AN CHI GIẢI ĐÁP 38
(ĐC sưu tầm trên NET)
Bạn đọc:
Trên báo Người lao động ngày 22-11-2014, ông An Chi đã có bài “Cớ sao
gọi người Trung Quốc là Tàu?” Mới đây, trong nhóm “Từ nguyên”, tác giả
Nguyễn Cung Thông đã phản bác ông An Chi với lời mào đầu: “Rất ngạc
nhiên khi đọc bài báo này từ học giả An Chi/AC - phải nhận rằng, có
nhiều điểm tôi không đồng ý với AC - đây là một điểm mà tôi không chấp
thuận! Không có một văn bản nào liên hệ Tàu với quan cai trị cả - một
kết quả của cách suy luận vỉa hè và óc tưởng tượng phong phú của AC”.
Sau đó, ông Nguyễn Cung Thông đã đưa ra một số dẫn chứng liên quan đến
từ “Tàu” để phủ nhận ý kiến của ông An Chi. Bài của ông Thông cũng được
gửi đến một vài chỗ quen biết với ông An Chi như Nguyễn Đại Cồ Việt,
Trần Trọng Dương, v.v... Ông Thông có ủy thác cho ông Nguyễn Đại Cồ Việt
như sau: “Vài hàng rất vắn tắt - bác Nguyễn Đại Cồ Việt có thể trình
bày một slide về chữ tàu và Ngô (chụp từ VBL) để cho Hội Thảo
(23-8-2015) thêm phần hào hứng”. Ông An Chi có thể cho biết nhận xét về ý
kiến của ông Thông? Xin cảm ơn. Bảy Quán Cóc (Bà Chiểu, TP HCM)
Bạn đọc: Sau
bài “Lẽ ra họ phải được gọi là người GHE” của ông An Chi trên Báo Năng
lượng Mới số 454, rồi số 455, ông Nguyễn Đại Cồ Việt đã phản hồi với 4
điểm xác nhận và 2 điểm về ý kiến riêng. Xin ông An Chi cho nhận xét về ý
kiến của ông Nguyễn Đại Cồ Việt? Xin cảm ơn. Bảy Quán Cóc (Bà Chiểu,
TP HCM)
Bạn đọc: 1.
Tại sao người ta nói “yến sào”? Vậy “sào” trong “yến sào” là gì? 2. Tại
sao lại gọi là “đạo Hồi; chữ Hồi do đâu mà ra? 3. “Hoàn vũ” trong “Hoa
hậu Hoàn vũ” là gì? Giáp Loan (Hà Nội)
Lẽ ra họ phải được gọi là người GHE!
Bạn đọc:
Trên báo Người lao động ngày 22-11-2014, ông An Chi đã có bài “Cớ sao
gọi người Trung Quốc là Tàu?” Mới đây, trong nhóm “Từ nguyên”, tác giả
Nguyễn Cung Thông đã phản bác ông An Chi với lời mào đầu: “Rất ngạc
nhiên khi đọc bài báo này từ học giả An Chi/AC - phải nhận rằng, có
nhiều điểm tôi không đồng ý với AC - đây là một điểm mà tôi không chấp
thuận! Không có một văn bản nào liên hệ Tàu với quan cai trị cả - một
kết quả của cách suy luận vỉa hè và óc tưởng tượng phong phú của AC”.
Sau đó, ông Nguyễn Cung Thông đã đưa ra một số dẫn chứng liên quan đến
từ “Tàu” để phủ nhận ý kiến của ông An Chi. Bài của ông Thông cũng được
gửi đến một vài chỗ quen biết với ông An Chi như Nguyễn Đại Cồ Việt,
Trần Trọng Dương, v.v... Ông Thông có ủy thác cho ông Nguyễn Đại Cồ Việt
như sau: “Vài hàng rất vắn tắt - bác Nguyễn Đại Cồ Việt có thể trình
bày một slide về chữ tàu và Ngô (chụp từ VBL) để cho Hội Thảo
(23-8-2015) thêm phần hào hứng”. Ông An Chi có thể cho biết nhận xét về ý
kiến của ông Thông? Xin cảm ơn. Bảy Quán Cóc (Bà Chiểu, TP HCM)
An Chi:
Ông Nguyễn Cung Thông cho biết có nhiều điểm ông không đồng ý với An
Chi. Đó là quyền của ông. Nhưng không đồng ý với An Chi đâu có nghĩa là
Cung Thông thì đúng mà An Chi thì sai. Đây là điều sơ đẳng về luận lý mà
có lẽ ông Thông cũng không thể không biết đến. Ông Thông còn nói về ý
kiến của An Chi rằng “đây là một điểm mà tôi (Thông) không chấp thuận”.
Nhưng xin nhắc để ông Thông nhớ rằng ông không phải là cơ quan có thẩm
quyền mà có thể chấp thuận hay không chấp thuận ý kiến của người khác.
Còn dưới đây là nhận xét của An Chi về cái bài ngắn nhưng đầy tính
“chính thống” của ông Thông.
Thứ nhất, ông Thông nói rằng “không có
một văn bản nào liên hệ Tàu với quan cai trị cả”. Nhưng cũng chính vì
thế nên An Chi mới phải cất công tìm hiểu để chứng minh chứ nếu cái gì
cũng có sẵn trong văn bản thì người làm từ nguyên sẽ khoẻ re… vì chỉ cần
copy rồi paste là xong. Huống chi, trong bài của mình, chúng tôi đã
viết rõ ràng:
“Chúng tôi khẳng định rằng Tàu là âm cổ Hán Việt của từ ghi bằng chữ 曹 mà âm Hán Việt hiện đại là tào,
có nghĩa rộng là “cơ quan triều đình”, hiểu rộng ra là “quan”.” Chúng
tôi xin dùng cái biểu thức cực kỳ đơn giản dưới đây để tạo điều kiện cho
ông Thông có thể nhìn tận mắt:
Tàu [曹] → tào = cơ quan triều đình → quan.
Với thị giác lành mạnh và nhận thức cũng
lành mạnh tương xứng thì ai cũng phải thấy được cái biểu thức trên đây
chứ; sao ông Thông lại không thấy? Mà nếu đã thấy và nếu đích thực là
dân chính thống thì lẽ ra ông Thông phải dùng kiến thức của mình để bác
bỏ cái biểu thức rạch ròi trên đây của An Chi chứ sao lại nói là “không
có một văn bản nào liên hệ Tàu với quan cai trị cả”.
Thứ hai, ông Thông viết:
“Trong từ điển VBL (1651), tàu có các nét nghĩa như đóng tàu, tàu voi, tàu nhà, mực tàu (mực thợ mộc dùng để kẻ đường thẳng)”.
Xin thưa rằng với cái câu trên đây thì
ông đã không phân biệt được thuật ngữ cơ bản của ngữ học và đã gộp các
từ khác nhau vào cùng một rọ (thành một từ). “Đóng tàu”, “tàu nhà”, “tàu
voi”, “mực tàu” không phải là những “nét nghĩa” của “tàu” mà là những
từ tổ độc lập, có nghĩa riêng biệt và chỉ trong những cái nghĩa riêng
biệt đó thì ta mới “đụng” đến khái niệm “nét nghĩa”. Đồng thời, trong
bốn từ tổ đó, ta có đến bốn từ “tàu” khác nhau mà chúng tôi gọi là
“tàu1”, “tàu2”, “tàu3” và “tàu4”. “Tàu” trong “đóng tàu” là “tàu1”, có
nghĩa là thuyền; “tàu” trong “tàu nhà” là “tàu2”, có nghĩa là cái máng,
phái sinh từ “tàu1” bằng ẩn dụ đã từ vựng hóa; “tàu” trong “tàu voi” là
“tàu3”, vốn cũng có nghĩa là máng (như “tàu2”) nhưng lại dùng theo hoán
dụ đã từ vựng hóa để chỉ chuồng ngựa, chuồng voi (trong đó có máng chứa
thức ăn); còn “tàu” trong “mực tàu” là “tàu4” và đây chính cống là Tàu,
tức Trung Hoa, mà oái oăm thay, ông Thông lại không biết hoặc có biết
nhưng lại lập lờ đánh lận con đen để bác “cách suy luận vỉa hè” của An
Chi.
Thứ ba, ông Thông đã lập luận như sau:
“Mực tàu chỉ mực người thợ mộc (VBL/1651
- trang 728), dùng để kẻ đường thẳng trên gỗ, không thấy nói đến Tàu
(nước Tàu) […] Cho đến thời tự điển Béhaine/Taberd (1772/1838) mực tàu
mới thấy ghi nhận nước Tàu (sinicum - tiếng La Tinh)”.
Xin nhắc một ý nhỏ rằng, liên quan đến
mấy chữ “trang 728” thì ông đã ghi chú sai: Phần chính văn của VBL
không hề đánh số trang, mà chỉ đánh số cột; 728 là số thứ tự của cột có
mục “tàu, mực tàu” và ngay bên trái của nó trên cùng một trang là cột
727 mà dưới cùng là mục “tàu voi”. Chúng tôi cho rằng đã “chính thống”
như ông Nguyễn Cung Thông thì ta cũng nên chính thống trên từng cây số
chứ. Bây giờ đi vào ý chính thì xin nói cho ông Thông được rõ như sau.
Tại mục “tàu, mực tàu” ở cột 728, sở dĩ
VBL “không nói đến Tàu (nước Tàu)” thì đơn giản chỉ là vì nó thiên về
công dụng của thứ mực đó (dùng để kẻ đường thẳng trên gỗ). Còn Béhaine/Taberd
thì thiên về xuất xứ nên mới dịch thành “atramentum sinicum”, nghĩa là
“mực (của nước) Tàu”. Lại xin nhắc ông Thông một ý nhỏ khác nữa - Chúng
tôi vẫn muốn ông chính thống trên từng cây số - rằng “nước Tàu” mà chú
thích bằng tiếng La Tinh “sinicum” thì sai. “Sinicum” là giống trung cua
tính từ giống đực “sinicus”, mà giống cái là “sinica”, đều có nghĩa là
“liên quan đến nước Tàu”.
Lẽ ra họ phải được gọi là người GHE! (tiếp theo và hết)
Bạn đọc: Trên báo Người lao động ngày 22-11-2014, ông An Chi đã có bài “Cớ sao gọi người Trung Quốc là Tàu?” Mới đây, trong nhóm “Từ nguyên”, tác giả Nguyễn Cung Thông đã phản bác ông An Chi với lời mào đầu...
Lẽ ra họ phải được gọi là người GHE! |
Đây là tính từ chứ đâu phải địa danh mà
ông dùng để ghi chú cho “nước Tàu”. Trở về với ý chính, xin nói rằng chỉ
cần thông minh một chút, người ta đã phải hỏi: Nếu “tàu” trong “mực
tàu” của VBL không chỉ “nước Tàu” thì nó chỉ “cái gì” vì cũng chính nó
tại danh ngữ đó trong Béhaine/Taberd thì lại chỉ nước
Tàu? Ông Thông cứ đưa hai định nghĩa đó ra mà đố học trò tiểu học thì họ
sẽ đủ thông minh để trả lời rằng “tàu’ của VBL và “tàu” của Béhaine/Taberd thực tế chỉ là một. Mà “tàu” trong “mực tàu” của Béhaine/Taberd đã là “nước Tàu” thì “tàu” trong “mực tàu” của VBL đương nhiên cũng chỉ có thể là “nước Tàu” mà thôi. Chỉ Nam ngọc âm giải nghĩa
(CNNÂGN) - mà ông Thông đã “cải tiến” để đọc chữ “ngọc” [玉] thành
“quốc” [国] nên đã viết tắt thành CNQAGN - cũng có nhắc đến danh ngữ “mực
tàu” tại “Mộc công bộ đệ thập bát” trong câu “Mực tàu có hiệu Đốc Thằng
thẳng ngay”. Ông Thông cũng không công nhận “tàu” ở đây là “nước Tàu”.
Lập luận của ông rất ngây ngô. Ông viết:
“Thêm vào đó, CNQAGN còn ghi nhận các
cách dùng chén Ngô, bát Ngô (…), đặc biệt là câu Tức bát cả thay tàu Ngô
(Chu xa đệ thập nhị): rõ ràng tàu chỉ thuyền bè và Ngô chỉ nước Trung
Hoa!”
Dĩ nhiên “tàu” ở đây là “thuyền bè” và
“Ngô” chỉ nước Trung Hoa nhưng điều này tuyệt đối không phải là lý do để
có thể suy luận rằng “tàu” trong “mực tàu” (của CNNÂGN) không phải là
nước Trung Hoa. Ai đã làm quen với CNNÂGN cũng đều biết rằng đây là một
loại tự vị trong đó tác giả dùng tiếng ta để giảng tiếng Tàu. “Mực tàu” ở
đây là hai từ của tiếng ta, dùng để giảng hai chữ “đốc thằng” của tiếng
Tàu thì mắc mớ gì tác giả phải làm chuyện ngược đời mà giảng nghĩa của
chữ “tàu” (là “nước Tàu”)? Còn nếu ông Thông cứ khăng khăng cho rằng đây
không phải là “nước Tàu” thì ông phải cho biết đó là “cái gì” chứ. Vậy
xin hỏi ông: “Tàu” ở đây là “cái gì”? Ấy thế nhưng trong phần bổ sung
gửi cho các vị Nguyễn Đại Cồ Việt, Trần Trọng Dương, v.v..., ông vẫn cả
quyết:
“Tóm lại, các văn bản như VBL (1651) và trước thời VBL không thấy dùng tàu chỉ nước Trung Hoa!”.
Nhưng, như đã nói ở trên, không thấy chỉ
là do thị giác và nhận thức của ông Thông mà thôi. “Tàu” là một vị lão
làng trong từ vựng của tiếng Việt còn “Ngô” thì chỉ là một anh mới nhập
cư, sau khi dân ta tống cổ bọn quan, quân nhà Minh ra khỏi đất nước hồi
1427. Trước đó, “Tàu” vẫn là một từ dùng để chỉ Trung Hoa nên ta mới
thấy nó có mặt trong cái danh ngữ “mực Tàu”, đã định hình từ lâu để chỉ
thứ mực “dùng để kẻ đường thẳng trên gỗ” xuất xứ từ bên Tàu. Khi ta vừa
giành được độc lập khỏi ách chiếm đóng của giặc Minh thì Nguyễn Trãi đã
công bố bản “Bình Ngô đại cáo” theo lệnh của vua trong đó giặc Tàu đời
nhà Minh đã được gọi là “Ngô”. Từ đó dân ta mới bắt đầu gọi Tàu là Ngô
cho nên những “bát Ngô”, “chén Ngô”, “tàu Ngô” mà ông Thông đã dẫn ra từ
CNNÂGN là những danh ngữ ra đời vào thờì nhà Lê của nước ta, mà tuổi
tác thì thua xa cụ tổ “mực Tàu” rất nhiều thế kỷ. Cái danh xưng “Ngô” đã
sống dai dẳng từ đầu thế kỷ XV cho mãi đến đầu thế kỷ XX. Ngay Nguyễn
Du (1766-1820) cũng còn xài nó trong câu Kiều “Đường xa chớ ngại Ngô
Lào”. Sang đầu thế kỷ XX thì từ “Tàu” mới trỗi dậy mạnh mẽ và tiếp tục
được dùng cho đến ngày nay. Vậy “Tàu” là một từ rất lâu đời dùng để chỉ
nước Trung Hoa; hiển nhiên là nó đã ra đời trước từ “Ngô” rất lâu nhưng
ông Thông thì không thấy.
Thứ tư, ông viết:
“Gia Định Báo (số 5, năm thứ 6, phát hành ngày 16-2-1870) giải thích:
“…An-nam ta kêu là Tàu, người bên Tàu,
là vì khách thường đi tàu qua đây, lại dùng tàu chở đồ hàng hóa qua đây
buôn bán; nên kêu là Tàu, hàng Tàu, đồ Tàu v.v...”.
Chúng tôi xin thưa rằng vào năm 1870,
văn quốc ngữ mới phôi thai; Việt Nam chưa có khoa ngữ học, càng không có
từ nguyên học; người viết bài cho Gia Định Báo chỉ thả ngòi bút của
mình theo hướng suy luận của từ nguyên dân gian (folk etymology) thô sơ
nên ta cần phê phán chứ không thể nhắm mắt nghe theo. Sở dĩ ông Thông
nói theo “thuyết” này chẳng qua là để củng cố cái ý kiến cho rằng danh
từ “Tàu” ra đời là để gọi những người Minh Hương di cư sang Nam Bộ Việt
Nam cùng với Dương Ngạn Địch, Trần Thượng Xuyên vào khoảng cuối thập kỷ
1670.
Nhưng xin thưa với ông Thông - và những
ai hí hửng cho rằng “Tàu-Trung Hoa” là do “tàu-thuyền” mà ra - rằng vào
thời này thì người Nam Bộ chỉ gọi thuyền là “ghe” chứ không gọi là
“tàu”. Từ “ghe” xuất hiện với tần số cao (Nam Bộ chẳng là miền sông
nước) và ta có thể thấy nó trong hàng loạt cách nói: đóng ghe, trét ghe,
sơn ghe, trại ghe (= xưởng đóng ghe), ụ ghe, bụng ghe, ghe bầu, ghe
chài, ghe lườn, ghe ngo, ghe rổi, ghe tam bản, v.v... Người ta còn căn
cứ vào nơi sản xuất mà phân thành ghe Gia Định, ghe Biên Hòa, ghe Long
Xuyên, ghe Cần Đước, ghe Cần Thơ, v.v...; hoặc căn cứ vào đối tượng
chuyên chở mà gọi là ghe lúa, ghe cá, ghe heo, ghe củi, ghe than, ghe
mía, ghe cát, ghe đá, v.v... (Xin x. Võ Công Nguyện, “Nghề đóng ghe
xuồng tại Nam Bộ”, Xóm nghề và nghề thủ công truyền thống Nam Bộ,
NXB Trẻ, 2002, tr.125-135). Vì vậy cho nên nếu quả thật người Minh
Hương được gọi bằng tên của cái phương tiện mà họ đã dùng để đến đất Nam
Bộ hồi gần cuối thế kỷ XVII thì họ sẽ phải được gọi là người “Ghe” chứ đâu có phải là người “Tàu”.
Vậy không biết cái slide mà ông Nguyễn
Cung Thông ủy thác cho ông Nguyễn Đại Cồ Việt thực hiện có tăng thêm
phần hào hứng cho Hội thảo 23-8-2015 hay không nhưng dù có hoành tráng
đến đâu nó cũng tuyệt đối không thể là căn cứ để phủ nhận cái nghĩa
“Trung Hoa” của từ “tàu” trong danh ngữ “mực tàu”. Cuồi cùng, xin nhại
một vế đối xưa tặng ông Nguyễn Cung Thông để ông có thể chiêm nghiệm:
Ai vỉa hè, ai chính thống, trong trần ai ai dễ biết ai.
Nhận xét về ý kiến của ông Nguyễn Đại Cồ Việt
Bạn đọc: Sau
bài “Lẽ ra họ phải được gọi là người GHE” của ông An Chi trên Báo Năng
lượng Mới số 454, rồi số 455, ông Nguyễn Đại Cồ Việt đã phản hồi với 4
điểm xác nhận và 2 điểm về ý kiến riêng. Xin ông An Chi cho nhận xét về ý
kiến của ông Nguyễn Đại Cồ Việt? Xin cảm ơn. Bảy Quán Cóc (Bà Chiểu,
TP HCM)
Học giả An Chi: Điểm
thứ nhất trong phần xác nhận của ông Nguyễn Đại Cồ Việt là “bác Nguyễn
Cung Thông có ý kiến khác bác An Chi”. Mà điểm khác nhau đầu tiên giữa
ông Nguyễn Cung Thông và An Chi là về chữ “tàu” mà ông Thông cho là
“không có một văn bản nào liên hệ Tàu với quan cai trị cả”. Nhưng làm từ
nguyên thì không thể nói đơn giản như thế được. Trước nhất, như chúng
tôi đã chứng minh trên một kỳ Chuyện Đông chuyện Tây của Kiến thức Ngày
nay, “tàu” là điệp thức của chữ “tào” mà ta còn có thể thấy qua những
trường hợp đồng dạng từ nguyên học khác nữa như sau:
- “Tàu” là điệp thức của “tào” [�], có nghĩa là “quan [lại]”;
- “Tàu” là điệp thức của “tào” [艚], có nghĩa là “thuyền”;
- “Tàu” là điệp thức của “tào” [�], có nghĩa là “máng”;
- “Tàu” là điệp thức của “tào” [�+�], có nghĩa là “cũ”.
Bốn trường hợp đồng dạng từ nguyên học
trên đây tự chúng đã khẳng định lẫn nhau một cách không thể nào chối cãi
được. Vậy “tàu” là một từ Việt gốc Hán, bắt nguồn ở từ ghi bằng chữ
[�], mà âm Hán Việt hiện hành là “tào”, có nghĩa là “cơ quan của triều
đình”, hiểu rộng ra là “quan [lại]”. Hán Việt từ điển của Đào Duy Anh
giảng “tào” [�] là “quan-thự chia chức-vụ ra nhiều bộ-phận gọi là tào”;
Hán-Việt tự điển của Thiều Chửu giảng là “nha quan, phân chức làm việc
gọi là tào”; Hán Việt tân từ điển của Nguyễn Quốc Hùng giảng là “bộ phận
của cơ quan triều đình”; Từ điển Hán Việt của Trần Văn Chánh giảng là
“quan thự chia ngành làm việc thời xưa”; Từ điển Hán-Việt của Viện Ngôn
ngữ học do Phan Văn Các chủ biên giảng là “cơ quan nhà nước trông coi
một mặt một ngành thời xưa”. Chữ “tào” [�] còn dùng để chỉ cá nhân quan
chức nên đã được Mathews’ Chinese English Dictionary đối dịch là “an
official”, tức là “viên chức”, “công chức”. Nghĩa này cũng được xác định
trong Hán ngữ đại tự điển (Thành Đô, 1993): “Dã dụng lai xưng hô quản
mỗ sự đích chức quan”, nghĩa là “cũng dùng để gọi chức quan phụ trách
một công việc nhất định”. Do đó mới có danh ngữ “bộ tào” [��], mà
Mathews’ dịch là “member of one of the former six boards”, nghĩa là
“thành viên của một trong sáu bộ thời xưa”. Cứ như trên thì hiển nhiên
là có nhiều “văn bản liên hệ “tàu/tào” với quan cai trị”, chứ không phải
là không như ông Nguyễn Cung Thông đã khẳng định một cách võ đoán
(nhưng vẫn được ông Nguyễn Đại Cồ Việt ủng hộ).
Điểm thứ hai trong phần xác nhận của ông
Nguyễn Đại Cồ Việt là: “Trong từ điển Việt Bồ La không có từ “tàu” với
nghĩa là chỉ người Trung Quốc, hoặc thuộc về Trung Quốc (việc giải thích
tại sao không có là suy luận của từng tác giả)”.
Thực ra, đây chỉ là do “suy luận” riêng
của ông Nguyễn Cung Thông và ông Nguyễn Đại Cồ Việt mà thôi, chứ chữ
“tàu” với nghĩa là “Trung Hoa” đã nằm ngay trong danh ngữ “mực tàu” của
Từ điển Việt Bồ La. Huống chi, nếu thực sự quyển từ điển này không có từ
“tàu” dùng để chỉ Trung Hoa thì điều này cũng tuyệt đối không có nghĩa
là từ 1651 trở về trước và ngay cả ở thời điểm 1651, từ “Tàu” dùng để
chỉ khái niệm đó cũng không tồn tại. Chỉ có khi nào ông Thông và ông
Việt dám khẳng định rằng, vào thời đã nói, từ vựng của tiếng Việt chỉ
bao gồm vẻn vẹn có những từ mà A. de Rhodes đã đưa vào Từ điển Việt Bồ
La mà thôi - ngoài ra không còn bất cứ từ nào khác - thì lập luận của
hai ông mới có thể có giá trị. Còn trên thực tế thì từ điển cũng có thể
“phớt lờ” nhiều từ hoặc từ tổ cố định của ngôn ngữ; đó là còn chưa nói
đến nguyên tắc và tiêu chí lựa chọn mục từ của từng tác giả cho từng
quyển từ điển.
Xin lấy dẫn chứng nhãn tiền cho dễ thấy
vấn đề. Về môn bóng đá chẳng hạn, Từ điển tiếng Việt của Trung tâm Từ
điển học do Hoàng Phê chủ biên (2007) đã “bỏ sót” các từ tổ: bóng bổng,
bóng chết, bóng chìm, bóng sệt, bọc lót, chạy chỗ, chọc khe, ói bóng, tì
đè, v.v…, nhưng điều này tuyệt nhiên không có nghĩa là những từ tổ này
không tồn tại. Một từ rất quen thuộc với các bà, các cô là “siu” (<
“silk” của tiếng Anh) dùng để chỉ một loại vải, chẳng hạn, đã không được
từ điển Hoàng Phê thu thập nhưng không một thế lực ngữ học nào có thể
phủ nhận sự tồn tại của nó.
(Xem tiếp kỳ sau)
Nhận xét về ý kiến của ông Nguyễn Đại Cồ Việt (tiếp theo và hết)
Bạn đọc: Sau bài “Lẽ ra họ phải được gọi là người GHE” của ông An Chi trên Báo Năng lượng Mới số 454, rồi số 455, ông Nguyễn Đại Cồ Việt đã phản hồi với 4 điểm xác nhận và 2 điểm về ý kiến riêng. Xin ông An Chi cho nhận xét về ý kiến của ông Nguyễn Đại Cồ Việt? Xin cảm ơn. Bảy Quán Cóc (Bà Chiểu, TP HCM)
Nhận xét về ý kiến của ông Nguyễn Đại Cồ Việt
Bạn đọc: Sau bài “Lẽ ra họ phải được gọi là người GHE” của ông An Chi trên Báo Năng ...
|
Điểm thứ ba mà ông Nguyễn Đại Cồ Việt
xác nhận là: “Từ điển VBL gọi Trung Quốc là “Ngô” hoặc “Đại Minh”. Từ
điển có mục từ: Ngô, nước Ngô, trong mục này có ghi “thàng ngô” (= thằng
Ngô). Mục từ Minh, Sáng, có ghi “Đại minh” và phần giải thích bằng chữ
latin được dịch sang tiếng Việt là: “đó là tên mà người Trung Hoa dùng
để đề cao chính họ và vương quốc của họ”.
Về điểm này thì trên Năng lượng Mới số
454, chúng tôi đã viết: “Tại mục “tàu, mực tàu” ở cột 728, sở dĩ VBL
“không nói đến Tàu (nước Tàu)” thì đơn giản chỉ là vì nó thiên về công
dụng của thứ mực đó (dùng để kẻ đường thẳng trên gỗ). Còn Béhaine/Taberd
thì thiên về xuất xứ nên mới dịch thành “atramentum sinicum”, nghĩa là
“mực (của nước) Tàu” […] Chỉ cần thông minh một chút, người ta đã phải
hỏi: Nếu “tàu” trong “mực tàu” của VBL không chỉ “nước Tàu” thì nó chỉ
“cái gì” vì cũng chính nó tại danh ngữ đó trong Béhaine/Taberd thì lại
chỉ nước Tàu? Ông Thông cứ đưa hai định nghĩa đó ra mà đố học trò tiểu
học thì họ sẽ đủ thông minh để trả lời rằng “tàu” của VBL và “tàu” của
Béhaine/Taberd thực tế chỉ là một. Mà “tàu” trong “mực tàu” của
Béhaine/Taberd đã là “nước Tàu” thì “tàu” trong “mực tàu” của VBL đương
nhiên cũng chỉ có thể là “nước Tàu” mà thôi”.
Có lẽ ông Nguyễn Đại Cồ Việt cũng nên
thử nghiệm điều mà chúng tôi đã đề nghị với ông Nguyễn Cung Thông chăng?
Bây giờ xin nói đến hai ý kiến riêng của ông Việt. Trước nhất, xin nói
về ý kiến thứ hai. Ông viết: “Về chuyện “mực tàu”, tra từ “mực” sẽ thấy:
thoi mực: cục mưc miếng mực, thỏi mực, thông dụng nơi người Trung Hoa
(bản dịch). Ở Việt Nam hồi đó không có thứ mực nào có xuất xứ khác, nên
tôi cho rằng khi gắn thêm định ngữ “tàu” cho mực, thì không phải nhằm
phân biệt xuất xứ thứ mực ấy với thứ mực có xuất xứ khác. Rất có thể để
phân biệt công dụng của thứ mực ấy: dùng để viết chữ, hay dùng để kẻ lên
gỗ. Nếu dùng để phân biệt xuất xứ, sẽ dùng “mực Ngô”. Đây là giả định”.
Vì vẫn kiên trì phủ nhận khái niệm
“Trung Hoa” trong chữ “tàu” của “mực tàu” trước thời Béhaine và Taberd
nên ông Việt giả định rằng chữ “tàu” ở đây là định ngữ cho “mực” để phân
biệt công dụng của thứ mực ấy: dùng để viết chữ, hay dùng để kẻ lên gỗ.
Sự suy luận này hoàn toàn vô căn cứ nên cả hai ông Nguyễn sẽ không bao
giờ chỉ ra được nó có nghĩa cụ thể là gì trong điều kiện đó, ngoài cái
nghĩa “Trung Hoa”. Huống chi ông Việt cũng đã hoàn toàn sai khi giả định
rằng ở Việt Nam hồi đó không có thứ mực nào có xuất xứ khác. Rất sai.
Xin mời ông đọc mấy đoạn trích dẫn về mực dùng để làm tranh Đông Hồ
(những chỗ in đậm là do AC nhấn mạnh): “Tranh điệp có hơn 100 loại. Một
bức tranh có bao nhiêu màu thì phải in bấy nhiêu lần. Khô màu này mới in
tiếp màu khác. Tranh bộ 16 loại. In hai lần. Lần một in mực than lá
tre. Đợi khô vẽ thêm thủy mặc bằng mực tàu” (“Chơi tranh và sống bằng
tranh”, dapcauglass.com.vn).
Rõ ràng là cùng một màu đen nhưng mực
than lá tre lại khác với mực tàu và dĩ nhiên là còn những thứ mực khác
cho những màu khác nữa. Xin mời ông Việt đọc tiếp: “Phải có một số thợ
thủ công chuyên nghiệp làm mực vẽ và giấy từ nguyên liệu thiên nhiên
quanh vùng cũng như việc làm khuôn và in tranh” (“Lịch sử tranh Đông
Hồ”, donghotranh.com).
Mực vẽ ở đây hiển nhiên là mực sản xuất
tại chỗ chứ không phải nhập từ bên Tàu cho nên chữ “tàu” trong mực tàu
cũng hiển nhiên là dùng để chỉ xuất xứ. Ta lại đọc tiếp: “Bản khắc gỗ
phải làm bằng gỗ cây thị thì mới cho ra những bản tranh sắc nét và màu
mực mới tươi thắm được” (“Dung dị làng tranh Đông Hồ”,
baotangnhanhoc.org).
Dĩ nhiên là màu mực ở đây cũng không chỉ
có màu đen của mực tàu mà thôi. Cứ như trên thì hiển nhiên là chữ “Tàu”
trong “mực tàu” được dùng để chỉ thứ mực vốn có xuất xứ từ bên Tàu để
phân biệt với các thứ mực “tự chế” ở trong nước. Nghĩa là từ lâu, các
gia đình có nghề làm tranh và những người thợ thủ công ở Đông Hồ đã biết
đến mực Tàu là một thứ mực xuất xứ từ Trung Hoa chứ đâu có cần đến từ
điển của Pigneaux de Béhaine (1772-73) hoặc của Taberd (1838) mới có mực
Tàu mà xài. Ông Việt lại còn giả định rằng vào thời đó (thời của Từ
điển Việt Bồ La), nếu ta đã có thứ mực xuất xứ từ Trung Hoa thì nó sẽ
được gọi là “mực Ngô”. Chúng tôi xin thưa rằng, khi dân ta bắt đầu gọi
“Tàu” là “Ngô” (sau năm 1427) thì mực Tàu đã tồn tại từ lẩu từ lâu nên
cái tên “mực Ngô” sẽ vĩnh viễn nằm trong thế giả định của ông Việt chứ
không bao giờ có thể trở thành hiện thực được. Cái thứ “mực Ngô” đó, dân
Đông Hồ đã xài tự bao giờ với cái tên mực tàu rồi, để phân biệt với mực
than lá tre sản xuất tại chỗ. Ta nên nhớ rằng tranh Đông Hồ đã có từ
thế kỷ XVI.
Còn về ý kiến thứ nhất của mình thì ông
Việt viết: “Chưa có chứng cứ về mặt ngôn ngữ xác nhận rằng, vào thế kỷ
XVII, hoặc sớm hơn, người Việt gọi người Trung Quốc là “Tàu” - với nghĩa
kính trọng hoặc khinh rẻ. Từ được sử dụng thường xuyên ở thời điểm này
là: Ngô, người Ngô, nước Ngô, thằng Ngô. Các giống cây du nhập vào Việt
Nam qua ngả TQ vào thời điểm này cũng được gắn với danh từ “ngô”, ví dụ
cây ngô (= cây bắp), bí ngô.
“Vì thế, trước khi có chứng cứ xác thực,
có thể giả định, cách gọi Tàu hoặc Khách để chỉ người TQ là những cách
gọi xuất hiện muộn hơn thời điểm TK XVII”.
Phải nói rằng ý kiến trên đây của ông
Nguyễn Đại Cồ Việt không khách quan chút nào khi ông vẫn mặc nhiên cho
rằng chỉ có chữ “tàu” trong “mực tàu” ở từ điển của Béhaine (1772-73),
rồi từ điển của Taberd (1838) mới chỉ “(nước/người) Trung Hoa” chứ chữ
‘tàu” trong “mực tàu” ở Chỉ nam ngọc âm giải nghĩa và ở Từ điển Việt Bồ
La (1651) thì không. Đây là một loại ý kiến cực kỳ kỳ lạ. Vậy xin hỏi
ông Nguyễn Cung Thông và ông Nguyễn Đại Cồ Việt chứ cái chữ “tàu” đó
trong hai công trình trên có nghĩa là gì. Là gì, thưa hai ông? Còn với
chúng tôi thì nó vẫn cứ có nghĩa là “Trung Hoa”, như đã gút lại trên
Năng lượng Mới số 454 và số 456:
“Nếu quả thật người Minh Hương được gọi
bằng tên của cái phương tiện mà họ đã dùng để đến đất Nam Bộ hồi gần
cuối thế kỷ XVII thì họ sẽ phải được gọi là người “Ghe” chứ đâu có phải
là người “Tàu”.
Lần này, xin mượn ý kiến của bạn Phạm
Toàn trên Facebook để gút thêm một lần nữa: “Quê nội tôi ở Phú Quốc, cha
tôi làm thầy giáo, được bổ nhiệm dạy ở Châu Đốc. Ông bà nội tôi từ Phú
Quốc vào Châu Đốc thăm con bằng ghe buồm. Năm tôi khoảng 5-6 tuổi
(1956), bà tôi vào Châu Đốc lần đầu tiên bằng ghe máy. Bà nói: - Bận này
bà đi ghe máy nhanh lắm con, chưa hết một ngày một đêm là vô tới Hà
Tiên...
“Khi có máy móc thay cho cánh buồm thì
người ta vẫn gọi là ghe máy chứ không gọi là tàu. Tây đến, xuất hiện từ
“tàu Tây” để chỉ ghe đóng bằng sắt của Tây. Ngày nay vùng Phú Quốc vẫn
gọi là ghe đánh cá dù so với xưa thì ghe bây giờ rất to. Riêng ghe đánh
cá của Thái Lan bằng sắt thì gọi là tàu đánh cá Thái Lan.
“Trở lại, người Minh Hương hồi xa xưa ấy
chắc chắn đến nước ta bằng ghe buồm (gỗ) chứ làm gì có tàu sắt chạy
phành phạch mà lướt sóng Biển Đông để bị gọi là “người Tàu”.
Với những lời của bạn Phạm Toàn, chúng tôi xin kết thúc bài nhận xét của mình về ý kiến của ông Nguyễn Đại Cồ Việt.
Yến sào - Đạo Hồi - Hoàn vũ
Bạn đọc: 1.
Tại sao người ta nói “yến sào”? Vậy “sào” trong “yến sào” là gì? 2. Tại
sao lại gọi là “đạo Hồi; chữ Hồi do đâu mà ra? 3. “Hoàn vũ” trong “Hoa
hậu Hoàn vũ” là gì? Giáp Loan (Hà Nội)
Học giả An Chi: 1.
“Sào” [巢] là “tổ”. Thư tịch xưa của Tàu từng ghi lại truyền thuyết về
hiện tượng “sào cư”, tức là sống trên tổ. Thiên “Ngũ đố” trong sách Hàn Phi Tử
chép rằng đời thượng cổ, dân chúng ít mà cầm thú thì nhiều, dân chúng
không đương nổi với muông thú, rắn rết nên có thánh nhân bày việc kết
cành nhánh làm tổ mà ở để khỏi bị chúng làm hại. Thiên “Đằng Văn Công”
trong sách Mạnh Tử chép người ở nơi thấp thì làm tổ trên cây mà
ở, người ở nơi cao thì sống trong hang động. Ta cũng thường nghe đôi
câu đối “Chim Việt đậu cành Nam - Ngựa Hồ hí gió Bắc”. Chim Việt đậu
cành Nam, tức “Việt điểu sào Nam chi”. “Sào” [巢] là tổ (danh từ) nhưng
trong câu này thì dùng theo nghĩa động từ là “làm tổ”, hiểu rộng ra là
“sinh sống”. Vậy “yến sào” [燕巢] là tổ yến, mà Hán ngữ gọi là “yến oa”
[燕窩]. “Oa” [窩] cũng có nghĩa là “tổ’ nên ta mới có danh ngữ đẳng lập
“sào oa” [巢窩] mà Mathews’ Chinese English Dictionary dịch là
“nest in a tree”, tức là “tổ trên cây”. “Yến sào” thì tiếng Anh dịch là
“edible bird’s nest(s)”, nghĩa là “tổ chim ăn được” còn tiếng Pháp là
“nid d’hirondelle”, nghĩa là “tổ én”.
2. “Hồi giáo”, tiếng Arập là Islam, một
danh từ phái sinh từ danh từ “Salam”, có nghĩa là “sự cứu rỗi”, là “thái
bình”. Bản thân danh từ “salam” thì phái sinh từ căn tố ba chữ
(triliteral) “s.l.m.”, có nghĩa là sự vâng mệnh, sự quy phục”. Tín đồ
Hồi giáo thì tiếng Arập là “Muslim”, mà nghĩa gốc là người vâng mệnh”,
người quy phục”, cũng phái sinh từ căn tố nói trên. Để chỉ Hồi giáo, hầu
hết các ngôn ngữ châu Âu hiện nay đều gọi là “Islam”.
Cách gọi “Hồi giáo” bắt nguồn từ tên của
dân tộc Hồi Hột [回紇], tức người Uighur, mà hiện nay Tàu phiên âm thành
Duy Ngô Nhĩ [維吾爾]. Hồi Hột là nước láng giềng phương bắc của Tàu từ năm
616 đến 840. Lúc rộng lớn nhất lãnh thổ của họ Đông giáp Mãn Châu, Tây
giáp Trung Á. Với thời gian, cách gọi đổi thành “Hồi Hồi”. Tài liệu xưa
nhất dùng danh từ “Hồi Hồi” là Liêu sử, soạn vào thế kỷ 12. Đời nhà
Nguyên (1260 -1368) mấy tiếng “người Hồi Hồi” được dùng để chỉ người
Trung Á, bất luận theo tín ngưỡng nào. Đến đời Minh (1368 - 1644), “Hồi
Hồi” mới dần dần đổi nghĩa để chỉ đạo Islam và tín đồ của nó.
Vì “Hồi Hồi” là tên gọi của một dân tộc,
không phải dùng để chỉ đạo Islam hay một tôn chỉ của Islam, nên trong
tiếng Việt hiện nay một số người bắt đầu dùng “Islam” thay cho “Hồi
giáo” hay “đạo Hồi”. Tuy nhiên, nhiều tín hữu Islam nói tiếng Việt vẫn
dùng danh từ Hồi giáo vì đã quen nghĩ đến, nói đến danh từ này một cách
tôn kính. Hiện nay Tàu cũng thường gọi Islam theo phiên âm là Y Tư Lan
giáo (伊斯蘭教 Yīsīlán jiào).
3. “Hoàn vũ” [寰宇] đồng nghĩa với “hoàn
cầu” [寰球], có nghĩa là khắp cả trái đất, toàn thể trái đất. Chữ “hoàn”
[寰] có hai nghĩa chính là “vùng đất rộng lớn” (nghĩa 1) và “tường bao
quanh cung điện” (nghĩa 2). Với nghĩa 1, ta còn thấy nó trong danh ngữ
nay hầu như không còn dùng đến là “doanh hoàn” [瀛寰], cũng có nghĩa là
“toàn thế giới”. Còn chữ “vũ” [宇] thì có hai nghĩa chính là “mái nhà
(nghĩa 1) và “toàn thể không gian” (nghĩa 2). Với nghĩa 1, nó có mặt
trong “ốc vũ” là ‘nhà cửa”, “miếu vũ” là “đền miếu”. Với nghĩa 2, nó có
mặt trong hai tiếng “vũ trụ” [宇宙] quen thuộc. Trong tiếng Việt hiện nay,
hai tiếng “hoàn vũ” được dùng để dịch từ “Universe” trong danh ngữ
“Miss Universe” (Hoa hậu Hoàn vũ), mà Tàu dịch thành “Hoàn cầu Tiểu
thư” [环球小姐].
Nhận xét về bài của BS Nguyễn Anh Huy gửi An Chi
Ngày 1-9-2015, BS Nguyễn Anh Huy đã tự ý đưa vào Facebook (FB) của chúng tôi đường dẫn tới bài viết của ông ta nhan đề “Vẫn cứ là ‘nước Việt vĩ đại’ đó thôi!”, với câu mào đầu “Để hiểu thêm về trình độ, kiến thức và đạo đức khoa học của An Chi” và còn nói rõ thêm: “Bài này tôi đã gởi cho An Chi, nhưng An Chi không dám đăng”.
Chúng
tôi đã xóa đường dẫn đó và đã chặn Nguyễn Anh Huy trên FB của mình
nhưng vẫn thông báo cho toàn thể các bạn FB biết tên bài của Nguyễn Anh
Huy để tìm đọc nếu cần.
Trong bài dài trên 4.500 chữ của mình,
BS Huy nói rằng An Chi không đi vào chuyên môn chính mà chủ yếu là miệt
thị ông ta. Sau đây, chúng tôi cũng sẽ “không đi vào chuyên môn chính”
để trả lời BS Huy theo 7 câu hỏi mà ông ta đã nêu ra để chất vấn chúng
tôi.
Câu hỏi 1. Họ của
Phật là “Gautama/Gotama” được ký âm nhiều cách là “Cồ đàm/Kiều Đáp
Ma/Kiều Đạt Ma” mà ông An Chi có dẫn ra, vậy xin được hỏi ông An Chi:
Nếu “Cồ” là họ của Phật, vậy “Kiều” có phải là họ của Phật không?! Nếu
“-Phải”, thì Phật có 2 họ?! Nếu “-Không phải” thì tại sao “Cồ” thì phải,
mà “Kiều” thì không phải?!
Trả lời: Xin nêu một
thí dụ sơ đẳng cho BS Huy dễ hiểu. Moscou, Mốt-cu, Moscow, Moskva, Mạc
Tư Khoa, Mátxcơva là tên thủ đô của nước Nga mà văn quốc ngữ đều đã có
dùng trong gần 100 năm nay. Dù ông có chọn tên nào thì đó vẫn là tên thủ
đô của nước Nga chứ không phải thủ đô nước Nga có 6 tên khác nhau.
“Gautama”, họ của Đức Phật, được Tàu gọi thành “Cồ/Cù Đàm”, “Câu Đàm”,
“Cụ Đàm”, “Kiều Đáp Ma”, “Kiều Đạt Ma” (đọc theo âm Hán Việt) nhưng
những hình thức này chỉ là kết quả phiên âm từ họ của Phật trong tiếng
Sanskrit là Gautama, chứ không phải Phật có nhiều họ. Còn sở dĩ tiếng
Việt gọi họ của Ngài là “Cồ/Cù Đàm” thì chỉ vì đây là hình thức phiên âm
mà ông bà ta tiếp xúc trước nhất nên đã dùng nó thành truyền thống cho
đến nay. Người hiểu biết thì sẽ không đặt câu hỏi như BS Huy đã nêu.
không phải Phật có nhiều họ. Còn sở dĩ tiếng Việt gọi họ của Ngài là
“Cồ/Cù Đàm” thì chỉ vì đây là hình thức phiên âm mà ông bà ta tiếp xúc
trước nhất nên đã dùng nó thành truyền thống cho đến nay. Người hiểu
biết thì sẽ không đặt câu hỏi như BS Huy đã nêu.
Câu hỏi 2. Các câu đối
trên (câu đối có hai chữ “Cồ Việt” - AC), đều cho thấy quốc hiệu chỉ có 2
âm “Cồ Việt” chứ không phải là “Đại Cồ Việt”; ông An Chi giải thích như
thế nào về hiện tượng “Cồ Việt” lặp lại như thế này?
Trả lời: BS Huy nêu 3 cặp đối nhưng để cho đỡ tốn giấy mực, chúng tôi chỉ xin nhắc lại cặp có lẽ quen thuộc nhất là:
“Cồ Việt quốc đương Tống Khai Bảo, Hoa Lư đô thị Hán Tràng An.”
Xin trả lời rằng, trong cặp đối này
(cũng như trong hai cặp kia), “Cồ Việt” là dạng tắt của “Đại Cồ Việt”.
Đây là một ngữ đoạn mà trung tâm là danh từ “Việt”; danh từ này có một
định ngữ (ĐN) là “Cồ”, hợp với nó thành danh ngữ (DN) “Cồ Việt”; DN này
có một ĐN là “đại”, hợp với nó thành ngữ đoạn “Đại Cồ Việt”. “Đại Cồ
Việt” là nước “Việt vĩ đại [theo] Phật giáo” còn “Cồ Việt” là nước “Việt
[theo] Phật giáo”. Trong ba chữ trên đây, nếu cần lược đi một chữ mà
vẫn giữ nguyên khái niệm cơ bản thì chữ bị lược chỉ có thể là “đại”, y
như trong “đại chủng viện”, “đại lễ đường”, “đại lực sĩ”, “đại nhân
vật”, v.v., ta chỉ có thể lược bỏ “đại” thì mới giữ lại được những khái
niệm cơ bản là “chủng viện”, “lễ đường”, “lực sĩ”, “nhân vật”. BS Huy
hỏi chúng tôi “giải thích như thế nào về hiện tượng “Cồ Việt” lặp lại
như thế” trong ba đôi câu đối mà ông ta đã nêu thì chúng tôi xin trả
lời một cách đơn giản: “Cồ Việt” là dạng tắt của “Đại Cồ Việt”.
Liên quan đến câu hỏi 2, BS Huy còn viết:
“Ông An Chi cho rằng chữ Nôm “Cồ ()”,
gồm chữ “大 (đại)” nằm trên ghép với chữ “瞿 (cù)” nằm dưới, là “do BS Huy
thiết kế”, nhưng ông không hề biết trong lịch sử văn học Việt Nam đã có
chữ “cồ” viết kiểu này, được ghi nhận trong Tự Điển Chữ Nôm của Nguyễn
Quang Hồng chủ biên, năm 2006.”
Xin khẳng định rõ ràng rằng chúng tôi
nói “do BS Huy thiết kế” là thiết kế cho quốc hiệu “Đại Cồ Viêt”
[大瞿越] mà ông chủ trương làm thành [ ]. Còn chữ “cồ” [ ] trong Tự điển chữ Nôm do
Nguyễn Quang Hồng chủ biên (2006) là một chữ mới toanh thuộc loại F2
(chữ hình thanh ghép hai chữ Hán với nhau) của thời hiện đại, đặt ra để
ghi thơ của Tú Xương nên không thể đưa ra để chứng minh cho chuyện đầu
thế kỷ X được. Chính BS Huy cũng đã nói rằng “lịch sử hình thành chữ Nôm
là quá trình phát triển từ chữ giả tá (mượn âm) đơn giản đến chữ hài
thanh (hội đủ cả nghĩa lẫn âm) phức tạp.” Ông lấy chữ [] “hội đủ cả
nghĩa lẫn âm” để thay cho chữ [] “giả tá” là đã phạm lỗi lẫn lộn thời
đại (anachronism). Thế nhưng BS Huy còn xuyên tạc lịch sử mà viết tiếp:
“Đến thế kỷ XV, khi ghi chép lại lịch
sử, Nguyễn Trãi, Ngô Sĩ Liên ... thâm nho hơn, nên đã thêm bộ “đại” chỉ ý
“to lớn” vào chữ “瞿” để trở thành chữ Nôm “ ” hài thanh hoàn chỉnh như
tôi đã nói.”
Chỉ có BS Huy hoang tưởng chứ có ma nào ở thế kỷ XV mà lại viết “cồ” thành [ ].
Câu hỏi 3. Ông An Chi
cho rằng “Trong tiếng Việt thì tính từ dùng làm định ngữ cho danh từ
luôn luôn đứng sau danh từ này, thí dụ: gà cồ, chó dữ…” Thế nhưng, thỉnh
thoảng chúng ta vẫn nghe “To đầu mà dại, nhỏ dái mà khôn!”. Không rõ
học giả An Chi giải thích những tính từ “to, nhỏ…” đứng trước danh từ
này như thế nào nhỉ?!
Trả lời. “Gà cồ”, “chó
dữ” là nhưng ngữ đoạn trong đó tính từ theo sau (“cồ”, “dữ”) làm định
ngữ cho danh từ trung tâm (“gà”, “chó”) đứng trước còn “to đầu”, “nhỏ
dái” là những ngữ đoạn trong đó danh từ theo sau (“đầu”, “dái”) làm bổ
ngữ cho tính từ trung tâm đứng trước (“to”, “nhỏ”). Cái mà chúng tôi nói
đến là danh ngữ; còn cái mà BS Huy đưa ra đẻ “bẻ” chúng tôi thì lại là
tính ngữ ( = ngữ đoạn tính từ). Khác hẳn nhau về bản chất. Có lẽ BS Huy
cũng nên học lại ngữ pháp tiếng Việt chăng?
Câu hỏi 4. “Trong kinh
Phật” thì đúng Cồ là viết tắt của Cồ-đàm, nhưng điều ta đang bàn là chữ
“Cồ” trong quốc hiệu, chứ có phải là chữ “cồ” trong kinh Phật đâu?! Ông
An Chi lại lấy râu ông nọ cắm cằm bà kia! “Cồ” trong quốc hiệu liên quan
gì chữ “cồ” trong kinh Phật? Tại sao phải liên quan?
Trả lời: Câu “chất vấn” của BS Huy cực kỳ ngây thơ. Khác nào nói chỉ có trong văn bản của Kinh Thánh
thì Jesus mới là Christ chứ trong những ngữ cảnh khác thì không. Ông ta
còn hỏi tại sao chữ “Cồ” trong quốc hiệu phải liên quan đến chữ “cồ”
trong kinh Phật. Vậy chúng tôi xin hỏi lại ông: – Tại sao không? BS Huy
cũng chẳng phân biệt được các khái niệm liên quan đến chữ “Cồ” trong
“[Đại] Cồ Việt” và chữ “Cồ” trong “Cồ kinh”, “Cồ đô”. Chẳng thế mà ông
ta lại viết: “Hoa Lư, được gọi là “Cồ kinh, Cồ đô”: có phải là kinh đô
của Phật?!” Xin trả lời rằng trong “[Đại] Cồ Việt” thì “Cồ” là “Cồ Đàm” (
= Phật) còn trong “Cồ kinh”, “Cồ đô” thì “Cồ” đã trở thành “Cồ Việt”
rồi (nên không còn trực tiếp liên quan đến “Cồ Đàm” nữa). Để cho BS Huy
dễ hiểu hơn, chúng tôi xin nói toạc ra: “Cồ Việt” là “nước Việt theo tôn
giáo của Cồ Đàm (= Phật) còn “Cồ kinh”, “Cồ đô” là “kinh đô của nước Cồ
Việt, nghĩa là của nước Việt theo tôn giáo của Cồ Đàm ( = Phật)”.
BS Huy còn lập luận: “Trong từ ngữ
tiếng Việt, không thấy “Cồ / Cù” được tách ra thành một chữ riêng để
thành lập từ mới để chỉ Phật như “Thích” hay “Phật (Bụt)”, ví dụ, ta
thường nghe nói “Thích giáo, Phật giáo, Phật tử...” chứ chưa bao giờ
nghe “Cồ giáo, Cồ tử”cả!”
Victor Hugo có dùng một ẩn dụ mà nói
rằng từ (mot) là một sinh vật (être vivant). Nghĩa là nó có sống và có …
chết. Nếu “Cồ/Cù” không “được tách ra thành một chữ riêng mà thành lập
từ mới để chỉ Phật” thì ta sẽ không thể thấy nó trong câu “Lù đù/khù có
ông Cù độ/hộ mạng”. Ông Cù đây là ông Cù Đàm, nghĩa là ông Phật đấy, chứ
không phải là ai khác. Nhưng nó (từ “Cù”) đã làm xong nhiệm vụ để trở
thành một từ cổ và được “Bụt”, rồi “Phật” thay thế theo quy luật đào
thải và thay thế của từ vựng. Nhưng đây là nói để trả lời BS Huy chứ
riêng “Cồ Việt” thì lại là một cấu trúc tiếng Hán (dĩ nhiên là đọc theo
âm Hán Việt) trong đó “Cô” chỉ là một hình vị ràng buộc (phụ thuộc).
Câu hỏi 5. Bằng chứng gì để khẳng định Đinh Tiên Hoàng đặt quốc hiệu là vì đạo Phật? Đây là câu hỏi 5 tôi hỏi ông An Chi, và là trọng tâm vấn đề (AC nhấn mạnh).
Trả lời: Thực ra thì, về trọng tâm này của BS Huy, chúng tôi cũng đã trả lời trên Kiến thức Ngày nay số 599 (1-4-2007). Chúng tôi đã dẫn Đào Duy Anh:
“Đinh Bộ Lĩnh chỉ có thể dựa vào tập
đoàn phong kiến tôn giáo là thành phần xã hội có uy tín nhất trong xã
hội bấy giờ để duy trì trật tự và kỷ cương. Nhưng trong hai tôn giáo,
Phật và Đạo, đều thịnh hành trong dân gian, thì Phật giáo có tổ chức và
quy củ vững vàng hơn, có kinh điển và lễ nghi nghiêm trang hơn, chứ Đạo
giáo thì chỉ là một mớ phương thuật và mê tín. Về tổ chức cũng như về
tinh thần, Phật giáo là yếu tố thống nhất đắc lực nhất thời bấy giờ. Bởi
thế Đinh Bộ Lĩnh mới lấy Phật giáo làm quốc giáo, định phẩm cấp tăng nhân để giao cho họ lãnh đạo Phật giáo trong toàn quốc
(Chúng tôi nhấn mạnh – AC) Khuông Việt đại sư tham dự triều chính gần
như một vị tể tướng. Các chùa (tự viện) của Nhà nước do các tăng quan
trụ trì đều được cấp ruộng làm tự điền. Các tự viện có các đại điền
trang không kém gì đại điền trang của bọn vương công đại thần. (Lịch sử Việt-nam, q. thượng, Nxb Văn hoá, 1958, tr.175).
Xem thế, đủ thấy vai trò của đạo Phật trong xã hội Đại Cồ Việt quan trọng như thế nào. Cũng vẫn Đào Duy Anh đã viết như sau:
“Nước mới dựng, kỷ cương chưa vững, trật
tự xã hội chưa ổn định, Bộ Lĩnh lấy hình phạt ghê gớm để uy hiếp nhân
dân, sai đặt vạc dầu ở giữa điện đình và nuôi cọp trong chuồng, kẻ phạm
tội nặng thì bắt bỏ nấu trong vạc dầu hay là bỏ cho cọp ăn.” (Sđd,
tr.174).
(Xem tiếp kỳ sau)
Nhận xét về bài của BS Nguyễn Anh Huy gửi An Chi (Tiếp theo và hết)
Những biện pháp trừng phạt này đã bị các sử gia lên án là dã man, tàn bạo. Về khách quan thì đúng như thế nhưng thực tế lại không hề đơn giản như người ta có thể chê bai một cách dễ dàng. Đinh Tiên Hoàng muốn xây dựng xã hội Đại Việt theo tinh thần Phật giáo. Vì thế nên ta phải thấy vạc dầu, chuồng cọp ở đây chính là hình ảnh cu thể và sinh động của địa ngục đó thôi. Phật giáo chẳng đã lấy hình ảnh của địa ngục để khuyến thiện, giới ác đó sao?
Câu hỏi 6: Do vậy, muốn
khẳng định quốc hiệu “Đại Cồ Việt” năm 968 có phải là nước Việt sùng
đạo Phật không (?), thì tất nhiên phải xét từ năm 968 trở về trước xem
tôn giáo nước ta thời đó có sùng đạo Phật không đã (?!), thì khi đó Đinh
Tiên Hoàng mới dựa trên sự sùng đạo đó để đặt quốc hiệu! Vậy, kính đề
nghị ông An Chi trưng bày những sự kiện lịch sử trước năm 968 cho thấy
Đinh Tiên Hoàng sùng đạo Phật?
Trả lời: Đây, xin mời ông đọc những gì mà TS Sử học Alexey Polyakov đã viết:
“Thế kỷ X các hào trưởng, sứ quân Giao
Châu nắm chính quyền ở các địa phương, đều có các đội thân binh khá đông
đảo. Bản thân họ tham vọng giành chính quyền trung ương ở Giao Châu.
Thời gian đó họ đã có bộ máy cai trị rất đơn giản, phù hợp với trình độ
quan hệ kinh tế xã hội Giao Châu lúc đó. Các sứ quân và vua của những
triều đại tồn tại ngắn ngủi, trong thực tế đều không cần bộ máy quan
liêu Nho giáo phức tạp. Trong giai đoạn tình trạng phân tán phong kiến
các Tăng lữ Phật giáo trở thành lực lượng có mối quan tâm đến việc thống
nhất đất nước.
“Thời các triều đình Đinh, Lê công việc
quốc gia phần lớn do các sư sãi Phật giáo điều hành. Các Tăng sĩ đã làm
quan của triều đình. Các kinh sách của Phật giáo đã được viết bằng chữ
Hán. Điều đó đã cho phép các Tăng sĩ Đại Việt tham gia quan hệ ngoại
giao với nhà Tống và tiếp xúc với quan lại Nho giáo rất dễ dàng. Trung
tâm văn hóa và dạy học là các chùa chiền Phật giáo; con cái quan lại và
con em trong hoàng tộc được học tập, dạy dỗ ở đó. Quá trình hoàn thiện
bộ máy nhà nước thể hiện được qua việc tăng số lượng cán bộ, các cơ quan
cũng như sau đó là sự mở rộng bộ phận quan lại dân sự được đào tạo
trong các chùa, tạo điều kiện cho giới sư sãi có được ảnh hưởng nhất
định trong triều đình.” (“Vai trò của Phật giáo và những nhà sư xuất sắc
trong đời sống chính trị của xã hội Đại Việt thời đầu kỷ nguyên độc
lập”, Đạo Phật ngày nay, 7-5-2011).
Còn dưới đây là kết luận của Alexey Polyakov trong bài trên:
“Trong tình hình phân tán phong kiến
đầu kỷ nguyên độc lập giới Tăng Ni Phật giáo đã là một trong những lực
lượng giữ vai trò lớn trong việc thống nhất và bảo vệ đất nước. Lê Đại
Hành đã thắng quân Tống và Chiêm Thành với sự giúp đỡ của giới Tăng lữ
và đặc biệt là các nhà sư Khuông Việt và Vạn Hạnh.”
Câu hỏi 7. Bởi còn có
một chứng cứ rất quan trọng, là chỉ 1 viên gạch được tìm thấy trong di
tích Hoa Lư thôi - đã được Viện Khảo cổ học Việt Nam và Hội thảo Khoa
học “Nhận diện giá trị khu di tích Hoàng thành Thăng Long sau 5 năm
nghiên cứu so sánh” giám định có niên đại cuối thế kỷ X, đầu thế kỷ XI -
nhưng đã mặc nhiên loại bỏ giả thuyết của ông An Chi đưa ra; vì thuyết
của ông suy nghĩ ra không thể giải thích được ý nghĩa quốc hiệu trên
viên gạch có ghi “Đại Việt quốc [大越国] quân thành chuyên”! Ông An Chi
giải thích như thế nào về quốc hiệu “Đại Việt quốc” trên viên gạch này
không hề có chữ “Cồ (Phật)” như ông từng 2 lần khẳng định?
Trả lời: BS Huy chê An
Chi “chủ yếu chỉ phân tích chữ nghĩa từ “Cù/Cồ”, chứ không hề biết rằng
khảo cổ học ngày nay đã khám phá nhiều di vật có liên quan đến quốc
hiệu thời Đinh” nhưng có vẻ như kiến thức khảo cổ học và lịch sử của
chính ông ta lại … hơi ít. Chúng tôi muốn bàn rõ thêm, trước nhất là về ý
kiến của TS Đỗ Văn Ninh do Vân Khánh ghi lại:
“Tiếp đến là phát hiện (tại Hoàng thành
Thăng Long - AC) loại gạch “Đại Việt quốc quân thành chuyên” (gạch xây
quân thành nước Đại Việt). Đây là loại gạch lần đầu tiên nhìn thấy tại
kinh thành Hoa Lư thời Đinh-Lê ở Ninh Bình (………….) khiến TS Ninh trăn
trở là liệu có phải kí hiệu những viên gạch là quốc hiệu nước ta thời
Đinh-Lê? Sử chép rằng, quốc hiệu nước ta thời Đinh-Lê là Đại Cồ Việt.
Quốc hiệu này được ghi lại sớm nhất chỉ từ bộ Đại Việt sử ký toàn thư
nửa cuối thể kỷ XV (sic). Các nhà nghiên cứu chữ nôm cho rằng, chữ “Cồ”
nghĩa là to lớn, như vậy quốc hiệu này mang hai chữ “lớn”. Quốc hiệu
chính ra chỉ là Đại Việt, khi gọi nôm mới là Cồ Việt. Rồi khi chép vào
văn tự người ta đã nhầm mà chép cả chữ “Đại” và chữ “Cồ” vào chung một
tên. Từ viên gạch “Đại Việt quốc quân thành chuyên”, có thể nhận định:
Việt Nam không có quốc hiệu “Đại Cồ Việt” mà chỉ có quốc hiệu “Đại Việt
quốc”. Những viên gạch “Đại Việt quốc quân thành chuyên” là di vật có
giá trị thuyết phục lớn để chỉnh lý những khiếm khuyết trong sử sách.”
(“Hoàng thành Thăng Long: Bí mật đằng sau lớp đất”, Giađình.net.vn, 4-2-2010).
Thực ra thì TS Đỗ Văn Ninh đã cả quyết
một cách quá vội vàng. Muốn “chỉnh lý những khiếm khuyết trong sử sách”,
trước nhất TS Ninh phải chứng minh được niên đai chính xác của những
viên gạch “Đại Việt quốc quân thành chuyên” ở cả hai nơi Hoa Lư và Thăng
Long là giữa hai năm 968 và 1054, tức là khoảng thời gian mà sử chép
rằng nước ta mang tên “Đại Cồ Việt”. Thêm nữa, ông cũng rất sai khi
khẳng định rằng “quốc hiệu chính ra chỉ là Đại Việt, khi gọi nôm mới là
Cồ Việt”. Thực ra, nước ta “vốn xưng nền văn hiến đã lâu”, đã “Đại Việt”
thì cứ là “Đại Việt” chứ còn “Cô Việt” làm gì cho nó “nôm na mách qué”.
Huống chi, “Cồ Việt” là theo cú pháp Tàu chứ “nôm” thì phải là “Việt
Cồ” mới đúng (Xin xem phần trả lời cho câu hỏi 3). TS Ninh lại còn nói
oan cho các sử quan của ta là “khi chép vào văn tự người ta đã nhầm mà
chép cả chữ “Đại” và chữ “Cồ” vào chung một tên”. Họ dốt đến thế ư? Đại Việt sử ký toàn thư
(cuối thế kỷ XVII, chứ không phải XV), “Nội các quan bản”, khắc in năm
Chính Hòa thứ 18 (1697) làm sao có thể để cho xảy ra một sự dốt nát liên
quan đến quốc hiệu là một khái niệm thiêng liêng, như TS Đỗ Văn Ninh đã
nói oan?
Dè dặt hơn, là một đoạn ghi chép của Lê Hoàng:
“Việc nghiên cứu về niên đại của loại
gạch này đang có nhiều giả thuyết, phần lớn học giả cho rằng gạch “Đại
Việt Quốc” chính là mang quốc hiệu thời Lý. Tuy nhiên, theo các tài liệu
nghiên cứu mới đây thì Đại Việt quốc là tên một quốc gia độc lập do Lưu
Cung thành lập vào thời Ngũ Đại Thập Quốc (907-979). Quốc hiệu Đại Việt
của triều Lý phải mãi tới thời Lý Thánh Tông (1054) mới có. Kết quả
khai quật tại cố đô Hoa Lư (Ninh Bình) cũng phát hiện được rất nhiều
loại gạch “Đại Việt quốc quân thành chuyên” (gạch Đại Việt xây thành).”
(“Phát hiện gạch cổ nghìn năm tại thành nhà Hồ”, , 25-4-2013).
Còn Nguyễn Phúc Giác Hải thì nhận định::
“Hoa Lư mặc dầu không còn là đế đô nhưng
vẫn là quân thành quan trọng. Bởi thế Lý Thái Tổ giao Hoa Lư cho con
trai là Khai Quốc Vương (tức hoàng tử Bồ) trông giữ. Ngày 31-3-1028, Lý
Thái Tổ mất. Thái tử Phật Mã nối ngôi. Ngày mười lăm tháng ba, Khai Quốc
Vương làm phản. Mùa hạ tháng tư, Phật Mã, tức Lý Thái Tông, mang quân
đi đánh phủ Trường Yên. Khai Quốc Vương hàng (Đại Việt Sử ký toàn thư,
tập I, in lần thứ hai, NXB Khoa học Xã hội, HN 1972, trang 203-204).
Đoạn sử liệu trên cho thấy thành Hoa Lư, tức phủ Trường Yên, vẫn là quân
thành quan trọng. Những ai được trông giữ nơi ấy, dựa vào địa thế hiểm
yếu dễ có tư tưởng làm phản để tấn công vào Thăng Long nơi không có địa
thế hiểm trở. Chắc hẳn vì những lý do đó, sau khi lên ngôi , Lý Thánh
Tông đổi quốc hiệu là Đại Việt và cho gắn những viên gạch mang quốc hiệu
này ở Hoàng thành Thăng Long cũng như ở Hoa Lư để khẳng định tính thống
nhất của quốc gia Đại Việt”( “Hoàng thành Thăng Long và 950 năm Quốc
hiệu Đại Việt”, ViệtBáo.vn, 12-11-2004).
Thế là sau khi Lý Thái Tổ dời
đô về Thăng Long (1010) thì Hoa Lư đã trở thành Cố đô. Nhưng về sau các
triều Lý, Trần, Lê, Nguyễn vẫn cho tu bổ và xây dựng thêm ở đây nhiều
công trình kiến trúc như đền, lăng, đình, chùa, phủ, v.v… Vì vậy nên Cố
đô Hoa Lư là nơi lưu trữ di tích lịch sử của nhiều triều đại. Do đó mà
viên gạch có mấy chữ “Đại Việt quốc” [大越国] của BS Huy là một hiện vật mà
niên đại và chủ nhân cần phải được xác định một cách khoa học và chính
xác chứ đâu có thể nói khơi khơi là nó thuộc về đời nhà Đinh.
KẾT LUẬN: Cuối cùng,
xin dẫn lời của BS Nguyễn Anh Huy đánh giá An Chi để bạn đọc thưởng lãm
(kẻo BS Huy cứ thấy bứt rứt vì “gởi cho An Chi nhưng An Chi không dám
đăng”). Đây, ông ta đã viết:
“Học giả An Chi đã tuyển tập các bài phê
bình văn hóa - lịch sử - ngôn ngữ học của mình để xuất bản thành một
quyển sách với tựa đề Những tiếng trống qua cửa các nhà sấm,
Nhà xuất bản Trẻ, 2004. Tôi đọc nhiều bài của học giả An Chi, thấy tác
giả trích dẫn nhiều sách, nhưng không hề biết các điều đang trích ấy
cũng rất sai!”.
Nghĩa là An Chi sai “tùm lum”. Xin trân
trọng cảm ơn BS Nguyễn Anh Huy về lời nhận xét tổng quát trên đây. Và
cũng xin thông báo với ông và bạn đọc là, với BS Nguyễn Anh Huy thì, từ
đây, An Chi xin tuyên bố phoọc-phe vì “cãi” nhau với ông rất mệt.
Nhận xét
Đăng nhận xét