với từng hộ gia đình, cá nhân cho
chúng tôi và quyết định bồi thường, hỗ trợ về đất, quyết định cưỡng chế
thu hồi đất theo quy định của Luật Đất đai của chúng tôi nhưng ngày
29/10/2015 UBND huyện Núi Thành và UBND xã Tam Anh Bắc đã điều động lực
lượng cưỡng chế phá nát tài sản trên đất (cây cối, hoa màu trên đất) của
các hộ gia đình chúng tôi, ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền và lợi ích
hợp pháp của các hộ gia đình chúng tôi, làm cho chúng tôi và dư luận xã
hội tại địa phương rất bức xúc, bất bình trong nhân dân, làm giảm lòng
tin của nhân dân vào đường lối lãnh đạo đúng đắn của Đảng, chính sách
pháp luật của Nhà nước”, đơn của các hộ dân viết.
Thông báo trả lời của Phó Chủ tịch huyện Núi Thành – ông Trương Văn Trung – đối với khiếu nại của các hộ dân
Để rõ hơn vụ việc, PV Dân trí đã làm việc với ông Trương Văn Trung -
Phó Chủ tịch UBND huyện Núi Thành và được ông cho biết, ông đã có kết
luận khiếu nại của người dân về vụ việc. Ông Trung cho hay, đây là vùng
quy hoạch đất quốc phòng, năm 2006 và 2010 đã đền bù rồi. Từ đó đến nay
dân không khiếu nại. Khi làm đường vào KCN Việt Hàn dân mới bắt đầu
khiếu nại.
“Chúng tôi đã vận động nhiều lần nhưng dân không thông thì biết làm
sao. Phần lớn người dân đã chấp nhận hết rồi, chỉ còn lại 6 hộ… Nếu dân
không đồng ý thì có thể kiện ra tòa”, ông Trung nói. Ông Trung cũng cho
hay, việc huyện thu hồi diện tích đất của các hộ dân nói trên là đúng
quy định.
Trao đổi với PV Dân trí về đơn khiếu kiện của các hộ dân, luật sư
Phạm Xuân Linh (Đoàn luật sư tỉnh Quảng Nam) cho biết: Căn cứ vào Luật
Đất đai năm 2003 và Luật Đất đai năm 2013 quy định: Nhà nước thu hồi đất
do hộ gia đình, cá nhân đang trực tiếp quản lý sử dụng đất thì phải ban
hành quyết định thu hồi đất đối với từng hộ gia đình, cá nhân cụ thể
đang trực tiếp quản lý sử dụng đất, thẩm quyền thu hồi đất của hộ gia
đình, cá nhân là của UBND cấp huyện. Do đó, UBND huyện Núi Thành thu hồi
đất của hộ gia đình, cá nhân đang trực tiếp quản lý sử dụng đất mà
không ban hành quyết định thu hồi đất là trái quy định pháp luật.
UBND huyện Núi Thành cho rằng đất các hộ gia đình, cá nhân đang có
đơn khiếu nại UBND huyện Núi Thành không ban hành quyết định thu hồi
đất và không ban hành quyết định bồi thường, hỗ trợ về đất cho họ thuộc
đất công ích do UBND xã Tam Anh Bắc quản lý là chưa phù hợp với pháp
luật. Bởi vì, các hộ gia đình, cá nhân đang có đơn khiếu nại quản lý sử
dụng đất công khai trong thời gian dài (từ trước năm 2004 đến năm tháng
10/2015), nhưng không có cơ quan Nhà nước nào có biện pháp ngăn cấm và
các hộ gia đình, cá nhân này cũng không thuê đất của UBND xã Tam Anh Bắc
và không thể hiện việc các hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất phải nộp
tiền thuê đất cho UBND xã Tam Anh Bắc nên không có cơ sở để cho rằng là
đất công ích do UBND xã Tam Anh Bắc quản lý.
Đồng thời, pháp luật có quy định hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng
đất, mà trước đây Nhà nước đã có quyết định quản lý trong quá trình
thực hiện chính sách về đất đai, nhưng trong thực tế Nhà nước chưa quản
lý mà hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng thì được bồi thường theo thực tế
sử dụng đất nhưng không vượt quá hạn mức giao đất theo quy định.
Mặc dù, vào năm 2006 UBND tỉnh Quảng Nam đã có quyết định thu hồi
đất nhưng đây là quyết định thu hồi đất tổng thể và có quyết định giao
đất cho Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh Quảng Nam, nhưng chỉ là giao trên giấy
vì các hộ gia đình, cá nhân vẫn đang quản lý sử dụng đất đến tháng
10/2015. Vì vậy, về mặt pháp lý thì UBND huyện Núi Thành chưa có quyết
định thu hồi đất nên diện tích đất này các hộ gia đình, cá nhân vẫn có
quyền quản lý sử dụng đến thời điểm UBND huyện Núi Thành có quyết định
thu hồi đất đối với từng hộ gia đình, cá nhân hoặc quyết định bồi
thường, hỗ trợ về đất.
UBND huyện Núi Thành không có quyết định cưỡng chế thu hồi đất mà
đã phá bỏ tài sản của các hộ gia đình, cá nhân để xây dựng dự án là trái
quy định pháp luật.
Từ nay đến cuối năm 2015, Tp.HCM sẽ
thu hồi hàng trăm dự án chậm triển khai đầu tư cả chục năm qua. Theo
Luật Đất đai năm 2013, người dân bị thu hồi đất sẽ được nhận tiền bồi
thường sau 30 ngày, phải có nơi tái định cư mới bị thu hồi đất...
Tóm tắt Ông Lê Hoàng Châu, Chủ tịch Hiệp hội BĐS Tp.HCM, khẳng định rằng
trong số đó có hơn 800 dự án nằm trong danh mục có khả năng bị thu hồi.
Nguyên nhân chính vẫn là không giải quyết được khâu đền bù giải phóng
mặt bằng. Một cuộc khảo sát khác cũng được HĐND tiến hành với 498 hộ dân bị
thu hồi đất trên địa bàn 8 quận/huyện trong giai đoạn 2010-2013, cho
thấy có 14% hộ dánh giá có cải thiện thu nhập, 57% nhận định vẫn như cũ
và 29% hộ đánh giá thu nhập bị giảm sút. Cuộc sống người dân hậu di dời bị...quên!
Trên địa bàn thành phố hiện nay còn tồn tại hơn 1.500 dự án đầu tư
trên nhiều lĩnh vực vẫn bị bỏ hoang, không triển khai thi công hàng chục
năm trời.
Ông Lê Hoàng Châu, Chủ tịch Hiệp hội BĐS Tp.HCM, khẳng định rằng
trong số đó có hơn 800 dự án nằm trong danh mục có khả năng bị thu hồi.
Nguyên nhân chính vẫn là không giải quyết được khâu đền bù giải phóng
mặt bằng.
Tại một cuộc họp bất thường của Hội đồng Nhân dân Tp.HCM mới đây,
nhiều đại biểu cũng chỉ ra Dự án Công viên Sài Gòn Sarafi (Củ Chi) đã
hơn 10 năm nay mà vẫn chưa hoàn thiện đồ án thiết kế phân khu 1/2000,
chưa giải quyết rốt ráo chuyện đền bù giải phóng mặt bằng cho nhiều hộ
dân.
Một ví dụ khác là dự án công viên và khu nhà ở đô thị ở Mũi Đèn Đỏ,
quận 7. Dự án đã được trao quyết định đầu tư từ năm 2001 nhưng đến nay
ngay cả chù đầu tư dường như “mất dạng. Đây là một trong số gần 300 dự
án chậm tiến độ buộc phải thu hồi ngay trong năm nay, vừa được HĐND
thành phố thông qua.
Trong danh mục các dự án thu hồi đất năm nay còn có một dự án “treo”
nổi tiếng ở Tp.HCM là khu phức hợp Đầm Sen tại P.3, Q.11. Từ diện tích
quy hoạch ban đầu 55ha vào năm 1983, qua ba đời chủ đầu tư đến nay dự án
còn lại... 5,8ha. Theo UBND quận 11, đây là dự án chỉnh trang đô thị,
đất dự án sau khi thu hồi sẽ dành một phần diện tích làm trường học và
nhà tái định cư, một phần giao chủ đầu tư kinh doanh để hoàn vốn.
Tuy nhiên, đằng sau của việc thu hồi này, theo một số đại biểu HĐND,
từ các cơ quan quản lý nhà nước cho đến chủ đầu tư đã “quên” mất cuộc
sống của người dân trong diện phải di dời giải tỏa. Nhiều dự án chỉ lo
xong chuyện đền bù, hỗ trợ mua nền tái định cư rồi xong, còn người dân
phải “tự bơi” với cuộc sống mưu sinh của họ với một môi trường sống hoàn
toàn bị thay đổi.
Tiếp xúc với nhiều người dân, đa số câu chuyện lớn nhất vẫn là số
tiền đền bù quá “còm cỏi” đến mức họ không đủ khả năng để mua nền tái
định cư tại chỗ. Có nhiều trường hợp, người dân phải mua nhà tái dịnh cư
ở những quận – huyện vùng ven để hợp với điều kiện kinh tế, tuy nhiên
môi trường sống và kế sinh nhai của họ bị đảo lộn hoàn toàn. Thu nhập giảm mạnh sau khi di dời
Kết quả khảo sát của HĐND với 1.200 hộ dân sau tái định cư trên địa
bàn 12 quận/huyện bị ảnh hưởng bởi các dự án đầu tư dở dang và dự án đầu
tư mới (tại thời điểm Quyết định 156 "về thành lập Quỹ hỗ trợ đào tạo
và giải quyết việc làm cho người có đất bị thu hồi để thực hiện các dự
án đầu tư trên địa bàn thành phố" có hiệu lực) thực hiện di dời, giải
tỏa từ năm 1991 đến 2012, cho thấy, có 818 hộ (chiếm 68,2%) đánh giá là
căn nhà mới tái định cư có cải thiện hơn trước, 261 hộ đánh giá vẫn như
cũ (21,8%) và 10% (121 hộ) đánh giá là sút giảm hơn trước.
Tuy nhiên, về vấn đề thu nhập, có 36% hộ đánh giá có cải thiện hơn
trước, 37,8% nhận định vẫn như cũ. Thực tế thu nhập từ khi di dời đến
nay không có thay đổi, có nghĩa là mức sống và thu nhập thực tế của
người dân bị giảm sút. Và 26,2% hộ đánh giá thu nhập bị giảm sút nhiều
so với trước.
Trong khi đó, một cuộc khảo sát khác cũng được HĐND tiến hành với 498
hộ dân bị thu hồi đất trên địa bàn 8 quận/huyện trong giai đoạn
2010-2013, cho thấy có 14% hộ dánh giá có cải thiện thu nhập, 57% nhận
định vẫn như cũ và 29% hộ đánh giá thu nhập bị giảm sút.
Qua các con số trên, chúng ta dễ nhận thấy rằng mức sống của người
dân đang bị giảm sút một cách nghiêm trọng sau khi bị thu hồi đất. Khi
được hỏi, một số người dân tại chung cư Thanh Đa cũng cho rằng có hai
nỗi khổ lớn nhất khi chính quyền địa phương công bố phương án đền bù và
tái định cư. Đó là: chờ áp mức giá đền bù và chờ nhận tiền đền bù! Bởi
vì quy trình này mất ít nhất phải 3 năm, trải qua nhiều cuộc họp giữa
chính quyền địa phương, chủ đầu tư và người dân, và cuối cùng là chờ
thêm dự án tái định cư được bàn giao.
Các dự án phải có nơi tái định cư thì Nhà nước mới thu hồi đất
Theo quy định của Luật Đất đai năm 2013:
Các dự án phải có nơi tái định cư thì Nhà nước mới thu hồi đất nhằm
giúp người dân tái định cư nhanh chóng ổn định chỗ ở mới, giảm tác động
xấu từ việc di dời, đồng thời tránh tình trạng người dân phải tạm cư kéo
dài.
Người dân trong các dự án sẽ được thông báo thu hồi đất riêng lẻ cho
từng hộ, 180 ngày sau sẽ nhận được quyết định bồi thường và được chi trả
tiền bồi thường trong vòng 30 ngày kể từ ngày có quyết định.
Trong quá trình xây dựng phương án bồi thường, tái định cư, cơ quan
chức năng phải đưa dự thảo ra lấy ý kiến người dân bị ảnh hưởng bởi dự
án. Dân sẽ được góp ý về giá bồi thường, giá tái định cư và mức hỗ trợ,
những chính sách kèm theo dự thảo phương án.
Sau khi dân góp ý, các cơ quan chức năng phải có báo cáo về việc tiếp
thu ý kiến đóng góp của dân, ý kiến nào được ghi nhận, ý kiến nào không
được ghi nhận, lý do vì sao.
Đăng Khải
Theo Trí thức trẻ
Vụ chính quyền cấp sổ đỏ trên đất người khác ở Quảng Nam:
(CAO) Gần 12 năm trước, lợi dụng việc thực hiện chủ
trương của UBND tỉnh Quảng Nam về việc thu hồi đất, chính quyền xã đã
lấy đất của hàng chục hộ dân để bán đấu giá, cấp sổ đỏ. Sau đó, mới
thông báo trả tiền đền bù cho người dân bị thu hồi đất với giá thấp.
Chủ trương thời điểm các đây 12 năm là “thu hồi đất, giao
đất cho UBND xã Tam An sử dụng để xây dựng các khu dân cư tạo vốn đầu
tư xây dựng cơ sở hạ tầng”.
Chính quyền địa phương xã Tam An (lúc bấy giờ thuộc thị xã Tam Kỳ,
nay Tam An thuộc huyện Phú Ninh, tỉnh Quảng Nam) lấy đất của hàng chục
hộ dân để bán đấu giá, cấp Giấy chứng nhận Quyền sử dụng đất (sổ đỏ) cho
hàng chục người khác. Sau đó, mới thông báo cho họ biết lên nhận tiền
đền bù với giá thấp khiến hàng loạt hộ dân bức xúc.
Ông Thuấn bên khu đất của mình chưa nhận đền bù, chưa giao đất đã cấp sổ cho người khác
Khi sự việc được phanh phui, cán bộ địa chính tự tử chết, một số vị
lãnh đạo xã Tam An bị kỷ luật. Gần 10 năm sau, sự việc mới được UBND
huyện Phú Ninh tiếp tục giải quyết.
Lần này có những hộ đồng thuận, nhưng nhiều hộ không đồng tình vì
“đền bù, giải quyết chưa thỏa đáng”. Mới đây, trong số 7 hộ chưa giải
quyết, UBND huyện Phú Ninh ra quyết định cưỡng chế một số hộ khiến người
dân bức xúc. Bên cạnh đó, nhiều hộ dân đã có sổ đỏ hơn 11 năm mà chưa
có đất thực tế cũng yêu cầu địa phương phải sớm bàn giao đất để họ xây
nhà. Chưa thu hồi đã cấp sổ đỏ cho người khác
Ngày 27-10, chúng tôi đến xã Tam An tìm hiểu sự việc sau khi người
dân bức xúc gửi đơn đến Báo CATP cầu cứu. Ông Phạm Công Thuấn (trú thôn
An Mỹ 2, xã Tam An) bức xúc trình bày: Gia đình ông có thửa đất hơn gần
1.700 m2 dùng để trồng cây hàng năm, đất chưa có sổ đỏ, là đất của ông
bà để lại, nhưng là đất thuộc hộ quản lý trước 15-10-1993.
Cách đây hơn 10 năm, ông bất ngờ nhận thông báo của xã lên nhận tiền
đền bù (lúc bấy giờ khoảng 7,8 triệu đồng). Ông chưa hiểu chuyện gì, lên
tìm hiểu mới biết, 1211,3m2 đất của ông đã bị thu hồi, còn 474,9m2 chưa
thu hồi.
Điều đáng nói, số đất thu hồi của ông đã cấp sổ đỏ cho người khác,
trong khi ông Thuấn chưa nhận tiền bồi thường, chưa đồng ý giao đất.
Hàng chục hộ dân khác cũng rơi vào trường hợp tương tự nên rất bức xúc.
Bẵng đi gần 10 năm, vào năm 2013, ông lại nhận được thông báo nhận
tiền đền bù 121 triệu đồng, trong đó gồm tiền đất màu, cây cối và một số
khoản khác. Ông Thuấn không đồng tình, khiếu kiện lên các cấp. Sau đó,
đầu năm 2014, lại nhận thông báo bồi thường đất bổ sung 16 triệu đồng
nữa nhưng ông Thuấn cũng không đồng ý. “Tự dưng khu đất của tôi phía trước đem đi bán cho người khác,
còn 474,9m2 đất phía sau của tôi đi bằng cách nào? Hơn nữa, tiền đền bù
quá thấp, trong khi đó, nói cấp lại cho tôi một lô đất (180m2) mà bảo
tôi nộp hơn 30 triệu đồng để trả tiền cho lô đất cấp lại cho tôi nên tôi
không đồng ý. Làm như thế quá thiệt thòi cho dân”, ông Thuấn nói.
Nhiều người dân ở thôn An Mỹ 2 bức xúc
Ngày 20-10-2015, ông Thuấn bất ngờ nhận được quyết định cưỡng chế của
Chủ tịch UBND huyện khiến ông càng bất bình bởi sự việc chưa được giải
quyết thấu đáo lại ra quyết định như thế.
Trong đơn, ông Thuấn cho rằng, từ khi có quyết định của UBND tỉnh
(năm 2003) về việc “thu hồi đất, giao đất cho UBND xã Tam An sử dụng để
xây dựng các khu dân cư tạo vốn đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng”, đến nay
ông chưa nhận quyết định thu hồi đất của huyện thì làm sao xác định được
mức độ thiệt hại để bồi thường? “Tôi không đồng ý quyết định cưỡng chế của huyện Phú Ninh, đề
nghị đình chỉ khẩn cấp quyết định trên và thực hiện việc thu hồi đúng
trình tự pháp luật , việc đền bù giải tỏa phải được thỏa thuận đảm bảo
quyền lợi của tôi theo pháp luật”, ông Thuấn bức xúc.
Tình cảnh của ông Thuấn cũng là bức xúc của nhiều hộ hiện chưa được
giải quyết. Như bà Phạm Thị Hội bị thu hồi 261,5m2, nhưng chỉ đền bù
31,7 triệu đồng (kể cả bổ sung) nên không đồng ý và cũng bị ra quyết
định cưỡng chế cùng ngày với ông Thuấn.
Hay như thửa đất của ông Võ Văn Diện đã có sổ đỏ nhưng cũng bị thu
hồi 189,8m2 và đã cấp sổ đỏ cho hộ khác (tồn tại một lúc 2 sổ đỏ, ông
Diện vẫn thế chấp sổ đỏ này để vay vốn). Với mức đền bù (kể cả bổ sung)
21,3 triệu đồng nên ông không đồng ý,…
Anh Nguyễn Văn Thao (SN 1977, trú tổ 5, thôn An Mỹ 2) bức xúc: Năm
2004, UBND xã Tam An tổ chức đấu giá, tôi đấu giá trúng 1 lô, đã được
cấp sổ đỏ. Nhưng sau này mới được biết đây là đất của ông Thuấn chưa
nhận bồi thường, chưa bàn giao đất. Tôi đã mua đất hơn 11 năm nhưng vẫn
chưa có đất thực tế, giờ gia đình rất muốn xây nhà cũng không được.
Anh Thao đã được cấp sổ đỏ 11 năm nhưng chưa có đất thực tế
“Biết sai nhưng không còn đường lùi”?
Trao đổi với chúng tôi, ông Bùi Văn Toàn, Chủ tịch UBND xã Tam An cho
biết, sự việc đã xảy ra hơn 10 năm trước. Trong quyết định của tỉnh năm
2003 thu hồi 16.470,5m5, quy hoạch 96 lô, ngoài đất đang diện quản lý
của nhà nước thì có 26 hộ bị thu hồi. Trong đó, có 19 lô cấp sổ đỏ chưa
có đất thực tế (các hộ cũ chưa chấp nhận bàn giao đất, chưa nhận bồi
thường).
Theo ông Toàn, qua các năm, địa phương và huyện đã tích cực với nhiều
giải pháp nhưng hiện nay vẫn còn 7 hộ chưa chấp nhận tiền bồi thường,
bàn giao đất; trong đó có 13/19 hộ được cấp sổ đỏ (trên đất chưa bàn
giao) vẫn chưa có đất thực tế. “Chủ trương tỉnh giao địa phương, sau này huyện thấy sai do cấp
sổ đỏ trên đất chưa thu hồi, sai quy trình, đã tổ chức kiểm điểm nhưng
rắc rối đến nay vẫn chưa giải quyết xong. Địa phương cũng đang rất đau
đầu, đã nhiều lần làm việc với các hộ nhưng các hộ không đồng tình, vì
cho rằng mức giá đền bù quá thấp. Huyện chỉ đạo xã, cũng làm nhiều cách như đổi đất, có nhu cầu thì
nhận đất chỗ khác nhưng các hộ vẫn chưa đồng tình nên buộc xã phải báo
cáo, tham mưu cưỡng chế để giải quyết dứt điểm tình hình”, ông Toàn phân trần.
Vợ ông Diện (bên phải): “Sổ đỏ nhà tôi đang giữ, vay ngân hàng mà chính quyền cũng cấp cho người khác sổ đỏ trên đất của gia đình tôi”
Trao đổi với chúng tôi, ông Đặng Bá Dự, Phó chủ tịch UBND huyện Phú Ninh cho rằng: “Trách
nhiệm của chúng tôi là xử lý những tồn tại. Chúng tôi cũng đã nhiều lần
làm việc với các hộ dân. Hiện còn 7 hộ vẫn chưa giải quyết được. Chúng
tôi đã điều chỉnh nhiều lần theo quy định của nhà nước mà họ vẫn không
chịu. Cái khó là đất màu thì chúng tôi phải đền bù theo giá đất màu chứ
không thể chuyển đổi qua đất ở được”.
Mới đây, ngày 20-10-2015, Chủ tịch huyện đã ký quyết định cưỡng chế 2
hộ ông Thuấn và bà Hội (còn các hộ khác có thể thương lượng được), sẽ
tổ chức thực thi sau 15 ngày. “Biết cái sai này tồn tại do trước đây để lại, dân chưa nhận tiền
mà đã bán đất, cấp sổ đỏ thì sai rồi nhưng chúng tôi không có đường lùi
đành phải cưỡng chế thi hành”, ông Dự nói.
Thiết nghĩ, biện pháp cưỡng chế là quá “đường cùng”, chính quyền và
người dân cần tìm tiếng nói chung để bức xúc của người dân được xoa dịu
mà việc sửa sai của chính quyền cũng thấu tình đạt lý.
Ông Nguyễn Phi Thạnh - Chủ tịch UBND huyện Phú Ninh: “Vấn
đề tồn tại này cũng đã nhiều lần đối thoại, giải thích nhưng người dân
không chịu, làm căng thì UBND huyện phải ban hành quyết định cưỡng chế,
triển khai trong thời gian đến. Thời gian này đề nghị các cấp tiếp tục
vận động, cực chẳng đã chúng tôi mới áp dụng biện pháp cưỡng chế”.
Xuân Hoài
Thanh tra Chính phủ công bố nhiều sai phạm đất đai chấn động tại Quảng Ngãi
(CAO) Thanh tra Chính phủ (TTCP) vừa có cuộc họp thông
báo Kết luận thanh tra số 332/KL-TTCP ngày 10-2-2015 của TTCP về việc
chấp hành chính sách pháp luật trong quản lý, sử dụng đất đai và quản lý
đầu tư xây dựng trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi vào ngày 4-9-2015.
Bà Lê Thị Thủy, Phó tổng TTCP chủ trì cuộc họp này.
Theo đó, TTCP nêu rõ: Về quản lý, sử dụng đất đai, UBND tỉnh ra Quyết
định số 172/QĐ-UBND ngày 29-9-2003 ban hành Quy chế đầu tư xây dựng khu
dân cư có nội dung không phù hợp với Luật Đất đại năm 2003, nhưng không
hủy bỏ mà kéo dài hiệu lực thực hiện đến tháng 3-2009.
Đây là nguyên nhân chính để các địa phương không thực hiện đấu giá quyền sử dụng đất trong thời gian dài.
Qua kiểm tra 12 dự án kinh doanh bất động sản và kinh doanh dịch vụ
được giao đất với diện tích lớn, nhưng không đúng quy hoạch đã được phê
duyệt nên phải điều chỉnh, bổ sung quy hoạch…
Theo TTCP, dự án thành “Bến xe Chín Nghĩa”, là hợp thức hóa việc làm sai của Cty Chín Nghĩa
Theo đó, UBND tỉnh cho cơ chế đặc cách trong việc giao đất có thu
tiền sử dụng đất cho các hộ gia đình quân đội tại thị trấn Đức Phổ
(huyện Đức Phổ) và phường Quảng Phú (TP. Quảng Ngãi) là không đúng quy
định, gây thất thu ngân sách hơn 10,6 tỷ đồng. Trách nhiệm này thuộc Bộ
Chỉ huy Quân sự tỉnh và UBND tỉnh.
Tại dự án xây dựng Đập Dâng hạ lưu sông Trà Khúc, UBND TP Quảng Ngãi
ra quyết định thu hồi 172.828m2 đất của 10 hộ dân và phê duyệt phương án
bồi thường hỗ trợ giải phóng mặt bằng với số tiền hơn 5,4 tỷ đồng,
nhưng dự án đã dừng triển khai và các hộ dân vẫn tiếp tục sử dụng đất
cho đến nay…
Bên cạnh đó, việc quản lý, sử dụng đất tại các khu công nghiệp (KCN) cũng bộc lộ nhiều bất cập.
Như KCN Tịnh Phong có 17/34 doanh nghiệp (DN) được chấp thuận địa
điểm và cho thuê đất, đã sử dụng đất không đúng quy hoạch phân khu chức
năng với hơn 25 ha; có 3 dự án đã hợp đồng thuê đất nhưng không triển
khai và 2 dự án đã dừng hoạt động nhưng chưa xử lý thu hồi đất.
Khu Kinh tế Dung Quất ban đầu được giao 10.300 ha đất, đến năm 2011,
được Thủ tướng Chính phủ có quyết định điều chỉnh mở rộng lên 45.332 ha
đất. Song, đến tháng 5-2014, phần diện tích mở rộng chưa được lập quy
hoạch, chưa bàn giao đất để thực hiện chức năng quản lý.
Mặt khác, hiện còn 10.752 ha mặt nước không thể hiện trong hồ sơ quản lý của đơn vị này.
Tại dự án KCN Đô thị dịch vụ VSIP Quảng Ngãi, UBND tỉnh chưa có quyết
định giao đất và chưa được bàn giao đất trên thực địa, VSIP đã tiến
hành san lấp mặt bằng là không đúng quy định của Luật Đất đai. Trong
phần diện tích đã san lấp có 84,5 ha đất trồng lúa của 311 hộ nông dân,
nhưng chủ đầu tư chưa lập phương án sử dụng lớp đất mặt đối với đất
chuyên trồng lúa theo quy định.
Hay như dự án Trung tâm điều hành dịch vụ vận chuyển hành khách và du
lịch lữ hành – kho bãi kết hợp với trung chuyển hàng hóa tại phường
Nghĩa Chánh (TP Quảng Ngãi) của Cty TNHH Chín Nghĩa xây dựng bến xe
khách trên diện tích đất được giao, là sử dụng đất sai mục đích nhưng
chưa được xử lý.
Ngày 9-1-2012, UBND tỉnh cấp Giấy chứng nhận đầu tư điều chỉnh tên dự
án thành “Bến xe Chín Nghĩa”, là hợp thức hóa việc làm sai của Cty Chín
Nghĩa.
Dự án Khu đô thị mới Phú Mỹ do Tổng Cty Đầu tư phát triển nhà và đô
thị (HUD) làm Chủ đầu tư, quá trình xác định giá đất chưa thực hiện đúng
Thông tư số 145/TT-BTC ngày 6/12/2007 của Bộ Tài chính. Vì vậy, việc
UBND tỉnh phê duyệt số tiền sử dụng đất gồm 267,5 tỷ đồng là không chính
xác; do diện tích tăng 58 ha nhưng tiền sử dụng đất lại giảm gần 290 tỷ
đồng so với số tiền sử dụng đất được phê duyệt tại Quyết định số
1116/QĐ-UBND ngày 18/8/2010 của UBND tỉnh.
Trong công tác quản lý đầu tư xây dựng, một số dự án có tính cần
thiết và cấp bách liên quan trực tiếp đến cuộc sống của người dân, nhưng
chưa được quan tâm đúng mức, không được đầu tư kịp thời, đồng bộ, nhiều
hạng mục đầu tư xây dựng dở dang, hiệu quả đầu tư mang lại thấp. Từ
2008 – 2013, UBND tỉnh phê duyệt 78 dự án với tổng mức đầu tư 11.868 tỷ
đồng, nhưng chưa được bố trí vốn đầu tư.
TTCP cũng chỉ rõ, trong khi thiếu vốn đầu tư nhưng tỉnh Quảng Ngãi
lại để tình trạng đầu tư chưa đúng, đã gây lãng phí lớn. Như Dự án xây
dựng công trình nâng cấp, mở rộng đường 623 (Sơn Tịnh – Sơn Tây) được
phê duyệt năm 2010 với tổng kinh phí 963,6 tỷ đồng (do Sở Giao thông Vân
tải làm Chủ đầu tư). Đến năm 2011, dự án dừng thực hiện vì tuyến đường
này đã được Bộ Giao thông Vận tải quyết định đưa vào đoạn đường của Quốc
lộ 24B, làm lãng phí 19,5 tỷ đồng.
Dự án đường (cầu) vào KCN Phổ Phong được UBND tỉnh đề nghị Thường
trực Tỉnh ủy cho dừng thực hiện, chuyển qua giai đoạn chuẩn bị đầu tư và
chỉ đạo dừng triển khai khi chưa xác định được Nhà đầu tư và nguồn vốn
xây dựng hạ tầng.
Tuy nhiên, sau đó UBND tỉnh vẫn tiếp tục cấp vốn và khởi công công
trình vào ngày 1-1-2012, đến nay dự án đã hoàn thành, giá trị khối lượng
thi công đạt hơn 54,7 tỷ đồng, nhưng hiệu quả đầu tư không đạt như kỳ
vọng, cầu làm xong không thể đưa vào sử dụng, gây lãng phí tiền ngân
sách…
Xuân Hoài
Tiếp theo bài “Phú Quốc, Kiên Giang: Dân khổ vì bị thu hồi đất”: Chính quyền thờ ơ, dân lãnh đủ!
04/10/2014 07:35
(Kinhdoanhnet) - Ở các số báo trước, PV báo Kinh Doanh&
Pháp Luật đã phản ảnh chi tiết, tuy nhiên đến nay các nội dung chính
người dân yêu cầu giải quyết, là: chủ đầu tư và đơn vị thi công “vô tư”
san ủi nhà đất của họ, dù không có quyết định thu hồi đất, chưa đạt thỏa
thuận với người dân về giá cả đền bù, phương án hỗ trợ, tái định cư,
cũng như chưa có quyết định giải quyết cuối cùng của cơ quan chức năng,…
nhưng vẫn ngang nhiên chiếm dụng đất của dân...
Người dân cầu cứu chính quyền địa phương thì được hướng dẫn đến
huyện, đến huyện thì được chỉ qua Trung tâm Quỹ đất, đến Trung tâm Quỹ
đất thì được bảo phải chờ ý kiến lãnh đạo. Gặp được lãnh đạo huyện thì
được bảo tỉnh đang xem xét, giải quyết. Người dân nộp đơn “xin” gặp Chủ
tịch UBND tỉnh Kiên Giang để trình bày nguyện vọng cũng bị… từ chối!
Đúng là khi cán bộ, chính quyền thờ ơ trước quyền lợi của người dân thì
thiệt thòi vẫn là… người dân!
PHÓ THỦ TƯỚNG NGUYỄN XUẤN PHÚC YÊU CẦU CÁN BỘ TIẾP DÂN BIẾT TÔN TRỌNG, LẮNG NGHE DÂN
Tại Hội nghị triển khai thực hiện Chỉ thị 35-CT/TƯ của Bộ Chính trị;
Luật Tiếp công dân; Nghị định số 64/2014 của Chính phủ do Phó Thủ tướng
Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc chủ trì, Phó Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân
Phúc bức xúc nói: “Trách nhiệm các đồng chí giải quyết sao đẩy hết lên
trên này được. Còn có việc sợ trách nhiệm, bảo thủ mặc dù thấy sai. Các
đồng chí không nên lo bây giờ giải quyết thì động chạm đến các ông bí
thư, chủ tịch trước đây. Đúng sai phải rõ ràng, phải trái phân minh,
nghĩa tình trọn vẹn”. Mặt khác, Phó Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc
cũng đặt ra yêu cầu: “Phải sắp xếp, bố trí cán bộ đủ năng lực, phẩm
chất làm công tác tiếp công dân. Yêu cầu cán bộ tiếp dân có cá tính nhẹ
nhàng, phong cách lịch sự, biết tôn trọng lắng nghe người dân”
Chỉ đạo của Phó Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc hết sức rõ ràng,
cụ thể. Thế nhưng, vẫn còn tình trạng “trên bảo dưới không nghe”, chính
quyền địa phương không xem xét, giải quyết thỏa đáng quyền lợi của người
dân. Cụ thể là hàng loạt vụ việc vừa xảy ra ở huyện Phú Quốc, huyện An
Minh (tỉnh Kiên Giang)… Bức xúc trước cách xử lý của UBND huyện Phú
Quốc, người dân đã gửi đơn khiếu nại đến Chủ tịch UBND tỉnh Kiên Giang
để được xem xét, giải quyết theo thẩm quyền từ tháng 06.2014. Đến nay
bước sang tháng 10.2014, UBND tỉnh Kiên Giang vẫn chưa ban hành quyết
định giải quyết khiếu nại cho người dân theo Luật định, cũng như chưa
xem xét, giải quyết yêu cầu trong công tác bồi thường, giải phóng mặt
bằng và xử lý các hành vi vi phạm pháp luật của chủ đầu tư.
Liên quan đến công tác giải tỏa, đền bù, thu hồi đất đối với dự án
Nam-Bắc Bãi Trường, do 02 đơn vị làm chủ đầu tư, đó là Công ty TNHH Bim
Kiên Giang và Công ty CP Phát triển Phú Quốc (C.E.O), gồm có những hộ
dân bị “thu hồi đất” tiêu biểu là: Phù Bích Chi, Hồ Thị Quyên, Trần Thị
Điệp, Phan Thị Dung, Phan Thị Hoàng, Phạm Thị Thắm, Nguyễn Thị Diệp,
Nguyễn Ngọc Hạnh, Trần Thị Điệp,…Trong khi đó, theo PV được biết, hiện
nay có không ít người rơi vào việc giải tỏa, thu hồi đất phục vụ dự án
Nam- Bắc Bãi Trường phải rơi vào cảnh khốn đốn, vì không còn công ăn
việc làm ổn định, phải chạy vạy mượn tiền khắp nơi, kể cả “bạc nóng” để
lo kế sinh nhai cho gia đình, nợ nần thì ngày càng tang, mà việc đền bù,
bồi thường,… của họ vẫn “giẫm chân tại chỗ”. Lãnh đạo UBND tỉnh Kiên
Giang chẳng lẽ lại không hề hay biết nỗi khổ của người dân Phú Quốc?
DÂN MÒN MỎI… CHỜ ĐỢI!
Trường hợp của chị Trần Thị Điệp (SN: 1969), được UBND tỉnh Kiên Giang
tiếp nhận vụ việc và ban hành “Thông báo thụ lý giải quyết đơn khiếu
nại” số 174/TB-/UBND vào ngày 08.4.2014. Thế nhưng… gần 05 tháng trôi
qua, chị Trần Thị Điệp vẫn sống trong tình trạng thắc thỏm chờ đợi và
bức xúc khi chứng kiến chủ đầu tư san ủi toàn bộ diện tích đất của gia
đình, dù trong đó hiện đang còn 06 ngôi mộ (thẩm quyền thu hồi đất có mồ
mả được quy định rất rõ tại nghị định số 69/2009/NĐ-CP ngày 13-8-2009
của Chính phủ)
Hoặc như trường hợp của vợ chồng anh chị Hồ Thị Quyên, ngụ tại: Ấp Cây
Thông Trong, Xã Cửa Dương, huyện Phú Quốc thì vào ngày 26.3.20143 và
ngày 03.6.2014, UBND huyện Phú Quốc ban hành văn bản chỉ đạo Phòng Tài
Nguyên Môi Trường “khẩn trương tham mưu UBND huyện giải quyết…”. Đến nay
vợ chồng anh chị Hồ Thị Quyên vẫn chưa nhận được kết quả giải quyết
khiếu nại theo Luật định. Dù không ít lần, vợ chồng anh chị Hồ Thị Quyên
đến UBND huyện Phú Quốc hỏi thăm nhưng đều không có kết quả. Phải chăng
các quy định của luật pháp hiện hành đối với huyện Phú Quốc là không
thể áp dụng được?... Hoặc như vợ chồng anh chị Phạm Thị Thắm (SN: 1959),
ngụ ấp Suối Lớn, xã Dương Tơ, huyện Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang bức xúc
trước việc đền bù, bồi thường chưa được giải quyết thỏa đáng, chủ đầu tư
và đơn vị thi công đã tiến hành san ủi mặt bằng là toàn bộ diện tích
đất trồng tràm bông vàng,…Điều đáng nói là tại nội dung quyết định thu
hồi đất của UBND huyện Phú Quốc lại ban hành không đúng trình tự pháp lý
về việc tổ chức triển khai quyết định thu hồi đất của dân.
Hoàn cảnh chị Phù Bích Chi (SN: 1971) cũng không kém phần chua xót.
Không đồng ý với nội dung áp giá bồi thường không thỏa đáng, ngày
04.11.2011, chị Phù Bích Chi gửi đơn khiếu nại đến UBND huyện Phú Quốc
và Trung tâm Phát triển Quỹ đất huyện Phú Quốc, nhưng các cơ quan nói
trên vẫn “im hơi lặng tiếng” trước bức xúc của chị Phù Bích Chi nói
riêng, người dân địa phương nói chung. Nhiều lần chị Phù Bích Chi tìm
đến UBND huyện Phú Quốc và Trung tâm Phát triển Quỹ đất huyện Phú Quốc
để hỏi thăm việc khiếu nại của chị đã được giải quyết ra sao, thì được
hướng dẫn đến Thanh tra huyện Phú Quốc, đến Thanh Tra huyện Phú Quốc hỏi
thăm vụ việc thì được hứa hẹn chờ xác minh rồi giải quyết… Chẳng rõ vụ
việc được giải quyết như thế nào mà đến đầu tháng 01.2014, chị Phù Bích
Chi hay tin 29.239m2 đất của mình nằm trong dự án Khu du lịch- Dân cư
Nam Bãi Trường tại xã Dương Tơ bị chủ đầu tư C.E.O tiến hành san ủi mặt
bằng, vì chưa thống nhất việc áp giá bồi thường của chủ đầu tư, chưa
nhận kết quả giải quyết khiếu nại từ chính quyền địa phương nên chị Bích
Chi đã đến ngăn cản, không cho chủ đầu tư C.E.O san ủi đất, cây ăn trái
có trên đất,… Khoảng 10 ngày sau quay lại đất của mình, chị Phù Bích
Chi phát hiện toàn bộ diện tích đất của mình đã bị “ai đó” đốt phá sạch
sẽ, chỉ còn lại toàn là… tro tàn.
Trường hợp anh Phan Hoàng Liêm (SN: 1980), sử dụng đất do mẹ anh Liêm là
bà Nguyễn Ngọc Hạnh, khai phá trước năm 1998. Năm 2007, trong lúc không
có mặt anh Liêm tại khu đất của mình, Công ty BIM Kiên Giang cho xe vào
ủi hết hoa màu, phá hết số cây trồng lâu năm của anh Liêm. Khi biết
tin, anh Liêm đã đến ngăn cản, đơn vị thi công tạm dừng, nhưng cũng đã
san bằng hết các loại cây trái có trên đất. Nhiều lần khiếu nại, đến
ngày 10.9.2013, anh Liêm mới nhận được bảng niêm yết bồi thường diện
tích bị thu hồi là 5.224,70m2, nhưng không bồi thường thiệt hại về đất
và hoa màu trên đất, với lý do: phần đất của gia đình anh Phan Hoàng
Liêm là “đất bao chiếm rừng phòng hộ”. Thật buồn cười, nếu cho phần đất
này là đất rừng, tại sao tại thời điểm quy hoạch rừng phòng hộ không thu
hồi đất? Khi làm dự án đường cao tốc thì lại bảo là “bao chiếm đất
rừng”. Trong khi đó các hộ lân cận anh Liêm đều được bồi thường hỗ trợ
về đất đai và hoa màu trên đất.
Còn bà Phan Thị Dung và Phan Thị Hoàng, hiện tạm trú: Ấp Dường Bào, Xã
Dương Tơ, Huyện Phú Quốc, Tỉnh Kiên Giang… Năm 1997, gia đình bà Dung,
bà Hoàng có khai khẩn thửa đất tọa lạc tại : Tổ 6, Ấp Đường Bào, Xã
Dương Tơ, Huyện Phú Quốc, Tỉnh Kiên Giang. Khi đất của gia đình nằm
trong khu qui hoạch đầu tư xây dựng khu du lich Nam bãi trường tại Ấp
Đường Bào, Xã Dương Tơ, do Công ty TNHH BIM làm chủ đầu tư. Một ngày
kia, gia đình bà Dung và bà Hoàng phát hiện chủ đầu tư cho xe đến san ủi
diện tích đất đang canh tác, họ liền đứng ra ngăn cản không cho ủi nữa…
Bỏ mặc khiếu nại của bà Phan Thị Dung, không trả lời công dân theo quy
định của Luật Khiếu Nại Tố Cáo, ngày 07.4.2011, đơn vị thi công tiếp tục
triển khai việc san ủi đất của bà Phan Thị Dung. Thậm chí huy động cả
lực lượng công an hùng hậu.
KẾT
Một lần nữa, với những sai phạm một cách có hệ thống và xem thường pháp
luật, qua bài viết này, đề nghị Thanh Tra Chính Phủ và UBND tỉnh Kiên
Giang sớm bắt tay vào cuộc, xác minh làm rõ, có biện pháp thực hiện đền
bù, bồi thường cho người dân huyện Phú Quốc khi bị thu hồi đất theo giá
thị trường hiện hành. Đồng thời làm rõ, xử lý chủ đầu tư theo đúng pháp
luật hiện hành về “Tội hủy hoại tài sản công dân”, vì đã ngang nhiên san
ủi đất của nhiều người dân địa phương mà không có quyết định thu hồi
đất, cũng không có quyết định cưỡng chế theo quy định. NHÓM PV ĐIỀU TRA
(Còn tiếp )