Trong bài báo “Kurt Gödel: Chủ
nghĩa duy vật là sai lầm”, TS John Spencer viết: “Trong mọi trường hợp,
dù bạn đưa ra bao nhiêu lập luận logic chống lại chủ nghĩa duy vật hoặc
dẫn ra bao nhiêu ý kiến của các nhà khoa học hàng đầu bác bỏ chủ nghĩa
duy vật, cuối cùng nhà duy vật cứng đầu vẫn bỏ ngoài tai”. Rồi Spencer
đặt câu hỏi: “Phải chăng Plato đúng khi quy kết các nhà duy vật là
‘những kẻ tệ hại’ hoặc ‘những gã bướng bỉnh ngoan cố’?”. Trong trường
hợp này, hỏi tức là đã trả lời…
Lược sử tối giản của chủ nghĩa duy vật
Chủ nghĩa Duy vật là tư tưởng và học
thuyết cho rằng toàn bộ thế giới hiện thực là vật chất và chỉ có vật
chất mà thôi – không tồn tại bất cứ cái gì là phi vật chất hoặc siêu tự
nhiên, không có Thần [1], không có phép mầu,… Với chủ nghĩa duy vật, các
khái niệm tưởng là phi vật chất như tư tưởng, tinh thần xét cho cùng
cũng chỉ là sự biểu lộ của hoạt động vật chất.
Chủ nghĩa duy vật không phải là một hiện
tượng mới mẻ. Nó vốn có từ xa xưa, ít nhất từ thời cổ Hy Lạp. Có lẽ
ngay từ thời ấy nó đã tỏ ra kém cỏi trong khả năng giải thích thế giới
nên Plato, một trong những cha đẻ của nền văn minh triết học và khoa học
Tây phương, đã phải phê phán nó một cách gay gắt như đã dẫn trong bài
báo của John Spencer nói trên. Đối với Plato, Cái Đẹp (The Beauty), Cái
Thiện (The Goodness), Luật Đạo Đức (The Moral Law) là những giá trị phi
vật chất nói lên sự hiện hữu của Thần. Nếu không tin Thần đã « thổi »
tâm tính tốt đẹp vào con người thì sẽ rất khó giải thích vì sao con
người có xu hướng tôn vinh Cái Đẹp, Cái Thiện và Đạo Đức, trong khi mọi
tạo vật khác không có ý thức về những giá trị này (Chú ý rằng xu hướng
tôn vinh Cái Đẹp, Cái Thiện và Đạo Đức hoàn toàn trái ngược với quy luật
“đấu tranh sinh tồn, mạnh được yếu thua” của thuyết tiến hóa Darwin).
Nhưng mặc dù chủ nghĩa duy vật đã có từ
xa xưa, nó chưa bao giờ trồi lên mạnh mẽ như từ giữa thế kỷ 19 để trở
thành một hệ tư tưởng khuynh đảo xã hội từ đó cho tới nay. May mắn thay,
chính khoa học lại cung cấp ngày càng nhiều bằng chứng cho thấy chủ
nghĩa duy vật không phải là một tiến bộ về nhận thức, mà hóa ra mà là
một bước thụt lùi. Đó là lý do để giữa thế kỷ 20, đúng vào lúc chủ nghĩa
duy vật lên đến tột đỉnh và các nhà duy vật đang ngạo nghễ đắc thắng,
nhà toán học trứ danh Kurt Gödel đã hạ bệ nó bằng một tuyên bố chắc
nịch: « Chủ nghĩa duy vật là sai lầm ! ».
Mãi đến cuối thế kỷ 20, khi Định lý Bất
toàn (Theorem of Incompleteness) của Gödel được thừa nhận một cách rộng
rãi thì nhiều người mới bắt đầu giật mình tỉnh ngộ ra để nhìn nhận lại
bản chất của chủ nghĩa duy vật. Tại sao vậy ? Vì định lý Gödel chỉ ra
rằng chủ nghĩa duy vật, bao gồm logic máy móc và tư duy cơ giới thô
thiển, đã tự bịt mắt trước sự thật – thế giới hiện thực rộng hơn thế
giới nhận thức ; thế giới nhận thức rộng hơn tư duy khoa học; tư duy
khoa học rộng hơn tư duy logic máy móc… Nói cách khác, có nhiều chân lý
nằm bên ngoài thế giới nhận thức bằng thực chứng và logic – khoa học duy vật không bao giờ đủ để nhận thức được chân lý đầu tiên, chân lý cuối cùng và chân lý toàn thể.
Muốn nhận thức sâu hơn và rộng hơn về thế giới, bắt buộc con người phải
sử dụng nhiều phương pháp nhận thức khác nhau để tiệm cận tới chân lý.
Những phương pháp nhận thức này tuy khác nhau, nhưng bổ sung cho nhau,
trong đó trực giác đóng vai trò định hướng dẫn đường.
Trực giác là gì nếu không phải ánh sáng của Thần soi rọi vào mỗi con người ?
Albert Einstein là người nhấn mạnh đến
trực giác nhiều nhất. Ông từng nói « Tư duy trực giác là quà tặng thiêng
liêng… » (The intuitive mind is the sacred gift…). Quà tặng thiêng
liêng đó là của ai, nếu không phải của Thần ? Không thừa nhận sự thật
này thì làm thế nào để giải thích sự hiện hữu của trực giác ? Computer
vượt xa chúng ta về tốc độ và sức khỏe tính toán nhưng chỉ là một gã ngu
đần khi đứng trước một vấn đề đòi hỏi trực giác. Chủ nghĩa duy vật
không dám phủ nhận trực giác, nhưng nó lúng túng không biết làm thế nào
để giải thích trực giác, vì thế nó nói bừa rằng đó là bản năng tự nhiên
và nhờ “tiến hóa” mà có. Khái niệm “tiến hóa” là một khái niệm mơ hồ,
bởi thực tế không bao giờ có một cơ chế tiến hóa nào có thể kiểm chứng
được một cách cụ thể, rõ ràng.
Thực tế, trực giác là một trong những bí
ẩn lớn nhất của tự nhiên – khả năng nắm bắt được bản chất sự vật một
cách trực tiếp ngay tức khắc không thông qua lý luận. Trực giác có nhiều
tầng khác nhau. Ở tầng thấp, một học trò có trực giác tốt sẽ định hướng
lời giải của một bài toán hình học nhanh hơn những học trò có trực giác
kém. Ở tầng cao, trực giác giúp Isaac Newton cảm thấy có lực hấp dẫn
giữa các vật chất có khối lượng, Albert Einstein “nhìn thấy” quy luật
tương đối chi phối tự nhiên, Louis Pasteur “cảm thấy” tính bất đối xứng
của sự sống,… Ở tầng cao hơn nữa, nó giúp con người “nhìn thấy” những
thế giới không nhìn thấy – thế giới siêu tự nhiên, phi vật lý, nơi
phương pháp thực chứng và logic của khoa học hoàn toàn bất lực. Vì thế
những thầy giáo giỏi không phải là những người truyền đạt giỏi, mà là
những người giỏi đánh thức người học, giúp người học tỉnh thức để vận
dụng trực giác sẵn có trong tâm mà thấu cảm chân lý, thay vì lý luận
chứng minh. Đức Phật và Đức Chúa Jesus là những nhà truyền giảng và đánh
thức vĩ đại. Câu nói bất hủ của Chúa Jesus, rằng “Phúc cho ai không
thấy mà tin” là một lời đánh thức tất cả những ai muốn tìm chân lý,
nhưng rất tiếc là có nhiều người không hiểu, thờ ơ với lời đánh thức đó.
Nhưng những người như Kurt Gödel thì không như vậy. Lời nói quả quyết
của ông, Chủ nghĩa duy vật là sai lầm, chứng tỏ ông là một người tỉnh
thức hơn ai hết – ông phủ nhận chủ nghĩa duy vật và vô thần quyết liệt
tới chừng nào.
Thực tế cho thấy ngày càng có nhiều
người hiểu Gödel hơn, và do đó ngày càng có nhiều người từ bỏ chủ nghĩa
duy vật hơn. Tiến sĩ John Spencer, với tư cách một nhà triết học về vật
lý lượng tử, đã ủng hộ Gödel bằng lập luận logic một cách mạnh mẽ đến
nỗi phải trích dẫn Plato để phê phán chủ nghĩa duy vật như một thứ triết
học tầm thường và ngoan cố. Lập luận của Spencer vừa mang tính khoa học
vừa mang tính triết học.
Logic bác bỏ chủ nghĩa duy vật
Trong bài báo nói trên, Spencer lưu ý
độc giả rằng : Kurt Gödel tuy không nổi tiếng như Albert Einstein, nhưng
đừng quên rằng ông là một trong những nhà toán học vĩ đại nhất thế kỷ
20, và là nhà logic vĩ đại nhất kể từ sau Aristotle; bản thân Einstein
trong thời gian làm việc cùng với Gödel tại Viện nghiên cứu cao cấp
Princeton đã từng công khai nói với mọi người rằng ông đến Viện nghiên
cứu chỉ cốt để gặp gỡ trò chuyện với Gödel, rồi cùng đi bộ với Gödel về
nhà; một bạn thân khác của Gödel tại đây là nhà toán học lừng danh John
von Newman, một trong những cha đẻ của computer ngày nay.
Vậy điều gì đã làm cho một nhà khoa học bậc nhất như Gödel chối bỏ chủ nghĩa duy vật?
Spencer nói: “Chủ nghĩa duy vật, một thứ
triết lý dựa trên tiên đề cho rằng chỉ có vật chất mới là cái có thật,
đã trở thành nền tảng cố hữu không thể tranh cãi trong rất nhiều trường
phái khoa học chính thống”.
Cái nền tảng ấy đã trở thành một xiềng
xích trói buộc, một tảng đá đè nặng lên tư duy khoa học, cản trở tư duy
sáng tạo đến nỗi nhà thần kinh học Mario Beauregard đã phải lên tiếng
kêu gọi: “Nay đã đến lúc chúng ta phải tự giải phóng mình ra khỏi những
xiềng xích trói buộc và những tấm vải che mắt của ý thức hệ duy vật cỗ
lỗ sĩ” (It’s now time to free ourselves from the shackles and blinders
of the old materialist ideology).
Thực ra những người tài giỏi thực sự
không cần phải chờ đợi lời kêu gọi đó. Họ đã tự giải phóng mình từ lâu,
đúng như Spencer nhận xét: “Trớ trêu thay, có một sự thật là nhiều nhà
khoa học đi tiên phong trong khoa học hiện đại từ vài thế kỷ trước đây
cho tới những nhà sáng lập cơ học lượng tử như Max Planck và Werner
Heisenberg cũng đều bác bỏ chủ nghĩa duy vật”.
Ủng hộ lời kêu gọi của Mario Beauregard, John Spencer nêu lên một lập luận 9 điểm để bác bỏ chủ nghĩa duy vật:
Các định luật vật lý là nền tảng của tất cả mọi khoa học.
Các định luật vật lý là những quan hệ toán học.
Các quan hệ toán học phụ thuộc vào các con số.
Mọi con số được xây dựng từ 1 và 0 (“2” là 1 + 1, và zero là sự vắng mặt của mọi thứ)
Số 0 bản thân nó là phi vật lý (nó không đại diện cho bất kỳ một vật chất cụ thể nào cả).
Số 1 bản thân nó cũng phi vật lý. Có thể có 1 cái cây, 1 cái ôtô,…
nhưng bản thân số 1 không phải cái cây hoặc cái ôtô (số 1 chỉ là một mã
hoặc một thông tin).
Vì các số là “cái gì đó” phi vật lý, do đó các định luật vật lý thể hiện hoặc phụ thuộc vào cái gì đó phi vật lý.
Vậy buộc phải đi đến kết luận: hoặc a) các định luật vật lý là có
thực nhưng phi vật lý, điều này cho thấy chủ nghĩa duy vật là sai; hoặc
b) các định luật vật lý là phi hiện thực, điều này làm cho nền tảng của
mọi khoa học trở thành phi hiện thực.
Bất chấp thắng lợi phi thường bề ngoài của khoa học, nếu nền tảng
của khoa học là phi hiện thực thì rốt cuộc nó không thể cung cấp bất kỳ
cơ sở nào cho chân lý khách quan trong hiện thực, và do đó không thể nói
rằng chủ nghĩa duy vật phản ánh chân lý khách quan.
Lập
luận trên đã được Spencer phát triển lên một trình độ sâu sắc hơn rất
nhiều trong cuốn “The Eternal Law” (Định luật Vĩnh cửu), một cuốn sách
tích hợp các tri thức triết học, khoa học và thậm chí cả tâm linh, rất
đáng đọc, đã được nhà toán học và vật lý lỗi lạc Roger Penrose đánh giá
là một cuốn sách làm cho người đọc cảm thấy “vô cùng khoan khoái”
(enormously refreshing). Nhưng bất chấp ý kiến của những người như
Penrose, các nhà duy vật vẫn ngoan cố cho rằng ngoài vật chất chẳng có
bất cứ thứ gì khác. Spencer than phiền: “Trong mọi trường hợp, dù bạn
đưa ra bao nhiêu lập luận logic chống lại chủ nghĩa duy vật hoặc dẫn ra
bao nhiêu ý kiến của các nhà khoa học hàng đầu bác bỏ chủ nghĩa duy vật,
cuối cùng nhà duy vật cứng đầu vẫn bỏ ngoài tai. Vì thế người ta phải
băn khoăn tự hỏi: Phải chăng Plato đúng khi quy kết các nhà duy vật là
‘những kẻ tệ hại’ hoặc ‘những gã bướng bỉnh ngoan cố’?” [0].
Tuy nhiên, sự thật vẫn là sự thật. Sự
thật dễ thấy nhất là hầu hết những nhà khoa học giỏi nhất, thâm thúy
nhất đều từ chối chủ nghĩa duy vật. Để lập một danh sách những nhà khoa
học như thế, xin lấy một nhận định của Louis Pasteur làm tiêu chuẩn: “Một ít khoa học làm ta xa rời Chúa [2]; nhiều khoa học làm ta quay về với Chúa” (Un peu de science nous éloigne de Dieu, beaucoup nous y ramène).
Đó là một nhận định chính xác. Quan sát
thực tế, tôi thấy đa số những người có đầu óc khoa học nửa vời, thậm chí
tầm thường, thường trở thành những kẻ tự phụ, tưởng mình có thể “thế
thiên hành đạo”, bịa ra những lý thuyết giải thích thế giới mà không cần
đến Thần; ngược lại những người tài giỏi thực sự lại có thái độ khiêm
tốn, biết kinh ngạc thán phục trước những kỳ quan của Tạo Hóa, và do đó
tin vào sự hiện hữu của những lực lượng siêu nhiên.
Einstein có lẽ là một nhân vật tiêu biểu
nhất cho loại người biết kinh ngạc trước những phép mầu của Tự nhiên,
vì thế ông cũng là người nêu lên một công thức chính xác để đo lường tri
thức của con người: Ego = 1/Knowledge (Cái tôi = 1/Tri thức) – cái tôi tỷ lệ nghịch với tri thức, tri thức càng ít thì cái tôi càng lớn, tri thức càng nhiều thì cái tôi càng nhỏ.
Người có cái tôi lớn thường không thừa
nhận Thần, người có cái tôi nhỏ thường thừa nhận Thần, thán phục Thần.
Một người có khiêm tốn hay không, hãy xem anh ta đối xử với Thần như thế
nào. Cách đo lường đó hoàn toàn phù hợp với “tiêu chuẩn” của Pasteur
nói trên. Vậy dựa trên “tiêu chuẩn” này, xin nêu một danh sách những nhà
khoa học vĩ đại nhất mọi thời đại từ chối chủ nghĩa duy vật như sau
đây.
NHỮNG NHÀ KHOA HỌC VĨ ĐẠI NHẤT MỌI THỜI ĐẠI CÓ ĐỨC TIN VÀO THẦN
1.Galileo Galilei (1564-1642) :
Việc
Tòa án Giáo hội Công giáo La mã năm 1633 kết tội Galileo vì ông ủng hộ
thuyết Nhật tâm đã trở thành một vết đen trong lịch sử Công giáo, đánh
dấu một cuộc đối đầu không đáng có giữa khoa học và tôn giáo, để lại một
hệ lụy vô cùng đáng tiếc cho tới tận hôm nay. Hệ lụy lớn là gây ra một
sự hiểu lầm vô cùng tai hại rằng khoa học và tôn giáo là hai hệ thống
nhận thức đối đầu nhau và loại trừ lẫn nhau từ trong bản chất. Hệ lụy
nhỏ là gây ra sự hiểu lầm lớn rằng Galileo là người vô thần, chống đối
tôn giáo. Cả hai hệ lụy đó đều bắt nguồn từ sai lầm của Tòa án Giáo hội
năm 1633. Năm 1992, sau 13 năm nghiên cứu lại vụ án Galileo, Giáo hội
Công giáo La mã dưới triều đại của Đức Giáo hoàng Jean Paul II đã chính
thức sửa chữa sai lầm của 359 năm trước: thừa nhận Tòa án Giáo hội sai
và Galileo đúng, khôi phục lại mọi danh dự cho nhà khoa học chính trực
Galileo Galilei. Đây là một quyết định dũng cảm, nhân bản, đề cao công
lý, thể hiện rõ ý Chúa. Nhân dịp này báo chí thế giới cũng nói nhiều đến
Galileo, qua đó cho thấy ông là người có Đức tin vững chắc. Thật vậy,
ông tuyên bố: “Chúa được biết đến nhờ những công trình Ngài kiến tạo
trong tự nhiên, và nhờ những lời dạy Ngài vén mở trong các kinh sách”
(God is known by nature in His works, and by doctrine in His revealed
word). Đối với Galileo, khoa học càng làm ông tin chắc vào vai trò sáng
tạo của Chúa. Đây, hãy nghe ông nói: “Toán học là bảng chữ cái trong đó
Chúa viết về vũ trụ” (Mathematics is the alphabet in which God has
written the universe).
2.Isaac Newton (1643-1727) :
Newton
nổi tiếng là một người Thiên Chúa giáo ngoan đạo, vì thế ông cũng là
người rất khiêm tốn, biết mình bé nhỏ và tầm thường trước Đấng Sáng tạo
vĩ đại. Khi được hỏi làm thế nào để ông có thể khám phá được nhiều điều
kỳ lạ đến thế, ông nói ông chỉ giống như một đứa trẻ dạo chơi ngoài bãi
biển, say mê nhặt những vỏ sò đẹp, và mỗi khám phá của ông giống như một
vỏ sò đẹp mà thôi. Khi ông khám phá ra Định luật Vạn vật Hấp dẫn rồi
dùng nó để giải thích chuyển động của các hành tinh quanh Mặt Trời, có
người chất vấn ông: “Nếu không có chuyển động quán tính của hành tinh
theo phương tiếp tuyến với quỹ đạo thì hành tinh sẽ bị hút vào Mặt Trời,
vậy chuyển động quán tính ấy từ đâu mà ra?”. Newton đáp ngay: “Đó là cú
hích ban đầu của Chúa!”. Ngày xưa thầy dạy vật lý của tôi kể lại chuyện
này cho học trò nghe rồi kết luận: “Newton rốt cuộc vẫn là người duy
tâm”. Ý thầy chê duy tâm là kém. Lũ trẻ nhỏ chúng tôi đứa nào chẳng tin
thầy? Sau này lớn lên tôi mới vỡ nhẽ ra rằng một nhận định sai của giáo
dục một khi đã được nhồi nhét vào đầu trẻ em sẽ để lại một hậu quả vô
cùng tai hại đối với con người, và điều đó rất khó sửa chữa. Đó chính là
tình trạng của thuyết tiến hóa hiện nay. Sau này tự đọc sách, tự suy
ngẫm, tôi hiểu ra rằng chỗ thầy tôi chê Newton chính là chỗ để lộ thiên
tài của Newton. Thiên tài hơn người tầm thường ở chỗ cảm nhận
được cái gì là có thể, cái gì là không thể. Giải thích nguyên nhân đầu
tiên là không thể!Nguyên nhân đầu tiên luôn luôn thuộc về Chúa.
Tôi dám phát biểu điều đó như một định lý. Sự sống đầu tiên cũng vậy.
Thuyết tiến hóa SAI vì nó bịa ra sự sống đầu tiên nẩy sinh từ “nồi soup
nguyên thủy”. Hơn 150 năm sau vẫn không làm thế nào mà chứng minh được
chuyện bịa này là sự thật. Thay vì thừa nhận chuyện bịa đó đã thất bại,
các nhà tiến hóa lại bịa ra những giả thuyết mới, chẳng hạn giả thuyết
về “thế giới RNA”, và cứ thế kéo một đám đông khờ dại cả tin đi theo họ.
Đám đông này bị cuốn theo đống chữ nghĩa phức tạp hàn lâm mà cứ ngỡ đó
là khoa học. Trong khi đó Newton rất tỉnh táo, ông không để cho ai có
thể lung lạc được ông. Ông trả lời người chất vấn ông ngay tức khắc bằng
một câu trả lời cần thiết nhất, dứt khoát nhất, như một bài học dạy cho
người hỏi. Newton biết rõ ai tin Chúa, ai không tin. Hãy nghe ông nói:
“Người suy nghĩ nửa vời sẽ không tin Chúa; nhưng người suy nghĩ thấu đáo
sẽ phải tin Chúa” (He who thinks half-heartedly will not believe in God
; but he who thinks really has to believe in God).
3.Blaise Pascal (1623-1662) :
Tôi
đã thảo luận khá nhiều về Pascal trên tất cả những diễn đàn mà tôi từng
tham gia, nhưng chưa bao giờ cảm thấy là đủ, vì nhiều lý do. Một, ông
quá vĩ đại để có quá nhiều điều cho hậu thế học hỏi, bàn luận; Hai, ông
là người Thiên Chúa giáo có Đức tin mãnh liệt, một nhà khoa học có uy
tín lớn bênh vực Thiên Chúa giáo, vì thế ông bị giới vô thần ngấm ngầm
chống đối bằng cách che đậy, tảng lờ các công trình của ông về triết học
và thần học, sao cho càng ít người biết tư tưởng của ông càng tốt.
Chính Pascal cũng biết điều đó. Ông nói: “Người ta khinh thường tôn giáo. Họ thù ghét nó nhưng sợ nó đúng”
(Les hommes ont mépris pour la réligion. Ils en ont haine et peur
qu’elle soit vraie). Vì thế tôi muốn giới thiệu với mọi người càng nhiều
về Pascal càng tốt, nhất là về những gì bấy lâu nay ít người biết. Càng
đọc Pascal, tôi càng ngạc nhiên và choáng ngợp vì tầm vóc và chiều sâu
tư tưởng của ông. Ông chính là người đầu tiên chứ không phải Kurt Gödel
đã thảo luận rất kỹ về tính hạn chế của toán học nói riêng và nhận thức
lý lẽ nói chung. Đó là những công trình ông viết về cơ sở của Hình học,
trong đó ông chỉ ra rằng không có cách nào để kiểm tra một hệ tiên đề là
đầy đủ và tuyệt đối chắc chắn. Từ đó suy ra rằng toán học nói riêng và
khoa học nói chung là không đầy đủ và không tuyệt đối chắc chắn. Nhận
thức muốn vươn lên cao hơn, phải vận dụng “lý lẽ của trái tim” (la
raison du Coeur), Pascal nói, “chính trái tim giúp ta nhận biết Chúa chứ
không phải lý lẽ” (C’est le Coeur qui sent Dieu et non la raison). Nếu
Gödel có gì khác Pascal, thì đơn giản là ông sinh sau đẻ muộn hơn Pascal
gần 3 thế kỷ, và biến những luận điểm triết học khoa học của Pascal
thành một định lý toán học không thể tranh cãi: Định lý Bất toàn
(Theorem of Incompleteness). Vấn đề này đã được thảo luận kỹ trong nhiều
bài viết trên PVHg’s Home: “Lý lẽ của Trái tim” (La Raison du Cœur)
ngày 05/12/2013, “LỬA của PASCAL” (PASCAL’s FIRE) ngày 16/12/2013; “VỀ
TÍNH BẤT TOÀN: TỪ PASCAL ĐẾN GODEL (On the Incompleteness: From Pascal
to Godel)” ngày 28/05/2015. Trong những bài đó, tôi đã trích dẫn một ý
kiến của Pascal mà qua đó có thể thấy Pascal đánh giá thấp tư tưởng duy
vật như thế nào: “Chủ nghĩa vô thần thể hiện sức mạnh của tinh thần,
nhưng chỉ ở một mức độ nhất định mà thôi” (Athéisme marque de force
d’esprit, mais jusqu’à un certain degré seulement).
4.Gregor Mendel (1822-1884) :
Mendel
là một tu sĩ Công giáo toàn tâm toàn ý, vì thế không có gì phải nghi
ngờ Đức tin của ông đối với Thần. Trong cuốn “Các nhà khoa học có Đức
tin” (Scientists of Faith), Dan Graves nhận xét về Mendel như sau: “Mặc
dù ông đọc Darwin, nhưng ông không chấp nhận nhiều lý thuyết của Darwin,
vì ông tin rằng Thần sáng tạo ra thế giới và sự ngẫu nhiên mù quáng
không thể là lý do tạo ra thế giới…” (Although he read Darwin, he
[Mendel] did not accept many of his [Darwin’s] theories, believing that
God had created the world and blind chance could not be responsible for
the outcome…) [1]. Chú ý rằng thuyết tiến hóa của Darwin nói rằng sự
sống đầu tiên hình thành một cách ngẫu nhiên, mù quáng, vô mục đích từ
vật chất không sống. Và đó là điều Mendel không thể nào chấp nhận được!
Năm 1966, trong một hội nghị lớn tại Mỹ, các nhà toán học cũng thảo luận
về xác suất để sự sống hình thành ngẫu nhiên từ các phân tử không sống.
Hội nghị đã đi đến kết luận rằng xác suất này vô cùng nhỏ, nhỏ gần như
bằng 0, và do đó sự sống không thể xẩy ra ngẫu nhiên. Nhà toán học Anh
Fred Hoyle đặc biệt quan tâm tới thuyết tiến hóa, cũng đi đến kết luận
rằng sự sống không thể hình thành từ “nồi soup nguyên thủy”. Mendel rất
giỏi toán, không biết ông có nghĩ tới việc tính xác suất để phủ nhận
Darwin hay không, nhưng trực giác thiên tài của ông đã đủ để ông bác bỏ
Darwin. Xin lưu ý độc giả rằng thông tin Mendel bác bỏ Darwin bị giới
tiến hóa che đậy trong hơn 150 năm qua. Hiện nay dưới ánh sáng internet,
sự thật ngày càng được sáng tỏ. Từ đó tôi dám nói rằng ai đã thực sự
ngưỡng mộ Mendel thì ắt phải bác bỏ Darwin. Trường phái “Darwin mới”
(Neo-Darwinism) đã phải vội vàng kết hợp học thuyết di truyền của Mendel
vào thuyết tiến hóa, nhưng thực chất đã phản lại chính Darwin, vì quan
điểm về di truyền của Darwin hoàn toàn khác với các định luật di truyền
của Mendel. Quan niệm di truyền của Darwin tiếp thu từ Lamark là một
quan niệm hoàn toàn sai lầm, nhưng giới tiến hóa che đậy sự thật này,
giấu nhẹm sai lầm của Darwin. Nhưng không che giấu được những người ham
hiểu biết. Chỉ cần vào Google, gõ “what did Darwin learn from Lamark?”,
sự thật sẽ lộ ra ngay.
5.Louis Pasteur (1822-1895):
Nếu
phải mô tả Pasteur bằng một câu ngắn nhất thì đó là : « Pasteur : Người
con ưu tú của Chúa và ân nhân của nhân loại ». Giới vô thần không yêu
mến Pasteur, vì ông có Đức tin Thiên Chúa giáo sâu sắc, và vì ông chống
thuyết tiến hóa một cách rõ rệt. Tương tự như cách họ đối xử với Pascal,
giới vô thần cố làm cho mọi người nhắc đến Pasteur càng ít càng tốt,
đơn giản vì càng nhắc đến ông càng làm cho thuyết tiến hóa lộ diện là
một lý thuyết ngụy khoa học. Đó là lý do vì sao người ta không tiếc lời
ca ngợi Pasteur như cha đẻ của khoa học vi sinh (microbiology) và miễn
dịch học (immunology), nhưng người ra rất ít nói đến Pasteur như
một nhà khoa học lớn khám phá ra những nguyên lý cơ bản của sự sống. Cụ
thể người ta rất sợ nhắc đến hai định luật cơ bản của sự sống do
Pasteur khám phá: Định luật sự sống bất đối xứng (thuận tay trái) và
Định luật sự sống chỉ ra đời từ sự sống (biogenesis). Lẽ ra
những định luật mang tính cơ bản này phải được dạy trong chương trình
Sinh học ở trường phổ thông. Nhưng chỉ có những sinh viên đại học chuyên
ngành mới được học. Tại sao họ sợ hai định luật đó? Vì cả hai đều phủ
nhận thuyết tiến hóa khi thuyết này nói rằng sự sống hình thành một cách
tự phát và ngẫu nhiên từ vật chất không sống. Chương trình Sinh học ở
trường phổ thông phớt lờ hai định luật cơ bản này và tiếp tục nhồi nhét
vào đầu học trò kiến thức sai lầm rằng sự sống hình thành một cách ngẫu
nhiên từ vật chất không sống, mặc dù không làm thế nào mà chứng minh
được nhận định đó. Khi học trò trở thành người lớn, rất khó để sửa chữa
nhận thức sai lầm này, ngay cả khi được trông thấy những bằng chứng rành
rành tố cáo sự gian lận của thuyết tiến hóa. Đó là một thảm họa. Tôi
tin rằng đến một ngày nào đó, khi thuyết tiến hóa hoàn toàn bị xóa bỏ,
công lao của Pasteur sẽ còn được đánh giá cao hơn nữa. Nhưng bản thân
ông, ông biết rõ rằng thành công của ông là nhờ có may mắn – ông “có Chúa ở bên trong”.
Thật vậy, ông nói: “Người Hy-lạp hiểu được sức mạnh bí ẩn nằm bên dưới
sự vật. Chính họ đã cho chúng ta một trong những từ ngữ đẹp nhất trong
ngôn ngữ của chúng ta, đó là chữ “enthousiasme” (cảm hứng), chữ Hy-lạp
là Εν Θεος , có nghĩa là ‘có Chúa ở bên trong’. Tầm vóc hành vi của con
người được đo bởi niềm cảm hứng mà từ đó những hành vi ấy hiện ra. Hạnh
phúc thay cho ai có Chúa ở bên trong”.
6.Henri Poincaré (1854-1912) :
Khi
còn là học sinh, Poincaré đã được mệnh danh là “con quỷ toán học”
(monstre de mathématiques). Ở tuổi trưởng thành, giới toán học gọi ông
là « Mozart của toán học ». Tổng kết cả cuộc đời, giới bác học mô tả ông
như “the last Universalist” (nhà đại quảng bác cuối cùng), bởi khó có
thể tưởng tượng được bề rộng của những mảnh đất toán học và vật lý mà
ông đã khám phá ra hoặc đặt chân tới, rồi để lại ở đó những dấu ấn sâu
sắc, những di huấn, những tư tưởng, những bài toán khổng lồ cho hậu thế
tiếp tục khai phá. Nhà toán học đàn em nhưng cùng thời với ông, Bertrand
Russell, người nổi tiếng với Nghịch lý Russell, không tiếc lời ngợi ca
Poincaré là “nhà toán học vĩ đại nhất đang còn sống”, bất chấp sự hiện
diện của những nhà toán học lớn đương thời khác như David Hilbert,… Có
thể quên công trình nào đó của Poincaré, nhưng không được phép quên ông
là cha đẻ của Topo Đại số, cha đẻ của Giả thuyết Poincaré, người đầu
tiên định hướng cho lời giải tổng quát của Bài toán Ba Vật thể (Problème
à Trois Corps), người đặt nền móng cho Lý thuyết Hỗn độn (Theory of
Chaos), đồng tác giả của Thuyết Tương đối hẹp, và đặc biệt, một nhà
triết học khoa học nhìn xa trông rộng, kẻ thù số 1 của chủ nghĩa toán
học hình thức do Hilbert cầm đầu… Chỉ cần ghé qua tiểu sử khoa học của
ông, một người trung thực không thể không có cảm giác khiếp sợ trước
những công trình sáng tạo vĩ đại của ông, cả về số lượng lẫn tầm vóc
khổng lồ về tư tưởng. Một người vĩ đại như thế mà vẫn biết rằng có Thần,
và Thần chính là tác giả của những quy luật vũ trụ được diễn đạt bằng
ngôn ngữ toán học: “Nếu Thần nói với con người, không nghi ngờ gì nữa rằng Ngài sử dụng ngôn ngữ toán học” (If God speaks to man, He undoubtedly uses the language of mathematics), Poincaré nói [2].
7.Max Planck (1858-1947):
Là
cha đẻ của Thuyết Lượng tử, Planck ắt hẳn phải là một nhà tư tưởng. Đối
với ông, Thần là nhu cầu tất yếu của cả tôn giáo lẫn khoa học. Ông nói:
“Cả tôn giáo lẫn khoa học đều cần đến Đức tin vào Thần để phụng sự cho
hoạt động của mình, hơn nữa, tôn giáo cần có Thần ngay từ lúc khởi đầu,
khoa học cần đến Thần vào lúc kết thúc toàn bộ tư duy. Đối với tôn giáo,
Thần là nền tảng, đối với khoa học, Thần là đỉnh cao nhất của bất kỳ lý
lẽ nào liên quan đến vũ trụ quan” (Both religion and science need for
their activities the belief in God, and moreover God stands for the
former in the beginning, and for the latter at the end of the whole
thinking. For the former, God represents the basis, for the latter – the
crown of any reasoning concerning the world-view).
8.Albert Einstein (1879-1955):
Einstein
nổi tiếng là người hay nhắc đến Thần như Đấng Sáng tạo vũ trụ và tác
giả của các định luật vũ trụ. Ông yêu Cái Đẹp và Cái Trật tự say đắm đến
nỗi tin chắc rằng Thần bao giờ cũng ngay ngắn rõ ràng mạch lạc đẹp đẽ,
Thần không thể chơi trò may rủi ú tim nước đôi lập lờ. Vì thế ông chống
đối Nguyên lý Bất định đến cùng, và điều đó làm rạn nứt tình bạn vốn có
giữa ông với Niels Bohr. Mặc dù Thần của Einstein không phải là Chúa của
Thiên Chúa giáo, nhưng ông cho rằng niềm tin vào Thần của ông, Đấng
Sáng tạo, là điều ắt phải có đối với một nhà khoa học. Thậm chí ông coi
đó là một tôn giáo đích thực. “Khoa học không có tôn giáo là khoa học
khập khiễng; tôn giáo không có khoa học là tôn giáo mù quáng” (Science
without religion is lame; Religion without science is blind). Hóa ra
Einstein đã phát biểu một chân lý rõ ràng rằng khoa học và tôn giáo rất
cần thiết có nhau, bổ sung cho nhau, thay vì loại trừ nhau như chủ nghĩa
duy vật tuyên bố. Nói cách khác, Einstein đã mặc nhiên bác bỏ chủ nghĩa
duy vật. Ông tuyên bố: “Càng nghiên cứu khoa học tôi càng tin vào Thần”
(The more I study science, the more I believe in God).
9.Werner Heisenberg (1901-1976):
Sau
khi Einstein và Bohr mất, Heisenberg được tôn vinh như nhà vật lý số 1
của thế giới. Ông đã phạm sai lầm lớn về chính trị khi làm giám đốc
chương trình nghiên cứu chế tạo bom nguyên tử của Hitler. Có lẽ việc này
để lại trong lòng ông một nỗi hối hận suốt đời. Theo những gì tôi biết,
ông là người ngây thơ về chính trị, nhưng ông không phải kẻ ác. Đây là
vấn đề thuộc về lịch sử, đáng để cho những ai yêu lịch sử tìm hiểu kỹ.
Nhưng về triết học và vũ trụ quan, ông là người vô cùng sâu sắc. Ông
nhắn nhủ các nhà khoa học rằng: “Ngụm nước đầu tiên từ cốc nước khoa học
tự nhiên sẽ biến bạn thành một người vô thần, nhưng ở đáy cốc Thần đang
đợi bạn” (Der erste Trunk aus dem Becher der Naturwissenschaft macht
atheistisch, aber auf dem Grund des Bechers wartet Gott). Đối chiếu câu
nói này của Heisenberg với câu nói của Pasteur ở trên (mà tôi lấy làm
tiêu chuẩn đo lường tri thức của các nhà khoa học), ta thấy hai câu nói
giống nhau đến mức có thể nghĩ rằng “Heisenberg nhắc lại lời Pasteur
chăng?”. Không! Đó là “tư tưởng lớn gặp nhau!” (Les grands esprits se
rencontrent!)
10. Kurt Gödel (1906-1978):
Toàn
bộ bài viết mà độc giả đang đọc có thể xem như một bình luận về tư
tưởng của Gödel. Có lẽ Gödel là nhà khoa học bác bỏ chủ nghĩa duy vật
thẳng thắn nhất, rõ ràng nhất, mạnh mẽ nhất. Chúng ta đã thấy nhiều bậc
tiền bối của Gödel có những suy nghĩ rất giống ông, điển hình là Blaise
Pascal, hay sau này là Max Planck. Nhưng công lao và thiên tài của Gödel
là ở chỗ ông đã biến tất cả những nhận định mang tính triết học bác bỏ
chủ nghĩa duy vật thành những định lý toán học không thể tranh cãi được.
Thiết tưởng nếu không có Định lý Bất toàn của ông thì không biết những
trường phái duy vật và vô thần như Hilbert sẽ còn làm mưa làm gió đến
bao giờ. Bài báo “Gödel chứng minh Thần hiện hữu (Gödel proved that God
Exists)” trên PVHg’s Home ngày 17/09/2014 đã cung cấp cho độc giả một
cái nhìn tương đối đầy đủ về vũ trụ quan và tư tưởng triết học và thần
học của Gödel. Nhưng sau khi trình bầy 14 quan điểm triết học của Gödel
(nội dung bác bỏ chủ nghĩa duy vật và khẳng định sự cần thiết của Đức
tin) bài báo đã kết luận bằng lời của Thánh Thomas Aquinas
rằng “Đối với người có đức tin, không cần có sự giải thích nào cả. Đối
với người không có đức tin, chẳng có lời giải thích nào là đủ” (To one
who has faith, no explanation is necessary. To one without faith, no
explanation is possible). Nhận định đó thật chí lý.
Kết
Cuối thế kỷ 19, Friedrich Nietzsche
tuyên bố: “Chúa đã chết!”. Tuyên bố này nổi tiếng đến nỗi được coi là
cột mốc đánh dấu sự chuyển tiếp của nền văn minh nhân loại từ văn minh
hữu thần sang văn minh vô thần, kéo dài hơn một thế kỷ rưỡi nay.
Gần đây Richard Dawkins, một môn đệ
trung thành nhất và mạnh miệng nhất của chủ nghĩa Darwin, nhắc lại tuyên
bố của Nietzsche dưới một dạng thức nhấn mạnh hơn: “Chúa không chết.
Chúa ngay từ đầu đã không bao giờ sống!” (God is not dead. He was never
alive in the first place).
Stephen Hawking cũng mạnh miệng không
kém. Ông tuyên bố nhân dịp ra mắt cuốn “Grand Design” (Thiết kế Lớn) năm
2013: “Big Bang không cần Chúa” (Big Bang didn’t need God), và “Vì có
một định luật như định luật hấp dẫn, vũ trụ có thể và sẽ tự tạo ra nó từ
hư không…” (Because there is a law such as gravity, the universe can
and will create itself from nothing…).
Rất may, uy tín khoa học của những người
như Nietzsche, Dawkins hoặc Hawking không thể so sánh với 10 nhân vật
vĩ đại trong bảng danh sách nói trên. Vì thế sức thuyết phục kém. Tuy
nhiên những ý kiến này giúp chúng ta chiêm nghiệm câu nói của Thánh
Thomas Aquinas. Vậy toàn bộ câu chuyện của chúng ta hôm nay có ý nghĩa
gì?
Câu trả lời nằm trong ý kiến sau đây của Nicolas Tesla, một thiên tài kỹ thuật trong thế kỷ 20:
“Quà tặng về sức mạnh tinh thần đến từ
Chúa, Đấng Thiêng liêng, và nếu chúng ta tập trung suy nghĩ của chúng ta
vào chân lý đó, chúng ta sẽ trở nên hòa hợp với sức mạnh vĩ đại đó. Mẹ
tôi dạy tôi tìm mọi chân lý trong Kinh Thánh” (The gift of mental power
comes from God, Divine Being, and if we concentrate our minds on that
truth, we become in tune with this great power. My mother had taught me
to seek all truth in the Bible).
Và Kinh Thánh nói: “Phúc cho ai không thấy mà tin”.
Chú thích:
[1] Thần: Một lực lượng siêu tự nhiên mà nhân loại từng sử dụng nhiều từ
ngữ khác nhau để gọi tên, như Phật, Đại Giác Giả, Thượng đế, Đấng Tối
cao, Chúa, Đấng Sáng tạo, Jehovah, Allah,, , Bà Mẹ Tự nhiên, Nhà thiết
kế vĩ đại…
[2] God: God là một từ tiếng Anh ám chỉ một vị Thần nói chung theo định
nghĩa ở chú thích [1]. Tuy nhiên, vì Ki-tô giáo là tôn giáo chính yếu ở
Tây Phương, nên khi nhắc đến God, người ta thường mặc định ám chỉ đến
Chúa trong tín ngưỡng Ki-tô Giáo. Tuy nhiên trong phạm vi bài viết này,
trừ trong các trường hợp cụ thể, chúng ta nên hiểu rộng nghĩa của từ God
theo chú thích [1].
Bài viết thể hiện quan điểm của tác giả, không nhất thiết phản ánh quan điểm của Đại Kỷ Nguyên.
Giảng dạy: Từng giảng dạy các môn
Toán Kinh tế; Cơ học Lý thuyết; Sức bền Vật liệu; Toán luyện thi đại
học. Hiện thỉnh giảng Toán cao cấp tại một đại học ở VN.
Theo thuyết tương đối rộng của Albert
Einstein, một vật thể với khối lượng sẽ có khả năng uốn cong không-thời
gian, từ đó thay đổi “sự nhanh chậm” của thời gian.
Câu hỏi: Liệu thời gian có trôi chậm hơn khi bạn tiến gần hơn đến trung tâm Trái Đất?
Trả lời: Thuyết tương đối của Einstein nói rằng bạn càng tiến gần hơn đến trung tâm Trái Đất, thì thời gian sẽ trôi qua càng chậm.
Lấy ví dụ, tại đỉnh núi Everest, một năm sẽ ngắn hơn khoảng 15 microsecond (15 phần triệu giây) so với tại mực nước biển.
Các nhà
khoa học đã thử nghiệm thuyết tương đối của Einstein tại các khoảng cách
nhỏ mà chúng ta đi lên đi xuống hàng ngày. Sử dụng các đồng hồ chính
xác nhất trên thế giới, họ đã xác nhận được rằng các đồng hồ đeo tay của
chúng ta sẽ chạy tại một mức vận tốc hơi chút khác biệt khi chúng ta đi
thang máy, leo cầu thang, hay thậm chí ngồi thẳng trên giường.
Theo
thuyết tương đối rộng của Einstein, các vật thể lớn với trọng lực lớn
như ngôi sao và hành tinh sẽ uốn cong kết cấu của không gian và thời
gian, giống như một quả bóng bowling trên một tấm bạt lò xo.
Theo
thuyết tương đối rộng của Einstein, các vật thể lớn với trọng lực lớn
như ngôi sao và hành tinh sẽ có khả năng uốn cong kết cấu của không –
thời gian. (Ảnh: NASA)
Bạn càng
tiến đến gần những vật thể này, lực kéo của trọng lực sẽ trở nên càng
mạnh và thời gian trôi qua càng chậm. Nếu một phi hành gia quan sát một
cái đồng hồ rơi vào một cái hố đen, anh ta hoặc cô ta sẽ nhìn thấy các
cái kim dần dần chạy chậm lại khi lực kéo của trọng lực gia tăng. Kim
phút sẽ tích một lần mỗi giờ, sau đó một lần mỗi thập kỷ, rồi cuối cùng
ngừng hẳn.
Xem video thí nghiệm thả một cái đồng hồ vào hố đen:
Tác giả: Message to Eagle. Đăng tải với sự cho phép. Đọc bản gốc ở đây. Quý Khải biên dịch
Nghiên cứu: Đường hầm xuyên ‘thời-không’ có thể dẫn đến vũ trụ khác
Theo một giả thuyết mới, tàu vũ
trụ có thể đi xuyên qua “lỗ sâu” (wormhole), lọt ra phía bên kia để đến
một vũ trụ khác mà không xảy ra vấn đề gì.
Lỗ sâu này còn được biết đến với cái tên “đường hầm xuyên qua thời gian – không gian”, gọi tắt là đường hầm xuyên thời-không.
Tuy
nhiên, các nhà khoa học cho rằng các cửa ngõ thời-không này không được
ổn định. Khi một hạt phân tử tiến vào một lỗ sâu, nó sẽ tạo ra các đợt
dao động nguy hiểm khiến cấu trúc của nó tự vỡ vụn rồi thu nhỏ vào bên
trong.
Theo lý
thuyết mới đề xuất từ các nhà vật lý khác cho rằng, con người hay tàu vũ
trụ có thể đi xuyên qua lỗ sâu ở trung tâm các hố đen một cách an toàn,
và có thể giúp các nhà du hành vũ trụ tiếp cận vũ trụ khác ở phía bên
kia.
(Ảnh: Internet)
Cũng
theo các nhà nghiên cứu, lỗ sâu là một đường hầm lý thuyết đóng vai trò
như các đường tắt trong thời-không. Nếu nó thật sự tồn tại, thì đường
tắt vũ trụ này có thể giúp chúng ta đi tới những nơi xa xôi của vũ trụ
trong một khoảng thời gian tương đối ngắn.
Lỗ sâu
này được cho là ở tại trung tâm của một hố đen. Các nhà nghiên cứu từ
Đại học Lisbon ở Bồ Đào Nha đã đề xuất một mô hình miêu tả cách thức các
vật thể như một cái ghế, một người và một con tàu không gian có thể đi
xuyên qua lỗ sâu này… mà vẫn còn nguyên vẹn.
“Chúng
tôi xem xét lại câu hỏi cơ bản về mối liên hệ giữa trọng lực và cấu trúc
cơ bản của không gian – thời gian”, GS Diego Rubiera-Garcia từ Đại học
Lisbon ở Bồ Đào Nha, một thành viên trong nhóm nghiên cứu, nói.
“Trên
thực tế, chúng tôi đã bỏ giả thuyết bao hàm thuyết tương đối rộng này
sang một bên, nhưng trước đó không có một lý do thuyết phục nào để bao
hàm điều này trong lý thuyết mà chúng tôi đặt ra”, GS Rubiera-Garcia nói
thêm.
Nhóm
nghiên cứu đã phân tích riêng từng đối tượng như một vật thể vật lý dịch
chuyển hướng đến một hố đen, thiết lập mô hình một tập hợp điểm liên
kết với nhau bởi lực tương tác vật lý khi chúng dịch chuyển dọc theo một
‘đường trắc địa’.
“Mỗi hạt phần tử của người quan sát sẽ tuân theo một đường trắc địa được xác định bởi trường hấp dẫn”, GS Rubiera-Garcia
nói. “Mỗi đường trắc địa sẽ cảm giác được một lực hấp dẫn với đôi chút
khác biệt, nhưng sự tương tác giữa các thành phần cấu tạo của vật thể
vẫn có thể duy trì vật thể đó”.
Trong
quá khứ nhiều nhà nghiên cứu đã đề xuất rằng mỗi hố đen trong vũ trụ có
thể dẫn sang một vũ trụ khác. Hãy tưởng tượng một mạng lưới hố đen được
sử dụng như các đường hầm để đi đến vô hạn các vũ trụ khác. (Ảnh:
Internet)
Theo
thuyết tương đối rộng được Albert Einstein công bố vào năm 1915, một
“vật thể” tiếp cận một hố đen sẽ bị nghiền nhỏ dọc theo một chiều và
căng duỗi dọc theo chiều còn lại, hay nói cách khác bị cán dẹp ra như
sợi mì spaghetti. Vì bán kính lỗ sâu được cho là có giới hạn, nên các
nhà nghiên cứu đã chứng minh được rằng vật thể này sẽ bị nghiền nhỏ
xuống kích thước của lỗ sâu.
Trong nghiên cứu được công bố trên tạp chí Trọng lực Cổ điển và Lượng tử (Classical and Quantum Gravity),
các nhà khoa học đã chứng minh được lý thuyết của họ bằng cách cho một
tia sáng có thể dịch chuyển qua lại trong một thời gian hữu hạn.
Các nhà
nghiên cứu giải thích rằng các lực hữu hạn, bất kể mạnh đến đâu, đều có
khả năng bù đắp cho tác động của một trường hấp dẫn lên một vật thể vật
lý khi nó di chuyển tới gần và vào bên trong lỗ sâu.
“Do đó,
các bộ phận khác nhau của vật thể sẽ vẫn tạo ra các tương tác vật lý
hoặc hóa học, nên luật nhân quả sẽ vẫn áp dụng xuyên suốt lỗ sâu”, các
nhà khoa học giải thích.
Theo GS Rubiera-Garcia, một vật thể vật lý vẫn có thể đi xuyên qua một lỗ sâu, lọt ra phía bên kia để đến một vũ trụ tiềm năng khác mà vẫn nguyên vẹn. Tuy
nhiên, vật thể này sẽ bị nghiền nhỏ xuống kích thước của lỗ sâu hữu
hạn. Nên ít nhất, nó sẽ có thể đi xuyên qua lỗ sâu đó phải không?
Một vật thể đang tiến vào lỗ đen. (Ảnh: Jurik Peter)
“Đối với
một nhà vật lý lý thuyết, việc các nhà quan sát [mạo hiểm xông vào hố
đen] và chịu đựng các lực tác động là điều chấp nhận được (một người
thậm chí có thể nhìn nhận đây là một phần công việc của nhà thực
nghiệm), nhưng việc bị phá hủy hoàn toàn quả là điều khó tin”, GS Rubiera-Garcia và nhóm nghiên cứu của ông đã viết.
Tuy nhiên, tất cả những điều này vẫn chỉ là một lý thuyết cho tới khi chúng ta có thể thực sự nhìn thấy một hố đen.
Xem video miêu tả cảnh tượng một vật thể rơi vào hố đen:
Tác giả: Ivan Petricevic, Ancient-code. Đăng tải với sự cho phép. Đọc bản gốc ở đây. Quý Khải biên dịch
MIỀN TÂY HOANG DẠI Ước gì một lần về thuở ấy miến Tây Sống lầy lội những tháng ngày hoang dại Súng cặp kè hông, nhong nhong lưng ngựa Phóng khoáng thảo nguyên, đạn nổ ì đùng Ta sẽ về, rủ em gái theo cùng Đem tình yêu vào vòng đấu súng Và ngã xuống trong một lần anh dũng Để mai này định nghĩa lại...thằng khùng! Đã khùng rồi thì xá chi anh hùng Của một thời tìm vàng sôi động Người người xô bồ tìm giàu sang cuộc sống Để lại điêu tàn, bắn giết mênh mông! Ta ước thế nghe có rùng rợn không? Trần Hạnh Thu NHẠC HUYỀN THOẠI CAO BỒI VIỄN TÂY
(ĐC sưu tầm trên NET) Bản tin 113 online cập nhật ngày 2/5: Truy tố 254 bị can bị trong đại án sai phạm lĩnh vực đăng kiểm 🔴 TRỰC TIẾP: Thời sự quốc tế 3/5 | Nga tuyên bố khai hỏa Iskander, hủy diệt hai pháo HIMARS Ukraine Tin tức thời sự mới nhất hôm nay | Bản tin sáng ngày 5-3-2024 MỘT CÕI ĐI VỀ (Sáng Tác: Trịnh Công Sơn) - KHÁNH LY OFFICIAL Miễn nhiệm chức vụ Chủ tịch Quốc hội đối với ông Vương Đình Huệ 9 giờ trước Khoảnh khắc tên lửa Nga công kích pháo HIMARS Ukraine 12 giờ trước Mong muốn Campuchia chia sẻ thông tin về Dự án kênh đào Funan Techo 10 giờ trước Gần 50 người chết trong vụ sập đường cao tốc ở Trung Quốc 10 giờ trước Lý do xuất khẩu của Trung Quốc sang Nga bất ngờ sụt giảm 8 giờ trước Ukraine nói Nga sản xuất tên lửa Zircon 'nhanh bất thường' 6 giờ trước Hàng chục nghìn người Gruzia tiến hành biểu tình lớn nhất từ trước tới nay 16 giờ trước Video 'rừng người' xem phương tiện chiến đấu bị Nga tịch thu ở chiến trường Ukraine 16 giờ trước U23 In...
I Only Want to Be with You - Dusty Springfield (Cover by Emily Linge) VẪN THẾ MÀ! Anh vẫn thế, trước sau vẫn thế mà Nhìn anh này, đừng nhìn phía trời xa Vẫn ngày ngày ra ngóng chờ trước của Đợi Nàng Thơ về tác hợp thi ca Tâm hồn anh có cửa đâu mà khóa Mà phải cùng em mở cánh cửa tâm hồn Anh tìm mãi nào thấy đâu ô cửa Toang hoác tứ bề, thông thống càn khôn* Còn trái tim anh vẫn êm đềm, yên ả Vẫn yêu quê hương, tổ quốc, con người Miền nhiệt đới khi thấy tim băng giá Chắc chắn là anh đã ngoẻo tự lâu rồi! Trần Hạnh Thu CT: * Trời đất
Nhận xét
Đăng nhận xét