Chủ Nhật, 31 tháng 7, 2016

TÌNH YÊU CHÚNG MÌNH (đăng lại)

                                        
TÌNH YÊU CHÚNG MÌNH
                                                                   
                                                                                (Tặng M)
Có lẽ là số phận
Nên chúng mình gặp nhau
Thành vợ chồng khi chưa có tình yêu
Mà tình yêu lại bắt đầu từ đó
Từ những lo toan, lỡ lầm, trăn trở
Chập chững tìm nhau hiểu nửa thân mình

Nếu những dòng sông là những mối tình
Hỏi mối tình nào không ghềnh, không thác
Bao nhiêu mối tình đổi dòng, khánh kiệt
Được mấy mối tình rực rỡ kỳ quan?

Anh bất tài nên đổ vỡ công danh
Trắng hai bàn tay, một đời thảm bại
Em vẫn theo anh, thủy chung, nhẫn nại
Lặng lẽ nuôi con, vun vén áo cơm

Nếu những mối tình là những dòng sông
Thì mối tình mình bắt nguồn từ khốn khổ
Không đủ ồn ào, chỉ là dòng sông nhỏ
Mà dưới trời xanh, lấp lánh đến kỳ cùng

Có lẽ cùng chung thân phận
Nên chúng mình là nhau
Cuộc hợp hôn không cần đợi tình yêu
Mà tình yêu lại nảy sinh từ đó
Thành cổ thụ qua muôn vàn trắc trở
Rộ lá xanh tươi che chở bầy con
Được học hành, đủ áo đủ cơm
Hồn nhiên lớn lên trong nghĩa tình cha mẹ
Hạnh phúc tràn trề, lanh lảnh cười vui vẻ
Như đêm trăng quê, thôn xóm rước hội về …

Tình yêu chúng mình gom từ nắng từ mưa
Dầu dãi tháng năm, nhọc nhằn cô chắt lại
Từ cuộc ra khơi, hồn em thành gió đẩy
Góp sức bên anh, ngang dọc tìm luồng

Từ những đêm đen, em làm ngọn hải đăng
Rực hồn vọng phu dưới chớp lòa cuồng nộ
Cho thuyền anh trong sóng gào, bão tố
Lạc giữa đại dương, dờ dật,
                                         quyết vươn về!...


                                                                                    Trần Hạnh Thu.
Xem tiếp...

KÝ ỨC CHÓI LỌI 21

(ĐC sưu tầm trên NET)

CHIẾN DỊCH LÊ LAI
(Tiến công, từ ngày 22 tháng 12 năm 1949 đến ngày 27 tháng 1 năm 1950)


Cuối năm 1949, ở chiến trường chính Bắc Bộ, quân và dân ta mở chiến dịch Lê Lợi, chủ động tiến công địch ở Hoà Bình và đẩy mạnh tiến công địch ở nhiều nơi như Bắc Ninh, Bắc Giang, Lạng Sơn, Vĩnh Phúc, v.v... Để phối hợp với chiến dịch Lê Lợi, Liên khu uỷ và Bộ tư lệnh Liên khu 4 quyết định mở chiến dịch Lê Lai tại Bình - Trị - Thiên, nhằm mục đích: Giam chân quân cơ động Pháp, không cho chúng tiếp viện ra Bắc Bộ, tiêu diệt một bộ phận sinh lực địch, xây dựng và mở rộng căn cứ cách mạng ở vùng đồng bằng.

Chiến dịch diễn ra chủ yếu trên địa bàn phía nam tỉnh Quảng Bình và phía bắc tỉnh Quảng Trị, cụ thể là các huyện Quảng Ninh, Lệ Thủy, Phong Điền và Hải Lăng. Đây là dải đất hẹp nhất của miền Trung (chiều ngang từ biển Đông tới biên giới Việt - Lào chỉ hơn 40 ki-lô-mét), nhưng lại là địa bàn chiến lược quan trọng, là chiếc cầu nối liền hai miền Nam – Bắc và nối với vùng Trung Lào. Địa thế hiểm trở “Biển giăng trước mặt, núi vây ba bề”. Địa hình mấp mô lồi lõm, dốc và thấp dần từ tây sang đông. Phía tây là dãy núi Trường Sơn hiểm trở, phía đông là những dải đồng bằng hẹp ven biển, nằm giữa hai vùng núi và đồng bằng là những dải đồi bát úp, sát mép biển là những bãi, cồn, động cát trắng. Nhiều chỗ đồi núi chạy ra sát biển như đèo Ngang, đèo Lý Hoà. Địa hình càng thêm phức tạp vì có hệ thống sông ngòi và đường giao thông chia cắt thành từng tuyến song song theo hướng tây - đông. Sông ngòi ở vùng này ngắn và dốc. Toàn bộ sông ngòi xuất phát từ hàng trăm khe suối của dãy Trường Sơn đổ xuống các con sông Ròn, sông Gianh, sông Lý Hoà, sông Dinh, Kiến Giang, sông Nhật Lệ thuộc tỉnh Quảng Bình; sông Hiền Lương, sông Cam Lộ (tức sông Hiếu), sông Quảng Trị (Thạch Hãn) thuộc tỉnh Quảng Trị. Đây là mạng lưới giao thông thuỷ quan trọng. Quân Pháp thường lợi dụng các con sông lớn cho tàu thuỷ, ca nô thọc sâu thăm dò, phá hoại chiến khu của ta. Ngược lại, ta cũng lợi dụng sông ngòi để vận chuyển vũ khí và lương thực để đánh địch. Ngoài đường thuỷ, mạng lưới giao thông ở đây còn bao gồm đường bộ, đường sắt và đường không, nối Quảng Bình với chiến trường cả nước và vùng Trung Lào, Hạ Lào. Thực hiện mưu đồ khai thác thuộc địa, thực dân Pháp đã cải tạo, nâng cấp hai tuyến “ Thượng đạo” (đường giao thông vùng cao) và “Hạ đạo” (giao thông ven biển) có từ thời phong kiến thành tuyến đường sắt Bắc - Nam và quốc lộ 1A chạy suốt chiều dài ba tỉnh Bình - Trị - Thiên. Đồng thời chúng còn mở tỉnh lộ số 1, số 2, quốc lộ 9 từ Cửa Việt, Quảng Trị sang Lào qua cửa khẩu Lao Bảo và đường “không trung thiết lộ”1. Sân bay Đồng Hới là cửa khẩu đường không đi các nơi.

Đồng bằng ở Quảng Bình, Quảng Trị nhỏ, hẹp, nằm ven hạ lưu các con sông, chỉ chiếm 9,3 phần trăm diện tích tự nhiên. Nhưng chiến dịch Lê Lai lại nổ ra chủ yếu trên “đồng bằng hai huyện” Lệ Thủy, Quảng Ninh; nơi đây là vựa thóc chủ yếu của Quảng Bình, vốn là nơi tranh chấp quyết liệt giữa ta và địch. Dân cư trong vùng đông đúc và tinh thần kháng chiến rất cao. Hầu hết các làng xã đều có đội dân quân du kích, nhiều làng đã thực hiện “rào làng chiến đấu”, xây dựng làng thành những pháo đài, đã nhiều lần phá tan các cuộc càn lớn của quân Pháp. Khi Liên khu mở chiến dịch, các làng kháng chiến đều trở thành hậu phương tại chỗ, nơi nuôi giấu quân, chuyển tải thương và vũ khí đạn dược của chiến dịch, và cũng là nơi tổ chức những mũi đánh phối hợp với chủ lực của Liên khu2.

Giữa năm 1949 (trước chiến dịch), lực lượng địch trên địa phận Quảng Bình có khoảng 4.000 tên, do trung tá Ni-ốc (Niox) chỉ huy. Thực hiện ráo riết “kế hoạch Rơ-ve”, chúng đóng thành 45 vị trí đồn bốt, cụ thể: khu vực nam và bắc sông Gianh có 10 vị trí chính và ba vị trí hương vệ; khu vực Bố Trạch tám vị trí; khu vực Quảng Ninh bảy vị trí; khu vực Lệ Thuỷ chín vị trí chính và hai đồn hương vệ; thị xã Đồng Hới bốn vị trí. Phía tây địch đóng hai vị trí lẻ ở sát biên giới Việt - Lào. Ngoài ra chúng còn lập hành lang chốt giữ dọc theo tỉnh lộ số 4 và số 2, từ Thượng Lâm (Lệ Thủy) ra Sen Bàng, từ Troóc kéo ra Tiên Lệ (Quảng Trạch). Với một loạt đồn bốt dày đặc nối tiếp nhau, chúng định bịt chặt các cửa ngõ chiến khu và uy hiếp các tuyến giao thông vận tải của ta ở phía tây. Ở vùng đồng bằng và địch hậu, quân Pháp tăng cường vây ráp, phục kích các ngả đường hòng lùng bắt cán bộ và cướp đoạt hàng hóa, của cải của đồng bào. Những vùng xa xôi chúng cho máy bay cất cánh từ sân bay Đồng Hới thường xuyên đánh phá để gây tổn thất cho ta. Nhưng kể từ ngày Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh phát động toàn quốc kháng chiến, quân và dân Quảng Bình, Quảng Trị đã liên tục nổi dậy tiến công, phá được nhiều đồn bốt, diệt nhiều sinh lực địch, trong đó đã phá được 55 hội tề - chỗ dựa về chính trị của quân Pháp. Qua nhiều trận diệt đồn, nhiều trận chống càn, trước khi bước vào chiến dịch, bộ đội và dân quân du kích đã có nhiều kinh nghiệm trong tổ chức và thực hành chiến đấu.

Lực lượng ta: Tháng 10 năm 1949, theo chỉ thị của Bộ, Liên khu 4 quyết định thành lập “Mặt trận Bình - Trị - Thiên”, lực lượng chủ lực có ba trung đoàn bộ binh (95, 101 và 18); tiểu đoàn công pháo 888, đại đội thông tin và đại đội quân báo3. Lực lượng vũ trang địa phương có ba đại đội bộ đội địa phương và dân quân du kích của ba tỉnh Bình - Trị - Thiên. Ngoài ra, trên để tăng cường cho lực lượng tham gia chiến dịch trung đoàn 57. Trung đoàn 57 vào hoạt động ở vùng bắc Quảng Bình nên trung đoàn 18 vượt U Bò, Ba Rền vào vùng đồng bằng nam Quảng Bình hoạt động. Trung đoàn 101 vượt quốc lộ 1 về đứng chân ở đồng bằng Thừa Thiên. Trung đoàn 95 từ Quảng Trị hành quân ra vùng Quảng Ninh và Lệ Thủy - hướng tiến công chính của chiến dịch.

Chiến dịch do Đảng ủy và Bộ tư lệnh Liên khu 4 trực tiếp chỉ đạo; Bộ tư lệnh Mặt trận Bình - Trị - Thiên trực tiếp chỉ huy; đồng chí Hà Văn Lâu làm Tư lệnh chiến dịch, đồng chí Hoàng Anh, Bí thư Phân khu ủy làm Chính ủy.

Phòng chính trị triển khai ngay đợt giáo dục, quán triệt nhiệm vụ chiến dịch cho toàn mặt trận. Khí thế ra quân lập công ở các đơn vị rất cao. Đội văn công được thành lập và xuống từng trung đoàn ca hát, động viên bộ đội và nhân dân. Đồng thời cho ra đời nhà in và tờ báo “Người lính” của Mặt trận để hướng dẫn tư tưởng, hành động và động viên phong trào thi đua của các lực lượng vũ trang trên toàn Mặt trận. Ta đã in và phát tán 2.500 tờ truyền đơn, 300 tờ tin “Dân quân” cổ vũ phong trào chiến đấu của các địa phương. Phòng hậu cần mở rộng xưởng quân giới, tiến hành sửa chữa và sản xuất vũ khí, đạn dược; củng cố bệnh xá của Mặt trận và các trạm cứu thương của chiến dịch. Các trung đoàn chủ lực hiệp đồng chặt chẽ với các cơ quan dân chính đảng địa phương huy động sức người, sức của tới mức tối đa, tổ chức tuyến hậu cần tại chỗ bảo đảm tốt các khâu: tiếp lương, tải đạn, cứu chữa và vận chuyển thương binh, tử sĩ. Cơ quan tham mưu, đại đội quân báo của Mặt trận và thành phần chỉ huy, trinh sát của các trung đoàn tiến hành trinh sát thực địa, nắm quy luật hoạt động và sự bố phòng của địch, điều chỉnh kế hoạch tác chiến cho phù hợp. Các trung đoàn chủ lực tranh thủ huấn luyện cho bộ đội với nội dung theo định hướng “chiến đấu chính quy, tiến tới thành lập đại đoàn” và kết hợp huấn luyện, xây dựng phong trào chiến tranh du kích cho lực lượng vũ trang địa phương. Trước ngày chiến dịch chính thức nổ súng, khí thế thi đua giết giặc lập công của toàn mặt trận rất sôi sục.

Thực hiện kế hoạch tác chiến “tạo đà” trước khi bước vào chiến dịch, trung đoàn 95 trên đường cơ động ra nam Quảng Bình đã liên tiếp tổ chức phục kích địch ở Thanh Lê diệt 52 tên, ở Dốc Miếu diệt gọn hai trung đội địch, thu toàn bộ vũ khí, ở Bồ Bản diệt 90 địch, phá huỷ 20 ô tô. Trung đoàn 18 vượt qua dốc U Bò, vận động xuống Lệ Kỳ đánh địch. Trung đoàn 101 vừa hành quân tới Quảng Điền, Hương Trà đã phục kích diệt gọn hai trung đội địch ở Bôn Trì, Bôn Phổ, tập kích diệt đồn Thuỷ Cầu. Trung đoàn 57 vào tới bắc Quảng Bình cũng tiến hành tập kích diệt địch ở Đơn Sa, quấy rối địch ở Ba Đồn, phục kích diệt 100 tên địch ở Thanh Lê. Trên hướng Trung Lào, bộ đội ta và bạn cũng liên tiếp phục kích đánh địch trên đường số 9, triệt phá tề ngụy ở Ba-na-phào và Na-ha-xay. Bộ đội địa phương và dân quân du kích trên toàn mặt trận cũng tích cực hoạt động tác chiến, đã đánh mìn lật nhào đoàn tàu địch ở Đá Bạc (Phú Lộc), Hải Đạo (Hải Lăng), gài bom phá kho địch ở ga Huế, dùng địch vận hạ đồn Lao An, Mỹ Chánh, Phù Ốc. Đại đội 361 bộ đội địa phương cùng dân quân du kích Lệ Thuỷ phục kích diệt gọn trung đội địch, thu toàn bộ vũ khí ở đoạn đường thôn Trung Lực xã Duy Tân, sau đó vây ép và diệt đồn Thượng Lâm và vị trí hương vệ An Lạc. Dân quân du kích liên tục phục kích và đánh phá giao thông trên quốc lộ 1, tỉnh lộ 2 và đường số 9. Quân và dân hai huyện Lệ Thủy và Quảng Ninh liên tiếp quấy rối, bức hàng, bức rút các đồn Võ Xá, Vạn Xuân, Cổ Hiền, Lệ Kỳ và vị trí hương vệ Xuân Bồ. Ta bao vây chặt đồn Mỹ Trạch - một vị trí tiền tiêu của địch ở phía tây nam Lệ Thuỷ, khiến quân địch ở đây đông mà không dám ra ngoài càn quét như trước đây, do đó đã tạo thuận lợi cho các đơn vị chủ lực hành quân chiếm lĩnh trận địa xuất phát tiến công trước ngày chiến dịch chính thức mở màn.
__________________________________
1.Không trung thiết lộ là đường dây cáp trên không trung, vận chuyển người qua lại bằng chiếc thùng sắt trượt trên dây cáp. Không trung thiết lộ ở Quảng Bình được bắc từ xóm Cụp (Minh Hoá) sang Ba-na-phào (Lào).
2.Nhiều làng ở Quảng Bình (như Hiển Lộc, Cự Nẫm...) xây dựng trung đội du kích 36 người, cạnh đó là đội dân quân 70 người. Toàn tỉnh có 35.558 dân quân. Nhiều căn cứ du kích hình thành và phát triển như: Căn cứ Hoàng Hoa Thám, Lê Khiếu, Duy Tân ở Lệ Thuỷ; Minh Trạch, Ninh Trạch, Lệ Trạch ở Quảng Trạch; Tây Trạch ở Bố Trạch, v.v… Chỉ tính riêng đợt tháng 1 năm 1949 phát động ủng hộ dân quân nhân dân toàn tỉnh đã ủng hộ được 121.406 đồng (bạc giấy), 10 đồng bạc (bạc), 237 mẫu ruộng, năm mảnh vườn, ba ngôi nhà, 213 kg bông, 3.465 kg lúa, 90 thùng bắp, hàng trăm trâu, bò, lợn và gia súc gia cầm. Nhiều địa phương còn lập quỹ đỡ đầu, mua sắm súng đạn trang bị cho dân quân. Trước chiến dịch, Đảng ủy và ủy ban kháng chiến các làng, xã đều tổ chức lực lượng cơ động và vật chất tại chỗ, sẵn sàng cung cấp cho bộ đội bất cứ lúc nào cần đến.
3.Sau lễ thành lập Mặt trận (được tổ chức ở Chiến khu Ba Lòng, Quảng Trị), trung đoàn 95 đứng chân ở Quảng Trị, xây dựng thành đơn vị chủ lực cơ động của Mặt trận; được ưu tiên về quân số trang bị, biên chế hoàn chỉnh với ba tiểu đoàn bộ binh: 227 (chuyển từ 101 sang), 302 và 310, và một số phân đội trực thuộc cơ quan trung đoàn bộ. Trung đoàn 101 có hai tiểu đoàn bộ binh 319 và 328. Trung đoàn 18 đứng chân ở Quảng Bình, có tiểu đoàn 274 và tiểu đoàn 436 chủ lực Liên khu 4 vừa từ Thanh - Nghệ - Tĩnh vào mặt trận. Theo sự thoả thuận của Trung ương Đảng hai nước Việt - Lào, đáp ứng yêu cầu của Bộ chỉ huy Mặt trận Trung Lào, ngoài đại đội 55 đã được đưa sang Lào từ giữa năm 1948, Bộ tư lệnh Mặt trận Bình - Trị - Thiên đưa thêm tiểu đoàn độc lập 364 sang phối hợp với bộ đội Pa-thét Lào hoạt động ở nam, bắc đường số 9 (Xa-van-na-khét). Như vậy là lực lượng của Mặt trận được chia thành hai khối: Trung đoàn 95 là lực lượng cơ động, trung đoàn 101, trung đoàn 18 và các đơn vị quân tình nguyện ở Trung Lào là lực lượng chủ lực tài chỗ.

Logged

...Chuyện bình thường, chiến tranh người trai ấy quên mình, anh dâng hiến mùa xuân cho tương lai...



chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 8757



WWW
« Trả lời #26 vào lúc: 24 Tháng Sáu, 2012, 04:27:01 PM »


Chiến dịch chia làm hai đợt.

Đợt 1 (từ ngày 22 đến ngày 31 tháng 12 năm 1949):

Đêm 22 tháng 12 năm 1949, trung đoàn 18 được tăng cường một đại đội phóng bom, phối hợp với lực lượng vũ trang địa phương tiến công đồn Vạn Xuân, nhưng vì lực lượng địch ở đây mới được tăng cường nên cuộc tiến công của ta không thành, trung đoàn chuyển sang bao vây, đồng thời tổ chức lực lượng đánh quân tiếp viện.

Suốt ba ngày đêm mưa, rét nhưng bộ đội và dân quân du kích vẫn giấu mình trong lùm cây, động cát kiên trì chờ địch. Đến Nô-en (ngày 25-12), thiếu tá Lơ-briu-giơ (Lebrouse) chỉ huy phân khu nam Quảng Bình, đích thân dẫn hai đại đội Âu - Phi và một trung đội trợ chiến từ Đồng Hới hành quân vào phối hợp với bộ phận chiếm đóng ở Hoà Luật, giải vây cho Vạn Xuân. 18 giờ chiều, địch tới Thạch Xá Hạ, lọt vào trận địa phục kích của tiểu đoàn 227 trung đoàn 95 do đồng chí Lê Thuyết chỉ huy. Ta bất ngờ nổ súng, diệt và bắt gọn cánh quân này của địch; diệt và làm bị thương 30 tên, bắt 50 tên, trong đó có cả thiếu tá Lơ-briu-giơ, một đại úy và hai trung úy; thu 60 súng, hai máy vô tuyến điện, phá hỏng bảy xe. Ta bị thương nhẹ sáu đồng chí.

Ta tiếp tục triển khai trận địa phục kích trên dọc quốc lộ 1, nhưng địch hoảng sợ không dám đưa quân tiếp viện cho đồn Vạn Xuân. Ngày 30 tháng 12, tướng Lơ-brit phải hạ lệnh rút quân khỏi đồn Vạn Xuân và sau đó là đồn Thượng Lâm. Vùng tự do của ta được mở rộng, phía tây khu vực sông Kiến Giang, Lệ Thuỷ được giải phóng.

Ngày 31 tháng 12, được ta tuyên truyền giác ngộ, vệ binh đoàn ở đồn Cổ Hiền đã nổi dậy làm binh biến, diệt ba sĩ quan Pháp, đưa toàn bộ vũ khí, trang bị về với kháng chiến. Sự kiện này đã tác động tích cực đến số binh lính ngụy ở các đồn khác, do đó những ngày tiếp theo, quân ta đã tiến công và diệt gọn đồn Đôn Sa, bao vây và bức rút địch ở đồn Phú Hoà (có bảy lính khố đỏ quay về với cách mạng).

Trong khi ta tập trung lực lượng hoạt động ở hướng Quảng Ninh và Lệ Thuỷ, địch đã tăng cường binh lực và vũ khí cho một số vị trí phía bắc như Troóc, Cổ Giang, Hà Lời và phòng thủ tuyến tỉnh lộ 2, đồng thời cho quân nống ra càn quét một số xã như Hải Trạch, Trung Trạch, v.v...

Trước tình hình đó, Bộ chỉ huy chiến dịch lệnh cho trung đoàn 57 tiến vào vùng bắc Quảng Bình. Từ ngày 13 tháng 12 năm 1949 đến ngày 15 tháng 1 năm 1950, trung đoàn đã đánh một loạt vị trí quan trọng của địch ở tuyến phòng thủ sông Gianh như Đại Nam, Hoà Ninh, Hướng Phương, Đơn Sa, Phù Kinh, giải phóng một vùng rộng lớn ở nam và bắc sông Gianh.

Ở phía nam, quân địch sợ không dám ra; chấp hành mệnh lệnh của Bộ tư lệnh, trung đoàn 95 và 18 chuyển sang phối hợp cùng lực lượng vũ trang địa phương tiến hành tổng phá tề ở vùng nam Quảng Bình. Toàn bộ hệ thống đồn bốt địch từ Quán Hầu vào tới Sen Hạ nhanh chóng bị vây chặt. Binh lính trong các đồn lo sợ chui vào cố thủ không dám ra ngoài. Lính địch ở các đồn Thượng Lãm, Vạn Xuân bỏ đồn co cụm về các vị trí lớn. Lực lượng vũ trang địa phương diệt đồn Xá, Cồn Lý. Nhân dân trong vùng tự võ trang bằng giáo mác, gậy gộc,vây bắt tề điệp, giải tán hương vệ. Ở nhiều làng như Xuân Bồ, Uẩn Áo, Xuân Dục, Xuân Hoà, Mỹ Trạch, Thuận Trạch... tuy nằm sát quốc lộ 1 và gần đồn địch nhưng trước sức mạnh áp đảo của quần chúng, bọn hào lý đã ra hàng và giao nộp vũ khí. Hai trung đoàn thu hồi được hàng trăm tấn lúa trong các kho của địch giao lại cho chính quyền địa phương cấp cho nhân dân. Phong trào kháng chiến của các làng xã phát triển mạnh và vững, trở thành những điển hình của Bình - Trị - Thiên và cả nước. Đợt 1 chiến dịch kết thúc.

Đợt 2 (từ ngày 15 đến ngày 27 tháng 1 năm 1950):

Từ giữa tháng 1 năm 1950, trung đoàn 95 được lệnh bí mật hành quân vào nam Thừa Thiên cùng trung đoàn 101 chuẩn bị đợt hoạt động mới. Vào tới bắc Quảng Trị, một bộ phận của tiểu đoàn 227 phối hợp với đại đội bộ đội địa phương Lê Hồng Phong tập kích bốt Chợ De, bao vây đồn Cửa Tùng, diệt hai trung đội địch, bắt sống một trung úy Pháp.

Bị thua đau ở phía nam Quảng Bình, bộ chỉ huy quân Pháp ở Bình - Trị - Thiên tìm cách phản kích giữ vững vùng bắc sông Gianh. Ngày 27 tháng 2 năm 1950, Pháp tập trung quân ứng chiến mở cuộc hành quân bằng đường thuỷ vào vùng có đồng bào theo đạo Thiên Chúa mà ta vừa giải phóng. Phán đoán đúng âm mưu địch, trung đoàn 57 cùng lực lượng vũ trang địa phương tổ chức phục kích ở bến đò Phù Trịnh, La Hà. 8 giờ, địch lọt vào trận địa phục kích, ta nổ súng, đại bác vào bộ binh địch ở các đồn xung quanh như Tiên Lệ, Ba Đồn nổ súng ứng cứu, quân địch trên bốn ca nô củng cố đội hình để phản kích nhưng đã bị quân ta đánh quyết liệt. Cả tiểu đoàn địch bị tan rã, hơn 120 tên bị diệt, ta bắt 10 tù binh Pháp và một số tay sai dẫn đường. Bốn ca nô địch bị hỏng nặng. Số địch sống sót rút chạy về Thanh Khê, bỏ lại hàng trăm súng. Trước sức uy hiếp của ta, địch buộc phải rút tiếp ở các vị trí chiếm đóng: Troóc, Cổ Giang, Cao Lao, Tiên Lệ. Ta triệt hạ tiếp ba đồn hương vệ: Phù Kinh, Hoà Bình, Hướng Phương.

Sáng ngày 27 tháng 1, hai trung đoàn 95 và 101 hành quân vào tới Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên. Lợi dụng thời cơ này, địch lập tức tập trung ba tiểu đoàn ở Triệu Phong và Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị càn quét vào các xã Lương Mai, Phò Trạch, Phong Chương, Phong Lai, Vân Trình... Lực lượng vũ trang địa phương tổ chức chống càn. Được cấp trên đồng ý, hai trung đoàn (95 và 101) hành quân thần tốc quay trở lại vùng Triệu Phong và Hải Lăng. Địch cho máy bay bắn phá, ném bom vào trận địa quân ta. Đến tối 27 tháng 1, không chịu nổi đòn đánh trả quyết liệt của hai trung đoàn 95 và 101, quân Pháp phải hủy bỏ cuộc hành quân càn quét, lợi dụng đêm tối tháo chạy về Huế. Ta diệt và bắt gần 400 tên địch, thu hơn 50 súng các loại. Chiến thắng ở Lương Mai, Phò Trạch, Lê Thuyết đã kết thúc chiến dịch Lê Lai.

Trong hơn một tháng chiến đấu, bốn trung đoàn chủ lực của Liên khu đã đánh một trận vây điểm diệt viện, một trận vận động phản kích quy mô cấp trung đoàn và gần 30 trận đánh nhỏ. Ta loại khỏi vòng chiến đấu 1.370 tên, bắt sống 152 tên, phần lớn là lính Âu - Phi và Pháp; tiêu diệt gọn một đại đội, đánh thiệt hại nặng hai tiểu đoàn, tạo thuận lợi để lực lượng vũ trang địa phương diệt nhiều đồn bốt nhỏ và các vị trí hương vệ, cùng nhân dân nổi dậy diệt tề, trừ gian và làm công tác binh địch vận đạt hiệu quả tốt.

Đây là chiến dịch đầu tiên ở chiến trường Bình - Trị - Thiên đo Bộ Tư lệnh Liên khu 4 chỉ đạo, Bộ Tư lệnh Mặt trận Bình - Trị - Thiên trực tiếp chỉ huy, chiến dịch đã hoàn thành tốt nhiệm vụ, đạt được các mục tiêu đề ra. Kế hoạch tác chiến cụ thể, sát hợp với khả năng và tình hình tương quan lực lượng. Nét nổi bật của nghệ thuật chiến dịch là sự hiệp đồng chặt chẽ giữa các lực lượng: đánh điểm, vây điểm và phục kích diệt viện; giữa chủ lực và lực lượng vũ trang địa phương. Biết vận dụng phương châm, phương pháp tác chiến chủ động, linh hoạt, đặc biệt là giữa tiến công của bộ đội chủ lực với binh vận, địch vận, nổi dậy phá tề, trừ gian của lực lượng vũ trang địa phương và quần chúng, trong đó việc vận động binh lính đồn Cổ Hiền và một số nơi khác làm binh biến trở về với cách mạng là một điển hình xuất sắc. Chỉ huy các cấp đã sâu sát nắm chắc đơn vị, quyết đoán, sắc sảo, xử trí tình huống kịp thời, chính xác. Chiến dịch đạt được hiệu suất cao cả về tiêu diệt địch và giải phóng đất đai, củng cố và mở rộng vùng giải phóng ở đồng bằng Quảng Bình; nâng cao lòng tin tưởng và tinh thần cách mạng của quân và dân trên toàn Mặt trận Bình - Trị - Thiên. Chiến dịch còn để lại nhiều bài học quý về nghệ thuật chỉ đạo chiến dịch và vận dụng các hình thức chiến thuật trong đánh điểm diệt viện và vận động tiến công phản kích phá càn.
Logged

...Chuyện bình thường, chiến tranh người trai ấy quên mình, anh dâng hiến mùa xuân cho tương lai...


chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 8757



WWW
« Trả lời #27 vào lúc: 29 Tháng Sáu, 2012, 07:01:46 PM »


CHIẾN DỊCH VÕ NGUYÊN GIÁP
(Tiến công, từ ngày 10 tháng 1 đến ngày 31 tháng 3 năm 1950 ).


Đầu năm 1950, Bộ tư lệnh Liên khu 5 chủ trương mở chiến dịch tiến công trên địa bàn bắc Quảng Nam, lấy tên là chiến dịch Võ Nguyên Giáp; thời gian từ ngày 10 tháng 1 đến ngày 31 tháng 3 năm 1950; nhằm mục đích: Phối hợp với chiến trường chính Bắc Bộ, tiêu hao và kìm chân địch, không cho chúng tăng viện ra Bắc Bộ, triệt đường giao thông tiếp tế của thực dân Pháp từ Đà Nẵng ra Huế, uy hiếp thành phố Đà Nẵng, bồi dưỡng lực lượng ta, đẩy mạnh chiến tranh du kích, làm tan rã ngụy quân, ngụy quyền, thu hẹp phạm vi chiếm đóng của quân địch.

Lực lượng địch trên địa bàn có trên 6.000 tên, đóng chủ yếu trong các trại lính và hệ thống đồn bốt quanh thị xã Đà Nẵng và dọc tuyến giao thông huyết mạch quốc lộ 1 từ Đà Nẵng ra Huế.

Lực lượng ta tham gia chiến dịch có hai trung đoàn 210 và 1081 đến cuối chiến dịch tăng cường thêm hai đại đội bộ đội địa phương của hai tỉnh Quảng Ngãi và Bình Định; phối hợp với bộ đội chủ lực của liên khu, lực lượng dân quân du kích Quảng Nam và tự vệ thành phố Đà Nẵng tham gia đánh phục kích, quấy rối, tải thương và tiếp tế hậu cần.

Bộ chỉ huy chiến dịch đã lo đủ cho mỗi chiến sĩ bình quân mỗi ngày sáu lạng gạo. Lượng lương thực, thực phẩm dự trữ chủ yếu huy động trong nhân dân. Dưới sự lãnh đạo của các cấp uỷ đảng, nhân dân Quảng Nam - Đà Nẵng tuy rất khó khăn về đời sống kinh tế, nhưng tinh thần kháng chiến rất cao, đã thực hiện “nhường cơm sẻ áo cho bộ đội đánh thắng”. Trước chiến dịch đã may đủ cho mỗi chiến sỹ một bộ quân phục; đáp ứng đầy đủ gạo và thực phẩm cho hơn một tháng chiến đấu (khi kết thúc chiến dịch gạo ở Hoà Vang còn 15 tấn, ở các huyện phía nam còn 20 tấn chưa sử dụng đến). Nhân dân đã tham gia 70 vạn ngày công phục vụ chiến dịch.

Đồng chí Đàm Quang Trung làm Tư lệnh chiến dịch, đồng chí Nguyễn Đôn làm Chính ủy.

Phương châm tác chiến là: Đánh điểm diệt viện kết hợp với đánh phục kích trên tuyến giao thông quốc lộ 1A, chủ yếu đoạn qua đèo Hải Vân. Chiến dịch chia làm ba đợt.

Đợt 1 (từ ngày 10 tháng 1 đến ngày 6 tháng 2 năm 1950):

Theo kế hoạch, ngày 10 tháng giêng nổ súng đánh trận phục kích đoàn xe của quân Pháp trên đèo Hải Vân và tiến công diệt bốt địch ở phía tây bắc huyện Hoà Vang làm hiệu lệnh mở màn cho toàn chiến dịch. Nhưng quá trình chuẩn bị chiến trường, cán bộ tham mưu để mất tài liệu, kế hoạch tác chiến bị lộ nên không thực hiện được trận mở màn, do đó chiến dịch bị chững lại, chậm so với kế hoạch. Tuy nhiên từ ngày 10 tháng 1, lực lượng bộ đội địa phương và dân quân du kích vẫn nổ súng tiến công địch ở nhiều nơi trong vùng chúng tạm chiếm.

Ngày 19 tháng 1, có cơ sở làm nội ứng, đại đội địa phương và du kích tiến công và diệt đồn Ngũ Giáp, diệt và bắt hai trung đội địch, thu toàn bộ vũ khí. Sau đó, ta đánh phục kích trên đường số 1 (đoạn Đà Nẵng - Vĩnh Điện), diệt sáu xe tiếp tế của địch từ Vĩnh Điện ra, đồng thời diệt và bắt hai trung đội khác; buộc địch phải điều quân cơ động đến đối phó.

Trên hướng chính, Bộ tư lệnh chiến dịch quyết định để lại một bộ phận đánh các trận nhỏ, còn lực lượng cơ bản của trung đoàn 108 cơ động về chiến khu Phú Túc. Tối 2 tháng 2, trung đoàn từ Phú Túc bí mật hành quân xuống Điện Hoà. Được nhân dân che chở giữ bí mật và bố trí ăn, ở cho bộ đội, trung đoàn bí mật triển khai bố trí trận địa phục kích tại Thanh Quýt. Trưa 6 tháng 2, một trung đội địch thực hiện “An ninh lộ trình” từ Đà Nẵng tiến ra; sau đó một đoàn xe 14 chiếc, có một đại đội Âu - Phi hộ tống từ Đà Nẵng hành quân ra, lọt vào trận địa phục kích. Quân ta bất ngờ và đồng loạt nổ súng, tiêu diệt đại đội lê dương, bắt 50 tên, thu 100 súng các loại, phá huỷ toàn bộ đoàn xe 14 chiếc. Sau trận đánh, nhân dân xông ra đường thu chiến lợi phẩm, đồng thời dùng rơm rạ đốt khói mù mịt để che mắt địch, tạo điều kiện thuận lợi cho đơn vị lui quân an toàn. Đợt 1 chiến dịch kết thúc.

Đợt 2 (từ ngày 7 tháng 2 đến ngày 14 tháng 3 năm 1950):

Bộ chỉ huy chủ trương đẩy mạnh các hoạt động trong toàn tỉnh. Bộ đội địa phương, dân quân du kích và nhân dân đã phá hoại các đường giao thông, phục kích diệt bọn địch đi lẻ, diệt tề, bắt gián điệp, quấy rối đồn bốt, nổi trống mõ, thanh la làm thanh viện từ huyện này sang huyện khác, uy hiếp tinh thần địch. Đêm 15 tháng 2, một bộ phận đột nhập thành phố Đà Nẵng, đánh vào khu vực ngã năm và ngã ba Cai Lang nhưng kết quả chiến đấu không đáng kể. Ngày 14 tháng 3, đợt 2 chiến dịch kết thúc.

Đợt 3 (từ ngày 15 đến ngày 31 tháng 3 năm 1950):

Đêm 15 tháng 3, quân ta tiến công đồn Cẩm Lệ bằng nội ứng. Đêm 20 tháng 3, ta diệt đồn Hòn Bàng bằng phương pháp cường tập. Ở bắc Hoà Vang, các đơn vị đánh nhiều trận phục kích nhỏ, và tập kích đánh vào Nam Ô, Gò Ông Tự, Liên Chiểu, Tùng Sơn và Hưởng Phước. Đêm 31 tháng 3, ta đột nhập vào thành phố Đà Nẵng lần thứ hai và kết hợp đánh phá giao thông. Kết thúc chiến dịch.

Kết quả: Địch bị diệt 417 tên, bị thương 278 tên, bị bắt 99 tên và 454 tên tề điệp. Ta phá hủy 17 xe vận tải, ba đầu máy xe lửa, 12 toa xe lửa, thu 203 súng; giải phóng một khu vực rộng 600 km2, gồm toàn bộ vùng Duy Xuyên và phía tây huyện Đại Lộc; mở rộng được căn cứ du kích ở Điện Bàn, Hoà Vang.

Qua ba tháng chiến đấu, chiến dịch đã đạt được những mục tiêu cơ bản đề ra là tiêu diệt sinh lực địch, bồi dưỡng lực lượng ta; mở rộng vùng giải phóng, thu hẹp vùng chiếm đóng của địch, củng cố và phát triển phong trào chiến tranh du kích. Riêng mục tiêu “Triệt đường vận chuyển, uy hiếp thị xã Đà Nẵng” đề ra như vậy là quá cao, không phù hợp nên không thực hiện được.

Nét nổi bật của nghệ thuật chiến dịch ở đây là: Đã phối hợp chặt chẽ các hoạt động của ba thứ quân (bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân du kích), huy động được sức dân tham gia, tạo nên sức mạnh tổng hợp cho chiến dịch. Hai là, trong quá trình diễn biến, Bộ chỉ huy đã biết điều chỉnh lực lượng, thay đổi cách đánh một cách kịp thời, uyển chuyển, do đó tác chiến của bộ đội đạt được hiệu quả tốt. Song, chưa chú trọng giữa tác chiến với xây dựng lực lượng quân sự địa phương. Đây là một trong những chiến dịch thành công của Liên khu 5 trong những năm đầu kháng chiến chống Pháp.
___________________________________
1.Trong cuốn “Quảng Nam Đà Nẵng lịch sử chiến tranh nhân dân” tập 1, Nxb QĐND, 1994 trang 140 ghi: “Lực lượng tham gia chiến dịch có trung đoàn 210 chủ lực của Liên khu và lực lượng vũ trang tỉnh.
Logged

...Chuyện bình thường, chiến tranh người trai ấy quên mình, anh dâng hiến mùa xuân cho tương lai...


chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 8757



WWW
« Trả lời #28 vào lúc: 29 Tháng Sáu, 2012, 07:22:19 PM »


CHIẾN DỊCH BẾN CÁT 11
(Tiến công, từ ngày 25 đến ngày 27 tháng 1 năm 1950)


Chiến dịch diễn ra chủ yếu trên hai tuyến đường số 7 và số 14 đoạn từ Bến Cát đi Dầu Tiếng, dài 36 ki-lô-mét. Địa hình tương đối bằng phẳng, hai bên đường là rừng chồi, vườn cao su xen kẽ ruộng lúa và làng mạc, nhưng do chiến tranh, dân đã đi sơ tán, khu vực tác chiến cây cối rậm rạp và vắng vẻ. Phía đông, cách trục đường bộ 7,5 ki-lô-mét có tuyến đường sắt Thủ Dầu Một - Lộc Ninh và đường 13 đi Lào. Phía tây nam có sông Sài Gòn chảy song song với đường 14 qua các vùng tự do của ta như xã An Thành, Phú An Nhơn và An Diễn thuộc Thủ Dầu Một; Phú Mỹ Hưng, An Nhơn Tây thuộc Gia Định. Cả ba tuyến giao thông (bộ, sắt, thủy) đều rất quan trọng đối với quân sự và kinh tế của cả ta và địch. Đối với ta, các tuyến giao thông nối liền các vùng tự do, các khu căn cứ; đối với địch là tuyến huyết mạch hàng ngày chở vũ khí, phương tiện chiến tranh, chở quân từ Sài Gòn - Gia Định lên Tây Ninh đi càn quét và ngược lại, chở cao su từ Dầu Tiếng về. Cuối 1949 đầu 1950, địch liên tiếp mở nhiều cuộc hành quân càn quét uy hiếp vùng giải phóng phía đông và đông bắc Sài Gòn - Gia Định, cắt đứt và uy hiếp các tuyến đường nói trên, làm cho sự liên lạc, vận chuyển của ta luôn bị gián đoạn, đặc biệt ở vùng Long Nguyên và Thanh Tuyền. Do đó đã trực tiếp ảnh hưởng đến hoạt động của hai liên trung đoàn 306 - 312 thuộc Sài Gòn - Chợ Lớn và 301 - 310 của Khu 7, dẫn tới tình trạng thiếu lương thực, đạn dược, ảnh hưởng đến sức khoẻ và tinh thần của bộ đội. Bước sang 1950, địch càng ráo riết càn quét, phong toả vùng Hớn Quản và bắc Bến Cát của Khu 7, xây dựng hệ thống cứ điểm, tháp canh kết hợp với lực lượng cơ giới tương đối mạnh trên hai trục lộ 14 và số 7; thực hiện chiếm đóng huyện Hóc Môn, vừa trực tiếp chia cắt, uy hiếp khu căn cứ của ta, vừa bảo vệ cơ sở cao su Dầu Tiếng - Hớn Quản và tuyến vận chuyển của chúng.

Để đối phó với âm mưu của địch, giành lại thế chủ động, Bộ tư lệnh khu Sài Gòn – Chợ Lớn chủ trương mở chiến dịch Bến Cát 1 nhằm mục đích tiêu hao một số sinh lực địch bằng đánh vận chuyển và công đồn, diệt tháp canh để đánh viện. Tác chiến kết hợp với phá hoại để mở rộng khu căn cứ của ta từ đường số 1 (Gia Định) đến đường 13 (Thủ Dầu Một), chủ yếu là khu Long Nguyên - Thanh Tuyền.

Phương châm tác chiến: Đánh phục kích kết hợp với địa lôi chiến để tiêu diệt các đoàn xe địch từ Bến Cát đi Dầu Tiếng là chủ yếu. Bao vây uy hiếp cứ điểm, tháp canh, tổ chức chặn viện để tiêu hao địch, đồng thời phá hoại cầu, đường đi đôi với kêu gọi bức hàng.

Lực lượng tham gia chiến dịch gồm2: Hai tiểu đoàn chủ lực thuộc hai liên trung đoàn 306 - 312 và 301 - 310; hai đại đội độc lập; một đại đội trợ chiến và các lực lượng dân quân du kích, công an xung phong, đội công binh của khu Sài Gòn - Chợ Lớn, một trung đội công binh của Nam Bộ. Vũ khí có: 12 quả Badômìn, 16 mìn nhỏ, hai Badôca, sáu cối (60mm và 81mm), 25 súng phóng lựu đạn; sáu đại liên, 61 trung liên, 17 tiểu liên, lựu đạn và súng trường trang bị đủ cho chiến đấu viên.

Bộ chỉ huy chiến dịch gồm: Đồng chí Nguyễn Văn Thi làm Chỉ huy trưởng; Trần Đình Xu làm Chỉ huy phó; Lê Đức Anh-tham mưu trưởng. Sở chỉ huy ngày đầu chiến dịch đặt tại Thanh Tuyền và cuối chiến dịch đặt tại An Thành.

Thời gian hoạt động ấn định là một tuần bắt đầu từ ngày 25 tháng 1 năm 1950; nếu có điều kiện sẽ kéo dài thêm. Ban chỉ huy chiến dịch đã lên kế hoạch tác chiến cụ thể từng ngày và phân công nhiệm vụ cho các đơn vị.

Ngày 25, nhiệm vụ tiêu diệt đoàn xe trên tuyến Bến Cát - Dầu Tiếng giao cho hai đại đội của tiểu đoàn chủ lực thuộc liên trung đoàn 306 - 312, hai đại đội của tiểu đoàn chủ lực liên trung đoàn 301 - 310; bố trí trận địa từ xóm Cò Trạch đến Lâm Vồ.

Nhiệm vụ công đồn Bến Súc (đêm 25) giao cho một đại đội của tiểu đoàn chủ lực thuộc liên trung đoàn 301 - 310 và một bộ phận trợ chiến, được tăng cường bốn súng cối, bảy súng phóng lựu, chín trung liên và một Badôca.

Ngày 26, tiến hành bao vây cứ điểm, uy hiếp tháp canh, đánh viện và phá hoại.

Khu vực từ Bến Cát đến Rạch Bắp (đường số 7), do một đại đội chủ lực và năm tiểu đội dân quân du kích đảm nhiệm. Nhiệm vụ vây cứ điểm Rạch Bắp và sáu tháp canh trên trục lộ; tổ chức đánh viện từ Bến Cát lên, ngăn chặn việc sửa đường và cầu của địch.

Khu vực từ Rạch Bắp đến cứ điểm Bà Thiện, do một đại đội chủ lực và trung đội dân quân du kích Thanh Tuyền đảm nhiệm. Nhiệm vụ bao vây các tháp canh, chặn và đánh viện từ cứ điểm Bà Thiện ra tạo thuận lợi cho dân quân huyện Bến Cát phá giao phong đoạn từ Rạch Kiến xuống Rạch Bắp và dân quân huyện Hóc Môn phá đoạn từ cầu Xi Nô đến cầu Xả Nghi.

Bố trí một đại đội tăng cường gồm 16 tiểu đội bộ binh và hai trung đội trợ chiến từ ngã ba Bến Cỏ đến bến đò An Thuận, có nhiệm vụ diệt và đánh lui các tàu địch trên sông Sài Gòn. Nhiệm vụ ở những ngày tiếp sau tùy theo tình hình để phân công.

Lực lượng địch trong địa bàn chiến dịch gồm: hai vị trí, bốn cứ điểm và 14 tháp canh. Lực lượng bố trí như sau:

Vị trí Dầu Tiếng có 640 tên, trong đó có 150 lính lê dương, hai đại bác 105mm, tám thiết giáp, hai xe tăng, 50 xe vận tải, hai máy bay trinh sát, vũ khí đạn dược đầy đủ; Bến Cát có 100 quân, một thiết giáp, 13 xe vận tải, một đại bác 105mm, vũ khí đầy đủ.

Bốn cứ điểm: Rạch Bắp, Rạch Kiến, Bến Súc và Bà Thiện, mỗi cứ điểm bố trí từ một đến hai trung đội, từ một đến hai khẩu cối (60mm và 80mm), hai đến ba trung liên, tiểu liên và súng trường đầy đủ. Riêng ở Rạch Kiến có một đại bác 105mm.

Mỗi tháp canh bố trí từ bốn đến sáu lính, trang bị tiểu liên, súng trường và lựu đạn. Riêng hai tháp canh Bưng Công và Cây Cam có một trung đội và một khẩu trung liên.

Hàng tuần có hai chuyến xe vào thứ 4 và thứ 7, sáng từ Dầu Tiếng xuống Bến Cát chở cao su, chiều chở lương thực, hàng hoá ngược lại. Mỗi chuyến có từ 14 đến 16 xe, có hai thiết giáp và 50 tên địch hộ tống, đội hình kéo dài 6 ki-lô-mét. Trước khi đi, các bốt có một đến ba tiểu đội ra dò mìn và tuần đường để đề phòng ta phục kích.

Bộ chỉ huy chiến dịch đã triệu tập ba hội nghị để tổ chức thảo luận kế hoạch chiến đấu và phân công công việc chuẩn bị.

Ngoài thành phần quân báo, trinh sát, Bộ chỉ huy đã phân công cán bộ phòng tham mưu và cán bộ trực tiếp chỉ huy đi nghiên cứu thực địa, nắm vững tình hình địa hình, quy luật hoạt động của địch để bổ sung kế hoạch chung; đồng thời xây dựng kế hoạch tác chiến thuộc phạm vi mình phụ trách. Bộ chỉ huy chiến dịch đã tổ chức hiệp đồng chiến đấu giữa hai khu và tổ chức thảo luận giữa các đơn vị có liên quan để trong quá trình chuẩn bị chiến đấu và chiến đấu, hành động các đơn vị ăn khớp, nhịp nhàng.

Trong huấn luyện quân sự, các đơn vị đã có nhiều kinh nghiệm đánh phục kích nên chỉ tập trung huấn luyện vào khâu yếu là “công đồn”. Những đơn vị được phân công đánh đồn Bến Súc đã chọn một địa hình tương tự, cấu trúc đồn bốt giả để luyện tập cho bộ đội trước một tháng. Bộ chỉ huy chiến dịch cũng đã phái cán bộ tham mưu đến đơn vị công binh giúp đỡ, bàn bạc xây dựng kế hoạch phá cầu.

Công tác chính trị: Phòng Chính trị khu Sài Gòn - Chợ Lớn được chỉ định là cơ quan chính trị chiến dịch. Trong những ngày chuẩn bị, đã xây dựng và triển khai kế hoạch giáo dục, động viên bộ đội thi đua thực hiện cho kỳ được mục đích của chiến dịch. Tuyên truyền và động viên quần chúng nhân dân ủng hộ và tham gia phục vụ chiến dịch, đồng thời phân công cán bộ chính trị đi sát để chỉ đạo và giúp đỡ từng đơn vị thực hiện công tác chính trị. Đặc biệt chú trọng công tác địch vận, ngụy vận, Miên vận trước và trong quá trình chiến đấu, tổ chức các đội tuyên truyền có trang bị đủ các phương tiện (loa, truyền đơn, v.v...).

Chuẩn bị hậu cần: Bộ chỉ huy chiến dịch đặc biệt chú ý hai vấn đề lớn là đạn dược và lương thực. Về đạn dược, ngoài cơ số đã có ở đơn vị, Bộ chỉ huy chỉ thị cho công xưởng sản xuất cấp tốc thêm 200 quả đạn cối, 35 quả Badômìn, 500 lựu đạn phóng, 400 lựu đạn gài và đạn Badôca. Về lương thực, mỗi người mang theo năm ngày gạo. Ngoài ra còn chuẩn bị thêm một vạn lít gạo (tương đương tám tấn); và dầu, đường, muối đầy đủ. Riêng công tác quân y thì đơn vị tự lo và tổ chức trạm, thuốc men, v.v... có kế hoạch và triển khai đủ trước ngày nổ súng.

15 giờ 30 phút ngày 25 tháng 1, quân ta đồng loạt nổ súng tiến công các đồn Bến Súc, Rạch Bắp và chặn đánh đoàn xe địch trên đường 14 đoạn từ Bến Súc lên cầu Suối Dứa. Quân địch cố thủ trong đồn (tường xây dày bằng đá), dùng hỏa lực mạnh khống chế các mũi tiến công của ta. Quân ta không tiến được chỉ bắn đạn cối rồi rút lui. Cuộc chiến đấu trên đường 14 diễn ra quyết liệt đến 18 giờ tối: Quân ta tổ chức thành năm trận địa phục kích ở các xóm Cò Trạch, Bến Chùa, Sam Bông, Gò Mối và Lâm Vồ. Khi hai xe thiết giáp và hai xe vận tải đi vào trận địa, sở chỉ huy biết rõ là xe tuần đường, điện xuống trận địa, nhưng vì thông tin hỏng nên tiểu đoàn trưởng nhận định là “đoàn vận tải” nên ra lệnh nổ súng. Địch trong xe thiết giáp phối hợp với bốt gác đường bắn trả quyết liệt. Quân ta chỉ diệt được chín tên địch, bắt một tên; phá huỷ một đại bác và ba xe thiết giáp. Ta hy sinh năm, bị thương 24; 18 giờ, các trận địa phục kích rút quân.

Trên đường số 7, ta tổ chức hai bộ phận bố trí gần đồn Bến Cát và đồn Rạch Bắp. 15 giờ 30 phút, địch phát hiện ta đặt địa lôi, cho hai tiểu đội ra gỡ. Ta nổ súng đánh và đuổi chúng vào cứ điểm Rạch Bắp, tiến hành bao vây. Địch cho pháo ở Bến Cát và Rạch Kiến bắn vào trận địa ta, đồng thời cho hai xe thiết giáp, tám xe vận tải chở đầy lính từ Bến Cát lên tiếp viện. Bộ phận phục kích gần Bến Cát nổ súng. Sau 10 phút ta rút lui. Địch chết 41 tên và bị thương một số, ba xe vận tải bị hỏng nặng. Ta hy sinh hai và bị thương hai chiến sĩ. 18 giờ 20 phút, bộ phận bao vây Rạch Bắp chuyển ra đường bố trí đánh phục kích, dùng địa lôi đánh hỏng nặng một xe thiết giáp. Địch dùng súng và lựu đạn chống trả. Trời tối ta không xung phong được nên lui quân.

Đêm 25, bộ phận phá hoại, đánh sập được cầu Suối Cát, còn cầu Bến Cát vì nghiên cứu chưa kỹ, nên khi đánh chỉ hư hỏng nhẹ.

Đêm 26 tháng 1, ta bao vây cứ điểm Rạch Kiến và các tháp canh, do bị lộ nên địch cho quân xông ra, ta nổ súng, địch chống trả và được sự chi viện hoả lực ở Rạch Kiến nên ta chỉ diệt được một tên, làm bị thương hai tên. Ta tiến hành rải truyền đơn và kêu gọi các tháp canh nhưng không có kết quả.

13 giờ ngày 27 tháng 1, địch tiếp viện và nối lại giao thông. Thấy không còn yếu tố bất ngờ nữa, Ban chỉ huy ra lệnh kết thúc chiến dịch và lui quân về căn cứ Thanh Tuyền.

Kết quả: Địch chết 61 tên, bị thương 23 tên, bị bắt hai tên. Ta hy sinh tám người, bị thương 29 người, mất một súng ngắn và hai súng trường. Ta thu được của địch hai trung liên, bốn tiểu liên, 10 lựu đạn, 300 viên đạn, phá huỷ một xe vận tải, hai cầu, một ca nông 24mm; đánh hỏng một cầu.

Trong ba ngày chiến đấu, ta đã làm gián đoạn giao thông của địch trong một thời gian khá dài, địch phải dùng máy bay tiếp tế cho sở cao su Dầu Tiếng và bị động đối phó, giảm bớt hoạt động trên đường số 5 Hóc Môn và đoạn đường xe lửa Dĩ An - Lái Thiêu.

Về phía ta không đạt được mục đích của chiến dịch. Do điện thoại hỏng: cán bộ chỉ huy cấp tiểu đoàn lại không nắm vững quy luật vận chuyển của địch nên đã đánh nhầm xe tuần đường. Kỹ thuật đánh địa lôi và bộc phá kém (hầu hết địa lôi không trung đích, bộc phá phá cầu không đạt kết quả). Chỉ huy không tập trung đơn vị, lại bố trí phân tán rời rạc, một số đơn vị kỷ luật kém, không báo cáo, tự động rút lui, tự động gỡ địa lôi để lỡ thời cơ đánh xe thiết giáp mà người chỉ huy không nắm được. Ban chỉ huy máy móc, thiếu linh hoạt, khi tình hình đã thay đổi mà vẫn bám kế hoạch cũ nên bỏ lỡ nhiều cơ hội diệt địch; không bố trí lực lượng dự bị, không dự kiến đối phó khi tình huống khó khăn nên khi lui quân để địch truy kích mà không đánh được, khiến cho chiến dịch bị động, không giành được thắng lợi.

Những khuyết điểm, nhược điểm về khả năng, trình độ chiến đấu, chiến thuật và trình độ thực hành chiến dịch bộc lộ trong đợt hoạt động đã để lại những kinh nghiệm thiết thực cho quá trình “vận động chiến tiến tới” về sau. Nó là cuộc diễn tập cho chiến dịch Bến Cát 2 diễn ra vào dịp cuối năm này.
_______________________________________
1.Tài liệu tổng kết (đề ngày 28 tháng 9 năm 1961) của Cục tác chiến ghi “Chiến dịch Bến Cát - Dầu Tiếng 1”. Nhưng thực chất chiến dịch chỉ diễn ra trên địa bàn huyện Bến Cát, hơn nữa để phân biệt rõ với chiến dịch Bến Cát 2 diễn ra cuối năm 1950, ở nhiều tài liệu, sách và ở bài viết này, chúng tôi lấy tiêu đề là “Chiến dịch Bến Cát 1”. Trong “Lịch sử Sài Gòn - Chợ Lớn...”. Nxb thành phố Hồ Chí Minh, trang 211 viết “Chiến dịch Bến Cát thực chất là đợt hoạt động quân sự trong ba ngày từ 25 đến 27 tháng 1 năm 1950...
2.Hồ sơ lưu trữ VL-11.951 ghi: Lực lượng phối hợp giữa hai khu (Khu Sài Gòn - Chợ Lớn và Khu 7) cho phép tập trung quân tương đương một trung đoàn.
Logged

...Chuyện bình thường, chiến tranh người trai ấy quên mình, anh dâng hiến mùa xuân cho tương lai...


chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 8757



WWW
« Trả lời #29 vào lúc: 29 Tháng Sáu, 2012, 07:27:24 PM »


CHIẾN DỊCH CAO LÃNH
(Tiến công, từ ngày 26 tháng 1 đến ngày 1 tháng 2 năm 1950)



Cuối 1949, phong trào chiến tranh du kích ở Khu 9 nói chung và vùng Đồng Tháp Mười nói riêng phát triển mạnh. Để kìm giữ, căng kéo lực lượng địch, không cho chúng yên tâm tăng viện cho chiến trường chính Bắc Bộ. Phối hợp đắc lực với chiến trường chính Bắc Bộ, đầu 1950, Bộ tư lệnh Khu 9 chỉ đạo mở chiến dịch Cao Lãnh trong sáu ngày: Từ ngày 26 tháng 1 đến ngày 1 tháng 2 năm 1950.

Bộ chỉ huy chiến dịch gồm các đồng chí ban chỉ huy trung đoàn 115 (chủ lực của khu): Đồng chí Đặng Văn Thông, trung đoàn trưởng làm chỉ huy trưởng; đồng chí Nguyễn Như Văn làm tham mưu trưởng; đồng chí Giọng (tiểu đoàn 309) làm chỉ huy phó chiến dịch.

Mục tiêu của chiến dịch là: Tiêu hao, tiêu diệt sinh lực địch; đánh đồn và tháp canh, mở rộng vùng giải phóng. Giành dân, xây dựng cơ sở cách mạng trong vùng địch tạm chiếm, phá rã chính quyền địch tại địa phương. Tiến hành vũ trang tuyên truyền và công tác địch vận, lôi kéo binh lính địch về với nhân dân.

Tổng An Tịnh thuộc huyện Cao Lãnh, tỉnh Sa Đéc (tỉnh Đồng Tháp ngày nay) được chọn làm địa bàn chiến dịch. Đây là một cù lao nằm giữa hai con sông Cao Lãnh (ở phía bắc) và Tiền Giang (ở phía nam), cù lao có chiều dài 14 km, rộng tám km, là vùng đất phì nhiêu nhất của huyện, cây cối, ruộng vườn xanh tốt, sông rạch chằng chịt. Chạy giữa dọc cù lao là con lộ đá, bến phà Tân Tịch là cầu nối sang sông đi thị xã Sa Đec (cách 21 km về phía đông nam). Trên cù lao lại có nhiều con lộ bằng đất, đi lại thuận lợi. Đây là vùng đất mềm, nhiều sông rạch nên cơ giới đi lại khó khăn.

Tổng An Tịnh là vùng địch kiểm soát, gồm sáu xã Tịnh Thới, Tân Tịch, Tân Thuận Đông, Tân An, Hoà An, Tân Thuận Tây và thị trấn Cao Lãnh. Địch lợi dụng hai sông lớn làm chướng ngại vật thiên nhiên kết hợp với hệ thống đồn bốt dọc theo ven sông hình thành vành đai phòng thủ vững chắc bảo vệ hậu phương của chúng mà thị trấn Cao Lãnh là trung tâm. Lực lượng địch ở đây gồm có: Đại đội 10 Hòa Hảo do tên Phan Văn Phùng chỉ huy, đại đội 31 Hòa Hảo do tên Hồ Nhật Tảo chỉ huy đóng quân từ Mỹ Tho, tổng An Tịnh đến xã Phong Mỹ. Ngoài ra còn có một số đơn vị lính Cao Đài, một đại đội lính lê dương (Ma-rốc) là lực lượng hành quân cơ động1; khi bị tiến công, các đồn bốt trong phạm vi cù lao có thế tiếp viện nhanh chóng cho nhau, hỏa lực bắn thẳng và vòng cầu từ thị trấn có thể chi viện trực tiếp. Lực lượng cơ động và pháo cơ động trên sông sẵn sàng tổ chức các cuộc hành quân, tiếp viện những nơi bị ta uy hiếp và các cuộc ngăn chặn đường lui quân của ta. Đặc tính của lính ngụy Hòa Hảo là hay dùng lối đánh “chim sẻ” để ngăn chặn ta, đồng thời tổ chức mạng lưới gián điệp và báo động hành động của quân ta. Nhưng quân địch ở “địa bàn chiến dịch” xa chỉ huy trung tâm, đường tiếp viện chủ yếu là bằng tàu trên sông Tiền Giang vào, do đó nếu ta chặn được tàu, thì địch ở Cao Lãnh hoàn toàn bị cô lập.

Về ta, phía bắc sông Cao Lãnh là vùng tự do của ta thuận tiện cho việc tập kết, tiếp cận, tổ chức trạm tiếp tế, cứu thương, v.v... Nếu phương tiện vận chuyển của ta dồi dào, ta có thể tiến công địch từ nhiều hướng, mũi. Nhưng việc hành quân phải vượt qua nhiều sông rạch, nếu bị lộ dễ bị địch dùng xung lực, hoả lực chia cắt đội hình và bao vây tiêu diệt. Nhưng các chiến sĩ của ta rất thông thạo địa hình, lại được quần chúng nhân dân đã giác ngộ cách mạng sẵn lòng che chở là một thuận lợi rất cơ bản.

Lực lượng của ta tham gia chiến dịch gồm: Tiểu đoàn 309 chủ lực của khu, một tiểu đoàn tập trung thuộc trung đoàn 115, một đại đội trợ chiến (đại đội 1028 trung đoàn 115), một trung đội thủy lôi, một trung đội dân quân du kích tập trung và dân quân du kích xã, công an xung phong, quốc vệ đội và cán bộ dân chính đảng địa phương. Phương châm tác chiến là vây đồn diệt viện kết hợp với võ trang tuyên truyền.

Kế hoạch tác chiến: Lực lượng chia thành hai bộ phận:

Bộ phận bao vây đồn bốt, đánh chặn viện, đánh tàu trên sông Cao Lãnh gồm các tiểu đoàn 309, đại đội 1028 trợ chiến, trung đội thuỷ lôi (thuộc đại đội 1031) và một bộ phận địa lôi. Bố trí cụ thể như sau:

Đại đội 941 tiểu đoàn 309, một tổ thủy lôi, hai bộ phận của đại đội 1028 (có Badôca, 2AT, 1 trọng liên 12,7mm), bố trí dọc hai bên sông Cần Lố từ nam và Thông Lưu đến tháp canh số 19, có nhiệm vụ tiêu diệt tàu và bộ binh địch vào sông Cao Lãnh trên hướng Cần Lố và bảo vệ đường về cho đội vũ trang tuyên truyền.

Một tiểu đội thuộc đại đội 941 tiểu đoàn 309, một tiểu đội 12,7mm bố trí lại ngã ba sông Cần Lố và Cao Lãnh, có nhiệm vụ ngăn chặn tàu địch hoặc làm chậm bước tiến của chúng để đại đội 941 vận động về tăng cường cho đại đội 939 tiểu đoàn 309 chặn đánh tầu địch.

Một trung đội của đại đội 939, tiểu đoàn 309, một tổ địa lôi ba AT, bố trí trên bờ sông Cao Lãnh, đoạn ngã ba Rạch Bảy, có nhiệm vụ dùng hỏa lực kết hợp với địa lôi ngăn chặn bộ binh địch từ thị trấn và đồn số 9 ra hướng Cần Lố, ngăn chặn tàu địch khi chúng đã lọt qua hai trận địa trên.

Hai trung đội của đại đội 909, tiểu đoàn 309, một tổ địa lôi bố trí gần thị trấn (trên đồn 8 ) theo lộ mới đi Phong Mỹ đến lô cốt số 4, có nhiệm vụ bao vây, nếu có điều kiện thì đánh chiếm các lô cốt 4, 5, 6, 7, 8; dùng địa lôi kết hợp hoả lực ngăn chặn địch từ thị trấn ra tiếp viện cho các lô cốt trên.

Đại đội 940 tiểu đoàn 309, bộ phận thuỷ lôi của 1031, một trung đội thuộc đại đội 1029 trung đoàn 115, bộ phận trợ chiến của đại đội 1028 (có hai Pi-át, hai Badôca, hai AT, hai trọng liên 12,7mm, một cối 60mm), một bộ phận địa lôi; bố trí trên vàm sông Con (sông Tiền) phía tây Cao Lãnh, có nhiệm vụ tiêu diệt bộ binh và tàu địch vào sông Cao Lãnh, bảo vệ đường về cho bộ phận vũ trang tuyên truyền; đồng thời bao vây lô cốt số 1, số 3, tiêu diệt lô cốt số 2 ở ngã ba lộ mới để tạo điều kiện đánh viện sau này. Các bãi địa lôi bố trí ở khoảng gần lô cốt số 1; khoảng lộ mới đi Phong Mỹ và khoảng gần rạch Cái Kích để kết hợp với các trung đội bộ binh tiêu diệt quân địch từ hướng đổ bộ theo dọc sông Cao Lãnh và từ hướng lô cốt số 21 lên.

Bộ phận võ trang tuyên truyền trong tổng An Tịnh: Gồm đại đội 1027, đại đội 1030, một trung đội của đại đội 1035, hai trung đội của đại đội 1029 trung đoàn 115, một bộ phận địa lôi, hai trung đội dân quân du kích tập trung, công an xung phong, quốc vệ đội và cán bộ dân chính địa phương; có nhiệm vụ bao vây các lô cốt trong phạm vi vũ trang tuyên truyền, đảm bảo cho việc vũ trang tuyên truyền thắng lợi, trừ gian diệt tề và tổ chức đánh viện nhỏ. Bố trí như sau:

Hai trung đội thuộc đại đội 1029, một trung đội địa lôi bố trí ở vùng Hòa An từ Rạch Xếp sang Rạch Ba Khía đến rạch Cái Tôm có nhiệm vụ phong tỏa địch ở thị trấn ra và từ bến phà Tân Tịch theo lộ đá Cao Lãnh lên, hỗ trợ cho lực lượng dân quân du kích, công an xung phong và cán bộ địa phương làm nhiệm vụ vũ trang tuyên truyền, diệt tề trừ gian trong phạm vi xã Hòa An.

Hai trung đội của đại đội 1030 và một bộ phận địa lôi, có nhiệm vụ bao vây lô cốt 18, 14: ngăn chặn định từ bến phà lên.

Một bộ phận bao vây các lô cốt 15, 16, 17 và thiêu hủy kho dự trữ của địch, tổ chức đánh viện nhỏ trong khu vực.

Một trung đội quốc vệ đội và một tiểu đội dân quân du kích bao vây các lô cốt 21, 22 và 23.

Lực lượng còn lại: Đại đội 1027, một trung đội thuộc 1030, trung đội 16 đại đội 1035 phối hợp với công an xung phong, hai trung đội dân quân du kích, cán bộ địa phương tiến hành vũ trang tuyên truyền, diệt tề trừ gian trong các xã Tịnh Thới, Tân Tịch, Tân Thuận Đông ở giai đoạn đầu, sau đó chuyển lên vùng Hòa An và Tân Thuận Tây. Trường hợp trở ngại thì bằng mọi cách làm vũ trang tuyên truyền trong khu vực một ngày đêm xong.

Phương tiện chỉ huy: Có ba đài vô tuyến điện bố trí một đài ở Ban chỉ huy chiến dịch và hai đài ở hai trận địa chặn tàu và bộ binh ở Cần Lố và vàm Sông Con. Liên lạc giữa Ban chỉ huy và các mặt khác có tám trạm, chủ yếu là liên lạc chạy bộ. Tổ chức năm trạm tiếp tế ở vùng tự do sát mặt trận (Mỹ Ngải, Mỹ Trà, An Bình, Mỹ Tho) do các mẹ và các chị phụ trách. Riêng bộ phận vũ trang tuyên truyền thì mang theo lương khô, khi cần sẽ vận động đồng bào trong xã Hòa An giúp đỡ; ba trạm cứu thương và ba trạm phẫu ở An Bình, Bình Trị và Mỹ Tho.

Công tác chính trị, đã tập trung vào việc động viên bộ đội và dân quân xây dựng tinh thần quyết thắng, phấn đấu hoàn thành nhiệm vụ. Tổ chức học tập mục đích, ý nghĩa của chiến dịch, các chủ trương, chính sách đối với lính ngụy và với nhân dân vùng địch tạm chiếm cho bộ đội và cán bộ dân chính đảng địa phương; đề cao kỷ luật dân vận, kỷ luật chiến trường, chống những hành động tham lam lấy chiến lợi phẩm hoặc quân phiệt, trả thù... có ảnh hưởng xấu đến kháng chiến. Đồng thời đề ra kế hoạch, nội dung cho các đội vũ trang tuyên truyền tổ chức các cuộc mít tinh, họp gia đình, kêu gọi, truyền đơn... nhằm vạch rõ âm mưu “dùng người Việt đánh người Việt” của địch; giải thích chủ trương chính sách của Chính phủ kháng chiến cho đồng bào.

Hoạt động nghi binh: Ngày 22 tháng 1 năm 1950, ta đưa tin địch sẽ càn quét vùng Cao Lãnh. Ban chỉ huy trung đoàn 115 ra lệnh cho các cơ quan tỉnh và huyện lập tức rời khỏi địa phương, đồng thời điều động một lực lượng về đối phó. Lệnh cho đơn vị bộ đội địa phương đang hoạt động ở Hồng Ngự chuẩn bị đón lực lượng chủ lực về Tân Châu, Hồng Ngự... Kết quả, chiến dịch đã giữ được bí mật đến phút chót, khi ta nổ súng, địch vẫn lạc mục tiêu nên đã oanh tạc vùng Sầm Sai, Bầu Giốc thuộc huyện Hồng Ngự trong hai ngày 27 và 28 tháng 1 năm 1950.
______________________________________
1.Một đại đội Pháp và Ma-rốc đóng ở thị trấn. Lực lượng Hòa Hảo gồm bốn cứ điểm, mỗi cứ điểm có một trung đội lính, trang bị một trung liên, một số súng trường và tiểu liên, 20 tháp canh với quân số một tiểu đội hoặc nửa tiểu đội mỗi tháp canh, trang bị sáu đến bảy súng trường, một đến hai tiểu liên và một số súng tự chế. Chúng thường đảo quân giữa các bốt để nghi binh, che giấu việc thiếu quân số của chúng.
21 giờ 55 phút ngày 26 tháng 1, trung đội thuộc đại đội 1029 nổ súng tiến công đồn trường học Tân An, hội đồng Vinh và đồn Ông Nhất, nhưng không kết quả nên đã chuyển sang bao vây. Sáng sớm 27 tháng 1, Ban chỉ huy chiến dịch tăng cường một cối 81mm cho đại đội 939, 6 giờ đơn vị nổ súng tiến công các lô cốt số 4, 5, 6, 7, 8 và bắn đạn cối vào thị trấn Cao Lãnh. Địch dùng hỏa lực trong thị trấn chi viện cho một trung đội địch tiến ra đánh bật hai tiểu đội chặn viện của ta và bộ phận đánh bao vây lô cốt số 6 (Chủ Sen) của đại đội 939; cả hai bộ phận này phải rút sang rạch Ca Từ (sau lô cốt số 8 ), dùng tuyến rạch làm trận địa phòng ngự ngăn chặn địch.

Sau 2 giờ chiến đấu, bao vây lô cốt 4, 5, 6 ta bị hy sinh hai đồng chí, bị thương hai người, bộ phận này nao núng nên rút về rạch Bà Lời, bố trí hai bờ kênh ông Ca, do đó các lô cốt này được giải tỏa.

Bộ chỉ huy lệnh cho đại đội 1028 đưa sang một tiểu đội 12,7mm và một tiểu đội đại liên bắn chế áp địch, yểm trợ cho đại đội 939 tiến hành bao vây các lô cốt lần thứ hai. Đến 11 giờ, đơn vị đã giành được thế áp đảo địch, lập lại thế bao vây như trước. Cùng lúc, hai trung đội của đại đội 1029 nổ súng vào các bốt phía tây thị trấn, địch chống trả và cho một trung đội xuất kích, bị ta đánh lui, địch chết và bị thương một số tên. Đến 10 giờ, được tăng cường gần hai trung đội, địch tổ chức phản công lần thứ hai. Chỉ huy bộ phận này cảm thấy bị hở sườn (vì bộ phận chặn viện và bao vây lô cốt số 8 đã rút), tư tưởng dao động nên cho đơn vị rút về bố trí ngang với đồn Kinh Cụt (lô cốt số 7), do đó việc vũ trang tuyên truyền ở vùng Hòa An và việc bảo vệ đường tiến của đại bộ phận lực lượng vũ trang tuyên truyền không thực hiện được.

Bộ phận vũ trang tuyên truyền chia thành hai cánh và tổ chức vượt sông ở hai đoạn An Bình và sông Cần Lố. Địch phát hiện, báo động và tổ chức những cuộc chống trả nhỏ. Cuộc tiến quân của ta vẫn thuận lợi. Quân ta đánh, số quân này phải lui vào đồn bốt, ta bao vây theo kế hoạch và tổ chức mít tinh vũ trang tuyên truyền, trừ gian, diệt tề trên các xã Tịnh Thới, Tân Tịch, Tân Thuận Đông. Đến 10 giờ thì mất liên lạc với hướng của đại đội 1029.

Sau khi thấy đại đội 939 và 940 tiến công các lô cốt không thành công, nhất là chưa giải quyết được lô cốt số 2, đại đội 939 không đủ sức hoàn thành nhiệm vụ, trung đội của đại đội 1029 không làm tròn nhiệm vụ, nên Ban chỉ huy chiến dịch quyết định chuyển sang phương án 2 “Hoàn thành vũ trang tuyên truyền trong một ngày đêm”. Tập trung lực lượng giải quyết một số lô cốt ven sông Cao Lãnh và lệnh cho bộ phận vũ trang tuyên truyền tiến lên vùng Hòa An, Tân Thuận Tây; nếu hoàn thành nhiệm vụ thì rút về tăng cường cho ba đại đội 939, 940, 941 trước sáng ngày 28 tháng 1 năm 1950.

Đến 24 giờ, bộ phận này đã tổ chức mít tinh trên 20 địa điểm, phát 15.000 truyền đơn, họp gia đình, giải tán hai ban hội tề của xã Hòa An và Tân An; bắt một số lính bảo an, giải thích chính sách rồi tha tại chỗ, lấy lại 4.000 giạ lúa (100 tấn) trả lại cho nhân dân, làm chủ tình hình ở sáu xã của tổng An Tịnh.

1 giờ 30 phút, ta để lại dân quân du kích và quốc vệ đội hoạt động, còn phần lớn lực lượng tiến công trong cù lao rút về căn cứ để củng cố, chuẩn bị chiến đấu cho ngày hôm sau.

Lực lượng chặn bộ binh và tàu ở vàm Sông Con được tăng cường thêm hai trung đội của đại đội 1029, liên tiếp tổ chức tiến công lô cốt số 2 và 3, địch chống trả yếu ớt và 6 giờ sáng 28 tháng 1, địch ở lô cốt số 2 xin thương thuyết rồi đầu hàng lúc 7 giờ 20 phút; ta thu toàn bộ vũ khí, bắt toàn bộ quân địch, san bằng lô cốt.

Đại đội 1030 và một trung đội của đại đội 1035 về hợp sức với đại đội 939 tiến công mạnh lô cốt 4, 5, 6, 7, 8, bắn đạn cối vào thị trấn. Đến 15 giờ, vì ta bao vây không chặt, địch ở lô cốt số 6 bỏ chạy, ta thiêu hủy lô cốt. Địch cho tàu theo sông Tiền vào tiếp viện, đồng thời cho lính Hòa Hảo đổ bộ lên vàm Tân Thuận Tây (gần đồn số 1), khoảng 50 tên theo lộ Hòa An định đánh vào lực lượng ta phía ngoài thị trấn. Hai tàu đổ bộ khác dưới sự chi viện của pháo và máy bay ném bom, đi vào sông Cao Lãnh. Quân ta bố trí ở đây đã tiến đánh, địch phải lui hết về đồn số 1. Bộ phận chặn tàu của ta đánh đắm một chiếc, bắn bị thương một chiếc, làm nhiều địch chết và bị thương. Đến 17 giờ, địch cho ba tàu đến bắn dữ dội vào mặt trận ta và kéo hai tàu bị đắm và bị thương về Sa Đéc. Hướng Cần Lố, Ban chỉ huy tăng cường đại đội 1027 triển khai chiến đấu với đại đội 941, nhưng mặt này vẫn yên tĩnh. Do đó, gần tối 28 tháng 1, Bộ chỉ huy chiến dịch rút hai trung đội của đại đội 1207, một tiểu đội 12,7mm và một Badôca về tăng cường cho đại đội 940. Đại đội 1030 bố trí chặn viện mặt thị trấn và chuẩn bị tiến công tiêu diệt bốt số 7, bao vây bốt số 8. Đại đội 939 uy hiếp các lô cốt 4, 5 và 6.

Trong đêm 28 tháng 1, ta tiến công mãnh liệt các lô cốt ở ven sông Cao Lãnh. Đến 8 giờ sáng ngày 29 tháng 1, địch ở lô cốt 3 bỏ chạy sang lô cốt 4, ta phát hiện chậm nên không diệt được địch, chỉ san bằng lô cốt. Đại đội 1030 uy hiếp mạnh đồn số 7 (Kinh Cụt) bằng hỏa lực cối 81mm và 12,7mm, nên đến 17 giờ, địch đầu hàng, ta thu toàn bộ vũ khí và bắt sống gần 30 lính ngụy.

Đến 24 giờ, quân ta hết đạn, Ban chỉ huy chiến dịch cho các đơn vị phía tây Cao Lãnh rút, chỉ để lại đại đội 1030 và một trung đội của đại đội 1035 tiếp tục bao vây bắn phá các lô cốt, kết hợp với dân quân du kích đột nhập quấy rối về phía Hòa An, Tân Thuận Tây. Hai trung đội du kích chuyển xuống hoạt động nghi binh ở Mỹ Xương và Bình Hàng Trung. Cũng trong đêm, ta thiêu hủy thêm hai hội quán của bọn tề có vũ trang ở xã Hòa An; địch ở lô cốt số 23 hoang mang bỏ chạy, dân quân vào phá sập.

Sáng 30 tháng 1, địch ở lô cốt số 4 và 5 bí mật rút lui, ta phát hiện khi chúng đang lội sông về phía Hoà An, nổ súng diệt được vài tên, số còn lại chạy thoát. 16 giờ, một bộ phận quân địch từ tàu thủy đổ bộ lên đoạn giữa đồn số 1 và lô cốt số 2, vì chúng đã mất tinh thần nên khi mới đụng quân ta đã bỏ chạy tán loạn, ta giết và làm bị thương một số, trong đó có một quan hai.

Ngày 31 tháng 1, Ban chỉ huy chiến dịch điều hai đại đội 1207 và 1030 trở lại hoạt động tác chiến; địch ở lô cốt số 21 bỏ trốn, quân ta san bằng. Vì đạn dược đã cạn nên 7 giờ ngày 1 tháng 2 năm 1950, Ban chỉ huy ra lệnh kết thúc chiến dịch; đồng thời để lại đại đội 1030 cùng dân quân du kích hoạt động ở vừng Mỹ Trà, Mỹ Ngải, Hòa An, Tân Thuận Tây, Tịnh Thới, Tân Tịch để tuyên truyền và khuếch trương chiến quả.

Kết quả: Sau sáu ngày đêm chiến đấu, ta tiêu diệt lô cốt số 2 và cứ điểm số 7, bức rút và phá hủy sáu lô cốt khác; phá hủy hai hội quán của tề; đánh chìm một tàu đổ bộ VP-15, bắn bị thương tàu VP-10; một máy bay; diệt 20 tên Pháp và lê dương (có một quan hai thủy quân và một quan hai bộ binh), 75 lính ngụy (có hai chỉ huy); loại khỏi vòng chiến đấu 55 tên; bắt một lính Pháp và 32 lính ngụy (có một chỉ huy); bắt và thả tại chỗ số đông bảo an; giải tán hai ban hội tề của xã Hòa An và Tân An; giải phóng ba xã Tân An, Hòa An, Tân Thuận Tây với 600 dân; thu 40 súng các loại. Ta hy sinh 17 người, bị thương 30 người.



Mục đích đề ra rõ ràng và đã thực hiện được cơ bản1. Thắng lợi rõ nhất là về mặt vũ trang tuyên truyền; bên cạnh đó đã tiêu hao, tiêu diệt được một số lượng đáng kể sinh lực địch, san bằng được một loạt lô cốt, thực hiện được kế hoạch vừa phá được tuyến phòng thủ của địch, đập tan bàn đạp nơi xuất phát để đi càn quét, vừa ngăn chặn âm mưu lấn chiếm của chúng một cách tích cực nhất; đã đẩy địch từ thế chủ đóng tiến công phải rút về phòng ngự và phải có thời gian củng cố khôi phục. Thắng lợi của hai mặt tuyên truyền vũ trang và tác chiến quân sự đã gây được không khí hăng hái giết giặc lập công của bộ đội và dân quân du kích, củng cố được lòng tin và sự ủng hộ kháng chiến của quần chúng nhân dân.

Ưu điểm nổi bật là Ban chỉ huy chiến dịch đã xây dựng được một phương án tác chiến tỉ mỉ, có nhiều giả định và đề ra được cách đối phó cụ thể nên đã giúp cho chỉ huy các cấp chủ động, không bị lúng túng khi diễn biến tình huống thay đổi. Công tác nghi binh cũng tiến hành tốt, đạt hiệu quả cao. Ban chỉ huy đã vận dụng tốt đường lối chiến tranh nhân dân, huy động và tổ chức được nhiều lực lượng vũ trang và quần chúng nhân dân tạo nên sức mạnh to lớn của chiến dịch.

Nhưng chiến dịch cũng bộc lộ rõ một số điểm yếu: “Thực chất đây không phải là một chiến dịch mà là một đợt hoạt động vũ trang tuyên truyền tương đối có quy mô”2. Trong phương châm nhiệm vụ và trong kế hoạch tác chiến ý định “tiêu diệt địch” không rõ ràng, nặng về bảo vệ đường và ngăn chặn địch để phục vụ cho vũ trang tuyên truyền. Phân công nhiệm vụ chưa hợp lý (một đại đội 939 mà giao bao vây một cứ điểm, năm lô cốt đồng thời phải chặn viện thì quá sức, không làm nổi); công tác nắm địch nhiều lúc chưa chắc chắn dẫn đến bố trí lực lượng phân tán, dàn trải, không tập trung lực lượng vào mục tiêu chủ yếu, do đó bỏ lỡ nhiều cơ hội diệt địch, hạn chế đến kết quả, thắng lợi chung.
____________________________________
1.Hồ sơ: VL-11.829BQP ghi: “Chiến dịch Cao Lãnh không đạt được mục đích và nhiệm vụ đề ra”... tr. 67.
Xem tiếp...

ĐỊNH HƯỚNG ĐI ĐÂU? 66


-NÓI NHƯ CON "KÉT", LÀM NHƯ CON "KẸT"!
-QUAN "NỔ" = MỴ DÂN
-Định hướng như ... cứt mà đòi lên "Thiên Đường".  
-Rồi đây, lịch sử sẽ chỉ rõ công - tội!
----------------------------------
                    SỞ HỮU ĐẤT ĐAI
-Ranh giới lãnh thổ hình thành từ bao giờ? Lãnh thổ là một khu vực đất đai nhằm mưu sinh được cho là đã bị chiếm cứ bởi một cá thể, vài cá thể hay một cộng đồng sinh vật nào đó. Ở nhiều loài sinh vật đã có cái tạm gọi là "ý niệm bản năng" về lãnh thổ, đã có những "hành vi sinh học" nhằm xác định ranh giới lãnh thổ tuy còn mờ nhạt, cũng như những hành động bảo vệ lãnh thổ khi bị xâm phạm. Ở loài người, khi đã hình thành tập quán sống định cư lâu dài (bằng trồng trọt cây lương thực và chăn nuôi gia súc), thì khái niệm về lãnh thổ cũng trở nên rõ ràng và việc giữ gìn, bảo vệ lãnh thổ cũng trở nên có ý thức trước nạn xâm lấn của tập đoàn người khác. Nói tóm lại, việc phân định lãnh thổ, giành giật lãnh thổ và bảo vệ lãnh thổ có nguyên nhân sâu xa từ sự đấu tranh sinh tồn, mà xa hơn nữa, có thể tìm thấy gốc xuất phát trong "cố gắng tồn tại"- một qui luật nền tảng của Tự Nhiên.
-Nếu xét về mặt hình thành lãnh thổ, thì dân tộc Việt đã định cư trên mảnh đất này từ rất lâu rồi. Nhưng lãnh thổ Việt Nam có lẽ chỉ được xác định tương đối dứt khoát vào thời các vua Hùng, đó là khu vực trong phạm vi châu thổ sông Hồng và miền duyên hải ở đó. Sau, cùng với quá trình lan tỏa dân cư tự phát xen lẫn tự giác, mà lãnh thổ Việt Nam mới có hình thù như ngày nay. Có lẽ vào buổi đầu, khái niệm sở hữu đất đai cũng tương tự như sở hữu lãnh thổ, nghĩa là người dân Việt có quyền sở hữu "cha truyền con nối" đất đai để sinh sống (làm nông nghiệp mà không có đất đai thì thật khốn khổ (!) và từ đây chúng ta phần nào hiểu được vì sao người Việt còn gọi lãnh thổ là "đất nước" và vì sao "quê hương, đất nước" là thiêng liêng!). Đến nay do quan niệm cộng sản về quyền sở hữu mà đất đai thuộc quyền "sở hữu toàn dân", nhà nước "tự cho phép" mình làm đại diện chủ sử hữu!
-Việc sở hữu toàn dân về đất đai là đúng hay sai? Trước tiên, muốn trả lời câu hỏi đó phải trả lời được câu hỏi: sở hữu toàn dân là gì? Thiên nhiên và những thực phẩm có được từ thiên nhiên để sống còn, thuở đầu tiên không là của ai cả. Mọi người đều có thể kiếm sống ở bất cứ đâu, bất cứ lúc nào, miễn là có khả năng sinh tồn được. Về sau, trong quá trình phát triển xã hội, tình cảm con người ngày một sâu sắc nhờ có quá trình phát triển mọi mặt xã hội (chủ yếu là phát triển lực lượng dân cư!) tuân theo qui luật "đấu tranh sinh tồn" làm nảy sinh khái niệm "sở hữu". Sở hữu là sự chiếm đoạt được số đông thừa nhận những thứ trực tiếp hay gián tiếp có trong thiên nhiên hoặc nhân tạo giúp cho việc mưu sinh hay sống còn (gọi là của cải) cho một cá nhân, một tập đoàn hay một cộng đồng người, một dân tộc người chiếm đoạt (được gọi là "chủ sở hữu"). Lãnh thổ và sở hữu đất đai cũng từ đó mà hình thành. Đẻ ra khái niệm sở hữu của cải tức là đẻ ra một hướng lựa chọn mới để mưu sinh, tồn sinh và phát sinh. Đẻ ra sự tích lũy, sở hữu là đẻ ra thêm một hướng nữa trong mưu sinh, tồn sinh và phát sinh, lấy của cải cùng với sức lao động (thặng dư) tạo thêm ra của cải. Đó là cách nói vắn tắt nhất về quá trình mưu sinh mang yếu tố tất yếu hình thành nên sự bóc lột, chiến tranh, và nền kinh tế tư bản trong xã hội loài người. Lúc đầu, người ta chỉ biết khái niệm chung về sở hữu, mặc dù các hình thức sở hữu đã tồn tại rất sớm trong thực tế. Chính cuộc đấu tranh đi đòi quyền sống lâu dài và quyết liệt của quần chúng cần lao đã vạch ra rõ ràng sự khác nhau của các loại sở hữu và dẫn đến khái niệm công hữu, cộng sản. Ngày nay,  người ta phân biệt hai loại sở hữu cơ bản trong thực tế là sở hữu tư nhân (tư hữu) và sở hữu tập thể (công hữu). Sở hữu toàn dân thuộc về công hữu. Công hữu là sở hữu không thuộc tư hữu mà thuộc của tất cả mọi người. Theo wikipedia: "Sở hữu trong kinh tế chính trị, là một phạm trù cơ bản, chỉ mối quan hệ giữa người với người trong việc chiếm dụng của cải. Nó là hình thức xã hội của sự chiếm hữu của cải. Nó có thể được luật hóa thành quyền sở hữu và được thực hiện theo cơ chế nhất định gọi là "chế độ sở hữu" và "Quyền sở hữu" bao gồm 3 quyền sau: chiếm hữu, sử dụng và định đoạt
- Chiếm hữu: quyền nắm giữ tài sản/tiêu sản trong tay
- Sử dụng: quyền sử dụng tài sản/tiêu sản theo ý muốn
- Định đoạt: quyền quyết định cho mượn, cho thuê, bán, cầm cố, thế chấp, phá hủy
Khi cho người khác/tổ chức khác mượn hoặc thuê tài sản/tiêu sản thì ta đã trao cho họ 2 quyền: chiếm hữu và sử dụng. Còn quyền định đoạt vẫn nằm trong tay ta. Người khác/tổ chức khác đó sẽ vi phạm pháp luật nếu họ sử dụng quyền định đoạt (bán, cầm cố, thế chấp, phá hủy) đối với tài sản/tiêu sản của ta". 
-Như vậy, công hữu là một khái niệm rất tương đối. Tùy phạm vi sử dụng mà nó có nghĩa riêng, chung hay tối nghĩa. Thí dụ lãnh thổ Việt Nam, nều xét trên bình diện thế giới, thì nó thuộc dạng tư hữu (của riêng người Việt Nam), nếu xét riêng trên lãnh thổ Việt Nam, thì nó là công hữu (của mọi người Việt Nam), nhưng "của mọi người" xét cho cùng là "không của ai cả".
-Tương tự như vậy, đất đai, khi con người còn săn bắt-hái lượm, là không thuộc sở hữu của ai cả. Nhưng khi phương thức trồng trọt-chăn nuôi thành tập quán sống lâu dài, khi lao động trên một mảnh đất làm kế mưu sinh đã thành thói quen thì sở hữu tư nhân về đất đai ra đời. Có nhiều nguyên nhân, nhưng chủ yếu một mặt là do đòi hỏi về sự phát triển số lượng lực lượng lao động xã hội (cũng có nghĩa là sự phát triển nhu cầu lương thực xã hội), mặt khác là do kiếp đời người hữu hạn, cũng như sự phát triển văn minh lãnh thổ..., đã tất yếu làm xuất hiện đòi hỏi phải phân phối và phân phối lại đất đai. 
-Có thể nói, quan niệm sở hữu toàn dân về đất đai, nếu hiểu đúng đắn, là một yêu cầu của chính quần chúng, là một quan niệm tiến bộ, văn minh, vừa thỏa mãn với sự mưu sinh của quần chúng vừa phù hợp với sự phát triển đất nước!
-Trên mạng thấy:
 Hiến pháp năm 2013, được Quốc hội thông qua ngày 28/11/2013, tiếp tục nhất quán khẳng định “… đất đai… là tài sản công thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý theo quy định của pháp luật”. Tại Chương 1, Điều 4, Luật Đất đai năm 2013 ghi: “Đất đai thuộc sở hữu toàn dân, do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý, Nhà nước trao quyền sử dụng đất cho người sử dụng đất theo quy định của Luật này”.
Nói đất đai thuộc chế độ SHTD, do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý, điều này có nghĩa là, SHTD không phải là sở hữu nhà nước về đất đai. Nhà nước chỉ là đại diện cho chủ SHTD, tức là toàn thể công dân của một nước. Nhà nước thay mặt toàn dân quy định việc phân định các quyền năng và cơ cấu các chủ thể thực hiện các quyền năng này nhằm khai thác, sử dụng có hiệu quả đất đai. Và quy định việc phân chia lợi ích thu được từ đất đai đáp ứng yêu cầu của toàn dân và của toàn xã hội. Theo Luật Đất đai năm 2013, Nhà nước có được một tập hợp các quyền cơ bản: Quyền sở hữu; quyền định đoạt và quyền quản lý.

Người dân - người sở hữu, có các quyền năng, như: Quyền chiếm hữu, QSDĐ, quyền hưởng thành quả lao động, kết quả đầu tư trên đất; quyền được bảo vệ khi người khác xâm phạm đến QSDĐ hợp pháp của mình; quyền khiếu nại, tố cáo, khởi kiện về những hành vi vi phạm QSDĐ hợp pháp của mình và những hành vi khác vi phạm pháp luật về đất đai; quyền được chuyển đổi, chuyển nhượng, quyền được giao dịch trên thị trường đất đai, quyền thế chấp, thừa kế, cho, tặng QSDĐ. Đây là các quyền hoàn toàn chính đáng trong khái niệm “sở hữu toàn dân”. Bởi người dân là chủ thể chính chứ không phải Nhà nước.

Với cách hiểu như trên thì SHTD về đất đai không phải là phạm trù, thuật ngữ lý thuyết, trừu tượng, thuần túy mang tính pháp lý, mà là một phạm trù kinh tế hiện thực.
-Luật pháp nói như vậy nhưng trên thực tế người ta vẫn hiểu thế này: lúc bình thường sở hữu đất đai coi như thuộc về tư hữu (vì coi như đều có cả ba quyền: chiếm hữu, sử dụng,mua bán), nhưng khi cần thì sự tư hữu ấy chuyển hóa thành công hữu, tức là thuộc sở hữu nhà nước (như đã nói, khái niệm "sở hữu toàn dân" là một khái niệm mông lung, bất định. Yêu cầu cụ thể hóa chủ sở hữu đất đai buộc lý tưởng cộng sản phải đi đến quan niệm "đại diện chủ sở hữu". Mà nhà nước đại diện cho một chủ sở hữu mông lung, không xác định được thì có khác gì là chính chủ sở hữu đâu?).
-Từ xưa, lãnh thổ là môi trường sinh sống thường xuyên của một cộng đồng người (một dân tộc, một bộ lạc...) nhất định, đất đai là phần lãnh thổ mà người dân mưu sinh hàng ngày (thậm chí là kiếm tìm hạnh phúc!) trên đó. Đối với những nước còn thuần nông nghiệp (như Việt Nam) thì thành ngữ "tất đất tấc vàng" vẫn đúng. Mặt khác, do qui luật "đấu tranh sinh tồn" và tăng trưởng lạm phát số lượng dân cư chi phối, nên xuất hiện nhu cầu phân phối lại đất đai, nên hướng phát triển lên văn minh của xã hội loài người (nói riêng là cộng đồng người), kéo theo nhu cầu về đất đai lãnh thổ dùng vào việc công cộng, cải tạo, xây dựng lãnh thổ cho phù hợp, vững mạnh, tương xứng với nền văn minh ấy là tất yếu.
-Vậy, việc sử dụng đất đai trong một lãnh thổ nhằm thỏa mãn hai mục đích. Hai mục đích đó, trong một xã hội phát triển lành mạnh, sáng suốt, xét cho cùng thì đều phục vụ cho mục đích chung, thường gọi là "quốc kế dân sinh". Mục đích thứ nhất, có tính thường xuyên, đóng vai trò cơ bản, chủ yếu, mặc định, quyết định đến sống còn, thịnh suy, an nguy xã hội là nuôi trồng thực phẩm, lương thực để đảm bảo đời sống người dân. Mục đính thứ hai, có tính lâu dài, nhân tạo, công cộng thuộc lãnh thổ, cũng rất quan trọng nhưng không quyết định trong "quốc kế dân sinh", thường được cho là có tính hỗ trợ (có đắc lực hay không thì chưa biết!) cho mục đích thứ nhất.
-Đất nước Việt Nam ta sau chiến tranh, vượt qua thời lạc lối, đổi mới, phát triển nền kinh tế, hướng tới "dân giàu nước mạnh" cũng chính là nhằm đạt được hai mục đích trên.Tuy nhiên, một phần vì chưa thấm nhuần khái niệm "nhà nước nhân dân" (là nhà nước của dân, do dân và vì dân), một phần vì nạn tham nhũng (lấy danh nghĩa qui hoạch vì quốc kế dân sinh nhưng thực ra là vì tư lợi), phần nữa là chưa thấu đáo kiến thức, nên việc thực hiện hai mục đích ấy ở nhiều nơi chưa đồng bộ, chưa phù hợp, còn gây ra nhiều mâu thuẫn, nhiều phản ứng gay gắt, dần hình thành nguy cơ làm rạn vỡ niềm tin không thể hồi phục được của nhân dân đối với chính quyền.
-Thử hỏi từ khi thực hiện "quốc kế dân sinh" đến nay (nhất là thời kỳ đầu!), đã có bao nhiêu cuộc đền bù giải tỏa cho người dân cực kỳ rẻ mạt, phi lý, đã có bao nhiêu cuộc cưỡng bức đất đai đầy ngang trái, bất công? Nhiều lắm, thậm chí là không đếm xuể! Ôi đất nước Việt Nam ngày nay, trong đó có bao nhiêu phần là máu xương của những người anh hùng giữ nước, có bao nhiêu phần là mồ hôi nước mắt của người dân?
-Nguyên nhân chân chính của sự hình thành nhà nước trên một lãnh thổ là phối hợp hành động nhằm tạo ra (những) hành động chung, chính đáng, phù hợp, đạt hiệu quả tối ưu, phụng sự cho công cuộc mưu sinh của cộng đồng người sống trên lãnh thổ đó (gọi là "toàn dân"). Vì lẽ đó, không những đất đai là sở hữu toàn dân mà đại diện chủ sở hữu đất đai (tức nhà nước) cũng thuộc sở hữu toàn dân, nghĩa là dân có đủ ba quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt nhà nước(!). Đại diện cho toàn dân để sử dụng ba quyền đó và cả quyền sở hữu đất đai chính là quốc hội. Qua đây mà thấy, quốc hội phải là nơi hội tụ tinh hoa trí tuệ của một đất nước, có quyền lực tối cao, hoạt động độc lập như một thực thể và chịu trách nhiệm trực tiếp trước toàn dân. Nếu đúng chức năng, vai trò của quốc hội là cực kỳ quan trọng, nó quyết định đến sự tồn vong của cả một chế độ, và nếu xét trên bình diện cá nhân thì chủ tịch quốc hội là người có quyền lực cao nhất, chịu trách nhiệm chính và trực tiếp trước toàn dân về những quyết sách của nhà nước.
-Trước đây, dưới ách đô hộ, bóc lột của quân xâm lược và triều đình phong kiến thối nát, nhân dân ta phải sống đời lầm than, đói khổ. Đảng cộng sản Việt Nam đã tiền phong chiến đấu hy sinh, dẫn dắt toàn dân làm cách mạng, mở đường, chỉ lối cho dân tộc đến bến bờ độc lập, tự do. Lúc đó Đảng nắm vai trò toàn quyền lãnh đạo là đương nhiên, chính đáng, hợp lòng dân, được đại đa số nhân dân hết lòng ủng hộ, ca ngợi và trung thành đi theo Đảng. Sau khi đập tan chính quyền thực dân, xây dựng nhà nước nhân dân, thành lập quốc hội, Đảng không còn trong sáng như xưa nữa, nhiều đảng viên dần đã có những biểu hiện ngày càng rõ ràng về sự thoái hóa, biến chất làm mất niềm tin của nhân dân, nhưng Đảng vẫn tự coi mình có quyền lãnh đạo nhà nước. Đây là một mâu thuẫn rất sâu sắc về mặt lý luận. Muốn lãnh đạo nhà nước thì Đảng phải thao túng quốc hội (qua đây mà thấy Đảng có cố gắng không độc tài đến mấy vẫn phải độc tài!). Chính vì thế mà quốc hội ngày nay vẫn là một thực thể phụ thuộc, chưa phải là nơi hội tụ đủ nhân tài, tinh hoa trí tuệ của toàn dân, chưa là đại diện chân chính của nhân dân cần lao, nghĩa là của dân tộc Việt.
-Hoạt động duy nhất của nhà nước nhân dân là phụng sự "quốc kế dân sinh" làm "dân giàu nước mạnh". Có lẽ phải quan niệm lại cách sử dụng đất đai trong một lãnh thổ để thỏa mãn lâu dài cùng lúc hai mục đích "quốc kế dân sinh", để không còn có thể núp bóng danh nghĩa "vì dân" mà tư lợi. Nên chăng, cần cho rằng trong một đất nước đồng thời tồn tại hai quyền sở hữu đất đai là tư hữu và công hữu? Quyền tư hữu về đất đai là quyền sở hữu có tính tương đối, có giới hạn. Còn quyền công hữu về đất đai là quyền sở hữu có tính tuyệt đối, lâu dài. Trong khi thực thi hai quyền đó, có thể có lúc xảy ra trúc trắc, trái chiều, mâu thuẫn, nên để hòa hợp, hài hòa, thuận thảo hai mục đích và được đại bộ phận nhân dân ủng hộ, luôn luôn phải thỏa mãn nguyên tắc cơ bản là ưu tiên quyền sở hữu tư nhân, vì xét đến cùng thì nhà nước cũng chỉ là công cụ của toàn dân, cán bộ nhà nước, trước khi bước vào chấp nhận hoạt động "quan trường", phải thấm nhuần tư tưởng là đầy tớ phụng sự cho dân. Nghĩa là, khi nhà nước cần thu hồi một khu vực đất đai nào đó, phục vụ cho "quốc kế dân sinh", phải lấy đảm bảo kế sinh nhai lâu dài của nhân dân trong vùng qui hoạch làm tối thượng dù nhà nước có phải chịu thiệt thòi trước mắt (thực ra là toàn dân thiệt thòi chút ít vì cuộc sống của bộ phận dân cư khu vực), nghĩa là phải thực hiện nghiêm chỉnh các bước sau:
1, Lập dự án. Phân tích có khoa học ích lợi của công trình. Xác định xem công trình đã thực sự phù hợp về không gian và cả thời gian chưa.
2, xem xét cụ thể mức độ ảnh hưởng đến cuộc sống mưu sinh của người dân trong khu vực qui hoạch để có kế hoạch phân phối đất đai sản xuất mới và đền bù thỏa đáng.
3, Nhất quyết phải hỏi ý dân minh bạch, rõ ràng (trừ các công trình an ninh quốc phòng) và tôn trọng triệt để ý kiến phán quyết (theo số đông) của nhân dân (nếu ý kiến nhân dân là phủ định thì dứt khoát không triển khai!).
-Nếu ngay từ đầu "các quan" thực hiện chính trực việc qui hoạch đất đai theo ba bước ấy, tin chắc rằng sự phản kháng của dân chúng như từng thấy (vụ Đoàn Văn Vươn, mở rộng Hà Nội, Dương Nội, Văn Giang, Fomosa...) đã không xảy ra, đã không phải chứng kiến những cảnh đau lòng. Vì dân tộc Việt, như đã thấy từ ngàn xưa, là dân tộc bất khuất, thông minh, biết lẽ phải, nhẫn nhịn, vị tha, hết mình ủng hộ nhà nước nếu nhà nước đó thực sự là "của dân, do dân và vì dân", tồn tại và hành động chỉ vì độc lập, tự do, ấm no, hạnh phúc của toàn dân, chứ tuyệt đối không có một mưu lợi nào khác.
-Mong nhà nước nghĩ lại!
-Vậy, có thơ rằng:

          ÔNG ĐỊA

 Cục đất có được chút màu bôi
Bôi mình xanh đỏ, tô mắt môi
Gấp miếng giấy bồi phe phẩy quạt
Kiếm chỗ thâm trầm đặt đít ngồi

Kiếm chỗ thâm trầm đặt đít ngồi
Khỏe re ông Địa được thăm nuôi

Khỏi cần làm lụng mà no béo
Phạch bụng nghênh nhòm tít mắt cười

Phạch bụng nghênh nhòm tít mắt cười
Quyền cao chức cả, thế mà thôi
Ai dám khinh ông là cục đất
Cũng người, cũng ngợm, cũng như Trời

Cũng người, cũng ngợm, cũng như Trời
E nỗi thằng Dân lúc thất thời
Cáu ông, nó quẳng vù thiên lý
Bay trúng bệ thờ, nát rã rời!

                            Trần Hạnh Thu                

 

---------------------------------------------------------------------
(ĐC sưu tầm trên NET)

9260. Bà Nghị bóp cổ doanh nghiệp, chiếm đất của dân, hút máu ngân hàng

Posted by adminbasam on 22/07/2016
FB Tuyen Nguyen Chung
21-7-2016
Vợ chồng ông Trần Anh Tuấn và bà Nguyễn Thị Nguyệt Hường.
Vợ chồng ông Trần Anh Tuấn và bà Nguyễn Thị Nguyệt Hường.
“Trong kinh doanh, cũng như ở nghị trường, bạn không thể cứ chờ cơ hội đến, mà phải tự tìm kiếm hoặc tạo ra nó”, đây là câu nói của bà Nguyễn Thị Nguyệt Hường được một số tờ báo PR lên 9 tầng mây. Vâng bà Hường là người thông minh và nói rất hay, thậm chí hành động của bà còn “tuyệt vời” hơn thế! Bà không chỉ tạo ra cơ hội mà còn tận dụng nó đến mức tàn nhẫn!
Nhằm mở rộng mối quan hệ làm ăn, bà Hường đã tìm cách mua ghế đại biểu Hội đồng Nhân dân TP Hà Nội, rồi Đại biểu Quốc hội. Theo một số người dân phản ánh, bà Nghị này lần nào về quận Tây Hồ tiếp xúc cử tri cũng được cờ rong trống mở. “Cử tri” thì được chọn trước, khi về ai cũng hoan hỉ vì túi đã có phong bì dày. Có ông cử tri cựu binh tuổi U70 thuộc dạng “hạnh kiểm tốt”, lần nào về cũng khen chị Hường nức nở, gọi chị xưng em rối rít.
Có sự hậu thuẫn từ người chồng (Tuấn “Chợ”), với lượng vốn được huy động từ các phi vụ ngầm thông qua nhiều mối quan hệ, công ty của bà Hường ngày càng phát triển. Với “tầm nhìn xa trông rộng”, bà Hường nhận thấy sản xuất không thể kiếm lời nhanh, chỉ có đầu cơ hạ tầng cho các doanh nghiệp khác thuê mới “kiếm lời” cao hơn.
Năm 2006, bà Nguyễn Thị Nguyệt Hường thành lập Tập đoàn Đầu tư Phát triển Việt Nam (VID Group). Nhận thấy Hưng Yên gần Hà Nội và đang cần phát triển khu công nghiệp, lập tức vợ chồng bà Hường săn tìm các lô đất ở Phố Nối, Hưng Yên là địa điểm đầu tiên.
H1Mức độ ô nhiễm nặng nề của các con sông tại Khu công nghiệp Phố Nối A, tỉnh Hưng Yên xả thải gây ô nhiễm nguồn nước, ảnh hưởng nặng đến môi trường, khiến người dân vô cùng lo lắng và bức xúc. Ảnh: báo PL Plus
Tại đây bà Hường đã cấu kết với Tập đoàn Lifan của Trung Quốc, mua chuộc giới chức địa phương tỉnh Hưng Yên, thâu tóm 25 hecta đất nông nghiệp của người dân với giá đền bù rẻ mạt, đẩy hàng trăm gia đình vào cảnh “ly nông”. Sau đó cho các doanh nghiệp sản xuất thuê lại với giá cắt cổ. Khi thu được số tiền khổng lồ từ Cụm Công nghiệp Lifan (Hưng Yên), trong cơn say máu làm giàu, bất chấp thủ đoạn, bà Hường tiếp tục cấu kết với quan chức các địa phương, vung tiền thâu tóm đất nông nghiệp để lập tiếp 2 khu công nghiệp tại Hải Dương (Nam Sách, Phúc Điền), rồi Quang Minh (Vĩnh Phúc), Đài Tư (Hà Nội); Thạch Thất – Quốc Oai (Hà Nội); Đồng Văn II (Hà Nam)… Chỉ trong thời gian ngắn, bà Hường đã thâu tóm hơn 2.000ha đất nông nghiệp. Không biết bà Hường đã bỏ ra bao nhiêu tiền để “đi đêm” với các quan chức địa phương, người ta chỉ biết KCN Quang Minh của bà được TP.Hà Nội đã mở ngay tuyến xe buýt 53 từ trung tâm TP đến KCN Quang Minh của bà để làm bệ phóng.
H1Hàng chục người dân đứng bên con kênh đen kịt “vạch tội” việc khu công nghiệp Quang Minh gây ô nhiễm môi trường. Ảnh: Nguyễn Hưng.
H1Hàng chục người dân xã Tiền Phong và thị trấn Quang Minh đứng bên con kênh đen kịt “vạch tội” khu công nghiệp Quang Minh xả thải gây ô nhiễm. Ảnh: Nguyễn Hưng.
Ép người dân nhượng đất cho các khu công nghiệp
Sau khi bị mất đất sản xuất vào tay bà Hường, nhưng phần lớn người dân vẫn quyết tâm bám trụ quê hương, cố chịu đấm ăn xôi, quyết “ly nông, không ly hương” và sử dụng đồng vốn ít ỏi từ việc đền bù giải phóng mặt bằng đầu tư chuyển đổi ngành nghề.
Cay đắng thay, mong muốn chuyển đổi ngành nghề dường như “quá sức” đối với một số người dân vốn quen với ruộng đồng. Khoảng 2/3 số lao động của các hộ gia đình bị bà Hường “cướp đất” cho dự án công nghiệp không đáp ứng được tiêu chí tuyển dụng của các nhà máy công nghiệp vì quá tuổi, trình độ văn hoá thấp, không có tay nghề chuyên môn,… Hệ quả tất yếu là số người thất nghiệp, ăn không ngồi rồi ngày càng nhiều.
Điển hình như ở xã Trưng Trắc (Văn Lâm), nhiều hộ dân sau khi nhận tiền, không có việc làm, đã mua sắm xe máy, ăn chơi tiêu xài dẫn đến đổ đốn, trở thành kẻ gieo rắc “cái chết trắng” cho người thân, xóm làng. Nhìn căn nhà trống hơ trống hoác của mình, bà H. (xã Trưng Trắc, Văn Lâm) ngậm ngùi kể: “Những tưởng có ít vốn từ việc nhượng lại đất cho các dự án công nghiệp, nào ngờ hai thằng con và ông chồng đều dính vào ma tuý. Không còn tiền hút chích, thằng lớn đổ bệnh rồi sớm đi theo ông bà”. Bà H nghẹn ngào: “Ông chồng tôi và thằng bé… được Nhà nước “nuôi” rồi.” Với bà, hình ảnh về một gia đình êm ấm xưa kia chỉ còn là ảo ảnh.
Cũng hoàn cảnh tương tự, sau gần 1 năm “ngồi chơi xơi nước”, cầm trong tay mấy chục triệu đồng sau khi giao hết đất nông nghiệp cho bà Hường làm dự án sản xuất xe máy Lifan với Trung Quốc, bà Trần Thị Hải (xã Nghĩa Hiệp, Yên Mỹ, Hưng Yên) tính chuyện gửi tiền vào ngân hàng. Số lãi hàng tháng không đủ chi tiêu cho cả nhà, cả 4 người con trong độ tuổi lao động của gia đình bà đều không tìm được việc làm. Hơn 2 sào ruộng khoán còn lại cũng đành nhượng lại cho người khác, gia đình lâm vào cảnh không còn đất canh tác.
Hút máu doanh nghiệp
Khi phóng viên đặt câu hỏi: “Bí quyết nào VID Group thuyết phục được các đối tác đến đầu tư tại các khu công nghiệp của mình?”, bà Hường đã trả lời: “Đơn giản đó là nói đúng sự thực, trung thực, không được bưng bít thông tin hoặc khoa trương hình thức”. Vâng, bà nói rất hay! Để hiểu thêm về độ trung thực, đạo đức kinh doanh của bà Hường chúng ta hãy xem bà đã làm gì ở các khu công nghiệp ấy.
Điển hình như ở KCN Quang Minh (Mê Linh, Hà Nội), một khu công nghiệp lớn nhất của bà Hường. Toàn bộ nước thải của khu công nghiệp này đều xả trực tiếp ra môi trường. Theo Sở Tài nguyên Môi trường Hà Nội, nước thải do khu công nghiệp Quang Minh xả ra môi trường có hàm lượng độc tố cynaua (giống chất mà Formosa xả ra biển) vượt 8 lần tiêu chuẩn cho phép, BOD5 vượt 13,5 lần, COD vượt 14,7 lần, sunfua vượt hơn 4 lần, colifom vượt hơn 13 lần… Do quá bức xúc với tình trạng ô nhiễm kéo dài do toàn bộ nước thải của khu công nghiệp Quang Minh đều xả trực tiếp ra môi trường, người dân quanh đây nhiều lần viết đơn kiện, tập trung phản đối và thậm chí lấp cống xả thải để ngăn chặn dòng nước đen ngòm, thối hoắc này.
Khu công nghiệp Thạch Thất – Quốc Oai của bà Hường cũng xả nước thải làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến nguồn nước và môi trường, người dân xã Phùng Xá (huyện Thạch Thất) rất bức xúc về tình trạng nước thải của KCN này xả trực tiếp ra môi trường, gây ô nhiễm nặng.
Theo phản ánh của các doanh nghiệp trong KCN, thì chính Công ty Nam Đức (một công ty của Bà Hường) đã ép các doanh nghiệp trong KCN chấp nhận mức phí hạ tầng cắt cổ. Nhiều doanh nghiệp bị Công ty Nam Đức khủng bố bịt cổng, bịt cống thoát nước, thậm chí khi các doanh nghiệp xin các thủ tục hành chính tại nhiều cơ quan quản lý nhà nước cũng bị từ chối với lý do chưa nộp phí hạ tầng… nên đành phải chấp nhận ký hợp đồng và thanh toán tiền hạ tầng rất bất lợi, một số doanh nghiệp phản ứng quyết liệt thì bị đưa ra Tòa, nhận bản án bất công. Xung đột giữa chủ đầu tư KCN Quang Minh và các doanh nghiệp “nóng” tới mức đơn thư gửi đi kêu cứu đã “rải đều” khắp các ban, ngành từ Trung ương tới địa phương, có doanh nghiệp “uất ức” còn cùng công nhân giăng biểu ngữ phản đối.
H1Chủ đầu tư mới chỉ làm được hệ thống đường nội bộ, cống thoát nước… ở Dự án khu nhà ở phục vụ KCN Đồng Văn II.
Trong KCN Đồng Văn II của bà Hường, thì khu nhà ở phục vụ KCN vẫn dở dang và chủ đầu tư có biểu hiện “trở mặt” với các nhà đầu tư góp vốn, mua đất ở dự án này. Theo quyết định của UBND tỉnh Hà Nam phê duyệt thì dự án phải hoàn thành vào năm 2010. Dù đã quá 6 năm, dự án vẫn hoang sơ, cỏ mọc um tùm. Phải chăng đây chỉ là thủ đoạn chiếm đất để đầu cơ?
Bà Hường chỉ quan tâm đến việc kiếm lời từ các khu công nghiệp, không quan tâm đến phát triển bền vững cho các doanh nghiệp, an sinh cho những người dân vùng dự án.
Đấy, sự trung thực và đạo đức kinh doanh của bà Hường là như thế!
Thâu tóm ngân hàng
Không chỉ thâu tóm đất nông nghiệp của nông dân, bà Hường còn thâu tóm ngân hàng để hút vốn nền kinh tế. Từ năm 2005, vợ chồng bà Hường bắt đầu âm thầm thâu tóm Ngân hàng Hàng Hải (Maritime Bank) và lún sâu vào hoạt động cho vay kiếm lời phi pháp có liên quan đến “siêu lừa” Huyền Như với giá trị lên đến hàng ngàn tỷ đồng thông qua 3 công ty sân sau. Vậy mà không hiểu vì sao, “siêu lừa” Huyền Như và các đồng phạm bị lôi ra xét xử, còn bà Hường vẫn bình an vô sự tiếp tục vung tiền mua chuộc giới công thương thủ đô để được giới thiệu ứng cử đại biểu Quốc hội.
Bà Hường đã từng ngẫu hứng chia sẻ kiểu dạy đời: “Khi làm kinh doanh, bạn không thể cứ chờ cơ hội đến với mình mà phải tự tìm kiếm hoặc tạo ra nó. Trong công tác dân cử ở Hội đồng nhân dân thành phố và Quốc hội cũng vậy”. Quả thật là như vậy, với tư cách là Đại biểu Quốc hội, bà rất tích cực tham gia vào việc điều chỉnh các chính sách về kinh tế như đất đai, tài chính, ngân hàng sao cho có lợi cho hoạt động kinh doanh của bà, còn miếng cơm manh áo của người nông dân bị mất đất, quyền lợi của doanh nghiệp trong các KCN thì bà mặc kệ!
Bà Nghị Nguyệt Hường còn tâm sự: “Tiếp xúc cử tri là để lắng nghe ý kiến từ thực tế cuộc sống của người dân”. Vâng, bà có nghe tiếng khóc của biết bao hộ dân bị buộc rời khỏi quê nhà để “nhường” lại mảnh đất đẹp cho bà là dự án? Bà có nghe nỗi bức xúc của biết bao hộ dân sống trong cảnh ô nhiễm mà các KCN của bà gây ra? Bà có nghe sự chịu đựng của các doanh nghiệp đang thuê mặt bằng trong các KCN của bà?
Bà Hường cũng chia sẻ, “Ngày nay, một công ty cần phải đem lại lợi ích cho cộng đồng nơi mình đang hoạt động với những chương trình, mục tiêu cụ thể. Trong số đó, hoạt động từ thiện, xã hội là một ví dụ và mình nên chủ động làm điều đó một cách vô điều kiện”. Vâng, những lời nói của bà rất hay! Hay đây chính là màn kịch mà bà dùng để xoa dịu và che đậy những hoạt động kinh doanh ”hút máu” tàn nhẫn gây bức xúc trong dân?

Từ dung túng đến hợp thức hóa sai phạm pháp luật nghiêm trọng

Cập nhật: 14:02, Thứ 4, 29/06/2016
Sai phạm trong công tác quản lý và sử dụng đất trên địa bàn quận Hoàng Mai, đã trở nên quá công khai, bất chấp sự phản đối của dư luận, các công trình trái phép trên đất bãi sông Hồng, trong tuyến thoát lũ vẫn tồn tại.
Doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu Việt Vương xây dựng trong tuyến thoát lũ sông Hồng, đe dọa an toàn đê và cầu Vĩnh Tuy
Doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu Việt Vương xây dựng trong tuyến thoát lũ sông Hồng, đe dọa an toàn đê và cầu Vĩnh Tuy
Không những không xử lý các công trình vi phạm, cấp chính quyền địa phương còn đề xuất với UBND TP Hà Nội cho phép doanh nghiệp làm hồ sơ hợp thức hóa các sai phạm!

Hy sinh đất công vì lợi ích doanh nghiệp

Việc UBND các phường tự ý cho thuê đất công là trái thẩm quyền. Sau khi cho thuê đất lại không quản lý dẫn tới sử dụng đất sai mục đích và theo nguyên tắc thì chủ tịch UBND các phường phải chịu trách nhiệm chính về việc sử dụng đất công.
Đặt câu hỏi với ông Nguyễn Đức Thọ - Chủ tịch UBND phường Lĩnh Nam về những doanh nghiệp được UBND phường kí hợp đồng ưu ái giao hàng chục ngàn m2 đất để kiếm lời bằng cách cho thuê lại với giá cao hơn, phóng viên Báo NNVN được trả lời một cách đơn giản rằng đây là vấn đề của lịch sử đã có từ trước khi ông về nhậm chức.
Trên thực tế, Sở Tài nguyên và Môi trường cũng như UBND quận Hoàng Mai đã có đợt kiểm tra về nội dung này sau khi nghe các doanh nghiệp đề đạt nguyện vọng chính, Sở này lại kiến nghị UBND TP Hà Nội cho chủ trương xử lý các tồn tại trong quản lý, sử dụng đất đai đối với trường hợp cho thuê trái thẩm quyền bằng hình thức cấp có thẩm quyền kí hợp đồng cho thuê và xử lý tài chính đối với tổ chức sử dụng đất nhằm tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp.
Thật kì lạ, nhìn vào quá trình phát triển thôn tính đất đai của các doanh nghiệp như Hồng Anh, Thành Long, Linh Dao và Sơn Thanh, có thể nói rằng các doanh nghiệp luôn được tạo điều kiện thuận lợi hết mức đến nỗi họ ngang nhiên vi phạm Luật Đất đai, vi phạm Luật Đê điều trong nhiều năm mà không vấp phải trở ngại, khó khăn gì từ chính quyền địa phương.
Giờ đây, khi công luận lên tiếng đòi xử lý vi phạm theo đúng quy định của pháp luật thì chính quyền địa phương, Sở Tài nguyên - Môi trường lại kiến nghị “tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp”?
Vướng mắc duy nhất của các doanh nghiệp kể trên chính là pháp luật. Những năm qua họ đã ỷ thế được cán bộ thực thi pháp luật ở cấp phường, cấp quận “ngó lơ” nên đã bất chấp pháp luật đầu tư các công trình xây dựng hàng chục thậm chí hàng trăm tỉ đồng trong tuyến thoát lũ.
Đây là những sai phạm nghiêm trọng, có chủ đích, với âm mưu thôn tính hàng chục hecta đất công, đất nông nghiệp nên cần phải xử lý nghiêm để ngăn chặn những hành vi vi phạm pháp luật kế tiếp. Nhưng rõ ràng kiến nghị của Sở TN-MT cùng các cấp chính quyền quận Hoàng Mai là chưa phù hợp với quy định của pháp luật.
Bởi lẽ, với những vi phạm pháp luật nghiêm trọng như thế liệu UBND TP Hà Nội có đủ thẩm quyền để “hợp thức hóa”?
Chúng ta đang ở trong một xã hội pháp quyền, mọi vi phạm cần phải bị xử lý theo quy định của pháp luật. Trong trường hợp này, các lãnh đạo phường Lĩnh Nam, Thanh Trì có sai phạm vì đã tự ý cho thuê đất công trái thẩm quyền thì kết luận thanh tra cần phải xem xét trách nhiệm và đề xuất phương án kỉ luật.
Ngoài ra, đối với các doanh nghiệp thuê đất của phường nhưng sử dụng không đúng mục đích, tự ý cải tạo làm biến đổi bề mặt đất thì phải xử phạt thật nặng và thu hồi lại đất công, tiến hành cưỡng chế đập bỏ toàn bộ diện tích xây dựng vi phạm Luật Đê điều. Sau khi thu hồi nếu UBND TP Hà Nội muốn sử dụng quỹ đất đó để cho thuê, cũng phải làm theo luật, tổ chức đấu giá công khai.
Thực thi pháp luật, kiến nghị theo pháp luật Sở TN-MT phải làm được như vậy mới là hợp tình, hợp lý và hợp pháp.
17-21-44_img_20160314_102829
Ảnh: Kiên Cường

Tiếc rằng, ngay cả lãnh đạo Sở TN-MT cũng bị thuyết phục bởi lợi ích của doanh nghiệp nên đã ra một văn bản kết luận không có tính khả thi. Các doanh nghiệp vi phạm nói trên đồng loạt làm hồ sơ xin TP Hà Nội giao đất nhưng không được chấp thuận vì còn vướng Luật. Nhưng vô hình chung chính văn bản này lại trở thành một chủ trương, một “chỗ dựa” để cấp phường, cấp quận tiếp tục dung túng cho các doanh nghiệp sai phạm.

Bán chức trách, lo lợi cá nhân

Bản thân ông Thọ với tư cách là Chủ tịch UBND phường Lĩnh Nam cũng nhiệt liệt ủng hộ chủ trương này.
Ông khẳng định, kiến nghị của Sở TN-MT là đúng và sẵn sàng kí mọi giấy tờ để hợp thức cho các doanh nghiệp đang vi phạm nhằm “tháo gỡ khó khăn, tạo điều kiện cho doanh nghiệp phát triển”.
Đứng ở phương diện cá nhân, có lẽ quan điểm của ông Thọ đúng, vì ông không phải chịu trách nhiệm với những sai phạm của người tiền nhiệm. Còn chủ trương “hợp thức hóa sai phạm” cũng là của UBND quận, của Sở TN-MT nên ông chỉ là người làm theo, không mắc khuyết điểm mà vừa được lòng doanh nghiệp lại vừa được lòng lãnh đạo.
Nhưng đứng ở góc nhìn của một công chức, một lãnh đạo phường chịu trách nhiệm với nhân dân, với đất nước, thì quan điểm này còn quá vì lợi ích cá nhân.
Vì một lãnh đạo phường mà không giữ vững tinh thần thượng tôn pháp luật, nhìn thấy những vi phạm pháp luật nghiêm trọng xảy ra trên địa bàn mà không kiên quyết ngăn chặn, ngược lại còn bày tỏ thái độ ủng hộ thì thật chưa xứng đáng để nhân dân đặt niềm tin.
Làm lãnh đạo phường nhưng ông Thọ để công trình nhà cao tầng vi phạm Luật Đê điều của Cty Thành Long nằm trong tuyến thoát lũ sông Hồng mà không kiên quyết xử lý, tức là ông vẫn chưa làm tròn chức trách, bổn phận của mình.
Tất nhiên, đã nói đến đê điều phải kể cả đến trách nhiệm của Chi cục Đê điều & PCLB Hà Nội. Trong hàng chục công trình xây dựng vi phạm Luật Đê điều và đặc biệt là công trình hoành tráng của Cty Thành Long, Chi cục Đê điều & PCLB đều biết rõ và thậm chí còn có văn bản phúc đáp đơn xin cải tạo nhà của ông Vũ Văn Thảo – GĐ Cty Thành Long, xác định nhà của ông Thảo nằm trong nhóm “những công trình nhà ở hiện có không phù hợp với quy hoạch, phải di dời” và chỉ cho phép cải tạo, sửa chữa chứ không được xây mới mở rộng. Công trình vi phạm của ông Thảo nằm cách Hạt quản lý đê số 3 không xa vậy nhưng ông Thảo cứ xây lên hết tầng này đến tầng khác mà Hạt quản lý đê không lập biên bản đình chỉ.
Trao đổi với Báo NNVN về việc này, ông Phạm Hùng Lân – Hạt trưởng cũng có quan điểm giống hệt như Chủ tịch phường Lĩnh Nam, là phải “tạo điều kiện để doanh nghiệp phát triển”.
Ông Lân cho biết, khi xây nhà, chủ doanh nghiệp cũng trình bày vì nhu cầu kinh doanh, bộ mặt doanh nghiệp cần phải làm trụ sở đàng hoàng, rồi nhu cầu vay vốn ngân hàng... nên ông cũng có ý hỗ trợ, tạo điều kiện cho doanh nghiệp.
Chia sẻ sự cảm thông với người Hạt trưởng “lụy tình” với doanh nghiệp nhưng Báo NNVN xin nhắc ông nên dành một chút thời gian để nhớ đến chức trách, nhiệm vụ của mình trước khi mở biên tạo điều kiện cho các doanh nghiệp... vi phạm pháp luật.
Kiên Cường

Thư bạn đọc huyện Bát Xát (Lào Cai) về vi phạm Luật Đất đai?

Ban Biên tập | Thứ Tư, 09/10/2013 04:07 GMT +7
Đề nghị UBND huyện Bát Xát và cấp có thẩm quyền tỉnh Lào Cai quan tâm sớm giải quyết nội dung đơn thư phản ánh của hai ông Nguyễn Tiến Hùng và Phan Văn Thắng đại diện cho 70 hộ dân thị trấn Bát Xát bị thu hồi đất có những biểu hiện vi phạm Luật Đất đai mà người dân bị thiệt hại kéo dài nhiều năm.
JPEG - 12 kb
Tạp chí điện tử Văn hiến Việt Nam vừa nhận được đơn đề ngày 10/5/2013 của hai ông Nguyễn Tiến Hùng và Phạm Văn Thắng đại diện cho 70 hộ dân thị trấn huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai bị thu hồi đất phản ánh như sau:
"Năm 2005, huyện Bát Xát có thu hồi 6ha của 70 hộ dân của thị trấn để làm chợ trung tâm huyện nhưng chính quyền không thông báo cho người dân biết lý do thu hồi, không công khai phương án bồi thường, thậm chí còn không đưa quyết định thu hồi đất cho người dân có đất bị thu hồi. Chính quyền đã tước đi quyền dân chủ của nhân dân chúng tôi?
Về bồi thường: Chỉ có 8.000,đ/m2 ruộng lúa nước hai vụ và được tỉnh Lào Cai hỗ trợ thêm 1.000,đ/m2 tổng cộng là 9.000,đ/m2. Còn đối với hỗ trợ ổn định đời sống theo điều 28 và Khoản 2 Điều 10 Nghị định 197/2004/NĐ - CP thì tỉnh không áp dụng theo quy định của Chính phủ nên người dân không được hưởng, đất thu hồi xong thì làm chợ một phần, một phần thì chia lô làm đất ở bán đấu giá, còn một phần thì bỏ hoang, trong khi đó người dân mất đất sản xuất không có việc làm. Dân hỏi ông Phó Chủ tịch huyện Hoàng Đăng Khoa thì nói rằng đó không phải là bỏ hoang mà là đang đợi những nhà đầu tư. Dân hỏi đợi nhà đầu tư đến bao giờ, ông Phó Chủ tịch trả lời, có thể là nay mai hoặc 5 năm, 10 năm hoặc lâu hơn nữa …? Qua buổi trả lời của ông Phó Chủ tịch UBND huyện Bát Xát và các ban ngành liên quan, ngày 23/01/2013, nhân dân chúng tôi muốn hỏi là một lãnh đạo, là một đảng viên mà trả lời nhân dân như thế liệu có đúng là một lãnh đạo và là Phó Chủ tịch huyện không ? Thị trấn chúng tôi thành lập từ năm 1994, nhà đã có số, phố đã có tên, đất nông nghiệp của chúng tôi nằm ở trung tâm thị trấn, bốn mặt đều tiếp giáp với khu dân cư. Vậy đất nông nghiệp của nhân dân chúng tôi bị thu hồi để xây dựng chợ trung tâm có nằm xen kẽ trong khu dân cư không ?.. khi xây dựng chợ, huyện đã lấy tiêu đề “Xây dựng chợ Trung tâm huyện Bát Xát”, dự án khởi công vào năm 2005 như thế thị trấn đã thành lập được 11 năm, mà các ban ngành và Phó Chủ tịch huyện trả lời là: Đất nông nghiệp thu hồi làm chợ trung tâm không nằm trong khu dân cư, vậy đất nông nghiệp của nhân dân chúng tôi bị thu hồi làm chợ thì gọi là đất nằm ở đâu ?
Đến năm 2008, huyện Bát Xát còn thu hồi đất của 50 hộ dân để xây dựng dự án hạ tầng kỹ thuật đường tổ 7 và thu hồi mở rộng cả hai bên làm đất ở để bán đấu giá, cũng không thông báo cho người dân biết lý do thu hồi đất, không niêm yết công khai phương án bồi thường và không đưa quyết định thu hồi đất cho người dân bị thu hồi đất. Phần thu hồi mở rộng hai bên để bán đấu giá quyền sử dụng đất, nhân dân chúng tôi không được biết việc làm đó. Vậy UBND huyện và ông Phó chủ tịch huyện Hoàng Đăng Khoa đã làm đúng với quy định của Luật Đất đai?
Cho đến ngày 01/11/2012, gia đình tôi và các hộ gia đình khác mới nhận được 01 bản phôtô Quyết định thu hồi đất của UBND huyện Bát Xát. Theo quy định của pháp luật, Quyết định phôtô không có giá trị pháp lý, chỉ là tài liệu tham khảo. Như vậy, sau 07 năm thu hồi đất của nhân dân làm nhiều dự án, UBND huyện Bát Xát mới có Quyết định (bản phôtô) về thu hồi đất gửi xuống cho nhân dân. Vậy UBND huyện Bát Xát đã vi phạm nghiêm trọng quy định của Chính phủ tại Điều 9 khoản a của Nghị định 97, theo quy định thì cơ quan chính quyền huyện Bát Xát đã chậm gửi hay cố tình không gửi Quyết định thu hồi đất xuống cho nhân dân chúng tôi thì phải chịu trách nhiệm chi trả toàn bộ theo chính sách đền bù, hỗ trợ tại thời điểm có Quyết định thu hồi đất gửi xuống cho từng hộ gia đình".
Đề nghị UBND huyện Bát Xát và cấp có thẩm quyền tỉnh Lào Cai quan tâm sớm giải quyết nội dung đơn thư phản ánh nêu trên của hai ông Nguyễn Tiến Hùng và Phan Văn Thắng đại diện cho 70 hộ dân thị trấn Bát Xát bị thu hồi đất có những biểu hiện vi phạm Luật Đất đai mà người dân bị thiệt hại kéo dài nhiều năm.

Tranh chấp đất đai tại chùa Sơn Cao (Vĩnh Phúc): Xâm phạm đất của cơ sở tôn giáo

LĐ - 185 Đỗ Văn
Chùa Sơn Cao (TP.Vĩnh Yên) đang có nguy cơ bị xâm phạm.
Mặc dù Luật Đất đai quy định rõ đất của cơ sở tôn giáo (chùa, nhà thờ…) khác với đất tín ngưỡng (đình, đền, miếu…), nhưng Sở TNMT tỉnh Vĩnh Phúc vẫn quyết định lấy đất của chùa Cao Sơn (phường Ngô Quyền, TP.Vĩnh Yên) đem cấp cho Ban hộ tự làng Gẩu (thuộc phường Đống Đa, TP.Vĩnh Yên) xây dựng lại đình làng Gẩu.
Điều bất thường của ông chánh thanh tra tỉnh

Đình làng Gẩu trước kia nằm ở khu vực lò vôi phường Đống Đa, nay khu vực này là Cung Văn hóa Thiếu nhi tỉnh Vĩnh Phúc. Những năm 90 của thế kỷ trước, đình Gẩu đổ nát, ngày 24.6.1991 UBND tỉnh Vĩnh Phú có văn bản cho phép người dân làng Gẩu di chuyển, xây dựng lại đình với diện tích 12m2 trong khuôn viên của chùa Sơn Cao.

Từ năm 2013, Ban hộ tự đình Gẩu muốn xin phép xây dựng lại đình, thế nhưng cơ quan chức năng đã không thể cấp phép xây dựng do giấy chứng nhận QSDĐ thuộc nhà chùa. Từ đây xảy ra tranh chấp liên miên giữa Ban hộ tự đình Gẩu và nhà chùa, khiến đau đầu các cơ quan chức năng của tỉnh Vĩnh Phúc và TP.Vĩnh Yên.

Theo Sở TNMT tỉnh Vĩnh Phúc, chùa Sơn Cao (còn gọi là chùa Gẩu) có niên đại từ lâu đời. Năm 2006, chùa được cấp giấy chứng nhận QSDĐ với diện tích 1.050,4m2 kể cả cổng tam quan của chùa. Theo ông Nguyễn Văn Lộc – Giám đốc Sở TNMT tỉnh: “Khi hoàn tất thủ tục công nhận quyền SDĐ chùa Sơn Cao, chính quyền địa phương và cộng đồng dân cư làng Gẩu, phường Đống Đa không có ý kiến gì về việc chia tách khu đất theo đề nghị hiện nay”.

Liên quan đến tranh chấp đất đai tại chùa Sơn Cao, Thanh tra tỉnh Vĩnh Phúc đã phải vào cuộc và có kết luận. Để làm rõ vụ việc, PV Báo LĐ đã liên lạc với ông Nguyễn Văn Bắc – Chánh thanh tra tỉnh. Tuy nhiên, ông Bắc cho rằng trách nhiệm trả lời báo chí là của Sở TNMT tỉnh. Khi PV đề nghị được làm việc thì ông Bắc trả lời: “Tôi không trả lời cái việc đó được, việc đó là việc của Sở TNMT có trách nhiệm trả lời”.

Điều lạ lùng hơn là trong khi PV Báo LĐ đang phỏng vấn Đại đức Thích Tâm Vượng – Trụ trì chùa Sơn Cao - thì điện thoại của đại đức đổ chuông liên hồi. Đại đức Thích Tâm Vượng cho biết ông Bắc – Chánh thanh tra tỉnh - gọi và bật loa cho PV cùng nghe. Trong cuộc điện thoại này, ông Bắc đã lớn tiếng đe nẹt thầy chùa và buông lời khuyên đừng có trả lời báo chí thì “mọi chuyện sẽ êm đẹp”(?!).

Chính quyền tỉnh tự… mâu thuẫn(!?)

Ngày 7.3.2014, UBND tỉnh Vĩnh Phúc đã có CV số 978/UBND-PC2 về việc giải quyết đất đai liên quan đình làng Gẩu và chùa Sơn Cao “đồng ý chủ trương di chuyển đình làng Gẩu đến một vị trí khác phù hợp thuộc địa giới hành chính của phường Đống Đa (theo đề xuất của Sở TNMT, CA tỉnh)...”. Thế nhưng, đến ngày 24.6.2014, UBND tỉnh Vĩnh Phúc lại có CV nêu ý kiến của Chủ tịch UBND tỉnh: “Giao Chủ tịch UBND TP.Vĩnh Yên chủ trì phối hợp với lãnh đạo các sở: TNMT, Xây dựng, VHTTDL, Nội vụ, thanh tra - kiểm tra thực tế, thống nhất phân định rõ diện tích mốc giới đất chùa Sơn Cao, đình làng Gẩu, đường đi chung (trong tổng số 1.050,4m2).

Chưa hết, ngày 30.7.2014, Sở TNMT tỉnh đã ra thông báo thu hồi giấy chứng nhận QSDĐ của chùa Sơn Cao với lý do: Giấy chứng nhận QSDĐ cấp năm 2006 “có sai sót, chưa đúng quy định của pháp luật được thanh tra tỉnh kết luận, kiến nghị tại báo cáo số 59/BC-TTr ngày 25.7.2014”. Thế nhưng, cũng chính Sở TNMT tỉnh trước đó đã nêu quan điểm: “Văn bản 522/HC ngày 24.6.1991 của UBND tỉnh Vĩnh Phú (cũ) trả lời nhân dân xóm Gẩu không phải là quyết định hành chính nên chưa đủ cơ sở pháp lý khi giải quyết tranh chấp đất đai” và khẳng định việc cấp giấy chứng nhận QSDĐ cho chùa Sơn Cao năm 2006 là “đúng quy định của pháp luật” (các CV số: 199/BC-STNMT ngày 12.8.2013; 345/BC-STNMT ngày 31.12.2013...).

Liên quan đến tranh chấp đất ở chùa Sơn Cao, ngày 1.3.2014, Ban Tôn giáo Chính phủ - Bộ Nội Vụ cũng đã có CV gửi tỉnh Vĩnh Phúc nêu ý kiến: “Không nên cấp giấy chứng nhận QSDĐ cho đình Gẩu trong khuôn viên chùa Sơn Cao, vì diện tích đất còn lại trong khuôn viên chùa không nhiều (khoảng 200m2); diện tích đình quá nhỏ (12m2); về lâu dài tiềm ẩn những phức tạp có thể phát sinh về trật tự xã hội trong sinh hoạt tín ngưỡng, tôn giáo”.

Vẫn còn tình trạng 'xâm phạm' đất lúa

 Báo cáo Quốc hội vừa qua, Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Nguyễn Minh Quang cho biết, nhiều địa phương còn sử dụng đất chuyên trồng lúa để xây dựng các khu công nghiệp dẫn đến nhiều hộ nông dân thiếu đất hoặc không có đất để sản xuất.



Vẫn còn địa phương sử dụng đất lúa để xây dựng các khu công nghiệp. Ảnh Internet.

Theo Bộ trưởng Nguyễn Minh Quang, việc quy hoạch để chuyển mục đích sử dụng đất nông nghiệp, nhất là đất chuyên trồng lúa nước sang mục đích khác chưa được tính toán kỹ lưỡng, do đó vẫn còn tình trạng dân không có đất để sản xuất.

Theo kết quả tổng hợp từ 63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, tính đến ngày 31-12-2012 kết quả thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất cấp quốc gia như sau: Nhóm đất nông nghiệp cả nước có 26.404.486 ha,  trong đó đất trồng lúa là 4.053.338 ha (riêng đất chuyên trồng lúa nước 3.184.291 ha).

Cụ thể, số diện tích chuyển đổi cơ cấu sử dụng đất trong nội bộ đất nông nghiệp 2 năm 2011 và 2012 là 21.150 ha, trong đó đất chuyên trồng lúa nước chuyển sang đất trồng cây lâu năm là 8.273 ha; Đất chuyên trồng lúa nước chuyển sang đất lâm nghiệp là 3.351 ha; Đất chuyên trồng lúa nước chuyển sang đất nuôi trồng thuỷ sản là 2.793 ha.

Cũng theo Bộ Tài nguyên và Môi trường, trong 2 năm 2011 và 2012 cả nước đã khai thác đưa vào sử dụng 387.704 ha đất cho các mục đích nông nghiệp và phi nông nghiệp; hiện nay cả nước còn 2.466.913 ha đất chưa sử dụng.

Nguyên nhân của những tồn tại trên được chỉ ra là do hiện nay vẫn còn thiếu một số quy định, hướng dẫn triển khai như quy trình chuẩn lập quy hoạch sử dụng đất, định mức sử dụng đất, kinh phí lập và triển khai thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, tiêu chí thẩm định, hướng dẫn công khai, điều kiện và thủ tục hành nghề tư vấn quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất…

Bên cạnh đó, việc quản lý, thực hiện quy hoạch sử dụng đất sau khi được xét duyệt, chưa có chế tài đủ mạnh; tình trạng lấn chiếm đất, tự chuyển mục đích sử dụng đất không theo quy hoạch chưa được phát hiện và xử lý kịp thời, dẫn đến khi thực hiện quy hoạch, chi phí bồi thường vượt quá dự kiến ban đầu. Quy định cơ quan nhà nước có thẩm quyền không tiến hành điều chỉnh hoặc huỷ bỏ quy hoạch đối với khu vực quy hoạch đã quá thời hạn 3 năm kể từ ngày công bố nhưng chưa thực hiện cũng là nguyên nhân gây hiện tượng "nhờn luật", làm gia tăng diện tích đất chưa đưa vào sử dụng.

Bộ trưởng Nguyễn Minh Quang cho biết, để nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về đất đai, phát huy tốt tiềm năng, nguồn lực đất đai cho phát triển kinh tế - xã hội, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, trong các tháng còn lại của năm 2013 sẽ thực hiện việc thanh tra, kiểm tra có trọng tâm, trọng điểm việc chấp hành pháp luật đất đai, quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, công tác giao đất, cho thuê đất, chuyển mục đích sử dụng đất của các địa phương. Đồng thời tập trung kiểm tra, rà soát, hệ thống hoá các văn bản quy phạm pháp luật đất đai để tiếp tục hoàn thiện chính sách, pháp luật về đất đai; đôn đốc và theo dõi các địa phương trong quá trình tổ chức thực hiện và xử lý các vấn đề phát sinh liên quan đến quá trình áp dụng các văn bản pháp luật về đất đai.

Tại kỳ họp thứ 2, Quốc hội khóa XIII, Quốc hội đã thông qua Nghị quyết về quy hoạch sử dụng đất đến năm 2020 và Kế hoạch sử dụng đất 5 năm 2011-2025 cấp quốc gia, trong đó phải giữ đất trồng lúa đến năm 2020 là hơn 3,8 triệu ha để đảm bảo an ninh lương thực cũng như sinh kế của người nông dân.

Theo Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng, với đà giảm nhanh hiện nay nếu không có biện pháp quy hoạch, có kế hoạch sử dụng đất thật chặt chẽ, xử lý nghiêm những tập thể, cá nhân làm sai quy hoạch, sẽ khó đảm bảo giữ được 3,8 triệu ha đất lúa. Bởi theo Chủ tịch Quốc hội, an ninh lương thực quốc gia là vấn đề cốt lõi, không chỉ đảm bảo đời sống cho đại đa số dân cư nông thôn mà còn đảm bảo an sinh xã hội, giữ gìn an ninh chính trị và trật tự xã hội.

- Theo Hải Quan

Chính quyền vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong vụ cưỡng chế thu hồi đất ở Thạnh Hóa, Long An!


Chính quyền huyện Thạnh Hóa và chính quyền tỉnh Long An đã vi phạm pháp luật nghiêm trọng, cụ thể là vi phạm Luật đất đai 2003 và Nghị định 197/2004/NĐ-CP. Những cơ quan nhà nước đã vi phạm pháp luật trong vụ án này là:  UBND huyện Thạnh Hóa, UBND tỉnh Long An, Tòa án nhân dân huyện Thạnh Hóa, Tòa án nhân dân Tỉnh Long An.

Cái sai của UBND huyện và UBND tỉnh lẽ ra phải được tòa án điều chỉnh cho đúng pháp luật, nào ngờ, quan chức bênh vực nhau, kéo bè kéo cánh. Cả tòa án nhân dân huyện Thạnh Hóa và Tòa án nhân dân tỉnh Long An đều vi phạm pháp luật, xử ép người dân. Sau những phiên tòa oan trái là sự tham gia của hàng trăm cán bộ công an và lực lượng cưỡng chế làm náo động cả khu vực chợ Tuyên Nhơn, huyện Thạnh Hóa, tỉnh Long An. Sự việc trở nên nhức nhối, chấn động khi 13 người trong thân nhân của 3 hộ bị cưỡng chế đã đứng lên chống lại sự cưỡng chế đất và gây thương tích cho các nhân sự phía chính quyền ngày 14/4/2015.

Ngày 4/8/2015, VKSND  huyện Thạnh Hóa ra một bản cáo trạng dài 17 trang dành cho 12 người bị khởi tố tội “chống người thi hành công vụ” và “cố ý gây thương tích” trong vụ cưỡng chế đất ở Thạnh Hóa Long An ngày 14/4/2015. Bản cáo trạng nêu chi chít, đầy đặc những tình tiết bất lợi cho những người bị cưỡng chế mà không có tình tiết nào chỉ ra nguyên nhân sâu xa của sự việc chấn động dư luận này.

Sự việc càng làm người quan tâm quặn lòng thắt ruột khi người thứ 13 vừa bị bắt và có nguy cơ bị khởi tố trong vụ án này là cháu Nguyễn Mai Trung Tuấn vừa tròn 15 tuổi. Ba mẹ cháu cũng nằm trong danh sách những người bị bắt và khởi tố theo Điều 257 BLHS về tội “chống người thi hành công vụ”.

Gia đình cháu Tuấn bị mất đất lại có đến 3 người phải đối diện tù tội, chỉ còn lại duy nhất người em gái của Tuấn đang tại ngoại, cháu chưa đủ hiểu biết để có thể bảo vệ tốt cho ba mẹ và anh đang bị bắt giam. Vì đâu nên nỗi? Do họ “chống người thi hành công vụ” ư? Chúng ta cần phân tích để nhận ra nguyên nhân, bản chất của nó. Có như vậy mới mong hoàn thiện hệ thống luật pháp và quản lý nhà nước một cách thấu tình đạt lý. Bởi bản chất con người thường có xu hướng chống  lại thế lực làm tổn hại lợi ích của của mình, và mức độ phản kháng sẽ tăng lên kịch trần khi họ bị “kẻ mạnh” đẩy vào bước đường cùng phải mang nỗi uất hận của một con người “không còn gì để mất”!



Chính quyền địa phương vi phạm pháp luật nghiêm trọng!

Phân tích sau đây sẽ cho thấy sự sai trái của chính quyền địa phương. Sự phân tích dựa trên luật pháp tại thời điểm áp dụng để thực hiện dự án thu hồi đất:  Luật đất đai 2003 và Nghị định 197/2004/NĐ-CP. Số liệu đưa ra trong bài viết này dựa trên sự thẩm định thực tế của người viết.

Tại buổi họp báo, ông Nguyễn Văn Tạo - chủ tịch UBND huyện Thạnh Hóa cho biết: “Nguyên nhân chủ yếu là do họ không đồng ý với mức giá bồi thường, ban đầu là 80 ngàn đồng/m2. Sau đó, UBND tỉnh Long An đã nâng mức giá lên 300 ngàn đồng/m2, đúng mức giá đền bù của nhà nước theo từng giai đoạn đã được quy định nhưng họ cũng không chịu. Đồng thời họ cũng cho rằng diện tích mà các bản đồ trích đo là không chích xác và không đủ diện tích đất thực của họ. Chúng tôi đã vận động, giải thích rõ nhiều lần họ vẫn không chịu. Họ đã ở trên diện tích đất ấy mấy chục năm nhưng do khu vực trên là đất công nên cả ba hộ dân đều chưa có giấy chủ quyền. Tuy cả ba hộ dân trên không thống nhất chọn phương án tái định cư nhưng huyện cũng ban hành quyết định giao nền tái định cư cho cả 3 hộ. Cả 3 hộ không nhận. Suốt quá trình từ năm 2009 đến nay, ông Can đã có 5 lần khiếu nại, ông Tài có 3 lần khiếu nại và bà Nhanh có 1 lần khiếu nại, UBND huyện đều giải quyết theo đúng quy định.” – Lời ông Tạo đăng trên Báo tuổi trẻ ngày 15/4/2015.

Theo Điều 56 Luật đất đai 2003, giá đền bù cho 3 hộ bị cưỡng chế phải đảm bảo nguyên tắc “Sát với giá chuyển nhượng quyền sử dụng đất thực tế trên thị trường”. Giá đền bù căn cứ vào Giá đất do Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương quy định được công bố công khai vào ngày 01 tháng 01 hàng năm.

Những mảnh đất này thuộc khu vực chợ Tuyên Nhơn, huyện Thạnh Hóa, tỉnh Long An. Năm 2007-2008, dựa vào đâu mà chính quyền đưa ra giá đền bù là 80.000đồng/m2 ? Trong khi tại thời điểm 2007-2008 giá thị trường là 2 triệu đồng/m2 . Chính quyền Thạnh Hóa cố giấu đi cái thực tế, chỉ nói những cái trên giấy mực do chính họ ban hành. Tại sao chính quyền không cho Công ty định giá bất động sản tham gia định giá độc lập cho công bằng?. Được biết, hiện nay có nhiều công ty định giá bất động sản hoạt động, chi phí định giá không cao, công việc định giá rất dễ dàng, nhanh chóng. Chi phí định giá sẽ rất nhỏ so với chi phí mà chính quyền đi vận động, họp hành và cưỡng chế. Rõ ràng chính quyền đã sai trái. Nguyên nhân của sự sai trái này ai cũng có thể dễ dàng hiểu được khi những lô đất của quanh đó thuộc KDC (giáp chợ Tuyên Nhơn) mọc lên được bán với giá hàng chục lần giá đền bù.

Ông Nguyễn Văn Tạo - chủ tịch UBND huyện Thạnh Hóa cho rằng khu vực này là “đất công”, nói theo ngôn ngữ luật pháp thì chính quyền cho rằng các hộ bị thu hồi đất thuộc “đối tượng không được bồi thường đất”. Vì thế mà chính quyền không đền bù thỏa đáng (sát giá thị trường) mà chỉ đền bù mức giá “rẻ mạt”. Điều này hoàn toàn vi phạm Luật đất đai 2003 và Nghị định 197/2004/NĐ-CP như đã phân tích trên đây.

Từ đó kéo theo sự sai trái của chính quyền trong vấn đề đất tái định cư, chính quyền địa phương đã “bán” cho người bị thu hồi đất những nền đất cách đó gần 3km với giá 800.000đ/m2 , trả trong vòng 2 năm. Vị trí khu tái định cư có giá trị thấp hơn nhiều so với vị trí đất thu hồi, người bị thu hồi đất lại không được cấp mà phải “mua” với giá 800.000đ/m2

Trong khi theo Nghị định 197/2004/NĐ-CP, quyền tái định cư của người bị thu hồi đất được qui định rất rõ ràng như sau:

Khoản 2 Điều 6 (Nghị định 197/2004/NĐ-CP):  “Người bị thu hồi đất đang sử dụng vào mục đích nào thì được bồi thường bằng việc giao đất mới có cùng mục đích sử dụng, nếu không có đất để bồi thường thì được bồi thường bằng giá trị quyền sử dụng đất tại thời điểm có quyết định thu hồi; trường hợp bồi thường bằng việc giao đất mới hoặc bằng nhà, nếu có chênh lệch về giá trị thì phần chênh lệch đó được thực hiện thanh toán bằng tiền.”

Khoản 1 Điều 13(Nghị định 197/2004/NĐ-CP): “ Người sử dụng đất ở khi Nhà nước thu hồi đất mà phải di chuyển chỗ ở được bồi thường bằng giao đất ở mới, nhà ở tại khu tái định cư hoặc bồi thường bằng tiền theo đề nghị của người có đất bị thu hồi và phù hợp với thực tế ở địa phương.”

Lẽ ra chính quyền phải sửa sai, nào ngờ sai trái nối tiếp sai trái, tòa án cũng bênh vực quan chức của UBND, xử những hộ gia đình này thua kiện. Họ trở thành “dân oan” khiếu kiện hết cấp này đến cấp khác vẫn vô vọng, bế tắc.

Thật khôi hài, sau đó UBND nâng giá đền bù lên 300.000đ/m2, quá ít ỏi so với giá thị trường. Hiện nay (2015), giá thị trường đất nền khu vực này là 15-20trđ/2, gấp 50-60 lần giá đền bù! Ngoài phần đền bù này, chính quyền còn hỗ trợ mỗi hộ 20 triệu đồng nếu hộ đó không “mua” đất tái định cư.



Ác nhân thất đức

Xuất phát từ sai trái của chính quyền mà người dân thiệt hại quá lớn. Đất của hộ ông Can, giá thị trường là 1,5 tỷ đồng mà đền bù chỉ 23 triệu đồng. Phần tài sản gắn liền với đất(nhà cửa) được đền bù 100.584.580 đồng... Tổng cộng, hộ ông Can chỉ nhận được 133.722.120 đồng. Với số tiền đền bù ít ỏi, hộ ông Can không thể nào mua đất xây nhà mới.

Chính quyền địa phương đã vi phạm pháp luật nghiêm trọng đẩy người dân đến bước đường cùng, đối diện nguy cơ không nhà cửa, sống lang thang màn trời chiếu đất. Điều này thật ác nhân thất đức. Những người làm quan có hiểu biết pháp luật tại sao họ hành xử vô cảm lạnh lùng đến thế, họ không mang dòng máu con người chăng?!

Chưa hết, chính quyền còn lập đoàn vận động, tuyên truyền rằng đất thu hồi là “đất công” không được cấp sổ nên đền bù như thế là “đúng qui định của pháp luật”, sẽ cưỡng chế ai chống lại quyết định thu hồi, mỗi ngày sẽ cưỡng chế 2 hộ. Người dân thấp cổ bé họng, hoang mang lo lắng, do hiểu biết pháp luật kém, lại e ngại va chạm chính quyền nên họ đã nhận tiền đền bù giá rẻ mạt, nhiều hộ dân cứ tưởng rằng đất không có sổ đỏ thì không thể được đền bù nhiều hơn, họ cắn răng chịu đựng sự oan ức, chấp nhận ký tên nhận tiền. Thương thay!

Những ông quan chức vô cảm, quan liêu, thiếu trách nhiệm và vi phạm pháp luật cho tới giờ này vẫn còn chễm chệ trên những chiếc ghế, gieo nỗi oan khiêng cho người dân.

UBND huyện Thạnh Hóa được UBND tỉnh Long An phân quyền, trực tiếp làm việc với người bị thu hồi đất và ra những quyết định trái pháp luật. UBND tỉnh Long An cũng vi phạm pháp luật, vì chiếu theo Nghị định 197/2004/NĐ-CP, trách nhiệm của ủy ban nhân dân tỉnh tại Khoản d,đ,e Điều 43 qui định như sau:

d) Phê duyệt giá đất; ban hành bảng giá tài sản tính bồi thường, quy định các mức hỗ trợ và các biện pháp hỗ trợ theo thẩm quyền; phương án bố trí tái định cư, phương án đào tạo chuyển đổi nghề theo thẩm quyền được giao;

đ) Chỉ đạo các cơ quan có liên quan thực hiện việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư theo thẩm quyền pháp luật quy định;

e) Bảo đảm sự khách quan, công bằng khi xem xét và quyết định việc bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất theo thẩm quyền quy định tại Nghị định này;

Cái sai của UBND huyện và UBND tỉnh lẽ ra phải được tòa án điều chỉnh cho đúng pháp luật, nào ngờ, quan chức bênh vực nhau, kéo bè kéo cánh. Cả tòa án nhân dân huyện Thạnh Hóa và Tòa án nhân dân tỉnh Long An đều vi phạm pháp luật, xử ép người dân. Sau những phiên tòa oan trái là sự tham gia của hàng trăm cán bộ công an và lực lượng cưỡng chế làm náo động cả khu vực chợ Tuyên Nhơn, huyện Thạnh Hóa, tỉnh Long An. Sự việc trở nên nhức nhối, chấn động khi 13 người trong thân nhân của 3 hộ bị cưỡng chế đã đứng lên chống lại sự cưỡng chế đất và gây thương tích cho các nhân sự phía chính quyền ngày 14/4/2015.



Báo chí nhà nước im lặng trước sự sai trái của chính quyền địa phương

Một câu hỏi nữa là tại sao sự sai phạm của chính quyền ở Long An không hề bị đưa lên báo chí trong nước?

Một thứ quyền lực vô hình đáng sợ bao trùm lên hệ thống báo chí cũng như truyền thông nhà nước, trong một chế độ mà lĩnh vực truyền thông bị kiểm soát nghiêm ngặt và lệ thuộc nhiều vào quyền lực nhà nước. Tại sao vụ án ở Tiên Lãng truyền thông rầm rộ còn vụ án này thì không?

Đó chính là vì lý do “nhạy cảm” khi gia đình Nguyễn Trung Can gồm ông Can, vợ và con trai ra đường hô to “đả đảo cộng sản” và những khẩu hiệu động chạm chế độ. Hộ bà Phùng Thị Ly cũng phản đối chính quyền. Nguyên nhân đưa đến sự việc này là do những hộ này bị chính quyền dồn đến đường cùng, cuộc sống lao đao khốn đốn. Họ đã khiếu kiện mỏi mòn từ Tòa án sơ thẩm, đến phúc thẩm rồi đến tối cao. Tất cả đều vô vọng. Quyền lợi chính đáng của họ không được hệ thống thực thi pháp luật bảo vệ. Hệ thống báo chí và truyền thông nhà nước vì sự “nhạy cảm”, không muốn bị rắc rối bởi sự việc “liên quan chính trị” nên đành câm nín khiến cho sự oan ức bị dồn nén đến cực độ và bùng nổ ngay ngày cưỡng chế 14/4/2015.

Trong những bài báo nhà nước viết về vụ cưỡng chế này đều căn cứ vào những lời của quan chức địa phương, giấu đi những yếu tố hết sức quan trọng trong vụ án chấn động, điều này đã gây tổn thất không đo đếm được cho nạn nhân là 3 hộ bị cưỡng chế đồng thời gây thiệt hại kinh tế cho toàn bộ 109 hộ dân bị thu hồi đất trong vụ việc này.

Sau vụ cưỡng chế ngày 14/4/2015, lực lượng an ninh chìm ẩn mình quanh khu đất cưỡng chế nhằm giám sát theo dõi những ai đến tiếp xúc người trong gia đình những hộ cưỡng chế. Nhiều người đã bị bắt về trụ sở khi đặt chân đến đây. Điều này gây khó khăn cho những nhà báo, blogger hay những người đấu tranh cho tự do ngôn luận trong việc tiếp cận sự thật. Bản thân người viết bài này khi đến gần nơi bị cưỡng chế để thăm gặp và tìm hiểu thông tin đã bị an ninh chặn đường sách nhiễu khi đang trên đường về.

Chính quyền nên sửa sai như thế nào

Năm 2011, Vụ án Đoàn Văn Vươn với mùi gas, tiếng súng còn dư âm khiến dư luận bất bình với cách hành xử sai trái của chính quyền Tiên Lãng. Thế nhưng, chính quyền Thạnh Hóa, Long An không rút ra bài học nào, lại trượt trên vết xe đổ gây tổn thất nặng nề cho người dân và mất uy tín chính quyền.

Ngọn lửa dân oan đang lan tỏa khắp từ Nam ra Bắc lên đến hàng nghìn người, họ là những người bị mất mát cả vật chất và tinh thần, thiết nghĩ dân oan cần được cảm thông hơn là đàn áp, xử tù.

Chính quyền đã bắt giữ cháu Nguyễn Mai Trung Tuấn, 15 tuổi, trong khi trước đó cha mẹ cháu đều bị bắt giam vì chống lại sự cưỡng chế. Dư luận trên mạng cho rằng theo pháp luật,  chính quyền không được giam giữ cháu Tuấn vì hành vi của cháu Tuấn không thuộc trường hợp "phạm tội rất nghiêm trọng do cố ý hoặc phạm tội đặc biệt nghiêm trọng". Vì vậy, dựa trên Bộ luật hình sự, chính quền cần xem xét phóng thích cháu Tuấn để giảm áp lực dư luận.

Chợt nhớ, bài học từ câu chuyện Hòa thượng Thích Quảng Đức tự thiêu đã dẫn đến cuộc đảo chính quân sự lật đổ chính quyền và giết chết Tổng Thống Ngô Đình Diệm.

Trong vụ án này, chính quyền cần sửa sai để an lòng dân, trả lại quyền lợi chính đáng theo pháp luật cho những người dân thấp cổ bé họng không may mắn bị thu hồi đất.

Cần xử lý những quan chức và cán bộ liên quan. Không nên để xã hội rối loạn, khủng hoảng từ thói trịch thượng, quan liêu, thiếu trách nhiệm, chèn ép người dân thấp cổ bé họng và ngồi xổm lên luật pháp của quan chức địa phương.



http://www.ijavn.org/2015/08/vntb-chinh-quyen-vi-pham-phap-luat.html

NGUYỄN THIỆN NHÂN

Phú Diễn: Vô lý với kiểu thu hồi đất của UBND xã

Trong khi các hộ đều còn một diện tích đất sau khi thu hồi, Chủ tịch xã lại “nại” ra lý do các hộ lấn chiếm đất để cắt điện, nước và “cưỡng chế” biển số nhà.
Không chỉ vậy, có những phương án đền bù “khống” được “vô tình” lập ra.
Những lời giải thích “khập khiễng”
Dân trí đã phản ánh về những chuyện “lạ” ở xã Phú Diễn, huyện Từ Liêm, Hà Nội qua 2 bài viết: “Lạ lùng” một cuộc “cưỡng chế” biển số nhà” và “Hàng trăm hộ dân bị “cấm điện” giữa thủ đô”. Đi sâu tìm hiểu nguyên nhân dẫn đến những sự việc này, phóng viên không khỏi bất ngờ trước những lời giải thích “khập khiễng” của các cán bộ xã Phú Diễn.
Ông Phí Lê Bình, Chủ tịch UBND xã Phú Diễn, khẳng định rằng, xã không cho các hộ dân ở tổ 1 và tổ 2 dùng điện và không cho treo biển số nhà nữa vì các hộ dân không còn đất nữa, đất của họ đã bị thu hồi hết để mở đường 32. Theo ông Bình, toàn bộ các hộ dân tổ 1 và 2 ở mặt đường 32 cũ đã bị thu hồi hết đất. “Đất còn lại họ đang sử dụng để ở và làm cửa hàng kinh doanh là do lấn chiếm, mà mới lấn chiếm 2-3 năm gần đây thôi…” – ông Bình khẳng định.
Tuy nhiên, ông Bình cứ khất lần khi phóng viên đề nghị được tiếp cận các tài liệu về nguồn gốc đất, hiện trạng sử dụng đất của các hộ dân trước khi bị thu hồi một phần để mở đường 32 và các phương án đền bù, hỗ trợ tái định cư…
Theo tài liệu chúng tôi thu thập được, các phương án bồi thường, thu hồi đất mà huyện Từ Liêm lập khi tiến hành GPMB mở đường 32 lại “tố cáo” lời nói của ông Bình. Hầu hết các hộ dân ở đây đều còn một diện tích đất để sử dụng sau khi bị thu hồi.
Cụ thể, hộ ông Khúc Minh Cường (số nhà 100, tổ 2) bị thu hồi 79,2m2, diện tích còn lại là 28,4m2; hộ ông Lê Đức Dương (số nhà 30, tổ 2) sau khi bị thu hồi, đất còn lại là 14,5m2; hộ bà Nguyễn Thị Thái (số nhà 14, tổ 2) sau khi bị thu hồi 82m2, diện tích đất còn lại là 14,1m2; hộ bà Nguyễn Thị Tâm (số nhà 38, tổ 2) bị thu hồi 172,5m2, diện tích còn lại của bà Tâm là 21,5m2; hộ ông Lê Thiện Quý (ở tổ 1) sau khi bị thu hồi 77,6m2, diện tích đất còn lại là 28,6m2;…
Đáng chú ý, nội dung ghi chú trong các phương án mà huyện Từ Liêm lập ra cho thấy những phần đất còn lại nói trên đều được các hộ sử dụng trước 15/10/1993 hoặc từ sau năm 1993 đến trước 1/7/2004. Những phương án chi tiết bồi thường, hỗ trợ và tái định cư nói trên đối với các hộ đều do Hội đồng bồi thường hỗ trợ và tái định cư huyện Từ Liêm lập ra, có chữ ký của Phó Chủ tịch UBND huyện Nguyễn Kim Vinh, lãnh đạo các phòng chức năng của huyện và cả chữ ký của chính ông Phí Lê Bình – Chủ tịch UBND xã Phú Diễn.
Những điều nói trên càng trở nên rõ ràng khi PV làm việc với ông Trần Bằng, Phó Chủ tịch UBND xã Phú Diễn, người trực tiếp phụ trách mảng địa chính nơi đây. Tại buổi làm việc với PV, ông Bằng thừa nhận, sau khi thu hồi thì các hộ vẫn còn đất và họ có quyền lợi hợp pháp đối với phần đất còn lại này. Theo ông Trần Bằng, phần đất này cũng không phải là đất các hộ mới lấn chiếm như lời ông Chủ tịch UBND xã Phí Lê Bình, mà nhiều hộ đã sử dụng từ trước ngày 15/10/1993.
Ai “đạo diễn” phương án bồi thường “khống”?
Trong quá trình tìm hiểu về những sai phạm trong quản lý đất đai nơi đây, chúng tôi đã phát hiện những dấu hiệu sai trái trong việc lập các phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư.
Một trường hợp điển hình là phương án đền bù hỗ trợ thu hồi đất do cơ quan chức năng của huyện Từ Liêm lập, ghi tên chủ hộ bị thu hồi đất là: Trần Thị Nguyệt Ánh (địa chỉ tại tổ 2 Phú Diễn). Theo Quyết định số 7464/QĐ-UBND “về việc phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư chi tiết đối với hộ gia đình bà Trần Thị Nguyệt Ánh – địa chỉ: Phú Diễn, Từ Liêm, Hà Nội khi Nhà nước thu hồi đất để thực hiện dự án: Cải tạo, nâng cấp, mở rộng QL32 đoạn Cầu Diễn – Nhổn, tại xã Phú Diễn, huyện Từ Liêm” được Chủ tịch UBND huyện Từ Liêm ký ngày 5/7/2010, hộ chị Nguyệt Ánh bị thu hồi 52,3m2 đất thuộc diện “Đất lưu không chân cầu vượt hộ gia đình tự sử dụng từ ngày 15/10/1993 đến trước ngày 1/7/2004”.
Quyết định này giao Chủ tịch Hội đồng bồi thường hỗ trợ và tái định cư (TĐC) huyện đôn đốc Trung tâm phát triển Quỹ đất phối hợp với UBND xã Phú Diễn thanh toán tiền bồi thường, hỗ trợ đối với hộ gia đình chị Trần Thị Nguyệt Ánh. Tuy nhiên, qua điều tra, tìm hiểu, phóng viên đã phát hiện sự thật rằng đây là chuyện “người thật, mà việc không thật”.
Chị Trần Thị Nguyệt Ánh, người được ghi tên trong các văn bản nói trên, 25 tuổi, sống cùng bố mẹ tại tổ 2 Phú Diễn và không hề có mảnh đất nào để mà thu hồi như trên. Trần Thị Nguyệt Ánh là con gái của ông Trần Quốc Đạt và bà Nguyễn Thị Hòa, trú tại số nhà 108 tổ 2 Phú Diễn. Gia đình ông bà Đạt – Hòa có 2 sổ hộ khẩu tại địa chỉ này, một sổ đứng tên chủ hộ là ông Trần Quốc Đạt, một sổ đứng tên chủ hộ là chị Trần Thị Nguyệt Ánh.
Thực tế mảnh đất của ông bà Đạt – Hòa tại 108 tổ 2 Phú Diễn chỉ có 60,2m2 và năm 2010 đã bị thu hồi toàn bộ để phục vụ dự án mở đường 32. Chị Trần Thị Nguyệt Ánh ở cùng bố mẹ và cũng không hề có mảnh đất nào khác và tại tổ 2 Phú Diễn, Ánh lại càng không có đất để mà bị thu hồi.
Khi phóng viên tìm đến gặp trực tiếp tại nhà thì cả ông Đạt, bà Hòa và chị Nguyệt Ánh đều khẳng định điều này. Chị Ánh quả quyết: “Tôi làm gì có đất nào để mà thu hồi như phương án này. Có lần ông Trần Bằng, Phó Chủ tịch UBND xã Phú Diễn gọi điện thoại thông báo tôi đến nhận đền bù, hỗ trợ, tôi mới ngớ ra và tất nhiên là không đến nhận vì tôi làm gì có đất đâu để mà thu hồi với hỗ trợ…” (!?).
Gia đình chị Ánh còn cung cấp cho phóng viên các bản phương án bồi thường, hỗ trợ có đóng dấu đỏ như nói trên. Bà Hòa chỉ vào Quyết định số 7464/QĐ-UBND của UBND huyện, kèm theo “phương án chi tiết bồi thường, hỗ trợ và tái định cư đối với hộ gia đình Trần Thị Nguyệt Ánh” và nói rằng: “Cháu Nguyệt Ánh không hề có mảnh đất nào và chúng tôi không biết gì về việc này cả. Tôi nhớ trước đó mấy tháng, ông Trần Bằng có mượn sổ hộ khẩu của cháu Ánh nói là để làm chế độ bồi thường cho gia đình tôi tốt hơn, mượn đến mãi sau mới trả. Tôi nghi ngờ họ lạm dụng sổ hộ khẩu của cháu Nguyệt Ánh để “đạo diễn” việc đền bù, nhằm tư lợi cá nhân”.
Phương án đền bù hỗ trợ nói trên đối với hộ Trần Thị Nguyệt Ánh chỉ thể hiện việc bồi thường, hỗ trợ bằng tiền, chưa có phương án TĐC. Tuy nhiên, theo khẳng định của Chủ tịch UBND xã Phú Diễn Phí Lê Bình với PV thì do các khu đất bố trí TĐC không đủ nên hiện có nhiều hộ vẫn chưa có đất TĐC, nhưng tối thiểu mỗi hộ cũng được 40m2 đất TĐC.
Lời khẳng định này của ông Chủ tịch UBND xã là hoàn toàn có căn cứ, bởi năm 2010 Ban Chỉ đạo GPMB thành phố đã có Tờ trình 268/TTr-BCĐ đề nghị UBND thành phố cho áp dụng bổ sung chính sách TĐC khi thực hiện GPMB dự án đường 32 (đoạn Cầu Diễn – Nhổn) trên địa bàn huyện Từ Liêm. Tờ trình này đã được UBND thành phố chấp thuận bằng văn bản số 3485/UBND-TNMT do Phó Chủ tịch UBND thành phố Vũ Hồng Khanh ký ngày 19/5/2010. Theo đó, những hộ gia đình ở khu vực này có đất bị thu hồi GPMB (dù đó là đất không thuộc diện được bồi thường hoặc hỗ trợ về đất theo giá đất ở) mà không còn nơi ăn ở nào khác thì được giao một suất đất TĐC là 40m2.
Chiếu theo cơ chế đã được UBND thành phố chấp thuận đó, hộ Trần Thị Nguyệt Ánh đương nhiên sẽ nhận được một suất đất TĐC 40m2. Tính theo thị giá ở khu TĐC Xuân Phương (không dưới 70 triệu đồng/m2), nếu phương án “khống” này trót lọt, người ta sẽ “ẵm” ngon vài tỷ đồng. Theo chị Nguyệt Ánh, do bản thân không có đất bị thu hồi, nên chị không đến lấy tiền hỗ trợ theo phương án bỗi thường hỗ trợ “khống” đó, còn đất TĐC có được không và nếu được thì ai đã lấy suất TĐC đó, chị cũng không biết.
Theo tìm hiểu của chúng tôi, còn nhiều chuyện “lạ lùng” tương tự đã diễn ra tại đây. PV sẽ tiếp tục thông tin tới độc giả.
Theo Tiến Nguyên
Dân Trí

Người dân bất bình vì chính quyền "nhập nhèm" trong thu hồi đất

Pháp luật Plus

Chính quyền xã có đơn khởi kiện dân sự, đề nghị tòa án nhân dân huyện tuyên bố hồ sơ chuyển quyền sử dụng đất của người dân là vô hiệu để thu hồi đất (!).

Pháp luật Plus nhận được phản ánh của bà Nguyễn Thị Hà và một số hộ dân ở thôn Phú Hiền, xã Hợp Thanh, huyện Mỹ Đức, Hà Nội về việc chính quyền địa phương "nhập nhèm" trong quá trình thu hồi đất.
Được biết, ngày 16/1/1994 thôn Phú Hiền đã kí hợp đồng giao thầu ao, lạch cho ông Nguyễn Văn Tuệ sử dụng để cấy lúa, thả cá, thời hạn sử dụng hợp đồng từ 1/1/2001 đến hết tháng 12/2014. Ngày 17/5/2005 UBND xã Hợp Thanh làm hồ sơ chuyển quyền sử dụng đất lâu dài với diện tích 10.080 m2 cho ông Nguyễn Văn Tuệ (về sau có 30 hộ gia đình khác cùng sử dụng chung đất để sản xuất), số tiền đã đóng là 60.000.000 đồng.
Bộ hồ sơ này có xác nhận của: ông Phạm Ngọc Thạch, Chủ tịch UBND xã Hợp Thanh (thời điểm đó); ông Nguyễn Tiến Suông, cán bộ địa chính; ông Nguyễn Văn Duân, Phó chủ tịch UBND xã Hợp Thanh là người thiết lập và ký vào hồ sơ (hiện nay ông Duân là Chủ tịch UBND xã Hợp Thanh).
  Hồ sơ chuyển quyền sử dụng đất có bút tích và chữ ký xác nhận của ông Duân.
Hồ sơ chuyển quyền sử dụng đất có bút tích và chữ ký xác nhận của ông Duân.
Quá trình được giao đất sử dụng lâu dài hằng năm gia đình ông Tuệ sử dụng đúng mục đích, hoàn thành các nghĩa vụ đóng thuế cho Nhà nước, có chứng từ xác nhận.
Trong giai đoạn này ông Phạm Ngọc Thạch, Chủ tịch UBND xã Hợp Thanh đã trực tiếp ký văn bản bàn giao đất lâu dài và có kỳ hạn cho 199 hộ dân, với tổng diện tích là 126.162 m2, tổng số tiền thu là hơn 4 tỷ đồng.
Phát hiện ra nhiều hành vi sai trái, các cơ quan chức năng đã vào cuộc, đến năm 2012 Tòa án nhân dân huyện Mỹ Đức đã tuyên án ông Thạch cùng đồng bọn tội danh lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ trong bản án số 70/2012/HSST.
"Liên quan đến các diện tích đất sử dụng lâu dài và có thời hạn đã cấp cho 199 hộ dân do ông Thạch ký, và gần 300 hộ dân khác được các thôn giao đất, hội đồng xét xử đã kiến nghị UBND huyện Mỹ Đức xem xét giải quyết những tồn tại kéo dài, tạo điều kiện thuận lợi cho nhân dân yên tâm trong cuộc sống và lao động", bản án số 70/2012/HSST có nêu.
Câu chuyện nghịch lý xảy ra từ đây, điều đáng nói là UBND xã Hợp Thanh không giải quyết bằng các biện pháp hành chính mà đến ngày 7/4/2015 UBND xã Hợp Thanh có đơn khởi kiện dân sự, yêu cầu Tòa án nhân dân huyện Mỹ Đức tuyên bố hồ sơ chuyển quyền sử dụng đất của ông Nguyễn Văn Tuệ đứng tên là vô hiệu để thu đất.
Yêu cầu này của UBND xã Hợp Thanh đã bị Tòa án nhân dân huyện Mỹ Đức đình chỉ giải quyết trong Quyết định số: 04/2015/QĐ-DS ngày 23/12/2015.
Cũng trong ngày hôm đó (23/12/2015) UBND xã Hợp Thanh đã gửi Báo cáo số: 68/BC-UBND đề nghị UBND huyện Mỹ Đức tiến hành thu hồi toàn bộ diện tích đất tại khu vực ao Cửa làng của gia đình anh Nguyễn Văn Tuệ.
Hai tháng sau, ngày 2/2/2016 UBND huyện Mỹ Đức đã ra Quyết định số: 224/QĐ-UBND về việc thu hồi 11.680 m2 đất nông nghiệp tại khu vực ao Cửa làng, thôn Phú Hiền với lý do đất giao trái thẩm quyền.
Liên quan sự việc, dư luận đặt câu hỏi: Tại sao hồ sơ có bút tích và chữ ký xác nhận của ông Nguyễn Văn Duân, Chủ tịch UBND xã Hợp Thanh, trong khi những người liên quan như ông Phạm Ngọc Thạch, ông Nguyễn Tiến Suông đều đã bị xử lý theo đúng quy định của pháp luật. Tuy nhiên, ông Nguyễn Văn Duân vẫn chưa bị xử lý (?!).
Không chỉ vậy, tại sao hàng trăm hộ dân khác được giao đất thời kỳ ông Phạm Ngọc Thạch là Chủ tịch xã Hợp Thanh, nhưng chỉ thu hồi riêng diện tích đất của hộ ông Nguyễn Văn Tuệ. Được biết, hiện nay một số diện tích đất được bàn giao trước đây đã đầu tư xây dựng nhà cửa, một số đã chuyển nhượng.
Người dân cũng thắc mắc là trong nội dung Báo cáo 68 có nêu: “Đến năm 2011 UBND xã mới phát hiện ra diện tích ao cá đã giao cho ông Tuệ…”. Trong khi đó 17/5/2005 chính ông Duân là người đã khởi thảo và ký xác nhận vào phần diện tích thửa đất của nhà ông Duệ.
Báo cáo 68 cũng nêu là hồ sơ chuyển quyền sử dụng đất cho nhà ông Tuệ là “không có diện tích”. Điều này gia đình ông Tuệ cho rằng không đúng thực tế, bởi vì ngay trong hồ sơ do ông Duân ký phần xác nhận thì có cả số đo các cạnh. Như vậy Báo cáo 68 của UBND xã Hợp Thanh gửi lên huyện Mỹ Đức liệu đã chính xác minh bạch, đúng với thực tế?
Trả lời báo chí, ông Nguyễn Văn Tiệp, Phó chủ tịch UBND xã Hợp Thanh cho biết: “Tôi mới lên làm nên việc này không rõ, huyện đang xử lý”.
PV

Tỉnh Hậu Giang: Tranh chấp đất đai giữa chính quyền với người dân

Đăng lúc: Thứ ba - 04/11/2014 14:36 - Người đăng bài viết: Nguyễn Trung Tín
anh 1 ki 1 anh 1 ki 1

Bà Lê Thị Bạch 70 tuổi, thường trú số nhà 137 Đường B5, KV8, phường Hưng Phú, quận Cái Răng, TP Cần Thơ gửi nhiều đơn tố cáo kêu oan đến Báo Người cao tuổi. Sau khi cử nhóm phóng viên về điều tra, xác minh, Báo Người cao tuổi nhận thấy nội dung đơn của bà Bạch nêu: “Chính quyền nơi đây đã thu hồi bồi thường đất của gia đình bà một cách áp đặt, sai trái, có mưu đồ trục lợi…” là có cơ sở:

 Từ một quyết định thu hồi đất nhiều sai trái
Bà Lê Thị Bạch 70 tuổi, thường trú số nhà 137 Đường B5, KV8, phường Hưng Phú, quận Cái Răng, TP Cần Thơ gửi nhiều đơn tố cáo kêu oan đến Báo Người cao tuổi. Sau khi cử nhóm phóng viên về điều tra, xác minh, Báo Người cao tuổi nhận thấy nội dung đơn của bà Bạch nêu: “Chính quyền nơi đây đã thu hồi bồi thường đất của gia đình bà một cách áp đặt, sai trái, có mưu đồ trục lợi…” là có cơ sở:
Ngày 29/4/1989, UBND huyện Phụng Hiệp (nay là UBND thị xã Ngã Bảy), tỉnh Hậu Giang ban hành Quyết định số 58/QĐ.UBH.89 về việc bồi thường thiệt hại hoa lợi khu quy hoạch mặt bằng trung tâm thị trấn có nêu: “Nay bồi thường cho ông Lê Văn Thậm (cha bà Lê Thị Bạch), ngụ Tập đoàn I, thị trấn Phụng Hiệp, do quy hoạch mặt bằng thị trấn, bao gồm đất ruộng, vườn, líp bị thiệt hại với tổng diện tích là 7.110m2. Trong đó đất ruộng là 6.110m2 x 120 đồng = 733.200 đồng, đất líp: 1.000m2 x 140 đồng = 140.000 đồng, đất vườn: Không. Thành tổng số tiền là 873.200 đồng”.
Sau khi nhận được Quyết định số 58, gia đình bà Bạch thấy thiếu mất nhiều diện tích vừa sai với loại đất mà gia đình bà đã được kê khai theo 299 nên đã có đơn khiếu nại. Tại Công văn số 10/CV, ngày 1/9/2004 do Phòng Giao thông – Xây dựng – Địa chính huyện trả lời Công văn số 458/STN-MT về việc xin trích lục hồ sơ địa chính để Sở Tài nguyên và Môi trường báo cáo Đoàn Đại biểu Quốc hội tỉnh Hậu Giang giám sát theo đơn khiếu nại của bà Lê Thị Bạch. Theo đó, căn cứ vào sổ mục kê và bản đồ 299 được UBND huyện Phụng Hiệp duyệt ngày 3/7/1984 thì số đất của ông Lê Văn Thậm nằm trong quy hoạch đã đăng kí vào sổ mục kê các thửa số 79, loại đất màu (DT 2.600m2); thửa số 80, loại đất vườn (DT 4.850m2); thửa số 83, loại đất thổ cư (DT 1.200m2). Tổng diện tích 3 thửa là 8.650m2”. Như vậy Quyết định 58 đã thu hồi, bồi thường thiếu của ông Thậm đến 1.540m2. Theo biên bản và sơ đồ đo vẽ lập ngày 28/12/2005 của Đoàn Thanh tra tỉnh với các ngành của địa phương thể hiện phần đất của gia đình bà Bạch khiếu nại vẫn còn khá đầy đủ cọc ranh và là hình chữ nhật với chiều dài 160,3m, chiều rộng 54m có diện tích gần đúng số đất của ông Thậm như sổ mục kê 299 đã thể hiện.
Từ sự vênh hết sức vô lí trên, gia đình bà Bạch không đồng ý nhận tiền bồi thường nên không kí vào nội dung cam kết do ông Tư Chùa cán bộ quản lí đất đai của huyện ghi ở mặt sau tờ Quyết định 58. Cuộc hành trình khiếu nại đến nay đã gần 30 năm, bà Bạch gửi đơn từ huyện lên tỉnh rồi đến Trung ương… Mặc dù đã có nhiều văn bản từ Trung ương chỉ đạo, kiến nghị tỉnh giải quyết nhưng Chủ tịch UBND tỉnh Hậu Giang vẫn tự tung tự tác trên phần đất đang tranh chấp với gia đình bà Bạch.
Khiếu nại không được giải quyết nên gia đình bà Bạch chưa giao đất mà vẫn ở và sử dụng. Đến tháng 1/2004, căn nhà bị xuống cấp hư hỏng nặng có nguy cơ đổ sập gây nguy hiểm tính mạng nên bà Bạch có đơn xin chính quyền sửa chữa nhưng không được chấp thuận. Ngay sau đó gia đình bà tự tháo dỡ những phần mục nát để sửa chữa lại thì chính quyền ập đến lập biên bản, phạt hành chính, tiến hành cưỡng chế san phẳng khu nhà đã có trên đất này từ hàng nửa thế kỉ, lấy đi toàn bộ đồ đạc, trong đó có 1 xe tải , đến nay không trả lại cho bà? Mặc dù bà Bạch liên tục khiếu nại các quyết định hành chính do chính quyền ban hành trái luật nhưng vẫn không được giải quyết. Bà nhiều lần khởi kiện các quyết định đó ra TAND huyện Phụng Hiệp, Tòa án từ chối thụ lí? Quá bức xúc, bà gửi đơn phản ánh đến TAND tỉnh Hậu Giang. Ngày 29/5/2006 TAND tỉnh Hậu Giang có Công văn số 68/2006/CV.TA gửi lãnh đạo TAND huyện Phụng Hiệp: “Ngày 27/2/2004, bà Lê Thị Bạch tiếp tục khiếu nại đối với Quyết định số 173/QĐ.CT.UB ngày 20/2/2004 của Chủ tịch UBND huyện Phụng Hiệp. Song vì cho rằng Chủ tịch UBND huyện Phụng Hiệp không giải quyết đơn khiếu nại nên bà Bạch đã liên tiếp khởi kiện vụ án hành chính tại TAND huyện Phụng Hiệp (ngày 4/4/2004; ngày 26/4/2004; ngày 5/5/2004) nhưng Tòa án huyện Phụng Hiệp từ chối nhận đơn của bà. Theo Điều 36 Luật Khiếu nại tố cáo thì thời hạn giải quyết khiếu nại lần đầu là 30 ngày và Điều 39 Luật Khiếu nại tố cáo thì trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày hết hạn giải quyết quy định tại Điều 36 Luật Khiếu nại tố cáo mà khiếu nại không được giải quyết… Như vậy, việc khởi kiện vụ án hành chính tại TAND huyện Phụng Hiệp vào các thời điểm trên là không trái với quy định của Điều 30 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án hành chính.
Vì vậy, việc Tòa án huyện Phụng Hiệp từ chối nhận đơn khiếu nại của bà Bạch là không đúng quy định của pháp luật. Để khắc phục vấn đề này Tòa án huyện cần áp dụng khoản 2 Điều 30 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án hành chính “vì những trở ngại khách quan khác” để tiếp tục thụ lí giải quyết vụ án trên”.
Tuy nhiên, trong khi gia đình bà Bạch đang khiếu tố, kiện tụng chưa được cơ quan nào xem xét giải quyết, thì Chủ tịch UBND thị xã Ngã Bảy và lãnh đạo tỉnh Hậu Giang ngang nhiên lấy số đất đó của gia đình bà cho thuê và cấp nền cho một số người thân, cán bộ lãnh đạo của địa phương, cụ thể cấp cho: “Nguyễn Hữu Hậu, Nguyễn Thị Kim Em, Nguyễn Hồng Nhi, Đặng Văn Lời, Bùi Hoàng Lệ, Huỳnh Bá Lực, Huỳnh Thị Hạnh, Nguyễn Văn Trí, Nguyễn Văn Dừa, Lê Văn Lợi, Trần Văn Cuộc. Đặc biệt, ông Trần Văn Cuộc là em rể ông Sầm Trung Việt; ông Nguyễn Văn Dừa, ông Lê Văn Lợi là anh em bà con với ông Sầm Trung Việt, cựu Chủ tịch UBND tỉnh Hậu Giang”.
Theo quy định của pháp luật về đất đai, nếu người dân chưa được cấp GCNQSDĐ (sổ đỏ) lần đầu thì khi Nhà nước quy hoạch, thu hồi đất và bồi thường hoa lợi phải căn cứ vào sổ mục kê và bản đồ 299. Nếu sổ mục kê ghi loại đất nào thì phải bồi thường theo loại đất đó. Luật pháp quy định rất rõ ràng, vậy mà chính quyền nơi đây lại vẽ ra một kịch bản quá vụng về để đưa số đất của gia đình bà Bạch thành 2 loại đất ruộng và đất líp là các loại đất rẻ mạt nhất để tỉnh bồi thường là việc làm tùy tiện, trái pháp luật cần phải được xem xét trách nhiệm của những người đứng đầu các cấp chính quyền nơi đây để giữ vững kỉ cương phép nước.
Điều tra của Thế Bôn


Nguồn tin: nguoicaotuoi.org.vn 

Vĩnh Phúc: Dự án Đầm Sáu Vó - “Lừa” dân và những Quyết định… trái luật? (Bài 1)

Thu Hương | Chủ Nhật, 16/03/2014 17:33 GMT +7
Thu hồi đất của dân để làm dự án nhưng không hề có một văn bản pháp lý nào. Khi bị phát lộ, mới đẻ ra các văn bản trái luật. Tiền kinh phí của nhà nước để thực hiện dự án nhưng rồi dự án vẫn để hoang 6 năm, người gây nên những sai phạm và thiệt hại tài sản của dân và Nhà nước vẫn ung dung thăng chức… Đây là những sự thật về cái gọi là dự án “Đầm sáu Vó” tiếp tục gây xôn xao dư luận cũng như việc khiếu kiện kéo dài của dân chưa được giải quyết, còn các cấp chính quyền vẫn “án binh bất động” (?)

Hai năm khiếu kiện mới ra Quyết định Dự án?

Câu chuyện bắt đầu từ năm 2007, khi chính quyền xã Thanh Lãng, (nay là thị trấn Thanh Lãng, huyện Bình Xuyên ( tỉnh Vĩnh Phúc) gọi 45 hộ dân của tổ dân phố Độc Lập và Thống Nhất của thị trấn Thanh Lãng ra xã để thông báo bằng “miệng” việc thu hồi đất của dân để làm “Dự án nuôi trồng thủy sản Đầm Sáu Vó”. Trong cuộc họp mặt dân có lãnh đạo UBND xã Thanh lãng  và cả đại diện Ban quản lý (BQL) Dự án huyện Bình Xuyên về dự.




Ông Nguyễn Ngọc Bích thị trấn Thanh Lãng (Bình Xuyên)  thắt lòng trước hàng chục ha ruộng cấy lúa của dân
bị đào bới lên bởi dự án "ma" bỏ hoang nhiều năm nay?

Tuy nhiên, thu hồi tổng diện tích bao nhiêu ha đất của dân để làm dự án này và do ai là người ký Quyết định thu hồi thì người dân lại không được biết. Dân yêu cầu được xem  văn bản nhưng lãnh đạo xã và BQL Dự án đều “bó tay”. Thế nhưng, không vì thế mà dự án bị dừng…

Bất chấp quy định pháp luật về những căn cứ pháp lý để thu hồi đất của dân, chính quyền xã, huyện vẫn “ép” dân nhận tiền giao đất khi không có một quyết định thu hồi của cấp nào. Vì vậy, nhiều hộ đã phải gượng ép nhận tiền giao đất. Nhiều hộ không tán thành cách thu hồi vô lý này nên đã không nhận tiền.




Chủ tịch UBND thị trấn Thanh Lãng Nguyễn Huy Thắng xác nhận
thời điểm thu hồi đất cho dự án không hề có văn bản pháp lý nào?


Ngay sau đó, tháng 10 năm 2007, hàng chục xe và máy ủi đã ùn ùn kéo xuống đào bới, múc đất ruộng để phá tan gần 10 ngàn m2 ruộng của dân ở khu Đồng nước xiết. Tất cả các công trình thủy lợi bị tàn phá không thương tiếc. Không những thế, nhiều mẫu ruộng của dân cũng không có nước để gieo cấy. Hàng chục ha lúa kém năng suất do hệ thống kênh mương dẫn vào ruộng bị phá hủy. Cả cánh đồng ruộng của dân trong tích tắc đã biến thành bể nước. Sự phá hoại bất chấp luật pháp là của  Công ty TNHH Phúc Thành An; trụ sở của Công ty này đóng ở đâu? do ai chỉ đạo đưa máy xuống phá ruộng của dân, vẫn còn là điều bí ẩn và khuất tất (?)

Việc làm khuất tất của chính quyền và doanh nghiệp khiến người dân kiên quyết bỏ cả công việc để kéo nhau ra xã, lên huyện, về tỉnh để hỏi cho ra nhẽ. Biết không thể trốn tránh mãi, ngày 29-3-2010, ông Nguyễn Quốc Hùng, khi ấy là Chủ tịch UBND huyện (hiện là Chủ nhiệm UBKT Tỉnh ủy Vĩnh Phúc) mới giao cho người dân bản phô-tô Quyết định thu hồi đất số 3283/QĐ-UBND ngày 4-11-2009 của UBND huyện Bình Xuyên, do chính ông Nguyễn Quốc Hùng kí.




Quyết định số 3283/QĐ-UBND ngày 4-11-2009 do ông Nguyễn Quốc Hùng khi đó là Chủ tịch UBND
huyện Bình Xuyên ký (hiện là Chủ nhiệm UBKT Tỉnh ủy Vĩnh Phúc)

Nội dung của Quyết định số 3283/QĐ-UBND ngày 4-11-2009 của UBND huyện Bình Xuyên cho rằng: Căn cứ để UBND huyện Bình Xuyên ban hành quyết định này là Quyết định số 3619/QĐ-CT ngày 26-10-2009 của Chủ tịch UBND tỉnh Vĩnh Phúc, do Phó Chủ tịch Phùng Quang Hùng kí thay (hiện ông Phùng Quang Hùng là Chủ tịch UBND tỉnh Vĩnh Phúc), nội dung thu hồi 95.589m2 đất tại thị trấn Thanh Lãng, để triển khai công trình nuôi trồng thủy sản Đầm Sáu Vó.

Vi phạm pháp luật nghiêm trọng

Từ việc thu hồi đất của dân không hề có bất kỳ một văn bản pháp lý nào ngay từ đầu của UBND  huyện Bình Xuyên và tỉnh Vĩnh phúc đã cho thấy, dấu hiệu mập mờ về một dự án không có thật. Đó là nguyên nhân đẩy những bức xúc của dân phải hành hương kéo nhau về các cấp Trung uơng và Thanh tra Chính phủ để khiếu kiện.

Tại báo cáo số 94/UBND-BC, ngày 26-8-2011 của UNND tỉnh Vĩnh Phúc gửi Thanh tra Chính phủ, đã thừa nhận: UBND huyện Bình Xuyên vi phạm nghiêm trọng quy định của pháp luật về thu hồi, bồi thường, hỗ trợ, GPMB…

Trong Quyết định số 3283/QĐ-UBND của UBND huyện Bình Xuyên (ngày 04-11-2009) do ông Nguyễn Quốc Hùng ký cho rằng: Căn cứ Quyết định số 361 của Chủ tịch UBND tỉnh Vĩnh Phúc “ V/v thu hồi đất để lập phương án và bồi thường GPMB công trình: Nuôi trồng thủy sản Đầm Sáu Võ tại thị trấn Thanh lãng, huyện Bình Xuyên, tỉnh Vĩnh Phúc (đợt I)”, căn cứ thứ 2 thì cho rằng:  Xét đề nghị của Phòng Tài nguyên và Môi trường  (ngày 4/11/2009)  “V/v xin thu hồi đất để lập phương án và bồi thường GPMB công trình: Nuôi trồng thủy sản Đầm sáu Vó tại thôn Thống Nhất- Thị trấn Thanh lãng, huyện Bình Xuyên, Tỉnh Vĩnh Phúc (đợt I)”.




Báo cáo số 94/UBND-BC, ngày 26-8-2011 của UNND tỉnh Vĩnh Phúc gửi Thanh tra Chính phủ,
đã thừa nhận: UBND huyện Bình Xuyên vi phạm nghiêm trọng quy định của pháp luật
về đất đai

Trong cùng một ngày xuất hiện cùng 2 tờ trình. Phải chăng, sự “vội vàng” đẻ “gấp” các văn bản của các cấp chính quyền tỉnh Vĩnh Phúc là nhằm để “hợp lý” các văn bản trong việc thu hồi trái luật đất ruộng của dân. Đấy còn là chưa kể đến quyết định của UBND huyện Bình Xuyên do ông Nguyễn Quốc Hùng ký mang thể thức thu hồi đất chung, để giao cho chính UBND huyện và kèm theo danh sách các hộ, trong đó có cả diện tích đất do UBND thị trấn quản lí. Việc Chủ tịch UBND huyện Bình Xuyên Nguyễn Quốc Hùng ký Quyết định số 3283/QĐ-UBND là trái pháp luật, trái thẩm quyền.

Việc ban hành Quyết định số 3619/QĐ-CT của Chủ tịch UBND tỉnh Vĩnh Phúc (ngày 26-10-2009) “V/v thu hồi đất giao cho UBND huyện Bình Xuyên thực hiện việc lập phương án bồi thường chi tiết, bồi thường GPMB công trình Nuôi trồng thủy sản đầm Sáu Vó”, do Phó Chủ tịch UBND tỉnh Phùng Quang Hùng khi đó kí thay Chủ tịch. Đây là văn bản trái thẩm quyền và vi phạm pháp luật. Đấy còn chưa nói đến những mâu thuẫn  trong nội dung 2 quyết định của Chủ tịch UBND tỉnh Vĩnh Phúc Phùng Quang Hùng và Chủ tịch huyện Bình xuyên Nguyễn Quốc Hùng đã ký.

Tại khoản 1, Điều 37 của Luật Đất đai năm 2003 quy định: “UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương quyết định giao đất, cho thuê đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất đối với tổ chức...”. Cũng tại Luật này, khoản 1, Điều 44 quy định: “UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương quyết định thu hồi đất đối với tổ chức...”.

Việc ban hành hai nội dung thu hồi và giao đất trong cùng một quyết định còn trái với quy định tại Điều 32 Luật Đất đai 2003: “Việc quyết định giao đất, cho thuê đất đối với đất đang có người sử dụng cho người khác chỉ được thực hiện sau khi có quyết định thu hồi đất đó”. Việc thu hồi đất trong Dự án Đầm Sáu Vó còn vi phạm nghiêm trọng vào Nghị định 84/2007/NĐ- CP về trình tự, thủ tục của các cấp chính quyền huyện Bình Xuyên và Tỉnh Vĩnh Phúc.

Với tổng mức đầu tư 9.980 triệu đồng ở dự án này để đào bới  gần chục ha ruộng của dân thành đầm nuôi tôm cá nhưng rồi để tan hoang suốt 6 năm nay. Điều này cho thấy,  sự vi phạm pháp luật của các cấp chính quyền tỉnh Vĩnh Phúc trong việc thu hồi đất để làm dự án này đã gây ra hậu quả pháp lý không hề nhỏ về sự thiệt hại tài sản của người dân và Nhà nước?

Thế nhưng, những người làm sai  cũng như ký các văn bản đó hiện tại chưa bị cơ quan pháp luật xem xét, thậm chí còn được thăng chức, như trường hợp ông Nguyễn Quốc Hùng, nguyên Chủ tịch UBND huyện Bình Xuyên, được bầu vào Thường vụ Tỉnh ủy, Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Tỉnh ủy Vĩnh Phúc. Ông Phùng Quang Hùng từ Phó Chủ tịch thăng tiến lên làm Chủ tịch UBND tỉnh Vĩnh Phúc?

Trong khi đó, Nhà báo, Luật sư, thương binh Hà Tuấn Ngọc hoàn toàn không có chức vụ gì, từng có những bài viết phanh phui một số vụ tham nhũng liên quan đến không ít "quan chức" ở Vĩnh Phúc, khiến có kẻ phải ngồi tù, mất chức, chỉ xin ô đất ở TP Vĩnh Yên cho con gái làm nhà ở bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội “Lợi dụng chức vụ quyền hạn trong khi thi hành công vụ” theo điều 281 Bộ Luật Hình sự, hoàn toàn  không đúng về tội danh nhưng ở hai cấp tòa sơ thẩm là TAND thành phố Vĩnh Yên xử từ ngày 15 đến 17/7/2013, phúc thẩm là TAND tỉnh Vĩnh Phúc xử ngày 24/9/2013 vẫn cố tình tuyên y án sơ thẩm: Bị cáo Hà Tuấn Ngọc, 5 năm tù giam? Hà Tuấn Ngọc và gia đình đang kháng án tiếp. Vậy công lý ở đâu? Cấp có thẩm quyền ở Vĩnh Phúc nghĩ suy gì liên quan đến những vụ việc nêu trên khi triển khai thực hiện Nghị quyết trung ương 4 (khóa) XI về "Mấy vấn đề cấp bách xây dựng Đảng ta hiện nay"?

(Còn nữa)
 

Vĩnh Phúc: Dự án Đầm Sáu Vó - Dấu hiệu nghiêm trọng về hình sự? (Bài 2)

Thu Hương - Phúc Vĩnh | Thứ Ba, 18/03/2014 04:06 GMT +7
Việc Thu hồi cả chục ha đất nông nghiệp để làm "Dự án nuôi trồng thủy sản Đầm Sáu Vó” ở thị trấn Thanh Lãng, huyện Bình Xuyên nhưng lại không hề có các văn bản pháp lý. Khi bị dân khiếu kiện quyết liệt, các cơ quan quản lý tỉnh Vĩnh Phúc mới vội vàng “hợp thức hóa” bằng loạt văn bản pháp lý chồng chéo. Hàng tỉ đồng để đầu tư dự án chỉ để đào bới ruộng của dân lên rồi bỏ hoang nhiều năm, để lại hậu quả nặng nề cho người dân, ai chịu trách nhiệm…?

“Trảm trước tấu sau”?

Tháng 10 năm 2007, người dân phố Độc lập và Thống Nhất của thị trấn Thanh Lãng (huyện Bình uyên- tỉnh Vĩnh Phúc) đã bất ngờ chứng kiến cảnh hàng chục xe ủi, máy xúc kéo nhau xuống đồng rồi múc đất, phá tan hoang gần 10 ha ruộng cấy lúa của dân tại khu đồng nước xiết biến thành ao hồ. Khi bị dân truy vấn, chính quyền thị trấn Thanh Lãng trả lời: Đắp bờ bao để phục vụ Dự án phát triển kinh tế địa phương. Trong khi đó, toàn bộ quy trình thực hiện dự án để lấy đất của dân lại không hề dựa trên một văn bản pháp lý nào liên quan đến  thủ tục thu hồi đất, GPMB…



Ông Nguyễn Ngọc Bích thị trấn Thanh Lãng (Bình Xuyên)  thắt lòng trước hàng chục ha ruộng cấy lúa của dân
bị đào bới lên bởi dự án "ma" bỏ hoang nhiều năm nay?

 
Việc đền bù hỗ trợ trong dự án này khi thu hồi đất nông nghiệp của dân cũng không thông báo. Sau 2 năm đi khiếu kiện, người dân mới được biết đơn vị phá ruộng của dân là Công ty TNHH Phúc Thành An để thực hiện cái gọi là "Dự án Nuôi trồng thủy sản Đầm sáu Vó”.

Như đã thông tin: Thấy sự vô lý, bất công của các cấp chính quyền, các hộ dân đã khiếu nại lên các cơ quan cấp huyện. Mãi đến ngày 29-3-2010, ông Nguyễn Quốc Hùng, khi ấy là Chủ tịch UBND huyện (hiện là Chủ nhiệm UBKT Tỉnh ủy Vĩnh Phúc) mới giao cho người dân bản phô-tô Quyết định thu hồi đất số 3283/QĐ-UBND ngày 4-11-2009 của UBND huyện Bình Xuyên, do chính ông Nguyễn Quốc Hùng kí. Nội dung QĐ đó cho rằng, căn cứ để UBND huyện Bình Xuyên ban hành Quyết định này  là Quyết định số 3619/QĐ-CT (ngày 26/10/2009) của Chủ tịch UBND tỉnh Vĩnh Phúc do Phó Chủ tịch UBND tỉnh Phùng Quang Hùng kí thay (nay là Chủ tịch UBND tỉnh Vĩnh Phúc), nội dung thu hồi 95.589m2 đất tại thị trấn Thanh Lãng, để triển khai công trình Nuôi trồng thủy sản Đầm Sáu Vó.



Quyết định số 3619/QĐ-CT (ngày 26/10/2009) của Chủ tịch UBND tỉnh Vĩnh Phúc do Phó Chủ tịch UBND tỉnh Phùng Quang Hùng kí thay (nay là Chủ tịch UBND tỉnh Vĩnh Phúc) thu hồi 95.589m2 đất tại thị trấn Thanh Lãng làm dự án "ma" để bỏ hoang hóa nhiều năm nay
 

Như vậy, UBND huyện Bình Xuyên đã thu hồi đất của dân theo kiểu “trảm trước tấu sau” bị mọi người đặt câu hỏi về tính pháp lý của những văn bản này, liệu có phải là những văn bản thật hay văn bản “giả” được ra đời chỉ để “hợp lý hóa” những sai phạm về Luật Đất đai đối với cái gọi là “Dự án nuôi trồng thủy sản Đầm Sáu Vó”?

Trong báo cáo số 94/UBND-BC, ngày 26 tháng 8 năm 2011 của UBND tỉnh Vĩnh Phúc gửi Thanh tra Chính phủ đã thừa nhận những sai phạm này: UBND huyện Bình Xuyên đã vi phạm nghiêm trọng quy định của pháp luật của pháp luật  về thu hồi, bồi thường, hỗ trợ, GPMB.

Tại Quyết định số 3283/QĐ-UBND kí ngày 4/11/2009 thể hiện xét đề nghị của phòng Tài nguyên & Môi trường, còn tờ trình của UBND thị trấn Thanh Lãng kí cùng ngày 4/11/2009. Đây là bằng chứng thể hiện sự đối phó bằng văn bản nhằm hợp thức hóa việc làm sai trái về thu hồi trái phép đất nông nghiệp cho dự án “ma” nhưng đã bộc lộ “giấu đầu hở đuôi” của những người có chức quyền ở huyện Bình Xuyên và thị trấn Thanh lãng.

Điều khuất tất nữa, ở Quyết định của UBND huyện Bình Xuyên thì mang thể thức thu hồi đất chung để giao cho chính UBND huyện (kèm theo danh sách các hộ), trong đó có cả diện tích đất do UBND thị trấn quản lý. Điều này có thể khẳng định, Quyết định số 3283/QĐ-UBND của huyện Bình Xuyên do ông Nguyễn Quốc Hùng, khi ấy là Chủ tịch UBND huyện ký  là trái pháp luật, trái thẩm quyền.

Khoản 1, điều 37 Luật Đất đai 2003 quy định: “UBND tỉnh, Thành phố trực thuộc Trung ương Quyết định giao đất, cho thuê đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất đối với tổ chức…”. Còn Khoản 1, Điều 44 của Luật này quy định: “UBND Thành phố trực thuộc Trung ương Quyết định thu hồi đất đối với tổ chức…” chứ không phải thẩm quyền UBND cấp huyện. Ở Điều 32 Luật này cũng quy định: “Việc quyết định giao đất, cho thuê đất đang có người sử dụng cho người khác chỉ được thực hiện sau khi có Quyết định thu hồi đất đó”.

Như vậy, đối chiếu với các khoản Điều, Khoản trên của Luật Đất đai thì Quyết định số 3619/QĐ-CT (ngày26/10/2009) của Chủ tịch UBND tỉnh Vĩnh Phúc “V/v thu hồi đất, giao UBND huyện Bình Xuyên thực hiện lập phương án bồi thường chi tiết, bồi thường GPMB..” do Phó chủ tịch Phùng Quang Hùng khi đó kí thay Chủ tịch UBND tỉnh. Đây là một văn bản vừa trái thẩm quyền, vừa vi phạm nghiêm trọng pháp luật về đất đai.

Việc thu hồi đất trong Dự án Đầm Sáu Vó của UBND huyện Bình Xuyên và UBND tỉnh Vĩnh Phúc còn vi phạm nghiêm trọng từ Điều 49 đến Điều 59 Nghị định 84/2007/NĐ- CP của Chính phủ về trình tự, thủ tục thu hồi đất và thực hiện việc bồi thường, hỗ trợ tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất của dân, nhất là đối với đất nông nghiệp canh tác lúa nước.

Dân được ăn “bánh vẽ”?

Với tổng mức đầu tư 9.980 triệu đồng ở "Dự án Nuôi trồng thủy sản Đầm Sáu Vó”, số tiền này được dùng để múc đất, đào cả chục ha ruộng của dân thành Đầm nuôi tôm cá nhưng chỉ để đấy? Cá thì không thấy, chỉ một vùng nước mênh mông ở giữa cánh đồng, khiến người dân không có đất canh tác, thất nghiệp, trở nên đói nghèo, bị bần cùng hóa. Điều này cho thấy, sự vi phạm pháp luật nghiêm trọng của các cấp chính quyền ở Vĩnh Phúc trong việc thu hồi đất để làm dự án “ma” đã gây ra hậu quả pháp lý không hề nhỏ về sự thiệt hại tài sản cho người dân và Nhà nước?




Báo cáo số 94/UBND-BC, ngày 26-8-2011 của UNND tỉnh Vĩnh Phúc gửi Thanh tra Chính phủ
đã thừa nhận: UBND huyện Bình Xuyên vi phạm nghiêm trọng quy định của pháp luật
về đất đai

Tại báo cáo số 94/UBND-BC, ngày 26-8-2011 của UNND tỉnh Vĩnh Phúc gửi Thanh tra Chính phủ,  đã thừa nhận: “UBND huyện Bình Xuyên vi phạm nghiêm trọng quy định của pháp luật về thu hồi, bồi thường, hỗ trợ, GPMB…”
Tuy vậy, mục tiêu được các cấp chính quyền trình bày trong bản Báo cáo này khá đẹp như: Dự án đảm bảo tiêu nước cho lưu vực là 8.710 ha đất huyện Bình Xuyên. Trong đó, 190ha Đầm Sáu Vó sản xuất chắc một vụ lúa, kết hợp một vụ nuôi cá ổn định, giải quyết việc làm, nâng cao đời sống nhân dân”.



Chủ tịch UBND thị trấn Thanh Lãng Nguyễn Duy Thắng xác nhận
thời điểm thu hồi đất cho dự án không hề có văn bản pháp lý nào?

Thực tế, không giống những gì dự án đã “vẽ” ra đem lại lợi ích cho dân mà để lại cả một vùng hoang hóa, ảnh hưởng tới đời sống của người dân, hàng chục mẫu ruộng khô héo, không có nước gieo cấy.

Thế nhưng, phần kết luận của báo cáo này, UBND tỉnh Vĩnh Phúc lại cho rằng: “Hồ sơ, thủ tục thu hồi đất, bồi thường GPMB để thực hiện dự án …cho đến nay là đầy đủ theo quy định của pháp luật” và “UBND huyện Bình Xuyên chậm ra Quyết định thu hồi là sai sót thực tế, nhưng đã được khắc phục để đảm bảo quyền lợi của các hộ dân theo đúng quy định của pháp luật…”

Thực chất, phần kết luận này có ý bao che sai phạm của các cán bộ lãnh đạo UBND huyện Bình Xuyên nhằm “dối trên, lùa dưới” để thoát hiểm. Vậy mà, những người chịu trách nhiệm sai phạm trong dự án này thời điểm đó là ông Nguyễn Quốc Hùng (Chủ tịch UBND huyện Bình Xuyên) không mất chức mà còn được được bổ nhiệm vào Thường vụ Tỉnh ủy, Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Tỉnh ủy để đi kiểm tra, kỷ luật người khác? Đối với Phó Chủ tịch UBND tỉnh Phùng Quang Hùng, người kí thay Chủ tịch tỉnh khi đó Quyết định thu hồi đất trái thẩm quyền, trái pháp luật thì được lên chức Chủ tịch UBND tỉnh Vĩnh Phúc?

Tại cuộc đối thoại với dân Thanh Lãng ngày 6 tháng 10 năm 2013, Chủ tịch UBND tỉnh Phùng Quang Hùng không phản biện được những câu hỏi, phản bác lập luận của dân về sai phạm xung quanh 2 dự án (Dự án xây dựng Cụm công nghiệp – làng nghề mộc thị trấn Thanh Lãng thu hồi gần 12 ha ruộng đã gần chục năm nay vẫn chưa đưa vào sử dụng theo đúng mục đích dự án mà một phần diện tích đã phân lô bán nền cho các hộ dân nơi khác đến xây nhà kiên cố, tiền vào túi ai? Số đất còn lại bị các hộ gần đó làm bãi chứa gỗ, cỏ mọc um tùm dùng để chăn thả trâu, bò, trong khi nhiều hộ dân không có đất để sản xuất, đời sống gặp nhiều khó khăn và Dự án nuôi trồng thủy sản “Đầm Sáu Vó” gần 10 ha). Nhưng ông Phùng Quang Hùng lại  hứa hẹn: “Tôi không ghi vào biên bản nhưng giao UBND huyện, bàn với UBND xã, sau 10 ngày nữa báo cáo rồi tôi sẽ có văn bản chỉ đạo ngay, ngày 24/6/2013 phải xong dự án…”

Vậy mà lời hứa của Chủ tịch UBND tỉnh Vĩnh Phúc Phùng Quang Hùng đã “theo gió mà bay”. Đã gần một năm nay, người dân vẫn không thấy kết quả từ lời hứa chắc nịch ấy của vị Chủ tịch UBND tỉnh Vĩnh Phúc. Thậm chí đến tháng tiếp dân vừa rồi, Chủ tịch UBND tỉnh Phùng Quang Hùng cũng “lặn” mất tăm.



Trả lời báo chí về sai phạm ở dự án này, Chánh văn phòng UBND tỉnh Vĩnh Phúc Bùi Minh Hồng (ảnh trên) bao biện: "Tỉnh đã có chỉ đạo giải quyết và trả lời dân".

Nhưng giải quyết cách nào khi mà dự án đã gần 10 năm nay vẫn để hoang hóa, dân vẫn khiếu kiện vượt cấp tới các cơ quan Trung ương, đất ruộng của dân từ “mượn” chuyển sang phân lô bán nền, tiền đầu tư hàng chục tỉ đồng để đào ruộng của dân thành đầm nhưng chính quyền đã bỏ mặc, chỉ khổ dân? Các văn bản có “dấu hiệu” giả để hợp thức hóa việc làm sai trái…? Do đó, Dự án nuôi trồng thủy sản “Đầm Sáu Vó” có “dấu hiệu” vi phạm nghiêm trọng về hình sự (?)

Người dân Thị trấn Thanh Lãng (huyện Bình Xuyên) và dư luận tỉnh Vĩnh Phúc vẫn đang chờ một câu trả lời khả thi nhất, cần một sự chỉ đạo, vào cuộc quyết liệt của cơ quan pháp luật cao nhất để điều tra, làm rõ những sai phạm ở dự án “ma” "nuôi trồng thủy sản Đầm Sáu Vó” cũng như Dự án xây dựng Cụm công nghiệp – làng nghề mộc thị trấn Thanh Lãng, sớm thu hồi đất trả lại cho dân có đất canh tác. Đồng thời trên cơ sở đó xử lý thật nghiêm những cán bộ mắc sai phạm liên quan đến những  dự án “ma” này theo quy định của pháp luật, góp phần lập lại trật tự kỷ cương phép nước ở nơi đây.







Tại huyện Bình Xuyên, tỉnh Vĩnh Phúc: Dân lao đao vì chính quyền “hô biến” hàng trăm nghìn m2 thành… hoang hóa

Gia Đình VN

(GĐVN) Chỉ riêng một xã, hai dự án “màu hồng” được chính quyền “vẽ lên cho vui”, thu hồi cả trăm nghìn m2 đất “bờ xôi ruộng mật” rồi phân lô bán, số còn lại để đấy. Người dân biết, làm đơn tố cáo liên miên, nhưng xem ra “trời xanh chẳng thấu”.


Không những thế, những sai phạm cá nhân lại được chính quyền địa phương khắc phục bằng cách lấy gần chục tỷ đồng ngân sách để “sửa sai” giúp cho những vị quan đó không thăng quan tiến chức thì cũng “hạ cánh” an toàn. Chỉ khổ người nông dân “thấp cổ bé họng”, đấu tranh để rồi… tránh đâu?.
Thu hồi đất “bờ xôi ruộng mật” để… bỏ hoang?
Thực hiện nhiệm vụ thúc đẩy kinh tế các địa phương, định hướng đến năm 2020, ngày 31/01/2005, UBND tỉnh Vĩnh Phúc ra Quyết định 337/QĐ-UBND về việc Phê duyệt Báo cáo nghiên cứu kỹ thuật đầu tư xây dựng hạ tầng kỹ thuật cụm công nghiệp làng nghề (CCN –LN) xã Thanh Lãng với tổng diện tích 119.363m2. Theo đó, ngày 07/09/2005, UBND tỉnh có QĐ 2790/QĐ-UBND về việc thu hồi và giao đất cho UBND huyện Bình Xuyên triển khai bồi thường giải phóng mặt bằng, đầu tư xây dựng hạ tầng kỹ thuật cụm công nghiệp làng nghề xã Thanh Lãng (giai đoạn 1), diện tích thu hồi 92.318,4m2 (trên 83.000m2 là đất nông nghiệp) tại xứ đồng rau xanh của xã. Thấy “dự án hay” khi vừa phát triển kinh tế làng nghề, người dân có công ăn việc làm, lại bảo vệ được môi trường nên ai nấy đều nhiệt tình làm theo lời chính quyền.
Sau 8 n ăm triển khai dự án, CCN -LN, ngoài một phần đất được chính quyền "cắt" ra để bán, còn lại vẫn là bãi đất hoang
Mất đất sản xuất, nhưng vẫn còn hi vọng được vào cụm công nghiệp làm việc nên người dân Thanh Lãng vẫn cố gắng “lay lắt” đợi chờ. Hơn 1 năm sau, dự án vẫn chỉ là bãi đất trống, người dân chán nản, nhưng đành “cắn răng chịu đựng”.
Hàng trăm hộ dân Thanh Lãng còn đang bàng hoàng vì mất đất sản xuất thì chỉ hơn một năm sau, một dự án tầm cỡ không kém tiếp tục “đổ bộ” xuống đồng đất nơi đây. Quyết định 1389/QĐ–UBND, ngày 16/06/2006 của UBND tỉnh Vĩnh Phúc chính thức phê duyệt đầu tư xây dựng dự án nuôi trồng thủy sản đầm Sáu Vó với diện tích 190ha, trong đó có 125ha thuộc xã Thanh Lãng.
Theo ông Trần Văn Lựu, người dân tổ dân phố Thống Nhất (Thanh Lãng) bức xúc: “Chỉ bằng những lời nói suông, và hứa hẹn sau khi triển khai dự án, con em mất đất sẽ được ưu tiên học nghề….và mời dân ra UBND xã nhận tiền, thậm chí chẳng cần nói với dân vẫn lấy đất canh tác của dân, san lấp xong giờ thì bỏ hoang”.
Ông Nguyễn Ngọc Bích, ở khu Thống Nhất (Thanh Lãng) cho biết thêm: Việc lập dự án thiếu công khai, dân chủ, không đúng trình tự, không có quyết định thu hồi đất cho từng cá nhân, cấp sổ đỏ cho các phần diện tích dự án trùng lên diện tích đất nông nghiệp đã có sổ đỏ…Mặc dù chúng tôi gửi đơn lên các cấp nhiều lần nhưng đến nay vẫn chưa được giải quyết”. Tại Công văn số 1392/TDTW(ngày 25/5/2012) của Văn phòng Trung ương Đảng cũng thể hiện rõ lời ông Bích và gần 200 hộ dân thôn Thống Nhất.
Bà Nguyễn Thị Gái, người cùng thôn bức xúc: “Tôi còn chưa biết đó là chủ trương gì, chỉ thấy hai dự án đã biến những con đường nội đồng, tuyến bờ bao bị cào xé tan hoang”.
Những tưởng, sau việc làm “đi tắt đón đầu” đó của huyện Bình Xuyên thì dự án sẽ triển khai nhanh hơn nhưng 8 năm qua, cả hai dự án vẫn gần như “dậm chân tại chỗ”, đất đai thu hồi bị bỏ hoang trong khi người dân không có ruộng để sản xuất.
Ông Trần Văn Lựu, tổ trưởng thôn Thống Nhất, đại diện cho hơn 200 hộ cho biết: “Mãi đến cuối năm 2009, dự án CCN-LN mới chôn được vài cột điện và xây xong căn nhà điều hành; còn dự án nuôi trồng thủy sản ở đầm Sáu Vó sau khi quần nát “bờ xôi ruộng mật” của dân thì gần như... để nguyên”.
Điều khiến người dân vô cũng bức xúc, là những diện tích đất phục vụ dự án làng nghề của họ đã im lìm đội nón ra đi. Theo phản ánh của ông Lựu, sau khi san lấp mặt bằng xong, chính quyền quay ra đấu giá đất bán và cấp sổ đỏ cho khoảng 50 hộ khác, số còn lại hiện vẫn để để hoang hóa... cũng như hàng chục hộ dân khác, họ chưa một lần thấy Quyết định thu hồi đất nhưng diện tích đất phục vụ dự án của dân đã được sang tên, đổi chủ!?.
Ng ười dân lao đao, đói khổ vì chính quyền thu hồi đất nông nghiệp để... bỏ hoang
Gần 8 năm trôi qua, ông Bích, ông Lựu và hơn 200 hộ dân đã bao lần đâm đơn đi tìm công lý, nhưng đất ruộng vẫn bị bỏ hoang còn cán bộ các cấp thì mặc sức hứa suông. Ngay khi có quyết định mới, người dân nơi đây vẫn phải chịu thiệt thòi. Theo Nghị định 69/NĐ-CP ngày 13/08/2009 của Chính phủ và QĐ 59/2009/QĐ-UBND của UBND tỉnh Vĩnh Phúc về ban hành quy định thực hiện bồi thường khi nhà nước thu hồi đất thì áp giá đền bù trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc với giá chung là 73 triệu đồng/sào (360m2) nhưng không hiểu lý do gì mà khi tiền đến tay người dân chỉ còn 67 triệu đồng/sào. Cũng theo ông Bích, đa phần người dân đều không hiểu tiền đó gồm những khoản gì, chỉ nghe cán bộ giải thích đại khái là tiền đền bù dự án.
Về vấn đề này, ông Nguyễn Duy Thắng, Chủ tịch UBND xã Thanh Lãng cho biết: “CCN-LN được HĐND xã thông qua năm 2004, UBND huyện và tỉnh Phê duyệt thành lập cụm làng nghề sản xuất gỗ tập trung và đến năm 2009 cho cơ chế đất dịch vụ và đất được đem ra bán đấu giá cho dân làm nhà ở”.
Khi được hỏi tại sao đất của CCN –LN lại được phân lô bán, ông Thắng “mạnh miệng” cho biết, tất cả đều có trong dự án đã được phê duyệt. Tuy nhiên, khi chúng tôi yêu cầu cung cấp quyết định phê duyệt, ông Thắng lại “ậm ờ” và không cung cấp được.
Nghi án lấy tiền công để khắc phục sai phạm riêng
Theo đơn trình bày của 200 hộ dân ở Thanh Lãng: Ngày 25/8/2005, chính quyền xã Thanh Lãng triệu tập họp dân thôn Thống Nhất về việc xây dựng CCN-LN, có cả ông Bình cán bộ địa chính huyện về dự. Ông Nguyễn Đăng Tình (khi đó là Chủ tịch UBND xã) tuyên bố: “Dự án này chỉ thuê đất của bà con 8 năm (từ năm 2005 đến 2013), sau đó lại trả ruộng cho bà con và chỉ hỗ trợ về hoa màu chứ không đền bù đất”. Giá thuê đất trong 8 năm hạng 1 được tính 14.514.000 đồng/sào; hạng 2 là 14.104.000 đồng/sào. Nhiều ý kiến không đồng thuận, do 2/3 diện tích ở đây là đất 10% trồng rau xanh, nhiều hộ là gia đình chính sách, thương binh, liệt sĩ. Kết quả, cuộc họp bất thành. Đến tháng 10/2005, UBND xã mời bà con ra lấy tiền, nhưng không giao một thứ giấy tờ gì. Chính quyền xã “ép” dân nhận tiền, rồi tiến hành san lấp mặt bằng.
Năm 2009, dân chưa thấy làng nghề đâu, chỉ thấy một số nhà 3 - 4 tầng kiên cố mọc lên. Dân tá hỏa, nhiều lần lên huyện hỏi, mãi đến ngày 29/3/2010, ông Nguyễn Quốc Hùng, Chủ tịch UBND huyện mới đưa cho bà con bản phô-tô Quyết định số 1466/QĐ-UBND của UBND tỉnh, thu hồi đất, giao cho huyện Bình Xuyên làm chủ dự án xây dựng CCN-LN.
Suốt từ năm 2009 đến nay, nhân dân gửi đơn đi nhiều nơi, hết huyện rồi tỉnh tiến hành thanh tra, ra nhiều văn bản trả lời, song tất cả đều chung chung, bao che cho sai phạm. Tính đến nay, huyện đã bán đấu giá 50 suất đất ở, giải thích là để lấy kinh phí xây dựng hạ tầng. Song, thực tế không có công trình hạ tầng nào được xây dựng, gần 10ha đất bị bỏ hoang hóa suốt hơn bảy năm nay, trong khi dân thiếu đất canh tác, rơi vào cảnh thất nghiệp...
Căn cứ các tài liệu thu thập được và kết quả xác minh của chúng tôi, những nội dung trình bày của nhân dân là có cơ sở, các sai phạm biểu hiện ở cấp độ nghiêm trọng, hậu quả để lại rất nặng nề. Mặc dù trong quá trình nhân dân khiếu nại, chính quyền có đưa ra các văn bản, quyết định liên quan (tất cả đều là bản phô-tô), song tại thời điểm thu hồi đất người dân không được nhận bất cứ văn bản, quyết định nào, điều này cũng được ông Nguyễn Duy Thắng, Chủ tịch UBND thị trấn Thanh Lãng xác nhận.
Toàn bộ quy trình thu hồi đất, ở CCN-LN Thanh Lãng vẻn vẹn có hai văn bản: Quyết định thu hồi đất số 2790/QĐ-UBND của UBND tỉnh Vĩnh Phúc; Quyết định thu hồi đất số 1466/QĐ-UBND của UBND huyện Bình Xuyên, có danh sách các hộ kèm theo. Khoan nói đến những dấu hiệu bất thường của hai quyết định trên, thì việc thu hồi đất đã vi phạm nghiêm trọng các quy định của pháp luật.
Trường hợp tương tự, Dự án Nuôi trồng thủy sản đầm Sáu Vó, không cần hỏi dân chính quyền đã ngang nhiên lấy đất nông nghiệp của dân, hơn hai năm sau khi dân phản ứng mới ra quyết định thu hồi.
Căn cứ tài liệu, tháng 10/2007, nhân dân thôn Thống Nhất bàng hoàng chứng kiến cảnh hàng chục xe ủi, máy xúc ùn ùn kéo đến, múc đất, phá tan trên 10.000m2 đất nông nghiệp của dân tại khu đồng nước xiết. Hệ thống thủy lợi, đường giao thông nội đồng bị tàn phá, hàng chục mẫu ruộng không có nước để gieo cấy, hàng chục héc-ta kém năng suất do hệ thống dẫn nước bị phá hủy. Bà con hỏi, chính quyền trả lời là đắp bờ bao phục vụ dự án phát triển kinh tế địa phương. Trong khi toàn bộ công việc lấy đất của dân, biến một vùng rộng lớn thành mương nước... không hề căn cứ vào quyết định, trình tự thủ tục nào liên quan đến việc thu hồi đất GPMB. Thậm chí việc đền bù, hỗ trợ khi đất nông nghiệp bị thu hồi, dân cũng không được thông báo...
Ông Nguyễn Duy Thắng, Chủ tịch UBND xã Thanh Lãng thừa nhận: Việc thu hồi đất của huyện không hề có quy hoạch và quyết định thu hồi...
Ông Nguyễn Duy Thắng, Chủ tịch xã Thanh Lãng thẳng thắn thừa nhận rằng đúng là dự án tại đồng Sáu Vó này không hề có quy hoạch và quyết định thu hồi.
Sai phạm là thế, nhưng huyện Bình Xuyên lại “cố đấm ăn xôi”, bởi cũng theo ông Thắng: “Khi thấy dân kiến nghị nhiều, UBND huyện Bĩnh Xuyên đã khắc phục bằng cách thuê người đến múc hơn 7000m2. Nghe đâu số tiền cũng hơn 6 tỷ đồng...”.
Nếu đúng như lời ông Thắng nói thì quả thực vấn đề đã trở nên cực kỳ nghiêm trọng, bởi không chỉ sai về thủ tục, lãnh đạo huyện Bình Xuyên còn vi phạm luật nghiêm trọng khi lấy tiền ngân sách để khắc phục sai lầm cá nhân. Vấn đề này thiết nghĩ cơ quan chức năng cần vào cuộc làm rõ để tránh dư luận xấu trong nhân dân. Bởi theo tìm hiểu của chúng tôi, người dân không chỉ bức xúc về chuyện thu hồi đất của dân sai quy trình, mà những cá nhân lãnh đạo làm sai đó, người thì thăng quan tiến chức, người thì “hạ cánh” an toàn…
Những dự án trên đã được các cấp chính quyền địa phương thừa nhận là có sai sót, nhưng không hiểu vì lí do gì cho đến nay vẫn chưa dược giải quyết!? Để đảm bảo quyền lợi cũng như ổn định đời sống nhân dân, cơ quan chức năng cần nhanh chóng vào cuộc giải quyết dứt điểm sự việc trên.
Báo GĐVN sẽ tiếp tục thông tin vụ việc đến bạn đọc.
Ngô Hùng 

Đâm hai cán bộ rồi tự sát



(VTC News) – Do bức xúc trong việc thu hồi đất, ông Tưởng đã dùng dao đâm 2 cán bộ của đoàn công tác Trung tâm Khai thác quỹ đất huyện Thăng Bình, Quảng Nam tại buổi họp với 61 hộ dân bị giải tỏa.

Vào khoảng 9h sáng 23/3, trong lúc đoàn cán bộ của Trung tâm Khai thác quỹ đất huyện Thăng Bình tiến hành họp dân để giải tỏa xây dựng Trường Trung cấp Cảnh sát nhân dân tại xã Bình Phục( huyện Thăng Bình), trong đó có phần đất giải tỏa của gia đình ông Nguyễn Văn Tưởng (48 tuổi, trú thôn Ngọc Sơn Tây, xã Bình Phục, huyện Thăng Bình, Quảng Nam).
Trong lúc cán bộ của Trung tâm chuyển micro để ông Tưởng phát biểu ý kiến thì bất ngờ bị ông Tưởng rút dao thủ sẵn trong người ra đâm. Tiếp đó ông Tưởng quay sang đâm ông Nguyễn Xuân Mai, Phó Giám đốc Trung tâm Khai thác quỹ đất đứng gần đó khiến 2 người này bị thương.
Theo bà Lê Thị Thanh Mai, Phó Chủ tịch UBND huyện Thăng Bình cho biết, đoàn công tác của Trung tâm Khai thác quỹ đất huyện Thăng Bình tiến hành họp 61 hộ dân trong diện giải tỏa đền bù để lấy ý kiến của người dân về bố trí tái định cư. Tuy nhiên trong lúc cán bộ đoàn công tác đưa micro để ông Tưởng phát biểu thì bất ngờ ông Tưởng rút dao ra đâm làm 2 người bị thương.

Theo người nhà ông Tưởng, nguyên nhân dẫn đến vụ việc trên là do quá bức xúc trong việc đền bù giải tỏa mà gia đình cho là chưa thỏa đáng nên Nguyễn Văn Tưởng đã dùng dao đâm vào hai cán bộ của đoàn công tác. Sau khi bị người dân tại cuộc họp can ngăn, ông Tưởng chạy về nhà tiếp tục mang dao để uy hiếp. Nhưng đoàn công tác đã kịp thời chạy thoát ra khỏi địa bàn và gọi công an. Sau khi thấy công an đến, ông Tưởng sợ bỏ chạy về nhà rồi uống thuốc độc là cyanua tự sát. Sau đó hơn 20 phút người nhà đưa ông Tưởng đi cấp cứu và ông đã chết trên đường đi cấp cứu.

Trong báo cáo số 36 cùng ngày của UBND huyện Thăng Bình gửi các cơ quan chức năng và UBND tỉnh Quảng Nam cho biết nguyên nhân dẫn đến vụ việc như sau: Hộ ông Nguyễn Xong có 3 khẩu. Trong đó có ông Nguyễn Văn Tưởng thuộc diện giải phóng mặt bằng và tái định cư. Gia đình ông Tưởng được bố trí 1 lô đất tái định cư và được hổ trợ 100% tiền chênh lệch sử dụng đất theo qui định. Tuy nhiên, ông Tưởng có lô đất ở 87 m2 đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nhưng chưa xây dựng nhà ở cũng được thu hồi và không được bố trí tái định cư lại lô đất khác.

Bức xúc trước sự việc, ông Tưởng làm đơn khiếu nại và được Chủ tịch UBND huyện Thăng Bình Nguyễn Văn Ngữ tiếp và xử lý đơn thư khiếu nại theo thẩm quyền đã đồng ý cấp cho ông Tưởng một lô đất trong khu tái định cư với diện tích 100 m2 nhưng phải nộp tiền sử dụng đất theo quy định. Tuy nhiên ông Tưởng không đồng ý và Chủ tịch UBND huyện Thăng Bình Nguyễn Văn Ngữ nêu rõ quan điểm nếu không đồng ý với nội dung giải quyết của UBND huyện, thì ông Tưởng có quyền khiếu nại lên cấp có thẩm quyền. Hiện cơ quan chức năng huyện Thăng Bình tiến hành điều tra làm rõ.


Thùy Dương

Nhiều sai phạm trong đền bù giải toả, tái định cư

Cập nhật: 08/03/2016 10:35

(Thanh tra)- Dự án (D.A) nâng cấp quốc lộ (QL) 24 đi qua huyện Mộ Đức và Đức Phổ của tỉnh Quảng Ngãi có chiều dài 8km, với tổng mức đầu tư gần 400 tỷ đồng. D.A triển khai năm 2009, đến nay D.A vẫn ì ạch do vướng đền bù giải phóng mặt bằng.

Nhiều sai phạm trong đền bù giải toả, tái định cư
Nhiều hộ dân Phổ Phong đã nhận tiền đền bù giải toả và đất tái định cư nhưng chưa chịu bàn giao mặt bằng cho D.A QL 24. Ảnh: Ngọc Phó
Do vậy, đã làm tăng giá trị D.A, giá trị bồi thường từ 72,3 tỷ đồng lên 127 tỷ đồng. Chưa hết, trong quá trình kiểm kê, áp giá đền bù thiệt hại về tài sản, không ít trường hợp lợi dụng chiếm đoạt tiền Nhà nước…
Tháng 4/2000, vợ chồng ông Dương Nguyễn Nhật Triệu (công nhân Đội Quản lý đường sắt 403 Đức Phổ) gửi đơn xin đất làm nhà tạm trên khu đất trống phía Nam, gần nhà chắn đường sắt chạy qua xã Phổ Phong, huyện Đức Phổ. Ông Triệu cam kết sau này Nhà nước lấy lại sẽ tự nguyện tháo dỡ nhà, trả lại đất. Đơn được lãnh đạo Xí nghiệp Quản lý đường sắt Nghĩa Bình ký xác nhận, đóng dấu.
Tuy nhiên, khi triển khai giải phóng mặt bằng D.A QL 24, hộ ông Triệu không tháo dỡ tài sản trả lại đất mà cho rằng mình mua đất của bà Trần Thị Mỹ Lệ để làm nhà. Ông Triệu đưa ra giấy viết tay làm cơ sở đòi đền bù, tái định cư.
Nhiều lần các cơ quan chức năng đến vận động hoặc thông báo áp dụng biện pháp cưỡng chế thì vợ ông Triệu xách can xăng ra trước nhà gây áp lực…
Rốt cuộc, Trung tâm Phát triển quỹ đất huyện phải chi trả cho hộ ông Triệu gần 600 triệu đồng và bố trí 1 lô đất tái định cư. Dù đã nhận tiền đền bù đợt 1/2016, đến nay ông Triệu vẫn chưa chịu tháo dỡ nhà cửa, bàn giao mặt bằng thi công.
Còn trường hợp ông Huỳnh Hiệt (thôn Hiệp An) tự bao chiếm 1.257m2 đất phần trăm do UBND xã quản lý rồi bỏ trống hơn 30 năm nay. Sau đó, ông Hiệt kê khai và được UBND huyện Đức Phổ cấp sổ đỏ năm 2006, thuộc dạng đất trồng cây hằng năm.
Khi Nhà nước thu hồi 1.079m2 đất phục vụ D.A QL 24, phải chi trả tiền đền bù cho ông Hiệt hơn 262 triệu đồng và Chủ tịch UBND huyện Lê Văn Mùi “ép” UBND xã phải ký hồ sơ xác nhận cho ông Hiệt nhận tiền.
Vụ việc này đã gây bất bình trong nhân dân. Sau khi công luận phản ứng quyết liệt, Thanh tra tỉnh vào cuộc xác minh, chỉ rõ việc cấp đất, đền bù đất không đúng quy định đã kiến nghị Chủ tịch UBND huyện Đức Phổ khẩn trương ra quyết định thu hồi sổ đỏ của ông Hiệt cũng như dừng việc chi trả tiền đền bù đất đai.
Không nhận được chế độ đền bù, ông Hiệt liên tục có hành vi gây cản trở thi công công trình D.A QL 24, nhưng địa phương chưa có biện pháp xử lý nghiêm minh.
Từ đơn tố cáo của công dân, cơ quan chức năng đã làm rõ việc bà Thới Thị Hải Yến, Phó Chủ tịch UBND xã Phổ Phong (nhiệm kỳ 2011 - 2016) thiếu gương mẫu, không động viên gia đình chấp hành pháp luật mà bao che cho người nhà trục lợi tiền đền bù giải toả. Bản thân bà Yến còn tự ý đổ đất lập vườn trên đất trồng lúa, thiếu trung thực trong việc kê khai nguồn gốc sử dụng đất của hộ gia đình mình. Cụ thể: Đất gia đình bà Yến sử dụng từ năm 1984, nhưng bà Yến kê khai sử dụng từ ngày 6/12/1980 để lập hồ sơ được hỗ trợ đền bù về đất khi Nhà nước thu hồi phục vụ D.A QL 24 và nhận hơn 8,7 triệu đồng.
Vụ việc được phát hiện, nhưng ý thức tự giác khắc phục hậu quả của bà Yến chưa kịp thời. UBND huyện Đức Phổ đã ban hành Quyết định số 1060/QĐ-UBND về thi hành kỷ luật đối với bà Yến bằng hình thức cảnh cáo.
Hiện tại, D.A QL 24 trên địa bàn xã Phổ Phong, nhất là khu vực hai bên đầu cầu vượt đường sắt còn gần 20 trường hợp đã nhận tiền đền bù nhưng chưa chịu bàn giao mặt bằng cho đơn vị thi công mà tái chiếm đất xây nhà, vật kiến trúc….
Trong công tác kiểm kê áp giá đền bù về đất, nhiều trường hợp không có quyết định thu hồi đất vẫn chi trả tiền. Nhiều hộ không thuộc diện bố trí đất tái định cư nhưng vẫn được nhận đất. Cá biệt, có chủ hộ đã chết hàng chục năm nhưng vẫn được nhận đất tái định cư.
Trước thực trạng trên đề nghị UBND tỉnh Quảng Ngãi sớm chỉ đạo kiểm tra toàn diện việc đền bù giải toả, bố trí tái định cư tại D.A QL 24 nhằm xử lý triệt để các sai phạm cũng như các trường hợp cố tình gian lận hoặc chây lỳ, gây thiệt hại không nhỏ cho ngân sách và ảnh hưởng đến tiến độ của toàn D.A.
                                                                       Nguyễn Ngọc Phó

Dân “tố” huyện thu hồi đất không đền bù, huyện chấp nhận ra toà tranh luận

Dân trí Người dân cho rằng, đất của họ bị thu hồi nhưng chưa có quyết định thu hồi, chưa đền bù thỏa đáng… Tuy nhiên, lãnh đạo huyện thì nói việc thu hồi đất của người dân đúng quy định, nếu không hài lòng có thể kiện ra tòa…
 >> Quảng Nam: Huyện có “bật đèn xanh” cho doanh nghiệp khai thác vàng sa khoáng?
 >> Quảng Nam: “Sếp” Phó Viện kiểm sát cấp huyện bị tố "ép" người phải vào lao lý
 >> Quảng Nam: Hơn 2 thập kỷ mòn mỏi chờ cộng nối thời gian tham gia bảo hiểm xã hội

Ông Võ Thắng (SN 1977, trú thôn Đức Bố 2, xã Tam Anh Bắc, huyện Núi Thành, Quảng Nam) đại diện cho 6 hộ dân cùng thôn đã có đơn gởi các cơ quan chức năng của tỉnh Quảng Nam để tố cáo về vụ việc “có dấu hiệu của tội phạm trong việc bồi thường, hỗ trợ giải phóng mặt bằng xây dựng thao trường tổng hợp Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh Quảng Nam - Quân khu 5 tại thôn Đức Bố 2 (xã Tam Anh Bắc, huyện Núi Thành, Quảng Nam).
Người dân chỉ đám keo chưa được đền bù đã bị chặt hạ chất đống
Người dân chỉ đám keo chưa được đền bù đã bị chặt hạ chất đống
Theo nội dung đơn, các gia đình này có diện tích đất nông nghiệp tại thôn Đức Bố 2 (xã Tam Anh Bắc, huyện Núi Thành, tỉnh Quảng Nam) khai hoang quản lý sử dụng ổn định, công khai từ trước năm 2000 không có ai tranh chấp, chính quyền địa phương không có ý kiến gì.
Đến năm 2006, diện tích đất này trúng vào diện bị ảnh hưởng của dự án xây dựng thao trường tổng hợp Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh Quảng Nam (QK 5) đã được các cấp chính quyền địa phương kiểm kê lập biên bản và áp giá bồi thường, hỗ trợ về đất gắn liền với tài sản trên đất. Tuy nhiên giá bồi thường, hỗ trợ về đất và tài sản gắn liền trên đất quá thấp, không đúng quy định của pháp luật các hộ khiếu nại đến UBND xã Tam Anh Bắc và UBND huyện Núi Thành để được xem xét giải quyết theo đúng quy định của pháp luật.
Trong đó, hộ ông Võ Thắng và Võ Toàn (SN 1973, anh ruột ông Thắng) có diện tích đất là 2.500m2, ông Võ Đức Hảo (SN 1953, có diện tích đất 300m2), ông Nguyễn Văn Thành (SN 1965, có diện tích đất 1.000m2), bà Võ Thị Thọ (SN 1963, có diện tích đất 750m2 và ông Đỗ Viết Chiến (SN 1972, có diện tích đất 350m2).
Đơn tố cáo của người dân gởi các cơ quan chức năng tỉnh Quảng Nam
Đơn tố cáo của người dân gởi các cơ quan chức năng tỉnh Quảng Nam
“Chúng tôi không được xem xét giải quyết và thực tế UBND huyện Núi Thành không ra quyết định thu hồi đất chi tiết đối với từng hộ gia đình, cá nhân, quyết định bồi thường, hỗ trợ về đất gắn liền với tài sản trên đất theo quy định của Luật Đất đai năm 2003 cho chúng tôi và thực tế dự án treo không thực hiện nên các hộ gia đình chúng tôi vẫn trực tiếp quản lý sử dụng đất không có cơ quan, tổ chức, cá nhân nào tranh chấp và chính quyền địa phương cũng không có ý kiến gì nên chúng tôi nghỉ rằng quyền và lợi ích hợp pháp của chúng tôi chưa bị ảnh hưởng nên không có khiếu nại, kiến nghị gì”, đơn của các hộ dân trình bày.
Tháng 8/2015, diện tích đất này bị ảnh hưởng của dự án xây dựng công trình đường trục chính khu liên hợp công nghiệp, du lịch, đô thị Việt - Hàn do Nhà nước có điều chỉnh quy hoạch. Các hộ này chỉ được kiểm kê bồi thường về tài sản trên đất (cây cối, hoa màu trên đất), còn đất không được bồi thường, hỗ trợ theo quy định của pháp luật.
Thư trả lời của VKS ND tỉnh Quảng Nam yêu cầu các hộ dân chuyển đơn sang Cơ quan CSĐT Công an tỉnh Quảng Nam để được xem xét, giải quyết
Thư trả lời của VKS ND tỉnh Quảng Nam yêu cầu các hộ dân chuyển đơn sang Cơ quan CSĐT Công an tỉnh Quảng Nam để được xem xét, giải quyết
Do không được bồi thường đối với diện tích đất bị thu hồi nên các hộ này đã khiếu nại đến UBND huyện Núi Thành để được xem xét giải quyết theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, UBND huyện Núi Thành không ra quyết định giải quyết khiếu nại và đã bác đơn khiếu nại của các hộ này với lý do đất do UBND xã Tam Anh Bắc quản lý và vào năm 2006 đã thu hồi đất giao cho Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh Quảng Nam để thực hiện dự án. Vì vậy, hiện nay Nhà nước thu hồi đất của Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh Quảng Nam nên không xem xét bồi thường, hỗ trợ về đất cho các hộ dân này.
Theo hồ sơ của người dân cung cấp, năm 2006, UBND huyện Núi Thành phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ GPMB xây dựng thao trường tổng hợp Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh Quảng Nam tại thôn Đức Bố 2 với số tiền trên 1 tỉ đồng của 31 hộ gia đình, cá nhân và 3 đơn vị có tài sản,vật kiến trúc, cây cối hoa màu và đất đai sử dụng hợp pháp trong phạm vi giải tỏa, trong đó có các hộ gia đình này.
Clip người dân trao đổi với PV
Thực tế một số hộ chưa nhận tiền bồi thường, hỗ trợ về đất, tài sản gắn liền trên đất và UBND huyện Núi Thành không có quyết định thu hồi đất chi tiết đối với từng hộ gia đình, cá nhân thuộc diện bị thu hồi đất và quyết định bồi thường, hỗ trợ về đất theo quy định của Luật Đất đai năm 2003 và Luật Đất đai năm 2013 giao cho họ.
“Như vậy, tiền bồi thường, hỗ trợ cán bộ cơ quan nào đã “ăn” mất của chúng tôi dẫn đến tính chất vụ việc phức tạp, gây thiệt hại về tài sản của chúng tôi và bức xúc, bất bình tại địa phương. Cụ thể là chúng tôi chưa hề nhận tiền bồi thường, hỗ trợ về đất, tài sản trên đất số tiền bồi thường, hỗ trợ nêu trong quyết định trên và hiện số tiền đó ở đâu? Ai nhận? Việc thanh quyết toán như thế nào? UBND huyện Núi Thành không có quyết thu hồi đất chi tiết đối với từng hộ gia đình, cá nhân cho chúng tôi và quyết định bồi thường, hỗ trợ về đất, quyết định cưỡng chế thu hồi đất theo quy định của Luật Đất đai của chúng tôi nhưng ngày 29/10/2015 UBND huyện Núi Thành và UBND xã Tam Anh Bắc đã điều động lực lượng cưỡng chế phá nát tài sản trên đất (cây cối, hoa màu trên đất) của các hộ gia đình chúng tôi, ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền và lợi ích hợp pháp của các hộ gia đình chúng tôi, làm cho chúng tôi và dư luận xã hội tại địa phương rất bức xúc, bất bình trong nhân dân, làm giảm lòng tin của nhân dân vào đường lối lãnh đạo đúng đắn của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước”, đơn của các hộ dân viết.
Thông báo trả lời của Phó Chủ tịch huyện Núi Thành – ông Trương Văn Trung – đối với khiếu nại của các hộ dân
Thông báo trả lời của Phó Chủ tịch huyện Núi Thành – ông Trương Văn Trung – đối với khiếu nại của các hộ dân
Để rõ hơn vụ việc, PV Dân trí đã làm việc với ông Trương Văn Trung - Phó Chủ tịch UBND huyện Núi Thành và được ông cho biết, ông đã có kết luận khiếu nại của người dân về vụ việc. Ông Trung cho hay, đây là vùng quy hoạch đất quốc phòng, năm 2006 và 2010 đã đền bù rồi. Từ đó đến nay dân không khiếu nại. Khi làm đường vào KCN Việt Hàn dân mới bắt đầu khiếu nại.
“Chúng tôi đã vận động nhiều lần nhưng dân không thông thì biết làm sao. Phần lớn người dân đã chấp nhận hết rồi, chỉ còn lại 6 hộ… Nếu dân không đồng ý thì có thể kiện ra tòa”, ông Trung nói. Ông Trung cũng cho hay, việc huyện thu hồi diện tích đất của các hộ dân nói trên là đúng quy định.
Trao đổi với PV Dân trí về đơn khiếu kiện của các hộ dân, luật sư Phạm Xuân Linh (Đoàn luật sư tỉnh Quảng Nam) cho biết: Căn cứ vào Luật Đất đai năm 2003 và Luật Đất đai năm 2013 quy định: Nhà nước thu hồi đất do hộ gia đình, cá nhân đang trực tiếp quản lý sử dụng đất thì phải ban hành quyết định thu hồi đất đối với từng hộ gia đình, cá nhân cụ thể đang trực tiếp quản lý sử dụng đất, thẩm quyền thu hồi đất của hộ gia đình, cá nhân là của UBND cấp huyện. Do đó, UBND huyện Núi Thành thu hồi đất của hộ gia đình, cá nhân đang trực tiếp quản lý sử dụng đất mà không ban hành quyết định thu hồi đất là trái quy định pháp luật.
UBND huyện Núi Thành cho rằng đất các hộ gia đình, cá nhân đang có đơn khiếu nại UBND huyện Núi Thành không ban hành quyết định thu hồi đất và không ban hành quyết định bồi thường, hỗ trợ về đất cho họ thuộc đất công ích do UBND xã Tam Anh Bắc quản lý là chưa phù hợp với pháp luật. Bởi vì, các hộ gia đình, cá nhân đang có đơn khiếu nại quản lý sử dụng đất công khai trong thời gian dài (từ trước năm 2004 đến năm tháng 10/2015), nhưng không có cơ quan Nhà nước nào có biện pháp ngăn cấm và các hộ gia đình, cá nhân này cũng không thuê đất của UBND xã Tam Anh Bắc và không thể hiện việc các hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất phải nộp tiền thuê đất cho UBND xã Tam Anh Bắc nên không có cơ sở để cho rằng là đất công ích do UBND xã Tam Anh Bắc quản lý.
Đồng thời, pháp luật có quy định hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất, mà trước đây Nhà nước đã có quyết định quản lý trong quá trình thực hiện chính sách về đất đai, nhưng trong thực tế Nhà nước chưa quản lý mà hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng thì được bồi thường theo thực tế sử dụng đất nhưng không vượt quá hạn mức giao đất theo quy định.
Mặc dù, vào năm 2006 UBND tỉnh Quảng Nam đã có quyết định thu hồi đất nhưng đây là quyết định thu hồi đất tổng thể và có quyết định giao đất cho Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh Quảng Nam, nhưng chỉ là giao trên giấy vì các hộ gia đình, cá nhân vẫn đang quản lý sử dụng đất đến tháng 10/2015. Vì vậy, về mặt pháp lý thì UBND huyện Núi Thành chưa có quyết định thu hồi đất nên diện tích đất này các hộ gia đình, cá nhân vẫn có quyền quản lý sử dụng đến thời điểm UBND huyện Núi Thành có quyết định thu hồi đất đối với từng hộ gia đình, cá nhân hoặc quyết định bồi thường, hỗ trợ về đất.
UBND huyện Núi Thành không có quyết định cưỡng chế thu hồi đất mà đã phá bỏ tài sản của các hộ gia đình, cá nhân để xây dựng dự án là trái quy định pháp luật.
Công Bính
 

Người dân vẫn mãi tự bơi sau khi bị thu hồi đất

Người dân vẫn mãi tự bơi sau khi bị thu hồi đất

Từ nay đến cuối năm 2015, Tp.HCM sẽ thu hồi hàng trăm dự án chậm triển khai đầu tư cả chục năm qua. Theo Luật Đất đai năm 2013, người dân bị thu hồi đất sẽ được nhận tiền bồi thường sau 30 ngày, phải có nơi tái định cư mới bị thu hồi đất...

Tóm tắt
Ông Lê Hoàng Châu, Chủ tịch Hiệp hội BĐS Tp.HCM, khẳng định rằng trong số đó có hơn 800 dự án nằm trong danh mục có khả năng bị thu hồi. Nguyên nhân chính vẫn là không giải quyết được khâu đền bù giải phóng mặt bằng.
Một cuộc khảo sát khác cũng được HĐND tiến hành với 498 hộ dân bị thu hồi đất trên địa bàn 8 quận/huyện trong giai đoạn 2010-2013, cho thấy có 14% hộ dánh giá có cải thiện thu nhập, 57% nhận định vẫn như cũ và 29% hộ đánh giá thu nhập bị giảm sút.

Cuộc sống người dân hậu di dời bị...quên!
Trên địa bàn thành phố hiện nay còn tồn tại hơn 1.500 dự án đầu tư trên nhiều lĩnh vực vẫn bị bỏ hoang, không triển khai thi công hàng chục năm trời.
Ông Lê Hoàng Châu, Chủ tịch Hiệp hội BĐS Tp.HCM, khẳng định rằng trong số đó có hơn 800 dự án nằm trong danh mục có khả năng bị thu hồi. Nguyên nhân chính vẫn là không giải quyết được khâu đền bù giải phóng mặt bằng.
Tại một cuộc họp bất thường của Hội đồng Nhân dân Tp.HCM mới đây, nhiều đại biểu cũng chỉ ra Dự án Công viên Sài Gòn Sarafi (Củ Chi) đã hơn 10 năm nay mà vẫn chưa hoàn thiện đồ án thiết kế phân khu 1/2000, chưa giải quyết rốt ráo chuyện đền bù giải phóng mặt bằng cho nhiều hộ dân.
Một ví dụ khác là dự án công viên và khu nhà ở đô thị ở Mũi Đèn Đỏ, quận 7. Dự án đã được trao quyết định đầu tư từ năm 2001 nhưng đến nay ngay cả chù đầu tư dường như “mất dạng. Đây là một trong số gần 300 dự án chậm tiến độ buộc phải thu hồi ngay trong năm nay, vừa được HĐND thành phố thông qua.
Trong danh mục các dự án thu hồi đất năm nay còn có một dự án “treo” nổi tiếng ở Tp.HCM là khu phức hợp Đầm Sen tại P.3, Q.11. Từ diện tích quy hoạch ban đầu 55ha vào năm 1983, qua ba đời chủ đầu tư đến nay dự án còn lại... 5,8ha. Theo UBND quận 11, đây là dự án chỉnh trang đô thị, đất dự án sau khi thu hồi sẽ dành một phần diện tích làm trường học và nhà tái định cư, một phần giao chủ đầu tư kinh doanh để hoàn vốn.
Tuy nhiên, đằng sau của việc thu hồi này, theo một số đại biểu HĐND, từ các cơ quan quản lý nhà nước cho đến chủ đầu tư đã “quên” mất cuộc sống của người dân trong diện phải di dời giải tỏa. Nhiều dự án chỉ lo xong chuyện đền bù, hỗ trợ mua nền tái định cư rồi xong, còn người dân phải “tự bơi” với cuộc sống mưu sinh của họ với một môi trường sống hoàn toàn bị thay đổi.
Tiếp xúc với nhiều người dân, đa số câu chuyện lớn nhất vẫn là số tiền đền bù quá “còm cỏi” đến mức họ không đủ khả năng để mua nền tái định cư tại chỗ. Có nhiều trường hợp, người dân phải mua nhà tái dịnh cư ở những quận – huyện vùng ven để hợp với điều kiện kinh tế, tuy nhiên môi trường sống và kế sinh nhai của họ bị đảo lộn hoàn toàn.
Thu nhập giảm mạnh sau khi di dời
Kết quả khảo sát của HĐND với 1.200 hộ dân sau tái định cư trên địa bàn 12 quận/huyện bị ảnh hưởng bởi các dự án đầu tư dở dang và dự án đầu tư mới (tại thời điểm Quyết định 156 "về thành lập Quỹ hỗ trợ đào tạo và giải quyết việc làm cho người có đất bị thu hồi để thực hiện các dự án đầu tư trên địa bàn thành phố" có hiệu lực) thực hiện di dời, giải tỏa từ năm 1991 đến 2012, cho thấy, có 818 hộ (chiếm 68,2%) đánh giá là căn nhà mới tái định cư có cải thiện hơn trước, 261 hộ đánh giá vẫn như cũ (21,8%) và 10% (121 hộ) đánh giá là sút giảm hơn trước.
Tuy nhiên, về vấn đề thu nhập, có 36% hộ đánh giá có cải thiện hơn trước, 37,8% nhận định vẫn như cũ. Thực tế thu nhập từ khi di dời đến nay không có thay đổi, có nghĩa là mức sống và thu nhập thực tế của người dân bị giảm sút. Và 26,2% hộ đánh giá thu nhập bị giảm sút nhiều so với trước.
Trong khi đó, một cuộc khảo sát khác cũng được HĐND tiến hành với 498 hộ dân bị thu hồi đất trên địa bàn 8 quận/huyện trong giai đoạn 2010-2013, cho thấy có 14% hộ dánh giá có cải thiện thu nhập, 57% nhận định vẫn như cũ và 29% hộ đánh giá thu nhập bị giảm sút.
Qua các con số trên, chúng ta dễ nhận thấy rằng mức sống của người dân đang bị giảm sút một cách nghiêm trọng sau khi bị thu hồi đất. Khi được hỏi, một số người dân tại chung cư Thanh Đa cũng cho rằng có hai nỗi khổ lớn nhất khi chính quyền địa phương công bố phương án đền bù và tái định cư. Đó là: chờ áp mức giá đền bù và chờ nhận tiền đền bù! Bởi vì quy trình này mất ít nhất phải 3 năm, trải qua nhiều cuộc họp giữa chính quyền địa phương, chủ đầu tư và người dân, và cuối cùng là chờ thêm dự án tái định cư được bàn giao.
Các dự án phải có nơi tái định cư thì Nhà nước mới thu hồi đất
Theo quy định của Luật Đất đai năm 2013:
Các dự án phải có nơi tái định cư thì Nhà nước mới thu hồi đất nhằm giúp người dân tái định cư nhanh chóng ổn định chỗ ở mới, giảm tác động xấu từ việc di dời, đồng thời tránh tình trạng người dân phải tạm cư kéo dài.
Người dân trong các dự án sẽ được thông báo thu hồi đất riêng lẻ cho từng hộ, 180 ngày sau sẽ nhận được quyết định bồi thường và được chi trả tiền bồi thường trong vòng 30 ngày kể từ ngày có quyết định.
Trong quá trình xây dựng phương án bồi thường, tái định cư, cơ quan chức năng phải đưa dự thảo ra lấy ý kiến người dân bị ảnh hưởng bởi dự án. Dân sẽ được góp ý về giá bồi thường, giá tái định cư và mức hỗ trợ, những chính sách kèm theo dự thảo phương án.
Sau khi dân góp ý, các cơ quan chức năng phải có báo cáo về việc tiếp thu ý kiến đóng góp của dân, ý kiến nào được ghi nhận, ý kiến nào không được ghi nhận, lý do vì sao.
Đăng Khải
Theo Trí thức trẻ
Vụ chính quyền cấp sổ đỏ trên đất người khác ở Quảng Nam:

'Không còn đường lùi', đành phải cưỡng chế?

Thứ Tư, 28/10/2015 18:07  | Xuân Hoài
|
(CAO) Gần 12 năm trước, lợi dụng việc thực hiện chủ trương của UBND tỉnh Quảng Nam về việc thu hồi đất, chính quyền xã đã lấy đất của hàng chục hộ dân để bán đấu giá, cấp sổ đỏ. Sau đó, mới thông báo trả tiền đền bù cho người dân bị thu hồi đất với giá thấp.
Chủ trương thời điểm các đây 12 năm là “thu hồi đất, giao đất cho UBND xã Tam An sử dụng để xây dựng các khu dân cư tạo vốn đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng”.
Chính quyền địa phương xã Tam An (lúc bấy giờ thuộc thị xã Tam Kỳ, nay Tam An thuộc huyện Phú Ninh, tỉnh Quảng Nam) lấy đất của hàng chục hộ dân để bán đấu giá, cấp Giấy chứng nhận Quyền sử dụng đất (sổ đỏ) cho hàng chục người khác. Sau đó, mới thông báo cho họ biết lên nhận tiền đền bù với giá thấp khiến hàng loạt hộ dân bức xúc.

Ông Thuấn bên khu đất của mình chưa nhận đền bù, chưa giao đất đã cấp sổ cho người khác
Khi sự việc được phanh phui, cán bộ địa chính tự tử chết, một số vị lãnh đạo xã Tam An bị kỷ luật. Gần 10 năm sau, sự việc mới được UBND huyện Phú Ninh tiếp tục giải quyết.
Lần này có những hộ đồng thuận, nhưng nhiều hộ không đồng tình vì “đền bù, giải quyết chưa thỏa đáng”. Mới đây, trong số 7 hộ chưa giải quyết, UBND huyện Phú Ninh ra quyết định cưỡng chế một số hộ khiến người dân bức xúc. Bên cạnh đó, nhiều hộ dân đã có sổ đỏ hơn 11 năm mà chưa có đất thực tế cũng yêu cầu địa phương phải sớm bàn giao đất để họ xây nhà.
Chưa thu hồi đã cấp sổ đỏ cho người khác
Ngày 27-10, chúng tôi đến xã Tam An tìm hiểu sự việc sau khi người dân bức xúc gửi đơn đến Báo CATP cầu cứu. Ông Phạm Công Thuấn (trú thôn An Mỹ 2, xã Tam An) bức xúc trình bày: Gia đình ông có thửa đất hơn gần 1.700 m2 dùng để trồng cây hàng năm, đất chưa có sổ đỏ, là đất của ông bà để lại, nhưng là đất thuộc hộ quản lý trước 15-10-1993.
Cách đây hơn 10 năm, ông bất ngờ nhận thông báo của xã lên nhận tiền đền bù (lúc bấy giờ khoảng 7,8 triệu đồng). Ông chưa hiểu chuyện gì, lên tìm hiểu mới biết, 1211,3m2 đất của ông đã bị thu hồi, còn 474,9m2 chưa thu hồi.
Điều đáng nói, số đất thu hồi của ông đã cấp sổ đỏ cho người khác, trong khi ông Thuấn chưa nhận tiền bồi thường, chưa đồng ý giao đất. Hàng chục hộ dân khác cũng rơi vào trường hợp tương tự nên rất bức xúc.
Bẵng đi gần 10 năm, vào năm 2013, ông lại nhận được thông báo nhận tiền đền bù 121 triệu đồng, trong đó gồm tiền đất màu, cây cối và một số khoản khác. Ông Thuấn không đồng tình, khiếu kiện lên các cấp. Sau đó, đầu năm 2014, lại nhận thông báo bồi thường đất bổ sung 16 triệu đồng nữa nhưng ông Thuấn cũng không đồng ý.
“Tự dưng khu đất của tôi phía trước đem đi bán cho người khác, còn 474,9m2 đất phía sau của tôi đi bằng cách nào? Hơn nữa, tiền đền bù quá thấp, trong khi đó, nói cấp lại cho tôi một lô đất (180m2) mà bảo tôi nộp hơn 30 triệu đồng để trả tiền cho lô đất cấp lại cho tôi nên tôi không đồng ý. Làm như thế quá thiệt thòi cho dân”, ông Thuấn nói.

Nhiều người dân ở thôn An Mỹ 2 bức xúc
Ngày 20-10-2015, ông Thuấn bất ngờ nhận được quyết định cưỡng chế của Chủ tịch UBND huyện khiến ông càng bất bình bởi sự việc chưa được giải quyết thấu đáo lại ra quyết định như thế.
Trong đơn, ông Thuấn cho rằng, từ khi có quyết định của UBND tỉnh (năm 2003) về việc “thu hồi đất, giao đất cho UBND xã Tam An sử dụng để xây dựng các khu dân cư tạo vốn đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng”, đến nay ông chưa nhận quyết định thu hồi đất của huyện thì làm sao xác định được mức độ thiệt hại để bồi thường?
“Tôi không đồng ý quyết định cưỡng chế của huyện Phú Ninh, đề nghị đình chỉ khẩn cấp quyết định trên và thực hiện việc thu hồi đúng trình tự pháp luật , việc đền bù giải tỏa phải được thỏa thuận đảm bảo quyền lợi của tôi theo pháp luật”, ông Thuấn bức xúc.
Tình cảnh của ông Thuấn cũng là bức xúc của nhiều hộ hiện chưa được giải quyết. Như bà Phạm Thị Hội bị thu hồi 261,5m2, nhưng chỉ đền bù 31,7 triệu đồng (kể cả bổ sung) nên không đồng ý và cũng bị ra quyết định cưỡng chế cùng ngày với ông Thuấn.
Hay như thửa đất của ông Võ Văn Diện đã có sổ đỏ nhưng cũng bị thu hồi 189,8m2 và đã cấp sổ đỏ cho hộ khác (tồn tại một lúc 2 sổ đỏ, ông Diện vẫn thế chấp sổ đỏ này để vay vốn). Với mức đền bù (kể cả bổ sung) 21,3 triệu đồng nên ông không đồng ý,…
Anh Nguyễn Văn Thao (SN 1977, trú tổ 5, thôn An Mỹ 2) bức xúc: Năm 2004, UBND xã Tam An tổ chức đấu giá, tôi đấu giá trúng 1 lô, đã được cấp sổ đỏ. Nhưng sau này mới được biết đây là đất của ông Thuấn chưa nhận bồi thường, chưa bàn giao đất. Tôi đã mua đất hơn 11 năm nhưng vẫn chưa có đất thực tế, giờ gia đình rất muốn xây nhà cũng không được.

Anh Thao đã được cấp sổ đỏ 11 năm nhưng chưa có đất thực tế
“Biết sai nhưng không còn đường lùi”?
Trao đổi với chúng tôi, ông Bùi Văn Toàn, Chủ tịch UBND xã Tam An cho biết, sự việc đã xảy ra hơn 10 năm trước. Trong quyết định của tỉnh năm 2003 thu hồi 16.470,5m5, quy hoạch 96 lô, ngoài đất đang diện quản lý của nhà nước thì có 26 hộ bị thu hồi. Trong đó, có 19 lô cấp sổ đỏ chưa có đất thực tế (các hộ cũ chưa chấp nhận bàn giao đất, chưa nhận bồi thường).
Theo ông Toàn, qua các năm, địa phương và huyện đã tích cực với nhiều giải pháp nhưng hiện nay vẫn còn 7 hộ chưa chấp nhận tiền bồi thường, bàn giao đất; trong đó có 13/19 hộ được cấp sổ đỏ (trên đất chưa bàn giao) vẫn chưa có đất thực tế.
“Chủ trương tỉnh giao địa phương, sau này huyện thấy sai do cấp sổ đỏ trên đất chưa thu hồi, sai quy trình, đã tổ chức kiểm điểm nhưng rắc rối đến nay vẫn chưa giải quyết xong. Địa phương cũng đang rất đau đầu, đã nhiều lần làm việc với các hộ nhưng các hộ không đồng tình, vì cho rằng mức giá đền bù quá thấp.
Huyện chỉ đạo xã, cũng làm nhiều cách như đổi đất, có nhu cầu thì nhận đất chỗ khác nhưng các hộ vẫn chưa đồng tình nên buộc xã phải báo cáo, tham mưu cưỡng chế để giải quyết dứt điểm tình hình”, ông Toàn phân trần.

Vợ ông Diện (bên phải): “Sổ đỏ nhà tôi đang giữ, vay ngân hàng mà chính quyền cũng cấp cho người khác sổ đỏ trên đất của gia đình tôi”
Trao đổi với chúng tôi, ông Đặng Bá Dự, Phó chủ tịch UBND huyện Phú Ninh cho rằng: “Trách nhiệm của chúng tôi là xử lý những tồn tại. Chúng tôi cũng đã nhiều lần làm việc với các hộ dân. Hiện còn 7 hộ vẫn chưa giải quyết được. Chúng tôi đã điều chỉnh nhiều lần theo quy định của nhà nước mà họ vẫn không chịu. Cái khó là đất màu thì chúng tôi phải đền bù theo giá đất màu chứ không thể chuyển đổi qua đất ở được”.
Mới đây, ngày 20-10-2015, Chủ tịch huyện đã ký quyết định cưỡng chế 2 hộ ông Thuấn và bà Hội (còn các hộ khác có thể thương lượng được), sẽ tổ chức thực thi sau 15 ngày.
“Biết cái sai này tồn tại do trước đây để lại, dân chưa nhận tiền mà đã bán đất, cấp sổ đỏ thì sai rồi nhưng chúng tôi không có đường lùi đành phải cưỡng chế thi hành”, ông Dự nói.
Thiết nghĩ, biện pháp cưỡng chế là quá “đường cùng”, chính quyền và người dân cần tìm tiếng nói chung để bức xúc của người dân được xoa dịu mà việc sửa sai của chính quyền cũng thấu tình đạt lý.
Ông Nguyễn Phi Thạnh - Chủ tịch UBND huyện Phú Ninh: “Vấn đề tồn tại này cũng đã nhiều lần đối thoại, giải thích nhưng người dân không chịu, làm căng thì UBND huyện phải ban hành quyết định cưỡng chế, triển khai trong thời gian đến. Thời gian này đề nghị các cấp tiếp tục vận động, cực chẳng đã chúng tôi mới áp dụng biện pháp cưỡng chế”.

Thanh tra Chính phủ công bố nhiều sai phạm đất đai chấn động tại Quảng Ngãi

Chủ Nhật, 06/09/2015 11:15  | Xuân Hoài
|
(CAO) Thanh tra Chính phủ (TTCP) vừa có cuộc họp thông báo Kết luận thanh tra số 332/KL-TTCP ngày 10-2-2015 của TTCP về việc chấp hành chính sách pháp luật trong quản lý, sử dụng đất đai và quản lý đầu tư xây dựng trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi vào ngày 4-9-2015.
Bà Lê Thị Thủy, Phó tổng TTCP chủ trì cuộc họp này.
Theo đó, TTCP nêu rõ: Về quản lý, sử dụng đất đai, UBND tỉnh ra Quyết định số 172/QĐ-UBND ngày 29-9-2003 ban hành Quy chế đầu tư xây dựng khu dân cư có nội dung không phù hợp với Luật Đất đại năm 2003, nhưng không hủy bỏ mà kéo dài hiệu lực thực hiện đến tháng 3-2009.
Đây là nguyên nhân chính để các địa phương không thực hiện đấu giá quyền sử dụng đất trong thời gian dài.
Qua kiểm tra 12 dự án kinh doanh bất động sản và kinh doanh dịch vụ được giao đất với diện tích lớn, nhưng không đúng quy hoạch đã được phê duyệt nên phải điều chỉnh, bổ sung quy hoạch…

Theo TTCP, dự án thành “Bến xe Chín Nghĩa”, là hợp thức hóa việc làm sai của Cty Chín Nghĩa
Theo đó, UBND tỉnh cho cơ chế đặc cách trong việc giao đất có thu tiền sử dụng đất cho các hộ gia đình quân đội tại thị trấn Đức Phổ (huyện Đức Phổ) và phường Quảng Phú (TP. Quảng Ngãi) là không đúng quy định, gây thất thu ngân sách hơn 10,6 tỷ đồng. Trách nhiệm này thuộc Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh và UBND tỉnh.
Tại dự án xây dựng Đập Dâng hạ lưu sông Trà Khúc, UBND TP Quảng Ngãi ra quyết định thu hồi 172.828m2 đất của 10 hộ dân và phê duyệt phương án bồi thường hỗ trợ giải phóng mặt bằng với số tiền hơn 5,4 tỷ đồng, nhưng dự án đã dừng triển khai và các hộ dân vẫn tiếp tục sử dụng đất cho đến nay…
Bên cạnh đó, việc quản lý, sử dụng đất tại các khu công nghiệp (KCN) cũng bộc lộ nhiều bất cập.
Như KCN Tịnh Phong có 17/34 doanh nghiệp (DN) được chấp thuận địa điểm và cho thuê đất, đã sử dụng đất không đúng quy hoạch phân khu chức năng với hơn 25 ha; có 3 dự án đã hợp đồng thuê đất nhưng không triển khai và 2 dự án đã dừng hoạt động nhưng chưa xử lý thu hồi đất.
Khu Kinh tế Dung Quất ban đầu được giao 10.300 ha đất, đến năm 2011, được Thủ tướng Chính phủ có quyết định điều chỉnh mở rộng lên 45.332 ha đất. Song, đến tháng 5-2014, phần diện tích mở rộng chưa được lập quy hoạch, chưa bàn giao đất để thực hiện chức năng quản lý.
Mặt khác, hiện còn 10.752 ha mặt nước không thể hiện trong hồ sơ quản lý của đơn vị này.
Tại dự án KCN Đô thị dịch vụ VSIP Quảng Ngãi, UBND tỉnh chưa có quyết định giao đất và chưa được bàn giao đất trên thực địa, VSIP đã tiến hành san lấp mặt bằng là không đúng quy định của Luật Đất đai. Trong phần diện tích đã san lấp có 84,5 ha đất trồng lúa của 311 hộ nông dân, nhưng chủ đầu tư chưa lập phương án sử dụng lớp đất mặt đối với đất chuyên trồng lúa theo quy định.
Hay như dự án Trung tâm điều hành dịch vụ vận chuyển hành khách và du lịch lữ hành – kho bãi kết hợp với trung chuyển hàng hóa tại phường Nghĩa Chánh (TP Quảng Ngãi) của Cty TNHH Chín Nghĩa xây dựng bến xe khách trên diện tích đất được giao, là sử dụng đất sai mục đích nhưng chưa được xử lý.
Ngày 9-1-2012, UBND tỉnh cấp Giấy chứng nhận đầu tư điều chỉnh tên dự án thành “Bến xe Chín Nghĩa”, là hợp thức hóa việc làm sai của Cty Chín Nghĩa.
Dự án Khu đô thị mới Phú Mỹ do Tổng Cty Đầu tư phát triển nhà và đô thị (HUD) làm Chủ đầu tư, quá trình xác định giá đất chưa thực hiện đúng Thông tư số 145/TT-BTC ngày 6/12/2007 của Bộ Tài chính. Vì vậy, việc UBND tỉnh phê duyệt số tiền sử dụng đất gồm 267,5 tỷ đồng là không chính xác; do diện tích tăng 58 ha nhưng tiền sử dụng đất lại giảm gần 290 tỷ đồng so với số tiền sử dụng đất được phê duyệt tại Quyết định số 1116/QĐ-UBND ngày 18/8/2010 của UBND tỉnh.
Trong công tác quản lý đầu tư xây dựng, một số dự án có tính cần thiết và cấp bách liên quan trực tiếp đến cuộc sống của người dân, nhưng chưa được quan tâm đúng mức, không được đầu tư kịp thời, đồng bộ, nhiều hạng mục đầu tư xây dựng dở dang, hiệu quả đầu tư mang lại thấp. Từ 2008 – 2013, UBND tỉnh phê duyệt 78 dự án với tổng mức đầu tư 11.868 tỷ đồng, nhưng chưa được bố trí vốn đầu tư.
TTCP cũng chỉ rõ, trong khi thiếu vốn đầu tư nhưng tỉnh Quảng Ngãi lại để tình trạng đầu tư chưa đúng, đã gây lãng phí lớn. Như Dự án xây dựng công trình nâng cấp, mở rộng đường 623 (Sơn Tịnh – Sơn Tây) được phê duyệt năm 2010 với tổng kinh phí 963,6 tỷ đồng (do Sở Giao thông Vân tải làm Chủ đầu tư). Đến năm 2011, dự án dừng thực hiện vì tuyến đường này đã được Bộ Giao thông Vận tải quyết định đưa vào đoạn đường của Quốc lộ 24B, làm lãng phí 19,5 tỷ đồng.
Dự án đường (cầu) vào KCN Phổ Phong được UBND tỉnh đề nghị Thường trực Tỉnh ủy cho dừng thực hiện, chuyển qua giai đoạn chuẩn bị đầu tư và chỉ đạo dừng triển khai khi chưa xác định được Nhà đầu tư và nguồn vốn xây dựng hạ tầng.
Tuy nhiên, sau đó UBND tỉnh vẫn tiếp tục cấp vốn và khởi công công trình vào ngày 1-1-2012, đến nay dự án đã hoàn thành, giá trị khối lượng thi công đạt hơn 54,7 tỷ đồng, nhưng hiệu quả đầu tư không đạt như kỳ vọng, cầu làm xong không thể đưa vào sử dụng, gây lãng phí tiền ngân sách…
 

Tiếp theo bài “Phú Quốc, Kiên Giang: Dân khổ vì bị thu hồi đất”: Chính quyền thờ ơ, dân lãnh đủ!

04/10/2014 07:35

(Kinhdoanhnet) - Ở các số báo trước, PV báo Kinh Doanh& Pháp Luật đã phản ảnh chi tiết, tuy nhiên đến nay các nội dung chính người dân yêu cầu giải quyết, là: chủ đầu tư và đơn vị thi công “vô tư” san ủi nhà đất của họ, dù không có quyết định thu hồi đất, chưa đạt thỏa thuận với người dân về giá cả đền bù, phương án hỗ trợ, tái định cư, cũng như chưa có quyết định giải quyết cuối cùng của cơ quan chức năng,… nhưng vẫn ngang nhiên chiếm dụng đất của dân...

     Người dân cầu cứu chính quyền địa phương thì được hướng dẫn đến huyện, đến huyện thì được chỉ qua Trung tâm Quỹ đất, đến Trung tâm Quỹ đất thì được bảo phải chờ ý kiến lãnh đạo. Gặp được lãnh đạo huyện thì được bảo tỉnh đang xem xét, giải quyết. Người dân nộp đơn “xin” gặp Chủ tịch UBND tỉnh Kiên Giang để trình bày nguyện vọng cũng bị… từ chối! Đúng là khi cán bộ, chính quyền thờ ơ trước quyền lợi của người dân thì thiệt thòi vẫn là… người dân!

    PHÓ THỦ TƯỚNG NGUYỄN XUẤN PHÚC YÊU CẦU CÁN BỘ TIẾP DÂN BIẾT TÔN TRỌNG, LẮNG NGHE DÂN

    Tại Hội nghị triển khai thực hiện Chỉ thị 35-CT/TƯ của Bộ Chính trị; Luật Tiếp công dân; Nghị định số 64/2014 của Chính phủ do Phó Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc chủ trì, Phó Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc bức xúc nói: “Trách nhiệm các đồng chí giải quyết sao đẩy hết lên trên này được. Còn có việc sợ trách nhiệm, bảo thủ mặc dù thấy sai. Các đồng chí không nên lo bây giờ giải quyết thì động chạm đến các ông bí thư, chủ tịch trước đây. Đúng sai phải rõ ràng, phải trái phân minh, nghĩa tình trọn vẹn”. Mặt khác, Phó Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc cũng đặt ra yêu cầu: “Phải sắp xếp, bố trí cán bộ đủ năng lực, phẩm chất làm công tác tiếp công dân. Yêu cầu cán bộ tiếp dân có cá tính nhẹ nhàng, phong cách lịch sự, biết tôn trọng lắng nghe người dân”

    Chỉ đạo của Phó Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc hết sức rõ ràng, cụ thể. Thế nhưng, vẫn còn tình trạng “trên bảo dưới không nghe”, chính quyền địa phương không xem xét, giải quyết thỏa đáng quyền lợi của người dân. Cụ thể là hàng loạt vụ việc vừa xảy ra ở huyện Phú Quốc, huyện An Minh (tỉnh Kiên Giang)… Bức xúc trước cách xử lý của UBND huyện Phú Quốc, người dân đã gửi đơn khiếu nại đến Chủ tịch UBND tỉnh Kiên Giang để được xem xét, giải quyết theo thẩm quyền từ tháng 06.2014. Đến nay bước sang tháng 10.2014, UBND tỉnh Kiên Giang vẫn chưa ban hành quyết định giải quyết khiếu nại cho người dân theo Luật định, cũng như chưa xem xét, giải quyết yêu cầu trong công tác bồi thường, giải phóng mặt bằng và xử lý các hành vi vi phạm pháp luật của chủ đầu tư.

    Liên quan đến công tác giải tỏa, đền bù, thu hồi đất đối với dự án Nam-Bắc Bãi Trường, do 02 đơn vị làm chủ đầu tư, đó là Công ty TNHH Bim Kiên Giang và Công ty CP Phát triển Phú Quốc (C.E.O), gồm có những hộ dân bị “thu hồi đất” tiêu biểu là: Phù Bích Chi, Hồ Thị Quyên, Trần Thị Điệp, Phan Thị Dung, Phan Thị Hoàng, Phạm Thị Thắm, Nguyễn Thị Diệp, Nguyễn Ngọc Hạnh, Trần Thị Điệp,…Trong khi đó, theo PV được biết, hiện nay có không ít người rơi vào việc giải tỏa, thu hồi đất phục vụ dự án Nam- Bắc Bãi Trường phải rơi vào cảnh khốn đốn, vì không còn công ăn việc làm ổn định, phải chạy vạy mượn tiền khắp nơi, kể cả “bạc nóng” để lo kế sinh nhai cho gia đình, nợ nần thì ngày càng tang, mà việc đền bù, bồi thường,… của họ vẫn “giẫm chân tại chỗ”. Lãnh đạo UBND tỉnh Kiên Giang chẳng lẽ lại không hề hay biết nỗi khổ của người dân Phú Quốc?

    DÂN MÒN MỎI… CHỜ ĐỢI!

    Trường hợp của chị Trần Thị Điệp (SN: 1969), được UBND tỉnh Kiên Giang tiếp nhận vụ việc và ban hành “Thông báo thụ lý giải quyết đơn khiếu nại” số 174/TB-/UBND vào ngày 08.4.2014. Thế nhưng… gần 05 tháng trôi qua, chị Trần Thị Điệp vẫn sống trong tình trạng thắc thỏm chờ đợi và bức xúc khi chứng kiến chủ đầu tư san ủi toàn bộ diện tích đất của gia đình, dù trong đó hiện đang còn 06 ngôi mộ (thẩm quyền thu hồi đất có mồ mả được quy định rất rõ tại nghị định số 69/2009/NĐ-CP ngày 13-8-2009 của Chính phủ)

    Hoặc như trường hợp của vợ chồng anh chị Hồ Thị Quyên, ngụ tại: Ấp Cây Thông Trong, Xã Cửa Dương, huyện Phú Quốc thì vào ngày 26.3.20143 và ngày 03.6.2014, UBND huyện Phú Quốc ban hành văn bản chỉ đạo Phòng Tài Nguyên Môi Trường “khẩn trương tham mưu UBND huyện giải quyết…”. Đến nay vợ chồng anh chị Hồ Thị Quyên vẫn chưa nhận được kết quả giải quyết khiếu nại theo Luật định. Dù không ít lần, vợ chồng anh chị Hồ Thị Quyên đến UBND huyện Phú Quốc hỏi thăm nhưng đều không có kết quả. Phải chăng các quy định của luật pháp hiện hành đối với huyện Phú Quốc là không thể áp dụng được?... Hoặc như vợ chồng anh chị Phạm Thị Thắm (SN: 1959), ngụ ấp Suối Lớn, xã Dương Tơ, huyện Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang bức xúc trước việc đền bù, bồi thường chưa được giải quyết thỏa đáng, chủ đầu tư và đơn vị thi công đã tiến hành san ủi mặt bằng là toàn bộ diện tích đất trồng tràm bông vàng,…Điều đáng nói là tại nội dung quyết định thu hồi đất của UBND huyện Phú Quốc lại ban hành không đúng trình tự pháp lý về việc tổ chức triển khai quyết định thu hồi đất của dân.

    Hoàn cảnh chị Phù Bích Chi (SN: 1971) cũng không kém phần chua xót. Không đồng ý với nội dung áp giá bồi thường không thỏa đáng, ngày 04.11.2011, chị Phù Bích Chi gửi đơn khiếu nại đến UBND huyện Phú Quốc và Trung tâm Phát triển Quỹ đất huyện Phú Quốc, nhưng các cơ quan nói trên vẫn “im hơi lặng tiếng” trước bức xúc của chị Phù Bích Chi nói riêng, người dân địa phương nói chung. Nhiều lần chị Phù Bích Chi tìm đến UBND huyện Phú Quốc và Trung tâm Phát triển Quỹ đất huyện Phú Quốc để hỏi thăm việc khiếu nại của chị đã được giải quyết ra sao, thì được hướng dẫn đến Thanh tra huyện Phú Quốc, đến Thanh Tra huyện Phú Quốc hỏi thăm vụ việc thì được hứa hẹn chờ xác minh rồi giải quyết… Chẳng rõ vụ việc được giải quyết như thế nào mà đến đầu tháng 01.2014, chị Phù Bích Chi hay tin 29.239m2 đất của mình nằm trong dự án Khu du lịch- Dân cư Nam Bãi Trường tại xã Dương Tơ bị chủ đầu tư C.E.O tiến hành san ủi mặt bằng, vì chưa thống nhất việc áp giá bồi thường của chủ đầu tư, chưa nhận kết quả giải quyết khiếu nại từ chính quyền địa phương nên chị Bích Chi đã đến ngăn cản, không cho chủ đầu tư C.E.O san ủi đất, cây ăn trái có trên đất,… Khoảng 10 ngày sau quay lại đất của mình, chị Phù Bích Chi phát hiện toàn bộ diện tích đất của mình đã bị “ai đó” đốt phá sạch sẽ, chỉ còn lại toàn là… tro tàn.

    Trường hợp anh Phan Hoàng Liêm (SN: 1980), sử dụng đất do mẹ anh Liêm là bà Nguyễn Ngọc Hạnh, khai phá trước năm 1998. Năm 2007, trong lúc không có mặt anh Liêm tại khu đất của mình, Công ty BIM Kiên Giang cho xe vào ủi hết hoa màu, phá hết số cây trồng lâu năm của anh Liêm. Khi biết tin, anh Liêm đã đến ngăn cản, đơn vị thi công tạm dừng, nhưng cũng đã san bằng hết các loại cây trái có trên đất. Nhiều lần khiếu nại, đến ngày 10.9.2013, anh Liêm mới nhận được bảng niêm yết bồi thường diện tích bị thu hồi là 5.224,70m2, nhưng không bồi thường thiệt hại về đất và hoa màu trên đất, với lý do: phần đất của gia đình anh Phan Hoàng Liêm là “đất bao chiếm rừng phòng hộ”. Thật buồn cười, nếu cho phần đất này là đất rừng, tại sao tại thời điểm quy hoạch rừng phòng hộ không thu hồi đất? Khi làm dự án đường cao tốc thì lại bảo là “bao chiếm đất rừng”. Trong khi đó các hộ lân cận anh Liêm đều được bồi thường hỗ trợ về đất đai và hoa màu trên đất.

    Còn bà Phan Thị Dung và Phan Thị Hoàng, hiện tạm trú: Ấp Dường Bào, Xã Dương Tơ, Huyện Phú Quốc, Tỉnh Kiên Giang… Năm 1997, gia đình bà Dung, bà Hoàng có khai khẩn thửa đất tọa lạc tại : Tổ 6, Ấp Đường Bào, Xã Dương Tơ, Huyện Phú Quốc, Tỉnh Kiên Giang. Khi đất của gia đình nằm trong khu qui hoạch đầu tư xây dựng khu du lich Nam bãi trường tại Ấp Đường Bào, Xã Dương Tơ, do Công ty TNHH BIM làm chủ đầu tư. Một ngày kia, gia đình bà Dung và bà Hoàng phát hiện chủ đầu tư cho xe đến san ủi diện tích đất đang canh tác, họ liền đứng ra ngăn cản không cho ủi nữa… Bỏ mặc khiếu nại của bà Phan Thị Dung, không trả lời công dân theo quy định của Luật Khiếu Nại Tố Cáo, ngày 07.4.2011, đơn vị thi công tiếp tục triển khai việc san ủi đất của bà Phan Thị Dung. Thậm chí huy động cả lực lượng công an hùng hậu.

    KẾT

    Một lần nữa, với những sai phạm một cách có hệ thống và xem thường pháp luật, qua bài viết này, đề nghị Thanh Tra Chính Phủ và UBND tỉnh Kiên Giang sớm bắt tay vào cuộc, xác minh làm rõ, có biện pháp thực hiện đền bù, bồi thường cho người dân huyện Phú Quốc khi bị thu hồi đất theo giá thị trường hiện hành. Đồng thời làm rõ, xử lý chủ đầu tư theo đúng pháp luật hiện hành về “Tội hủy hoại tài sản công dân”, vì đã ngang nhiên san ủi đất của nhiều người dân địa phương mà không có quyết định thu hồi đất, cũng không có quyết định cưỡng chế theo quy định.

    NHÓM PV ĐIỀU TRA
    (Còn tiếp )
     
     
    Xem tiếp...