Thứ Tư, 27 tháng 7, 2016

KÝ ỨC CHÓI LỌI 17

(ĐC sưu tầm trên NET)
 


CHIẾN DỊCH QUẢNG NAM ĐÀ NẴNG
(Tiến công, từ ngày 24 tháng 1 đến ngày 30 tháng 3 năm 1949)


Năm 1948 và đầu 1949, cảng lớn Đà Nẵng trở thành đầu cầu tiếp nhận người, phương tiện chiến tranh phục vụ cho kế hoạch bình định Đông Dương của thực dân Pháp. Do đó, quốc lộ 1 trở thành tuyến giao thông chiến lược cực kỳ quan trọng đối với quân Pháp, trong đó đoạn đường chạy từ Đà Nẵng ra Huế qua đèo Hải Vân vừa độc đạo, vừa rất hiểm trở đã trở thành “yết hầu” vô cùng hiểm yếu đối với địa bàn chiến lược bắc Trung Bộ, Bình - Trị - Thiên và kể cả với nam Khu 4.

Trước tình hình trên, đầu năm 1949, Bộ chỉ huy Liên khu 5 chủ trương mở chiến dịch “Quảng Nam - Đà Nẵng” nhằm mục đích: đánh giao thông, làm tê liệt đoạn đường Đà Nẵng - Hải Vân - Huế. Tiêu diệt sinh lực địch, phát triển chiến tranh du kích, làm suy yếu khối ngụy quân, ngụy quyền; đồng thời thông qua chiến đấu nâng cao trình độ tác chiến cho bộ đội và dân quân du kích, xây dựng lực lượng vũ trang của quân khu.

Phương châm tác chiến là: Kết hợp các hình thức chiến thuật, trong đó chủ yếu là đánh phục kích, đi đôi với phá đường, làm tê liệt giao thông của địch. Tập kích, bao vây quấy rối các đồn bốt, vừa uy hiếp vừa tiêu hao, tiêu diệt và triệt tiếp tế của địch. Đẩy mạnh công tác binh vận địch vận. Phối hợp chặt chẽ giữa các lực lượng để đạt được hiệu suất chiến đấu cao, thực hiện được mục đích chiến dịch.

Lực lượng tham gia chiến dịch: Trung đoàn 108 chủ lực của Liên khu, được tăng cường có tiểu đoàn 19 và 79; hai đại đội độc lập và lực lượng dân quân du kích.

Chỉ huy: Bộ tư lệnh Liên khu 5. Chỉ huy trưởng: Nguyễn Bá Phát; Chính uỷ Nguyễn Quyết.

Địa bàn chiến dịch trải dài từ thị xã Hội An về thành phố Đà Nẵng, qua đèo Hải Vân ra giáp Huế. Từ Hội An về Đà Nẵng trừ khu vực núi đá Ngũ Hành Sơn, còn lại địa hình bằng phẳng, đồng ruộng, phố xá, làng mạc liên tiếp nhau, dân cư đông đúc. Quân ta dễ ém quân trong dân và trong căn cứ Ngũ Hành Sơn để ra tập kích, phục kích đánh địch. Từ Đà Nẵng ra Huế là đường đèo Hải Vân hiểm trở. Một bên là vực thẳm tiếp giáp biển Đông, một bên nối liền với dãy núi chạy theo hướng đông tây, rất thuận lợi cho quân ta đánh xong rút lui lên phía tây nhập vào đại ngàn đông Trường Sơn.

Lực lượng địch trên địa bàn có 5.000 quân (gồm một tiểu đoàn Ma-rốc; một tiểu đoàn hỗn hợp quân lê dương và quân ngụy; một tiểu đoàn (gồm một đại đội cơ giới một đại đội pháo, một đại đội cơ động); lực lượng thường trực ở sân bay Đà Nẵng có năm máy bay oanh tạc và một đại đội dù (trong đó có 60 phần trăm là lính Pháp và Đức, 20 phần trăm lính thuộc địa và 20 phấn trăm lính ngụy). Quân địch đóng trên 63 vị trí, chia thành ba phân khu. Phân khu Nam, phân khu Bắc và phân khu Chỉ huy. Lô cốt ở các vị trí xây bằng gạch. Thủ đoạn đóng quân kết hợp hành quân càn quét là chủ yếu, khi cần ứng chiến ở gần thì dùng một trung đội, ở xa dùng hai trung đội.

Để đảm bảo cho chiến dịch, Bộ chỉ huy dự kiến phải huy động được 15 tấn gạo, trong đó cần đưa đến Trung Man tám tấn, Khe Sô ba tấn rưỡi và Hải Vân ba tấn. Nhân dân trong vùng đã và đang chịu đựng nhiều thảm họa do địch gây ra, nhưng bộ đội đã cùng với các huyện ủy, chính quyền địa phương tuyên truyền vận động nhân dân tìm mọi cách vượt lên gian khổ, khắc phục khó khăn, dành dụm đóng góp gạo cho bộ đội đánh giặc. Phụ nữ và thiếu nhi vùng tây bắc Hoà Vang lấy củi, bắt tôm cá bán lấy tiền mua gạo; nhiều bà con bí mật xuống thành phố Đà Nẵng mua gạo để gửi lên chiến khu cho bộ đội, v.v... Tuy đường xa, địch lại phong toả, nhưng sát ngày nổ súng, nhân dân Hoà Vang vẫn đưa được bảy tấn gạo đến khu vực đèo Hải Vân.

Trong thời gian chuẩn bị chiến trường, du kích và bộ đội địa phương Hoà Vang đã bám đánh địch suốt một tháng, đẩy lùi hai tiểu đoàn địch ra khỏi địa bàn cho bộ đội vào tập kết theo kế hoạch để đánh địch cơ động trên đèo Hải Vân. Dân quân du kích các huyện Đại Lộc, Điện Bàn, Duy Xuyên, Hội An, Đà Nẵng liên tục quấy rối tiêu hao địch để đánh lạc hướng chú ý của chúng, tạo điều kiện thuận lợi cho bộ đội chuẩn bị chiến đấu trên các hướng dự kiến.

Ngày 5 tháng 1 năm 1949, lực lượng của thị đội và công an xung phong thị xã Hội An đột nhập vào thị xã tiến công khống chế đồn Nghè Thạch và bắt tên tỉnh trưởng Hồ Ngận cùng hai tên cán bộ ngụy quyền quan trọng của thị xã Hội An (do Pháp vừa cử lên), gây hoang mang lớn trong hàng ngũ ngụy quyền tay sai của Pháp ở trong vùng.

Chiến dịch (đợt hoạt động) chia làm ba đợt:

Đợt 1 (từ 24 tháng 1 đến 9 tháng 2 năm 1949): 6 giờ ngày 24 tháng 1, một đoàn tàu quân sự gồm một đầu máy và 12 toa xe chở đầy lính từ Đà Nẵng chạy ra Huế. Đến đoạn hầm số hai trên đèo Hải Vân bị tiểu đoàn 79 dùng lượng nổ lớn đánh lật nhào cả đoàn tàu. Bộ đội tràn lên đánh giáp lá cà tiêu diệt binh lính địch.

7 giờ, một đoàn xe vận tải 18 chiếc, có xe bọc thép hộ tống, từ Đà Nẵng chạy ra Huế, lên khu vực đèo Hải Vân đã lọt vào trận địa phục kích của tiểu đoàn 19 (ở phía nam đồn Nhất), trong loạt súng đầu tiên, quân ta tiêu diệt ba chiếc xe đi đầu. Đoàn xe địch dừng lại, bọn địch trên xe bọc thép chống cự bị quân ta bám sát bắn mãnh liệt, địch phải quay đầu tháo chạy, ta diệt thêm ba xe và nhiều binh lính địch.

12 giờ, một đoàn xe 12 chiếc từ Huế vào tiếp viện. Đến cầu Rô-zê1, từ trên các xe 200 lính Pháp nhảy xuống dàn đội hình chiến đấu, các đơn vị chặn viện nổ súng xung phong. Địch liên tục nổ súng chống trả, tổ chức phản xung phong bốn lần đều bị quân ta bẻ gãy, 40 lính Pháp bị ta tiêu diệt tại chỗ, quân địch tháo chạy. Đến xế chiều quân ta rút về vị trí tập kết. Chỉ huy Pháp ở Đà Nẵng cay cú huy động một tiểu đoàn Âu - Phi, triển khai bao vây từ Quan Nam, eo ngựa Khe Sô, qua đèo Mũi Trâu và suốt hữu ngạn sông Trường Định hòng tiêu diệt lực lượng ta ở vùng tây bắc Hoà Vang. Để triệt đường quân ta vượt sông Trường Định, địch thu hết ghe thuyền của dân tập trung về đồn bốt phá huỷ, đồng thời nhấn chìm một số khác ở sông Cửa Cấm và ra lệnh thiết quân luật cả vùng tây bắc Hoà Vang không cho bất kỳ ai qua sông. Địch hy vọng quân ta bị bao vây chặt, bị đói, phải ra hàng.

Đêm 27 tháng 1, dưới sự lãnh đạo của huyện uỷ Hoà Vang và chi uỷ các xã vùng tây bắc Hoà Vang, nhân dân đã gom được 30 thuyền. Một lực lượng quân ta bí mật bơi qua sông, tập kết ở Nam Ô để nghi binh, tạo điều kiện cho lực lượng vượt sông Trường Định. Các mẹ, các chị lo tiếp tế, các em thiếu nhi dẫn đường, dân quân du kích cảnh giới và canh gác. Để phối hợp, các đội du kích Hoà Vang nổ súng vào các đồn bốt xung quanh để kiềm chế địch. Nhân dân toàn huyện nổi thanh la, trống mõ để phô trương thanh thế và đánh lạc hướng địch. Hơn 1.800 cán bộ, chiến sĩ, 28 cáng thương binh đã vượt khỏi vòng vây địch, lui quân thắng lợi. Mờ sáng 28 tháng 4, nhân dân lùa trâu bò ra đồng, xoá dấu vết, giữ bí mật đường lui quân của bộ đội.

Đợt 2 (từ 9 tháng 2 đến 15 tháng 3): Các đơn vị chủ lực của Liên khu không tổ chức đánh các trận lớn, mà liên tục kết hợp với dân quân du kích và tự vệ tổ chức nhiều trận nhỏ đánh tập kích vào các vị trí địch khắp trên địa bàn từ thị xã Hội An về thành phố Đà Nẵng và từ Đà Nẵng ra sát Huế. Trong đó vẫn chú trọng đánh giao thông bằng địa lôi, mìn tự tạo và phục kích nhỏ. Đợt hoạt động này chủ yếu làm hậu thuẫn cho việc phát triển chiến tranh du kích và xây dựng các đội võ trang (du kích thoát ly, bộ đội địa phương huyện). Ta đã xây dựng được mỗi xã có một tiểu đội du kích thoát ly (chuyên trách việc đánh địch, thoát ly hẳn việc sản xuất, dân nuôi để tập trung đánh giặc); mỗi huyện có từ 16 tiểu đội du kích thoát ly trở lên. Bộ đội và dân quân du kích đánh mạnh làm các tuyến giao thông của địch liên tục bị tê liệt. Sự vận chuyển của quân Pháp thường xuyên bị bế tắc, nhất là trên tuyến giao thông chiến lược quốc lộ 1A.

Đợt 3 (từ 15 đến 31 tháng 3): Quân ta thực hiện phá hoại và “Tổng phá hoại”, đã tổ chức nhiều trận phục kích trên các tuyến đường, đặc biệt là tuyến quốc lộ 1 - Hải Vân. Đi đôi với tiêu diệt, tiêu hao sinh lực địch trên cả đường bộ và đường sắt, quân ta đã đánh sập hai cầu trên đường xe lửa, phá trên 200 mét đường sắt, phá hỏng nặng nhiều đoạn đường bộ, làm chủ đoạn đèo Hải Vân, cắt đứt việc cơ động vận chuyển của địch. Pháp phải huy động một tiểu đoàn Âu-Phi thực hiện cuộc hành quân càn quét hòng đẩy quân ta ra khỏi khu vực đèo, giải toả tuyến giao thông Hải Vân. Bộ đội ta phối hợp chặt chẽ với dân quân du kích và tự vệ địa phương tổ chức nhiều trận địa hiểm hóc trên suốt dọc 10 km đường đèo, liên tục chặn đánh; cùng lúc kết hợp việc đột nhập, tập kích thẳng vào một số vị trí địch ở thành phố Đà Nẵng và thị xã Hội An, buộc địch ở khu vực đèo Hải Vân phải lui quân. Dân quân du kích khắp vùng hoạt động mạnh, chống càn, quấy rối các đồn bốt và đánh địa lôi chim sẻ trên các tuyến giao thông. Sau đó cùng với nhân dân địa phương giúp đỡ phương tiện cho bộ đội vượt sông, vượt biển, rút về khu tập kết an toàn.

Cuối tháng 3, theo lệnh của Bộ Tổng chỉ huy, tiểu đoàn 19 ra phối hợp với lực lượng vũ trang ở nam Thừa Thiên đánh thắng một số trận ở La Vang, Cầu Hai, Nước Ngọt... góp phần phát triển chiến tranh du kích trên địa bàn huyện Phú Lộc. Các đơn vị còn lại thực hiện phân tán đánh nhỏ, hỗ trợ cho phong trào du kích ở khắp vùng từ nam Thừa Thiên vào đến Quảng Nam, Đà Nẵng và ra đến ven biển Hội An.

Đêm 30 tháng 3 năm 1949, tiểu đoàn 79 do tiểu đoàn trưởng Võ Thứ chỉ huy, phối hợp với một đại đội của tiểu đoàn 19, bí mật phục kích tài Gò Cà, nằm trên đường Ái Nghĩa đi Tuy Loan. Ta thực hiện nghi binh nhử địch. Sáng 3 tháng 2, một đoàn xe địch chở đầy lính Âu Phi từ Đà Nẵng lên Tuy Loan, Gò Cà, đã lọt vào trận địa phục kích. Quân ta bất ngờ đồng loạt nổ súng, địch trên xe hoảng hốt nhảy xuống tháo chạy. Bộ đội ta truy kích. Nhân dân quanh vùng Đại Hiệp, Hoà Khương mang gậy, cuốc, dao, rựa đuổi đánh địch khắp cánh đồng. Kết thúc trận đánh, ta tiêu diệt hoàn toàn đại đội Ta-bo Âu Phi và 14 xe cơ giới. Ở địa bàn phối hợp, đại đội 8 bộ đội địa phương Điện Bàn do đại đội trưởng Đỗ Phúc Đáp chỉ huy, dùng hình thức “phục kích, độn thổ” trên đường 100 từ Bình Long đi Phong Thử, diệt hai tiểu đội, thu một trung liên và một số súng trường. Bộ chỉ huy ra lệnh kết thúc chiến dịch.

Kết quả: Qua hai tháng chiến đấu, ta đã đánh 299 trận lớn, nhỏ (có 163 trận phục kích, 27 trận tập kích, 51 trận quấy rối); diệt 660 địch, có một quan tư, 18 quan ba. Ta phá huỷ tám đầu máy xe lửa, 22 toa xe, 20 xe vận tải, hai xe thiết giáp, thu nhiều vũ khí, quân trang, quân dụng, trong đó có 24 tiểu liên, 155 súng trường. Ta hy sinh và bị thương 79 người.

Chiến dịch đã đạt được mục tiêu đề ra, quân ta giữ được quyền chủ động tác chiến trên toàn vùng, đánh phá liên tục và quyết liệt làm tê liệt tuyến giao thông chiến lược của địch nhiều đợt trong nhiều ngày. Tiêu hao, tiêu diệt sinh lực và phương tiện chiến tranh của địch. Ta đã giữ được yếu tố bí mật bất ngờ; kết hợp khá chặt chẽ giữa các lực lượng vũ trang trên toàn địa bàn (chủ lực Khu bộ đội địa phương và dân quân du kích, tự vệ chiến đấu). Nét đặc sắc ở đây là sự kết hợp hài hoà giữa các hình thức chiến thuật: đánh phục kích, tập kích với chống càn, quấy rối, đánh phá giao thông, đạt được hiệu suất chiến đấu cao vừa tiêu hao, tiêu diệt địch, vừa giữ gìn và bồi dưỡng, rèn luyện được lực lượng ta. Qua chiến đấu đã phát triển được phong trào chiến tranh du kích gây được cơ sở cách mạng trong vùng địch tạm chiếm, nhất là quanh thị xã Hội An và thành phố Đà Nẵng.

Song, bao quát cả hai tháng chiến đấu thì lực lượng chủ lực đánh còn ít. Phần lớn các trận chiến đấu của các lực lượng còn nặng về lối đánh du kích, trong đó đánh phục kích để ngăn chặn, phá hoại giao thông và tiêu hao, tiêu diệt quân địch cơ động trên tuyến giao thông là chủ yếu. Chưa hình thành rõ lối đánh chính quy, bài bản, do đó nghệ thuật chiến dịch chưa bộc lộ rõ nét.
____________________________________
1.Ngày 15 tháng 5 năm 1947, quân ta diệt tên quan năm Rô-zê (Roger) Pháp tại cầu này, từ đó quân ta quen gọi là cầu Rô-zê.
CHIẾN DỊCH ĐÔNG BẮC 2
(Tiến công, từ ngày 4 tháng 3 đến ngày 27 tháng 4 năm 1949)


Sau chiến dịch tiến công Đông Bắc 1 của ta, quân Pháp và quân ngụy lâm vào thế bị động, tinh thần sa sút, chúng buộc phải huỷ bỏ cuộc tiến công mùa đông vào Việt Bắc, nhưng mặt khác chúng ra sức củng cố tuyến phòng thủ đông bắc để chống trả ta và tranh thủ lập tề điệp ở vùng này. Cường độ vận chuyển trên các tuyến đường số 4, 13 và 18 ngày càng tăng, đường 4 ngày nào cũng có đoàn vận chuyển cơ giới, đoàn nhiều lên đến 60 xe; đường 18, đoạn Hòn Gai - Khe Tù hàng tháng có từ 100 đến 150 xe, v.v... Khi cơ động, vận chuyển, địch tỏ ra thận trọng hơn, chúng thường dùng hai trung đội bộ binh áp tải hoặc chiếm lĩnh các điểm cao bảo vệ cho các đoàn xe đi trót lọt mới rút về.

Mùa xuân 1949, Bộ Tổng tư lệnh1 quyết định mở chiến dịch tiến công Đông Bắc lần thứ hai nhằm mục đích: Tiêu diệt một bộ phận sinh lực của địch, phát triển và củng cố cơ sở cách mạng ở Đông Bắc phối hợp với Mặt trận 4 (Cao-Bắc-Lạng).

Phương châm tác chiến là: Đánh phục kích lớn, tiêu diệt những đoàn tiếp tế, vận chuyển của địch. Phá hoại triệt để đường số 4 và số 13. Giam chân một bộ phận lực lượng địch, tạo thuận lợi cho chiến dịch đường số 4 và Cao-Bắc-Lạng, làm tan rã và lôi kéo ngụy binh; đồng thời củng cố, xây dựng và phát triển cơ sở vùng Hải Ninh, Quảng Yên, Hòn Gai, các đảo, tạo đường thông sang biên giới Việt - Trung.

Chiến dịch dự kiến chia hai đợt: Đợt 1 (từ 4 đến 31 tháng 3), tập trung chủ lực tác chiến trên đường số 4 và đường số 13; nghi binh kiềm chế mặt Đông Triều, Phả Lại, Lục Nam. Đợt 2 (từ 1 đến 27 tháng 4), tập trung đánh Khe Tù và đường 18, phá hoại triệt để đường số 4.

Lực lượng tham gia chiến dịch: Tương đương hai trung đoàn, gồm: tiểu đoàn 426, tiểu đoàn 215, tiểu đoàn Minh Hổ, các đại đội độc lập của trung đoàn 98, bộ đội địa phương và dân quân của Quảng Yên, Hải Ninh, Hòn Gai và huyện Lộc Bình.

Chỉ huy chiến dịch: Đồng chí Lê Quảng Ba (đặc phái viên của Bộ Tổng tư lệnh) là Chỉ huy trương kiêm Chính uỷ.

Để đảm bảo cho bộ đội hoàn thành được nhiệm vụ, Bộ chỉ huy chiến dịch đã tổ chức Ban công tác chính trị. Trước chiến dịch, các hoạt động công tác chính trị được triển khai rộng khắp đến từng đơn vị nhằm giáo dục, động viên, quán triệt nhiệm vụ chiến dịch cho bộ đội; phát huy tinh thần dũng cảm xung phong, kiên quyết tiêu diệt nhiều địch, lập công mừng kỷ niệm 59 năm ngày sinh của Bác (19 tháng 5 năm 1949). Đồng thời phát động cuộc vận động có nội dung sát với nhiệm vụ quân sự như: Giữ bí mật; luyện tập dẻo dai để giữ vững quân số chiến đấu; mở rộng dân chủ quân sự bàn việc nâng cao ý thức bảo mật và hiệu quả luyện tập, v.v…

Về bảo đảm cung cấp, mặc dù trong hoàn cảnh hết sức khó khăn kinh tế địa phương kiệt quệ, tài chính thiếu thốn, cán bộ và nhân viên chuyên môn thiếu nhiều, địa hình lại hiểm trở... nhưng Bộ chỉ huy chiến dịch đã biết tận dụng tất cả những kho tàng còn lại trên địa bàn và liên hệ chặt chẽ với các cơ quan dân chính địa phương để giải quyết, do đó trước giờ nổ súng đã đảm bảo được số lương thực cần thiết cho đợt 1 của chiến dịch.

Về chuẩn bị chiến trường, Bộ chỉ huy chiến dịch đã thành lập các đoàn cán bộ đi điều tra nắm vững địa hình ở khu vực tác chiến, nắm tình hình địch, số lượng và quy luật hoạt động của chúng trận đường số 4, các vị trí từ Tiên Yên đến Đình Lập, tình hình đường cơ động hành quân từ căn cứ đến trận địa triển khai chiến đấu, đặc biệt trinh sát đoạn từ Khe Mó, đến Phố Cũ nên đã chọn được trận địa phục kích tốt. Đồng thời đã thành lập ban chuyên trách nhiệm vụ phá hoại giao thông và bộ phận nghi binh lừa địch.

Ngày 4 tháng 3 năm 1949, chiến dịch mở màn, hai tiểu đoàn 426 và 215 của trung đoàn 59 và trung đoàn 98 đánh trận phục kích thắng lợi diệt đoàn xe 18 chiếc tại Điền Xá. Ta diệt 80 tên toàn lính Pháp và Âu-Phi (trong đó có một quan hai Pháp)2; bắt sống 23 tên, làm bị thương năm tên; phá huỷ 16 xe, bắn bị thương hai xe. Ta thu toàn bộ vũ khí gồm một trung liên, năm Si-ten, hai Mat, 15 súng trường, hai súng ngắn, một rađiô, một vô tuyến điện, 10 hòm ắc quy và nhiều quân trang quân dụng3.

Từ 5 đến 31 tháng 3, bộ đội ta liên tiếp hoạt động tác chiến trên chiến trường; đánh bốn trận phục kích tại Khe Nhắng, Bãi Dài, Cầu Lý, Nam Tào và trên sông Lục Nam vào các ngày 7, 10, 20 và 23 tháng 3. Đã diệt 48 tên địch, làm bị thương 16 tên, bắt sống 9 tên; thu ba trung liên, một súng cối, hai Các-bin, 13 súng trường, hai Tôm-sơn, hai Si-ten; bắn hỏng một xe vận tải và hai ca nô, phá huỷ hai trọng liên 12,7mm và hai súng cối, thu nhiều quân trang, quân dụng.

Ngày 5 và 22 tháng 3 ta đánh phục kích bằng địa lôi trên đường 13 và 18; diệt 20 tên địch, phá huỷ một xe vận tải. Đồng thời trong ngày 7 và 11 tháng 3 ta chặn đánh thành công hai đợt tiến công của địch (lực lượng gồm 800 tên) vào Khe Nhắng và Đồng Khuy, diệt 13 tên, bắt sáu tên, thu một trung liên, một cối 61mm, một Các-bin, tám súng trường và một số quân trang, quân dụng, buộc quân địch phải rút lui.

Các trận tiến công khác của địch đều bị bộ đội chủ lực kết hợp với bộ đội địa phương và dân quân du kích đánh lui: Ngày 21 tháng 3, hơn 1000 quân từ Phả Lại, Đông Triều tiến công Bến Tắm (Chí Linh), Trại Sậu, Lãn Giây (Đông Triều); 26 tháng 3, 300 lính da đen và 200 ngụy binh và khố đỏ từ Đình Lập, Lộc Bình tiến công vào khu Chi Lăng. Đặc biệt ngày 27 tháng 3, quân ta tập kích thắng lợi vào thị xã Móng Cáy; phá trại giam, giải thoát 200 người, làm chủ thị xã trong 17 giờ4 (từ 16 giờ ngày 27 tháng 3 đến 9 giờ ngày 28 tháng 3). Ta diệt 120 tên địch (hầu hết là Pháp và Âu-Phi), bắt sống một quan tư, tiếp nhận 200 hàng binh ngụy; ta thu một xe vận tải, một đại bác 37 mm, năm đại liên, 24 trung liên, 58 tiểu liên, tám súng cối, 32 Badôka, 800 súng trường, hai máy vô tuyến điện, ba triệu đồng bạc Đông Dương, phá huỷ hai xe vận tải và đại bác 105mm.

Trên thế trận phát triển thuận lợi, ta mở rộng hoạt động ra các vùng xung quanh, đẩy mạnh phát triển và củng cố cơ sở cách mạng; phát triển phong trào chiến tranh du kích. Địch hoang mang dao động ráo riết tăng quân từ Hải Phòng, Hải Dương và Lạng Sơn lên bố trí ở các vị trí: Phả Lại, Lục Nam, Chũ, Mạo Khê, Đông Triều để đối phó với các trận tiến công của ta. Đồng thời chúng tổ chức bao vây và càn quét vùng Thuỷ Nguyên, Kim Môn, Nam Sách để cướp bóc, lùng bắt thanh niên đi lính và tuyên truyền cho Bảo Đại.

Bước sang đợt 2, cường độ cơ động, vận chuyển của địch giảm, nhưng mỗi lần thực hiện, chúng đề phòng cẩn mật hơn. Các vị trí Ba Chẽ, Phố Cũ và đặc biệt là Khe Tù địch tăng cường công sự và vật chướng ngại. Địch rút quân ở Đông Triều và Thuỷ Nguyên để tiếp viện và chiếm đóng lại Móng Cáy. Về ta, tình hình cung cấp không kịp cho nhu cầu kế hoạch, việc điều tra nắm địch trên hướng tiến công chưa đầy đủ, chuẩn bị cơ sở vùng Châu Sơn chưa chắc, nhân công phá hoại không huy động được, do đó kế hoạch phải thay đổi. Ban chỉ huy chiến dịch quyết định các đơn vị phân tán ra các vùng để hoạt động, trong đó tiểu đoàn 215 ở phía tây nam đường 18, tiểu đoàn 426 ở đường số 4. Tiếp đó, bộ đội địa phương và dân quân du kích hoạt động quấy rối phá hoại ở khắp nơi, đặc biệt là các vị trí Chẽ (núi Con Phượng), Lưu Kiệm, Ninh Tân, Yên Hưng, Cẩm Lý, Bãi Thảo, Nam Tào, Chợ Xá. Các hoạt động này tuy không diệt được nhiều sinh lực địch nhưng đã gây khó khăn lúng túng cho chúng và tạo điều kiện cho bộ đội chủ lực chuẩn bị.

Ngày 18 tháng 4, hai đại đội của tiểu đoàn 426 phối hợp với tiểu đoàn Minh Hổ phục kích thắng lợi trên đường 4 khu vực từ Quang Hoài đến Châu Sơn. Ta tiêu diệt gọn quân địch cơ động, thu toàn bộ vũ khí và quân dụng5.

Đêm 27 tháng 4, tiểu đoàn 215 phối hợp các đại đội độc lập và dân quân du kích tiến công thị xã Quảng Yên. Sau 1 giờ 45 phút, quân ta chiếm toàn bộ công sở, đốt ba vạn lít xăng, phá huỷ 11 xe cơ giới, nhiều tiền bạc và quân trang quân dụng. Địch tập trung đối phó trên đường số 18, nhất là đoạn Uông Bí - Cẩm Phả. Chúng tổ chức mỗi đợt gần 1.000 quân càn quét ở các điểm: Nam Mậu, Sơn Dương, Kênh Trạo, Làng Cài, Dương Huy, Quang Xa Đông, nhưng hầu hết đều bị quân ta đánh lui. Ta chủ động kết thúc chiến dịch.

Kết quả: Quân địch chết 485 tên, bị thương 52 tên, bị bắt 32 tên, đầu hàng hơn 200 tên. Ta thu: một pháo 37mm, một trọng liên 12,7mm, tám đại liên, 30 trung liên, chín súng cối, 83 tiểu liên, 841 súng trường, 32 Bađôca, bốn súng ngắn, 15.500 viên đạn và nhiều tiền, quân trang, quân dụng. Phá huỷ hai pháo 105mm, một pháo 37mm, hai súng cối, hai trọng liên 12,7mm, một xe thiết giáp, một xe Háp-tơ-rắc, bốn xe Jeep, hai cam nhông, 23 xe GMC, một máy bay, hai ca nô và đốt cháy trên hai vạn lít xăng.

Ta hy sinh 35 người, bị thương 30 người, kể ca dân quân du kích.


So với Chiến dịch Đông Bắc 1, lần này ta đề ra mục đích chiến dịch phù hợp với tình hình chiến trường và khả năng cụ thể của bộ đội, nên đã thu được nhiều thắng lợi khả quan.

Ta đã thực hiện được mục đích đánh lạc hướng địch, tạo điều kiện cho chiến trường chính (Cao-Bắc-Lạng) chuẩn bị. Bộ đội và dân quân du kích đã vận dụng nhiều hình thức chiến thuật để tiêu diệt sinh lực địch đạt hiệu suất khá. Trận phục kích mở màn ở Điền Xá, trận tập kích ở Cửa Cái, Tấn Mai, trận kỳ tập ở thị xã Móng Cáy và tập kích thị xã Quảng Yên đã thực hiện tốt. Hai đợt hoạt động cũng đã tạo điều kiện củng cố và phát triển cơ sở trong vùng địch kiểm soát.

Song, chiến dịch còn bộc lộ tính chất hoạt động du kích nhiều hơn là một chiến dịch chính quy. Những trận đánh lẻ tẻ, thấy địch sơ hở thì đánh, đánh xong lại rút về căn cứ, thiếu sự liên tục tiến công và phát triển thắng lợi trên một hướng nhất định, do đó thắng lợi bị hạn chế, thu hẹp và không thực hiện được đầy đủ mục đích đã đề ra (làm tê liệt đường số 4). Không dự kiến phương án hậu cần nên khi định đánh, việc bảo đảm hậu cần gặp khó khăn, ảnh hưởng đến việc thực hiện chiến dịch.
______________________________________
1.Sắc lệnh số 14/SL do Chủ tịch Hồ Chí Minh ký ngày 12 tháng 3 năm 1949, Bộ Tổng chỉ huy đổi thành Bộ Tổng tư lệnh.
2.Bay-ơ chỉ huy đoàn xe.
3.Trận phục kích Điền Xá trên đường 4B, đoạn từ Khe Cháy đến Khe Vàng, huyện Tiên Yên, Quảng Ninh của hai tiểu đoàn 426 trung đoàn 59 và 215 trung đoàn 98 có sự phối hợp của tiểu đoàn Minh Hổ ngăn chặn không cho địch từ Châu Sơn, Đình Lập, Ba Chẽ... vào tiếp viện cho Điền Xá. Trận đánh do đồng chí Nam Long, Trung đoàn trưởng trung đoàn 59 làm chỉ huy. Khoảng 7 giờ ngày 4 tháng 3, một đoàn xe địch 16 chiếc có chiếc xe Jeép chỉ huy xuất phát từ Khe Tù lên tiếp viện cho Đình Lập lọt vào trận địa phục kích của tiểu đoàn 215. Bộ phận chặn đầu nổ súng, sau đó hoả lực của cả hai tiểu đoàn tập trung bắn vào đoàn xe địch, yểm hộ cho bộ binh xung phong. Sau 30 phút chiến đấu, quân ta làm chủ trận địa, bắt tù binh, thu chiến lợi phẩm. Lúc này một đoàn xe 10 chiếc chở lính từ Tiên Yên kéo tới tăng viện. Bộ phận khoá đuôi (có súng 12,7mm) tổ chức ngăn chặn. Địch không dám xung phong, quay đầu rút về Tiên Yên.
4.Nhân ngày chủ nhật, địch phát thẻ cho dân phố, canh gác có phần sơ hở; tiểu đoàn độc lập số 1 đã đóng giả làm “lính Ba Sáng” (tiểu đoàn mang tên Béc-dê Um-bre-la (Becde Umbrella) do Ba Sáng chỉ huy) cùng du kích cải trang là “dân phu” đi lọt vào thị trấn. Chưa đầy 30 phút chiến đấu ta đã hoàn toàn làm chủ thị trấn.
5.Trận đánh phục kích trên đường 4B đoạn từ làng Ngoại đến nam Khe Tranh (khoảng 1,5 km) của tiểu đoàn 426 thuộc trung đoàn 59, có sự phối hợp tác chiến của một đại đội của tiểu đoàn Minh Hổ (ĐP) và tiểu đội du kích xã Cường Lợi do đồng chí Nam Long chỉ huy. 16 giờ ngày 17 tháng 4, bộ đội bí mật hành quân, xây dựng trận địa phục kích. 9 giờ 40 phút ngày 18 tháng 4, hai xe tăng và một xe thiết giáp chở đầy lính Pháp, có cả pháo 37mm lọt vào trận địa phục kích. Quân địch chủ quan không đề phòng gì vì tin vào bộ phận lùng sục đi trước. Lệnh nổ súng, các chiến sĩ Badôca và AT ở tổ chặn đầu phát hoả. Chiếc xe tăng đi đầu trúng đạn lật đổ nghiêng. Chiếc thứ hai không kịp dừng lại, chồm sát vào chiếc thứ nhất. Bộ đội ta tập trung hoả lực tiêu diệt gần hết số địch trên xe. Sau 15 phút chiến đấu, ta làm chủ trận đánh, diệt 32 tên (có 12 tên Pháp), thu 11 súng, phá huỷ một khẩu pháo 37mm và bắn bị thương cả ba xe. Ta hy sinh bốn người, bị thương ba người.



CHIẾN DỊCH ĐƯỜNG SỐ 4 CAO-BẮC-LẠNG
(Tiến công, từ ngày 15 tháng 3 đến ngày 30 tháng 4 năm 1949)


Đường số 4 là tuyến đường giao thông quan trọng bậc nhất của vùng chiến lược Cao-Bắc-Lạng và đông bắc Bắc Bộ. Tuyến đường dài 420 ki-lô-mét chạy dọc theo biên giới Việt - Trung. Địa hình rất hiểm trở, có núi cao, rừng rậm hai bên đường. Có rất nhiều suối và ba con sông lớn: Kỳ Cùng, Bắc Giang và Bằng Giang chảy theo hướng tây bắc - đông nam cùng với hướng của đường 4 nên phải có những cây cầu lớn để vượt qua như cầu Bản Trại, cầu Pò Lồi... Xen giữa vùng núi lại có những cánh đồng lúa khá mầu mỡ như Bắc Bắc, Phúc Thái...

Sau chiến dịch Việt Bắc 1947, địch tăng cường chiếm đóng trên đường 4 để thực hiện âm mưu phong toả biên giới, cô lập cách mạng Việt Nam. Chúng đã chiếm đóng trên 80 vị trí lớn, nhỏ nhưng cũng mới chỉ kiểm soát được những đoạn chính. Để đảm bảo tính độc lập chiến đấu trong một khoảng thời gian nhất định chờ tiếp viện, chúng chia khu Biên Thuỳ (Cao-Lạng và Đông Bắc) ra thành hai phân khu và các tiểu khu - Phân khu Bắc gồm sáu tiểu khu: Bắc Cạn, Nguyên Bình, Cao Bằng, An Lai, Đông Khê, Thất Khê. Phân khu Đông Bắc gồm 4 tiểu khu: Lạng Sơn, Tiên Yên - Móng Cái, Lộc Bình và An Châu. Những vị trí quan trọng tỉ lệ lính Âu-Phi chiếm 60 phần trăm, còn phần lớn lực lượng ngụy chiếm 70 phần trăm đến 80 phần trăm trong các tiểu khu. Bước sang 1949, chúng tăng cường quân lực cho các vị trí quan trọng (Lộc Bình tập trung 600 quân, Lạng Sơn tăng thêm 200 lính Ma-rốc, v.v...). Đồng thời thực hiện thay quân Pháp, An-giê-ri cho quân ngụy ở một số cứ điểm, thuyên chuyển quân trên dọc đường 4 và khu vực Lạng Sơn về Đình Lập, An Châu. Tăng cường máy bay bắn phá những nơi nghi có quân ta để phá công tác chuẩn bị của ta. Xây thêm lô cốt cố thủ, đào thêm hào, rào kẽm gai, chông mìn và mở các cuộc càn quét ra xung quanh các cứ điểm, tăng cường công tác bảo vệ vận chuyển trên dọc đường số 4. Chúng kết hợp giữa khủng bố kìm kẹp với mua chuộc, lập “xứ Nùng tự trị”, để chia rẽ và lợi dụng đồng bào các dân tộc.

Về phía ta, sau năm tác chiến 1948, trình độ bộ đội tiến bộ rõ rệt, thế cầm cự ngày càng có lợi cho ta. Bên cạnh đó Quân giải phóng Trung Quốc đang ồ ạt tiến xuống Hoa Nam. Trung ương Đảng, Chính phủ và Hồ Chủ tịch ra lời kêu gọi toàn quốc chuẩn bị cho “Tổng phản công”. Để mở đà chiến thắng cho năm 1949, từng bước phá tan âm mưu phong toả biên giới của địch, theo chỉ thị của Đại tướng Tổng Tư lệnh, Liên khu I quyết định mở chiến dịch Cao-Lạng và Đông Bắc. Hướng chính là đường số 4 từ Cao Bằng đến Lạng Sơn (dài gần 100 km). Hướng thứ yếu là Đông Bắc. Nhằm mục đích: Tiêu diệt sinh lực địch, tiêu diệt một số cứ điểm trên đường số 4 (đoạn Cao-Lạng); tổ chức các trận phục kích lớn trên đường 4, kết hợp đánh phá giao thông làm tê liệt đường số 4, tổng phá ngụy binh và hội tề, kết hợp phát động chiến tranh nhân dân trên toàn tuyến. Bức địch phải rút khỏi thị xã Bắc Cạn. Khu vực tiến công chủ yếu là Thất Khê - Na Sầm.

Phương châm tác chiến là: Kết hợp tác chiến du kích với tác chiến vận động. Tập trung tiêu diệt một số cứ điểm. Nơi có nhiều ngụy binh thì kết hợp tác chiến với địch vận. Đánh phục kích lớn kết hợp với phá cầu cống và các quãng đường hiểm trở để triệt tiếp tế của địch. Tích cực bắn máy bay và phát triển đánh địa lôi.

Lực lượng tham gia chiến dịch: ba trung đoàn bộ binh của Liên khu (28, 72, 74), 4 tiểu đoàn bộ binh (29, 35, 23 và 18), tiểu đoàn pháo binh 410 do đồng chí Doãn Tuế tiểu đoàn trưởng, Nguyễn Đình Ước làm chính trị viên, hai đại đội trợ chiến và một đại đội công binh của Bộ; tiểu đoàn địa phương 517 và dân quân du kích ba tỉnh Cao-Bắc-Lạng. Chiến dịch được tổ chức thành ba mặt trận: Mặt trận đường số 4 (Mặt trận 4), Cao Bằng (Mặt trận 1) và Bắc Cạn (Mặt trận 1 Bis), trong đó chủ yếu là Mặt trận 4. Phối hợp với chiến dịch Cao-Bắc-Lạng là “Chiến dịch Đông Bắc” (Mặt trận 2), Trung Du (Mặt trận 3) và Liên khu 3 (Mặt trận đường số 5).

Chỉ huy chiến dịch: Tư lệnh Đào Văn Trường; Chính uỷ Hà Kế Tấn.

Công tác chuẩn bị: Việc thành lập cơ quan chỉ huy chiến dịch tiến hành chậm (do sự đóng góp người của hai trung đoàn 308 và 28 của Liên khu 1 và của Bộ Tổng tư lệnh chậm), 15 ngày trước giờ nổ súng, việc tổ chức cơ quan chiến dịch vẫn chưa thật chu đáo nên chưa khắc phục được tình trạng thiếu ăn khớp trong hiệp đồng công tác giữa các cơ quan. Song, do sự nỗ lực cao của cán bộ nên công tác chuẩn bị cũng làm được nhiều việc cơ bản.

Về chính trị, đã tiến hành động viên, giáo dục mục đích, ý nghĩa của chiến dịch, nhiệm vụ chiến đấu của các đơn vị. Phát động phong trào thi đua giết giặc lập công và tổ chức cuộc vận động: “Giữ vững quân số, giữ bí mật. Từng người, từng đơn vị chủ động làm công tác chuẩn bị, tăng cường huấn luyện để đồng hoá tân binh, cựu binh, mở rộng dân chủ bàn cách đánh...”. Đặc biệt đã tích cực phối hợp với cơ quan, chính quyền và đảng bộ các địa phương làm công tác tuyên truyền, giáo dục trong nhân dân; nhờ đó đã phát động được chiến tranh du kích rộng khắp trong địa bàn chiến dịch, góp phần rất đáng kể vào thắng lợi của chiến dịch. Cũng nhờ đó, mặc dù trước giờ nổ súng công tác cung cấp mới bảo đảm được 1 phần 4 số lương thực theo yêu cầu, nhưng nhân dân vùng Cao-Bắc-Lạng đã tình nguyện đóng góp kể cả thóc giống nên đã giải quyết kịp thời khó khăn về lương thực, không để ảnh hưởng đến chiến dịch.

Các đơn vị được bổ sung quân số, kiện toàn cơ quan chỉ huy và củng cố, bổ sung bảo đảm về thông tin liên lạc. Bộ đội tập trung huấn luyện các khoa mục: Vượt chướng ngại, xung phong, bộc phá, đánh đồn ban ngày và ban đêm. Cán bộ tập huấn phương pháp chỉ huy tác chiến hiệp đồng binh chủng và cách sử dụng các loại súng, pháo, cối mới được trang bị. Bộ đội được trang bị đầy đủ những vũ khí cá nhân cần thiết như: Lựu đạn, bộc phá, lưỡi lê, mìn, địa lôi, v.v...

Vì thời gian gấp, chiến dịch dự kiến diễn ra trên một không gian dài, địa hình phức tạp nên công tác chuẩn bị chiến trường đã tập trung vào hướng chính, những vị trí trọng điểm, do đó, trước ngày nổ súng ta đã nắm được tương đối đầy đủ về các vị trí: Bản Trại, Đèo Khánh, Thất Khê, Lũng Phầy. Bộ chỉ huy chiến dịch đã biết kết hợp chặt chẽ giữa sử dụng thống nhất lực lượng quân báo có trong tay với việc vận dụng hiệu quả của công tác địch vận (làm mật giao, nội ứng) để bổ sung cho việc nắm tình hình địch, đặc biệt thành công ở các khu vực: Thoát Lãng, Văn Uyên và Tràng Định.

Bộ chỉ huy đã cử năm cán bộ chuyên trách nắm và tổ chức hệ thống thông tin liên lạc chiến dịch: Mạng vô tuyến điện từ Bộ chỉ huy chiến dịch tới các trung đoàn, tiểu đoàn; mạng lưới hữu tuyến điện từ Bộ chỉ huy tới Hội Hoan, Văn Mịch, Đầm He. Các tiểu đoàn đã có tổ chức và hướng dẫn cụ thể về: liên lạc hoả tốc, các đội ký hiệu bằng kèn, cờ, đèn v.v... do đó đã khắc phục được tình trạng thiếu phương tiện thông tin, bảo đảm tương đối kịp thời sự chỉ đạo, chỉ huy của Bộ chỉ huy chiến dịch.

Chiến dịch chia làm hai đợt:

Đợt 1 (từ 15 tháng 3 đến 24 tháng 4): Trước đó, ngày 4 tháng 3, chiến dịch Đông Bắc 2 nổ súng bằng trận phục kích diệt hoàn toàn đoàn xe của địch tại Điền Xá và trận tập kích đồn Ba San (đông bắc Lạng Sơn), trận đánh đã thu hút và đánh lạc hướng địch. 16 giờ ngày 15 tháng 3, bộ đội Đông Khê chặn đánh đoàn xe vận tải 96 chiếc từ Cao Bằng xuống, chúng thiệt hại một số phải dừng lại ở Đông Khê.

24 giờ 30 ngày 15 tháng 3, ta tiến công Na Sầm mở màn chiến dịch. Tuy không diệt được đồn nhưng đã tạo điều kiện cho quân dân huyện Thoát Lãng phát động chiến tranh du kích, 1 giờ ngày 16 tháng 3, ta tiêu diệt đồn Bản Trại và Đèo Khách, phá sập cầu Bản Trại, đồng thời đánh phá vị trí Bông Lau và Thất Khê. Tên đại tá Vi-ke chỉ huy liên khu biên giới phải đi Tiên Yên thu thập cơ giới và công binh, đến 31 tháng 3, chúng mới chữa xong cầu Bản Trại. Hai ngày 20 và 21 tháng 3, chủ lực ta chuyển sang đánh đồn Bản Ne và Nà Lèng làm cho các vị trí Pò Mã, Pò Piao (đông bắc Thất Khê) lung lay. Ngày 30 tháng 3 và 3 tháng 4 ta tiến đánh thị xã Lạng Sơn và trường bay Mai Pha. Ngày 10 tháng 4, ta phục kích tiêu diệt đoàn xe tiếp tế trên đường Đông Khê - Phục Hoà. Ngày 14 tháng. 4, ta tiến công thị xã Cao Bằng. Quân địch lúng túng đối phó khắp nơi phải rút bỏ vị trí Bình Nhi và Nà Mần. Chiến tranh du kích cũng phát triển từ Thoát Lãng đến Tràng Định, đánh trả địch trên đường số 4 và vây hãm các đồn bốt nhỏ, ngày nào địch cũng bị thương vong, cơ giới bị phá huỷ. Ngày 24 tháng 4, đợt 1 của chiến dịch kết thúc.

Quân địch thiết lập lại đồn Bản Trại, tăng cường công sự, lô cốt, vật cản và phương tiện ở các vị trí, quyết cố thủ chiếm đóng vùng Biên Thuỳ. Phía ta, phong trào chiến tranh du kích phát triển rộng rãi trên các huyện: Tràng Định, Thoát Lãng, Văn Uyên, Cao Lộc. Khu tự do Ba Son được mở rộng về phía Bản Xam, Nà Lèng, Bảo Lam hình thành thế bao vây thị xã Lạng Sơn. Khu Chi Lăng cũng trở thành địa bàn hoạt động của quân ta.

Đợt 2 (từ 25 đến 30 tháng 4): Ngày 25, ta thực hiện trận phục kích lớn đánh đoàn xe 114 chiếc trên đoạn Bông Lau - Lũng Phầy (15 km), phá huỷ 53 xe vận tải, diệt và bắt hơn 500 lính Âu-Phi, bắn bị thương hai máy bay, phá tan đồn Dốc Na (Lũng Phầy mới) của địch. Ngày 27 tháng 4, bộ đội Cao Bằng tiêu diệt đồn Bản Pát trên đường Cao Bằng - Trà Lĩnh. Ta phát động chiến tranh du kích ở khắp nơi. Các huyện Thoát Lãng, Tràng Định, Văn Uyên, Cao Lộc ngày nào cũng có trận phục kích nhỏ, đánh địa lôi chim sẻ, quấy rối địch, gây cho chúng nhiều thiệt hại và ngày càng hoang mang. Ngày 30 tháng 4, địch buộc phải rút khỏi đồn Pò Mã và Pò Piao. Ta kết thúc chiến dịch.

Kết quả: Ta tiêu diệt bốn vị trí, bức rút sáu vị trí, đánh tiêu hao chín vị trí1, diệt 665 địch (có hai quan ba, một quan hai, 24 sĩ quan); làm bị thương 568 tên (có hai quan ba, một quan một và chín sĩ quan); bắt 160 tên; phá huỷ 80 xe cơ giới, đánh hỏng 18 chiếc khác; đốt ba kho và 498 thùng xăng; phá huỷ hai kho lương thực, hai kho vũ khí, bắn trọng thương hai máy bay, phá huỷ 12 cầu, cắt 43.747 mét dây điện thoại, phá 24 quãng đường với 1324 hố chữ nhật. Ta thu 15 đại liên, bốn trọng liên 12,7mm, 18 trung liên, 11 súng cối, hai súng chống cơ giới Pi-át và nhiều vũ khí đạn dược, quân trang quân dụng. Ta hy sinh 50 người (có ba dân thường), bị thương 150 người và hỏng một súng máy.


So với các chiến dịch trước, chiến dịch đường số 4 (Cao-Bắc-Lạng) có bước tiến bộ mới, thể hiện ở nghệ thuật nghi binh lừa địch, thu hút phân tán lực lượng chúng ra hướng khác, bảo đảm chắc thắng cho hướng chính; nghệ thuật điều hành chiến dịch, chọn đúng khu vực tiến công chủ yếu (Thất Khê-Na Sầm), đúng mục tiêu mở màn cũng như việc điều chỉnh lực lượng giữa đánh địch vận động và đánh địch trong vị trí, nhất là ở đợt 2. Ta đã giữ được quyền chủ động chiến dịch từ khi mở màn đến khi kết thúc. Đã thực hiện được yêu cầu tiêu diệt một bộ phận sinh lực địch, tiêu diệt và bức rút nhiều vị trí; phá sập một cầu quan trọng trên đường số 4 (Bản Trại), phá huỷ được nhiều phương tiện vận tải, thu nhiều vũ khí và trang bị của địch, buộc chúng phải dùng cả một trung đoàn Âu-Phi (RICM) làm lực lượng hộ tống các đoàn công-voa trên đường số 4. Bước chuẩn bị và công tác hậu cần chiến dịch thực hiện khá chu đáo.

Nhưng chiến dịch chưa đạt được mục tiêu, nhiệm vụ chủ yếu là “Làm tê liệt đường số 4”. Cấp chiến dịch chưa quán triệt đầy đủ nhiệm vụ cắt đứt đường số 4, chưa chọn cách đánh phù hợp với khả năng, trình độ của bộ đội lúc này là “phục kích có lợi hơn tập kích”, nhằm phá cầu, đường, bắn tỉa, bẫy mìn, địa lôi trên trục giao thông. Hiện tượng ham đánh đồn còn phổ biến. Đánh điểm chưa gắn chặt với diệt viện. Trong khi địch vẫn vận chuyển tiếp tế mà cả một trung đoàn đánh phục kích, hơn một tháng rưỡi chỉ đánh được hai trận (15 tháng 3 và 25 tháng 4) có hiệu suất cao. Sau ít ngày ta để cho địch bịt được cả đồn và cầu Bản Trại là ta không phát huy được kết quả của trận khêu ngòi, bộ đội bỏ lỡ nhiều cơ hội diệt địch khi chúng cơ động trên trục lộ, bên ngoài công sự.
____________________________________
1.Bốn vị trí ta tiêu diệt: Ba Son, Bản Trại, Đèo Khách, Bản Pát. Sáu vị trí ta bức rút: Lũng Phầy, Bình Nhi, Pò Mã, Pò Piao, Chiềng Mân, Nà Mần. Chín vị trí địch bị tiêu hao: Dốc Na, Bông Lau, Nà Lèng, Na Sầm, Thất Khê, Bản Ne, Lũng Vài, Chấp Chịu, Chợ Cáy.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét