Thứ Tư, 27 tháng 7, 2016
CÁC BẬC NHÂN TÀI KHOA HỌC 5
13-Blaise Pascal
1623-1662
Pháp
Vật Lý, Toán Học, Khoa Học Máy Tính
Blaise Pascal
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Sinh | 19 tháng 6, 1623 Clermont-Ferrand, Auvergne, Pháp |
---|---|
Mất | 19 tháng 8, 1662 (39 tuổi) Paris, Pháp |
Cư trú | Pháp |
Quốc tịch | Pháp |
Thời đại | Triết học thế kỷ 17 |
Lĩnh vực | Triết học phương Tây |
Tôn giáo | Công giáo Rô-ma |
Trường phái |
|
Sở thích | |
Ý tưởng nổi trội |
|
Năm 1642, khi còn là một thiếu niên, Pascal bắt tay vào một số nghiên cứu tiên phong về máy tính. Sau ba năm nỗ lực với năm mươi bản mẫu, cậu đã phát minh máy tính cơ học, chế tạo 20 máy tính loại này (gọi là máy tính Pascal, về sau gọi là Pascaline) trong vòng mười năm. Pascal là một nhà toán học tài danh, giúp kiến tạo hai lĩnh vực nghiên cứu quan trọng: viết một chuyên luận xuất sắc về hình học xạ ảnh khi mới 16 tuổi, rồi trao đổi với Pierre de Fermat về lý thuyết xác suất, có ảnh hưởng sâu đậm trên tiến trình phát triển kinh tế học và khoa học xã hội đương đại. Tiếp bước Galileo và Torricelli, năm 1646, ông phản bác những người theo Aristotle chủ trương thiên nhiên không chấp nhận khoảng không. Kết quả nghiên cứu của Pascal đã gây ra nhiều tranh luận trước khi được chấp nhận.
Năm 1646, Pascal và em gái Jacqueline gia nhập một phong trào tôn giáo phát triển bên trong Công giáo mà những người gièm pha gọi là thuyết Jansen. Cha ông mất năm 1651. Tiếp sau một trải nghiệm tâm linh xảy ra cuối năm 1654, ông trải qua "sự qui đạo thứ nhì", từ bỏ nghiên cứu khoa học, và hiến mình cho triết học và thần học. Hai tác phẩm nổi tiếng nhất của Pascal đánh dấu giai đoạn này: Lettres provinciales (Những lá thư tỉnh lẻ) và Pensées (Suy tưởng), tác phẩm đầu được ấn hành trong bối cảnh tranh chấp giữa nhóm Jansen với Dòng Tên. Cũng trong năm này, ông viết một luận văn quan trọng về tam giác số học.
Pascal có thể chất yếu đuối, nhất là từ sau 18 tuổi đến khi qua đời, chỉ hai tháng trước khi tròn 39 tuổi.
Thiếu thời và học vấn
Năm 1631, năm năm sau khi vợ qua đời, Étienne Pascal cùng các con dọn đến Paris. Étienne, không chịu tái hôn, muốn tự mình giáo dưỡng con cái bởi vì cả ba đều đặc biệt xuất sắc về trí tuệ, nhất là cậu con trai. Từ bé, Pascal đã thể hiện năng khiếu đáng kinh ngạc về toán và khoa học.
Pascal đặc biệt yêu thích một nghiên cứu của Desgargues về đường conic. Bước theo tư duy của Desargues, cậu thiếu niên Pascal 16 tuổi viết một tiểu luận về cái gọi là "Mystic Hexagram", Essai pour les coniques, rồi gởi cho Marin Mersenne ở Paris; nổi tiếng cho đến ngày nay như là Định lý Pascal.
Những nghiên cứu của Pascal quá xuất sắc đến nỗi Descartes tin rằng cha cậu mới là người viết ra chúng. Khi Mersenne quả quyết rằng đó là thành quả của cậu con trai chứ không phải ông bố, Descartes không tin, "Tôi không thấy lạ khi tác giả trình bày về conic chính xác hơn những người đi trước," ông tiếp, "nhưng khó có thể một cậu bé mười sáu tuổi đề xuất được những vấn đề khác liên quan đến chủ đề này."
Giống nhiều người khác, Étienne bị buộc phải rời khỏi Paris vì chống đối chính sách tài chính của Hồng y Richelieu, để lại ba người con cho người hàng xóm Madame Sainctot chăm sóc, Sainctot là một phụ nữ đẹp nhưng có một quá khứ tai tiếng, bà đang cai quản một trong những salon sang trọng và trí thức nhất Paris. Chỉ đến khi Jacqueline trình diễn trong một vở kịch thiếu nhi có sự tham dự của Richelieu, Étienne mới được ân xá. Étienne nhận được sự ưu ái của hồng y, đến năm 1639 ông được bổ nhiệm làm ủy viên thuế tại Rouen – do những cuộc nổi loạn, sổ sách thuế ở đây thật rối bời.
Năm 1642, với mong muốn giúp đỡ cha trong công việc tính toán triền miên về những khoản trả thuế và nợ thuế, Pascal, chưa tròn 19 tuổi, chế tạo một máy tính cơ học có thể thực hiện phép cộng và trừ, được gọi là máy tính Pascal hoặc Pascaline. Musée des Arts et Métiers ở Paris và Bảo tàng Zwinger ở Dresden, Đức, trưng bày hai trong số những máy tính cơ học nguyên thủy này. Mặc dù những máy tính này là tiền thân của kỹ thuật máy tính hiện đại, chúng không đạt được thành công đáng kể nào về thương mại. Do giá quá mắc, chúng trở thành một biểu tượng về địa vị xã hội, chỉ dành cho giới giàu có ở Pháp và khắp Âu châu. Pascal tiếp tục cải tiến thiết kế, trong thập niên kế tiếp ông chế tạo cả thảy 20 máy tính.
Trong suốt cuộc đời mình, Pascal luôn có ảnh hưởng trên nền toán học. Năm 1653, ông viết Traité du triangle arithmétique ("Chuyên luận về Tam giác Số học") miêu tả một biểu mẫu nay gọi là Tam giác Pascal. Tam giác này có thể được trình bày như sau:
0 | 1 | 2 | 3 | 4 | 5 | 6 | |
---|---|---|---|---|---|---|---|
0 | 1 | 1 | 1 | 1 | 1 | 1 | 1 |
1 | 1 | 2 | 3 | 4 | 5 | 6 | |
2 | 1 | 3 | 6 | 10 | 15 | ||
3 | 1 | 4 | 10 | 20 | |||
4 | 1 | 5 | 15 | ||||
5 | 1 | 6 | |||||
6 | 1 |
Ở những hàng tiếp theo:
- Con số đầu tiên và con số cuối cùng bao giờ cũng là 1;
- Mỗi con số bên trong sẽ bằng tổng của hai con số đứng ngay ở hàng trên:
Tôn giáo, triết học, và văn chương
Trải nghiệm tôn giáo
Cả hai đều chịu ảnh hưởng của Jean Guillebert thành viên một nhóm độc lập hoạt động bên trong Giáo hội Công giáo gọi là Nhóm Jansen. Đây là một giáo phái nhỏ chủ trương theo sát thần học Augustine. Cũng đáng ngạc nhiên khi vào thời điểm ấy, nhóm Jansen đã có thể tự xoay xở để tồn tại và phát triển bên trong giáo hội. Blaise thường xuyên đàm đạo với hai bác sĩ, và mượn họ sách của các tác gia theo thuyết Jansen. Đây là giai đoạn Pasacal trải nghiệm điều ông gọi là "lần qui đạo thứ nhất", và khởi sự viết về những chủ đề thần học.
Tuy nhiên, trong vài năm Pascal tẻ tách khỏi nếp sống tôn giáo và những trải nghiệm tâm linh, quãng thời gian này những người viết tiểu sử Pascal gọi là "giai đoạn trần tục" (1648 – 1654). Cha ông qua đời năm 1651, để lại tài sản cho Pascal và Jacqueline. Jacqueline cho biết cô sẽ trở thành nữ tu trong Tu viện Port-Royal, trung tâm của phong trào Jansen. Bị tác động bởi quyết định của em gái, Pascal rất buồn, không phải vì chọn lựa của cô em, mà vì tình trạng sức khỏe tồi tệ của ông, luôn cần đến sự giúp đỡ của cô.
"Thế là bùng nổ chiến tranh bên trong gia đình Pascal. Blaise nài xin Jacqueline đừng đi, nhưng cô tỏ ra kiên quyết. Ông yêu cầu cô ở lại, nhưng chẳng hiệu quả gì. Căn cốt của vấn đề là... Blaise sợ bị bỏ rơi... nếu Jacqueline đến Port-Royal, nếu bỏ đi Jacqueline cũng phải từ bỏ tài sản thừa kế.... nhưng chẳng có điều gì có thể thay đổi quyết định của cô."
Đến cuối tháng 10 năm 1651, có một cuộc đình chiến giữa hai anh em. Jacqueline ký chuyển nhượng tài sản thừa kế cho ông anh, ngược lại cô sẽ nhận một khoản chu cấp y tế hằng năm. Trước đó chị cả Gilberte đã nhận phần của mình như là của hồi môn. Đầu tháng 1, Jacqueline đến Port-Royal. Vào ngày ấy, theo ghi nhận của Gilberte, "Blaise cực kỳ buồn bã, giam mình trong phòng mà không chịu gặp Jacqueline, lúc ấy đang đợi ở phòng khách..." Đến đầu tháng 6 năm 1653, sau nhiều phiền toái do Gilberte gây ra, Pascal chính thức ký chuyển giao toàn bộ tài sản thừa kế của cô em gái cho tu viện Port-Royal
Trong một thời gian, Pascal theo đuổi nếp sống độc thân. Trong lần thăm em gái năm 1654 tại Port-Royal, ông tỏ ra coi thường chuyện trần gian nhưng lại không muốn đến gần với Chúa.
Thần học Jansen
Phong trào gặp phải sự chống đối từ hệ thống phẩm trật của giáo hội, nhất là các tu sĩ Dòng Tên. Mặc dù tự nhận là những người nhiệt thành theo giáo huấn của Augustine, họ bị gán cho cái tên "thuyết Jansen" ngụ ý họ chịu ảnh hưởng của Thần học Calvin. Chỉ dụ Cum occasione do Giáo hoàng Innocent X ban hành năm 1653 kết án năm giáo thuyết quan trọng của thần học Jansen – đặc biệt là sự liên quan giữa ý chí tự do và ân điển, theo lời dạy của Augustine được nhóm Jansen rao giảng, bị cho là đối nghịch với lời giảng của trường phái Dòng Tên.
Do nỗ lực thích ứng với chỉ dụ của Giáo hoàng trong khi vẫn cố duy trì sự khác biệt của mình, nhóm Jansen được bình an phần nào trong giai đoạn cuối thế kỷ 17 dưới triều Giáo hoàng Clement IX. Tuy nhiên, những cuộc tranh luận tiếp diễn dẫn đến việc Giáo hoàng Clement XI ra chỉ dụ Unigenitus năm 1713 chấm dứt thái độ hòa hoãn của Công giáo đối với thần học Jansen.
Lettres provinciales
Đêm 23 tháng 11 năm 1654 khoảng giữa 10:30 đến 12:30, Pascal trải qua một nhận thức tôn giáo dữ dội đến nỗi ông vội ghi lại trải nghiệm này, "Lửa. Thiên Chúa của Abraham, Thiên Chúa của Isaac, Thiên Chúa của Jacob, không phải của những triết gia và các học giả..." rồi kết thúc bằng cách trích dẫn Thi Thiên 119: 16. "Tôi sẽ không quên lời Chúa. Amen." Ông cẩn thận khâu ghi chép này vào áo khoác, mỗi khi thay áo ông lại khâu nó vào chiếc áo mới; chỉ sau khi Pascal mất, một người hầu mới phát hiện điều này. Văn kiện được biết đến ngày này như là Memorial. Niềm tin và lòng mộ đạo được phục hưng, Pascal đến thăm tu viện Port-Royal, và ở lại đó hai tuần trong tháng 1 năm 1655. Suốt bốn năm kế tiếp, ông thường xuyên đến Port-Royal. Chính là từ thời điểm ngay sau khi qui đạo, Pascal khởi sự viết tác phẩm văn chương quan trọng đầu tiên của ông xoay quanh chủ đề tôn giáo, Lettres provinciales.Từ năm 1656, Pascal bắt đầu công kích một phương pháp gọi là casuistry (ngụy lý) thường được những nhà tư tưởng Công giáo sử dụng trong thời kỳ này (đặc biệt là các tu sĩ dòng Tên, nổi bật nhất là Antonio Escobar). Pascal xem ngụy lý là cách sử dụng những lập luận phức tạp nhằm biện minh cho sự băng hoại đạo đức và mọi thứ tội lỗi. Một chuỗi 18 lá thư được xuất bản từ năm 1656 đến 1657 dưới bút danh Louis de Montalte đã khiến Louis XIV giận dữ. Năm 1660, nhà vua ra lệnh xé bỏ và đốt cuốn sách này. Đến năm 1661, ngay giữa lúc bùng nổ cuộc tranh cãi giữa nhóm Jansen và các tu sĩ dòng Tên, trường học của nhóm Jansen ở Port-Royal bị đóng cửa; nhà trường buộc phải cam kết theo chỉ dụ Giáo hoàng năm 1656 kết án giáo huấn của Jansen là tà giáo. Bức thư cuối cùng của Pascal viết năm 1657 đả kích Giáo hoàng Alexander II. Mặc dù công khai chống đối những bức thư này, Giáo hoàng cũng bị thuyết phục trước những luận cứ của Pascal.
Bên cạnh những ảnh hưởng tôn giáo, Lettres provinciales được yêu thích như là một tác phẩm văn chương. Thủ pháp trào phúng, chế giễu, và châm biếm được Pascal sử dụng cho những lập luận của ông đã thu hút sự chú ý của công chúng, cũng như đã có ảnh hưởng đến những tác phẩm văn xuôi của các tác giả người Pháp hậu sinh như Voltaire và Jean-Jacques Rousseau.
Pensées
Phiên bản đầu tiên gồm những tờ giấy rời tìm thấy sau khi Pascal mất được in thành sách năm 1669 có tựa Pensées de M. Pascal sur la religion, et sur quelques autres sujets (Những suy tưởng của M. Pascal về tôn giáo, và về một số chủ đề khác) chẳng bao lâu trở thành cuốn sách kinh điển. Một trong những chiến lược chính của cuốn Apologie là sử dụng hai triết lý sống đối nghịch nhau, hoài nghi và khắc kỷ, thể hiện qua tính cách của Montaigne và Epictetus nhằm đẩy người không có niềm tin vào tình trạng tuyệt vọng và hoang mang để rồi cuối cùng chấp nhận đến với Chúa.
Nhiều người xem cuốn Pensées của Pascal là một kiệt tác, một dấu mốc cho văn xuôi Pháp. Nhà phê bình văn học Sainte-Beuve ca ngợi một trong những phân đoạn của cuốn sách (Suy tưởng #71) là những trang viết tinh túy nhất trong tiếng Pháp. Will Durant tán dương Pensées như là "quyển sách có sức thuyết phục mạnh mẽ nhất trong văn xuôi Pháp." Trong Pensées, Pascal xem xét một số nghịch lý triết học: vô hạn và hư vô, đức tin và lý trí, linh hồn và vật chất, sự chết và sự sống, ý nghĩa và sự hư không của cuộc sống.
Triết lý đặt cược của Pascal
Mặc định rằng con người đặt cược cuộc đời mình để xem Thiên Chúa hiện hữu hay không hiện hữu. Sẽ được hoặc mất (cả hai đều có giá trị vô hạn) phụ thuộc vào việc có niềm tin hay không, triết lý đặt cược của Pascal lập luận rằng một người có lý trí sẽ sống như thể Chúa thực sự hiện hữu, vì vậy mà tin Ngài. Còn nếu Chúa không hiện hữu, người ấy sẽ chẳng mất mát gì nhiều (một số lạc thú chóng qua, cuộc sống xa hoa ở trần gian,.v..v..). Triết lý này theo logic sau (trích từ Pensées, phần III, §233):- "Thiên Chúa hiện hữu hay không hiện hữu"
- Trò chơi ném đồng tiền để xem... mặt sấp hay mặt ngửa.
- Bạn chỉ có thể chọn một trong hai.
- Vì vậy, bạn phải đặt cược (không có chọn lựa nào khác).
- Hãy cân nhắc xem khi đặt cược Chúa hiện hữu bạn sẽ được gì, mất gì. Sẽ có hai tình huống: Nếu thắng, bạn được tất cả; nếu thua, bạn chẳng mất gì.
- Vậy thì, đừng ngại ngần gì mà hãy đặt cược Chúa hiện hữu. Bạn sẽ có một thế giới vĩnh cửu với cuộc sống hạnh phúc vô hạn ở đó.
Tạ thế
Trong năm 1661, Louis XIV ra tay đàn áp phong trào Jansen ở Port-Royal. Pascal viết một trong những cuốn sách sau cùng của ông, Écrit sur la signature du formulaire, khích lệ những người Jansen đừng bỏ cuộc. Cuối năm 1661, em gái ông Jacqueline qua đời khiến Pascal ngưng những bài bút chiến tranh luận về thuyết Jansen. Lúc này Pascal quay lại với thiên tài khoa học của mình, phát minh điều có lẽ là lộ trình xe buýt đầu tiên, chuyển vận hành khách trong nội thành Paris trên một chiếc xe có nhiều chỗ ngồi.
Năm 1662, bệnh trở nặng, tình trạng tâm lý của Pascal càng tồi tệ hơn sau cái chết của em gái. Ông từ trần ngày 19 tháng 8 năm 1662 tại Paris. Ông được an táng tại nghĩa trang Saint-Étienne-du-Mont.
Khám nghiệm tử thi Pascal cho thấy có vấn đề nghiêm trọng với dạ dày và các cơ quan khác ở vùng bụng, và não bị tổn thương. Chưa bao giờ xác định được nguyên nhân gây ra thể trạng yếu đuối của Pascal, dù có những suy đoán như bệnh lao, ung thư dạ dày, hoặc có thể là kết hợp giữa hai bệnh.
Di sản
Để tôn vinh những đóng góp khoa học của ông, tên của Pascal được đặt cho một ngôn ngữ lập trình, cũng như Định luật Pascal là một nguyên tắc quan trọng trong thủy tĩnh học. Ngoài ra, còn có Tam giác Pascal, và Triết lý đặt cược của Pascal.Trong lĩnh vực văn học, Pascal được xem là một trong những tác gia quan trọng nhất của thời kỳ cổ điển Pháp, cho đến ngày nay người ta vẫn tìm đọc các tác phẩm của ông, và xem ông như là một trong những bậc thầy về văn xuôi Pháp. Văn phong trào phúng và dí dỏm của ông đã có ảnh hưởng đến những cây bút chính luận.
Tại Pháp, giải thưởng danh giá, Blaise Pascal Chairs, được trao cho những nhà khoa học quốc tế kiệt xuất để tổ chức nghiên cứu trong vùng Ile de France. Một trong những viện đại học của Clermont-Ferrand ở Pháp – Université Blaise Pascal – được đặt theo tên của ông. Đại học Waterloo, Ontario, Canada, tổ chức cuộc tranh tài toán học hằng năm mang tên Pascal.
Phim tiểu sử Blaise Pascal do Roberto Rosellini làm đạo diễn được phát sóng trên truyền hình Ý trong năm 1971. Pascal cũng được chọn làm chủ đề cho phiên bản đầu tiên cuốn phim tài liệu của BBC, Sea of Faith.
Câu nói nổi tiếng
- Nếu mũi của Cleopatra ngắn hơn một chút thì khuôn mặt của cả trái đất này hẳn đã thay đổi.
- Ái tình và hạnh phúc là hình với bóng, nếu biết bảo vệ thì hạnh phúc sẽ thành sự thật, ngược lại nếu không biết bảo vệ thì hạnh phúc chỉ là một hình ảnh ảo tưởng không bao giờ có.
- Con người chỉ là cây sậy, thực thể yếu đuối nhất trong thiên nhiên, nhưng là cây sậy biết suy nghĩ.
- Tư tưởng tạo nên sự vĩ đại của con người.
- Tình trạng của con người: hay thay đổi, buồn chán, lo âu.
- Con người không phải là thiên thần hay ác quỷ, nhưng điều bất hạnh là họ đóng vai thiên thần mà hành động như ác quỷ.
- Công lý không có sức mạnh thì bất lực; sức mạnh không có công lý là bạo tàn.
- Tại sao chúng ta theo phe đa số? Bởi vì họ sáng suốt hơn? Không phải, bởi vì họ có nhiều quyền lực hơn.
- Ít có tình bạn nào còn kéo dài nếu người ta biết bạn hữu nói gì sau lưng mình.
- Bạn có muốn người ta nghĩ tốt về mình? Vậy thì, đừng nói tốt về mình.
- Đam mê không thể nào làm hại chúng ta, hãy hành động như thể chúng ta chỉ có tám giờ đồng hồ để sống.
- Sự sống là điều duy nhất ngăn cách chúng ta với thiên đàng hoặc địa ngục, mà đó là điều mong manh nhất trên thế gian này.
- Trái tim có lý lẽ của nó mà Lý trí không biết được. Từ đó chúng ta cảm nhận vô số điều. Chính là từ trái tim, không phải bởi Lý trí, chúng ta cảm nhận được Thiên Chúa. Và đó là đức tin trọn vẹn: Thiên Chúa được cảm nhận từ trái tim.
- Trong đức tin có đủ ánh sáng cho những ai muốn tin, và có đủ bóng tối để làm mờ mắt những ai không muốn tin.
- Có hai hạng người đáng được xem là sáng suốt: những người tận tâm phụng sự Chúa bởi vì họ biết Ngài, và những người hết lòng tìm kiếm Chúa bởi vì họ chưa biết Ngài.
- Thiên Chúa của người tín hữu Cơ Đốc là Thiên Chúa của tình yêu và sự an ủi, là Thiên Chúa làm đầy trọn linh hồn và tấm lòng của những ai thuộc về Ngài, khiến họ thấu hiểu những tranh chấp nội tâm của chính mình, và hiểu lòng thương xót vô hạn của Ngài, là đấng hiện hữu tại nơi sâu thẳm nhất của linh hồn họ, khiến nó viên mãn với đức khiêm nhu và niềm vui thỏa, với lòng tin cậy và tình yêu thương, đến nỗi họ không còn mục đích nào khác hơn là sống cho Ngài.
- Hiểu biết về Thiên Chúa mà không biết gì về tình trạng khốn cùng của con người sẽ sinh ra kiêu ngạo. Hiểu biết về tình trạng khốn cùng của con người mà không biết gì về Thiên Chúa dẫn đến tuyệt vọng. Hiểu biết về Chúa Giê-xu mở ra con đường trung dung, bởi vì trong Ngài chúng ta tìm thấy Thiên Chúa và nhận ra tình trạng khốn cùng của mình.
- Mọi thứ luôn tuyệt khi đó là lúc bắt đầu.
- Chúng ta nên biết giới hạn của mình. Chúng ta có thể là một thứ gì đó. Nhưng không ai trong chúng ta là tất cả.
- Trang này được sửa đổi lần cuối lúc 10:25 ngày 4 tháng 7 năm 2016.
Blaise Pascal – Nhà khoa học có tâm hồn văn chương
Không phải ngẫu nhiên mà Bergson - nhà triết học, nhà văn
Pháp nổi tiếng giành giải thưởng Nobel Văn học năm 1928 đã phải đưa ra
một nhận xét: "Những máy đo lường của chúng ta quá ngắn để ước lượng
được chiều sâu tư duy của Pascal". Không chỉ là một nhà toán học thiên
tài, Pascal còn là một nhà vật lí học nổi tiếng, nhà văn và là nhà tư
tưởng lớn của nhân loại.
Chân dung nhà khoa học Blaise Pascal - Ảnh: imgur.com
Tài không đợi tuổi
Blaise Pascal sinh ngày 19 tháng 6 năm 1623, tại Clermont Ferrand, miền Auvergne nước Pháp. Cha của Pascal, ông Etienne, trước kia là một luật gia tại thành phố Paris. Vào lúc Pascal chào đời, ông Etienne đang đảm nhận vai trò Chánh án tòa Hộ tại Clermont. Mẹ của Pascal qua đời khi ông chỉ mới được ba tuổi.
Ngay từ khi mới tập nói, Pascal đã tỏ ra là một đứa trẻ có năng khiếu khác thường, hay hỏi người lớn những câu hỏi hóc búa và bản thân cậu cũng trả lời được các câu hỏi khó. Biết được tố chất thiên tài của con nên ông Etienne quyết định giáo dục Pascal theo cách riêng của mình. Ông đặt ra nguyên tắc là khiến cho đứa trẻ phải làm các việc khó khăn hơn, tiến bộ hơn.
Vào năm 1631, ông Etienne dọn nhà lên thành phố Paris để chăm nom chuyện học hành cho con trai. Pascal được dạy cách quan sát, suy tưởng và thường tiếp thu kiến thức thông qua các cuộc đàm luận với cha. Trong lúc rảnh rỗi, ông Etienne kể cho con trai nghe các câu chuyện về Khoa học, nhưng những điều này không bao giờ làm cho Pascal thõa mãn, cậu luôn luôn khao khát những lý lẽ cuối cùng của sự vật.
Một hôm, khi bước vào phòng, ông Etienne vô cùng ngạc nhiên khi thấy con trai đang loay hoay dùng phấn chứng minh trên nền nhà định luật thứ nhất trong 32 định luật của Euclide. Xưa nay, ông Etienne chưa từng dạy Toán học cho con bao giờ, hơn nữa định luật của Euclide là một bài toán rất khó đối với người lớn, không phải dành cho một đứa trẻ 12 tuổi. Pascal đã chứng minh được rằng tổng số các góc trong một tam giác bằng hai góc vuông, đúng như Euclide từng phát biểu. Nhưng vì chưa từng học môn Hình học nên Pascal đã gọi đường tròn là "cái tròn", đường thẳng là "cái thước kẻ".
Từ đây, Pascal mới được cha cho phép đọc các cuốn khái luận của Euclide. Với trí thông minh sẵn có, Pascal đọc tới đâu, hiểu tới đó mà không cần một ai giảng giải. Cậu còn giải được nhiều bài toán khó. Sự mày mò tìm hiểu xuất phát từ niềm đam mê khiến Pascal chẳng bao lâu đã trở thành một nhà toán học trẻ có hạng.
Sáng chế ra máy tính đầu tiên
Thời bấy giờ, ông Etienne thường gặp gỡ nhiều nhân vật danh tiếng về Khoa học nên Pascal cũng được tham dự vào các buổi hội thảo. Nhờ đó, Pascal có cơ hội trình bày những điều do mình khám phá, cũng như góp các tư tưởng, lý luận về những tác phẩm của các nhà bác học đương thời.
Năm 16 tuổi, Pascal công bố một công trình toán học: "Về thiết diện của đường coniques", trong đó cậu đã chứng minh một định lý nổi tiếng, đó là định lý về lục giác thần kì. Pascal đã rút ra 400 hệ quả từ định lý này. Nhà toán học đồng thời là nhà triết học vĩ đại Descartes đã phải thốt lên: "Thật không thể tưởng tượng nổi một người ở tuổi thiếu niên lại có thể làm nên một công trình tầm cỡ như thế". Tác phẩm của Pascal đã khiến rất nhiều nhà toán học xuất sắc đương thời phải bái phục. Không ít người còn đề nghị Pascal cho in thành sách, song vì khiêm tốn, Pascal đã từ chối.
Chiếc máy tính cơ học của Blaise Pascal Ảnh: liveauctioneers.com
Khi ông Etienne giữ chức vụ Giám đốc Thuế vụ miền Rouen, sổ sách kế
toán quá nhiều khiến ông mệt mỏi. Để giúp đỡ cha, Pascal đã mày mò nhiều
năm liền để sáng chế ra một chiếc máy tính có thể thực hiện các phép
tính cộng, trừ, nhân, chia đơn giản. Đến nay, nguyên tắc của nó vẫn còn
được áp dụng cho các loại máy tính tối tân, hiện đại. Phát minh này đã
làm rạng danh tên tuổi của Pascal.
Blaise Pascal - "Cây sậy biết suy nghĩ"
Là một nhà triết học, Pascal rất nổi tiếng với câu nói "Con người là một cây sậy, nhưng là cây sậy biết suy nghĩ". Tương truyền, có một người bạn đã khuyên Pascal từ bỏ khoa học để đi theo tôn giáo, với lý do: "Con người chỉ là một cây sậy yếu ớt trước tạo hóa vô biên. Làm sao anh có thể đương đầu nổi với giông tố cuộc đời". Pascal đã tự tin trả lời: "Đúng, con người chỉ là một cây sậy mềm yếu, nhưng là một cây sậy biết suy nghĩ. Vì thế, nó không bao giờ chịu cho giông tố dập vùi…".
Năm 1654, Pascal tới thăm em gái trong một tu viện tại Port Royal. Chuyến viếng thăm này đã khiến Pascal càng thêm "ghê tởm sự giả dối cực độ của người đời". Cũng năm đó, sau một lần thoát chết trong vụ tai nạn xe cộ, Pascal đã có nhiều chuyển hướng trong nhận thức. Ông bắt đầu quan tâm tới tôn giáo và thần học. Các tác phẩm của ông trong thời kỳ này gồm "Những bức thư của Louis de Montalte" viết cho một người bạn ở tỉnh nhỏ (1656 - 1657), được coi là một áng văn kinh điển; tác phẩm "Suy nghĩ" (xuất bản năm 1669, sau khi tác giả qua đời), được xem là một tác phẩm triết học và văn chương bậc thầy.
Tháng 6 năm 1662, Pascal quyết định tặng căn hộ mình đang ở cho một gia đình nghèo mắc bệnh đậu mùa và dọn đến ở với người chị gái tên Gilberte. Tại đây, Pascal bị bệnh tật hành hạ suốt hai tháng trời. Ông trút hơi thở cuối cùng vào ngày 19 tháng 8 năm 1662, hưởng thọ 39 tuổi. Để ghi nhớ bậc Vĩ nhân Khoa học này, người ta đã phát hành tem thư, tổ chức các buổi thuyết trình về Triết học, Toán học và Văn chương. Nhiều phòng triển lãm đã trưng bày các tác phẩm của Pascal cùng chiếc máy tính là phát minh lừng danh của nhà toán học thiên tài này.
Chân dung nhà khoa học Blaise Pascal - Ảnh: imgur.com
Blaise Pascal sinh ngày 19 tháng 6 năm 1623, tại Clermont Ferrand, miền Auvergne nước Pháp. Cha của Pascal, ông Etienne, trước kia là một luật gia tại thành phố Paris. Vào lúc Pascal chào đời, ông Etienne đang đảm nhận vai trò Chánh án tòa Hộ tại Clermont. Mẹ của Pascal qua đời khi ông chỉ mới được ba tuổi.
Ngay từ khi mới tập nói, Pascal đã tỏ ra là một đứa trẻ có năng khiếu khác thường, hay hỏi người lớn những câu hỏi hóc búa và bản thân cậu cũng trả lời được các câu hỏi khó. Biết được tố chất thiên tài của con nên ông Etienne quyết định giáo dục Pascal theo cách riêng của mình. Ông đặt ra nguyên tắc là khiến cho đứa trẻ phải làm các việc khó khăn hơn, tiến bộ hơn.
Vào năm 1631, ông Etienne dọn nhà lên thành phố Paris để chăm nom chuyện học hành cho con trai. Pascal được dạy cách quan sát, suy tưởng và thường tiếp thu kiến thức thông qua các cuộc đàm luận với cha. Trong lúc rảnh rỗi, ông Etienne kể cho con trai nghe các câu chuyện về Khoa học, nhưng những điều này không bao giờ làm cho Pascal thõa mãn, cậu luôn luôn khao khát những lý lẽ cuối cùng của sự vật.
Một hôm, khi bước vào phòng, ông Etienne vô cùng ngạc nhiên khi thấy con trai đang loay hoay dùng phấn chứng minh trên nền nhà định luật thứ nhất trong 32 định luật của Euclide. Xưa nay, ông Etienne chưa từng dạy Toán học cho con bao giờ, hơn nữa định luật của Euclide là một bài toán rất khó đối với người lớn, không phải dành cho một đứa trẻ 12 tuổi. Pascal đã chứng minh được rằng tổng số các góc trong một tam giác bằng hai góc vuông, đúng như Euclide từng phát biểu. Nhưng vì chưa từng học môn Hình học nên Pascal đã gọi đường tròn là "cái tròn", đường thẳng là "cái thước kẻ".
Từ đây, Pascal mới được cha cho phép đọc các cuốn khái luận của Euclide. Với trí thông minh sẵn có, Pascal đọc tới đâu, hiểu tới đó mà không cần một ai giảng giải. Cậu còn giải được nhiều bài toán khó. Sự mày mò tìm hiểu xuất phát từ niềm đam mê khiến Pascal chẳng bao lâu đã trở thành một nhà toán học trẻ có hạng.
Sáng chế ra máy tính đầu tiên
Thời bấy giờ, ông Etienne thường gặp gỡ nhiều nhân vật danh tiếng về Khoa học nên Pascal cũng được tham dự vào các buổi hội thảo. Nhờ đó, Pascal có cơ hội trình bày những điều do mình khám phá, cũng như góp các tư tưởng, lý luận về những tác phẩm của các nhà bác học đương thời.
Năm 16 tuổi, Pascal công bố một công trình toán học: "Về thiết diện của đường coniques", trong đó cậu đã chứng minh một định lý nổi tiếng, đó là định lý về lục giác thần kì. Pascal đã rút ra 400 hệ quả từ định lý này. Nhà toán học đồng thời là nhà triết học vĩ đại Descartes đã phải thốt lên: "Thật không thể tưởng tượng nổi một người ở tuổi thiếu niên lại có thể làm nên một công trình tầm cỡ như thế". Tác phẩm của Pascal đã khiến rất nhiều nhà toán học xuất sắc đương thời phải bái phục. Không ít người còn đề nghị Pascal cho in thành sách, song vì khiêm tốn, Pascal đã từ chối.
Chiếc máy tính cơ học của Blaise Pascal Ảnh: liveauctioneers.com
Blaise Pascal - "Cây sậy biết suy nghĩ"
Là một nhà triết học, Pascal rất nổi tiếng với câu nói "Con người là một cây sậy, nhưng là cây sậy biết suy nghĩ". Tương truyền, có một người bạn đã khuyên Pascal từ bỏ khoa học để đi theo tôn giáo, với lý do: "Con người chỉ là một cây sậy yếu ớt trước tạo hóa vô biên. Làm sao anh có thể đương đầu nổi với giông tố cuộc đời". Pascal đã tự tin trả lời: "Đúng, con người chỉ là một cây sậy mềm yếu, nhưng là một cây sậy biết suy nghĩ. Vì thế, nó không bao giờ chịu cho giông tố dập vùi…".
Năm 1654, Pascal tới thăm em gái trong một tu viện tại Port Royal. Chuyến viếng thăm này đã khiến Pascal càng thêm "ghê tởm sự giả dối cực độ của người đời". Cũng năm đó, sau một lần thoát chết trong vụ tai nạn xe cộ, Pascal đã có nhiều chuyển hướng trong nhận thức. Ông bắt đầu quan tâm tới tôn giáo và thần học. Các tác phẩm của ông trong thời kỳ này gồm "Những bức thư của Louis de Montalte" viết cho một người bạn ở tỉnh nhỏ (1656 - 1657), được coi là một áng văn kinh điển; tác phẩm "Suy nghĩ" (xuất bản năm 1669, sau khi tác giả qua đời), được xem là một tác phẩm triết học và văn chương bậc thầy.
Tháng 6 năm 1662, Pascal quyết định tặng căn hộ mình đang ở cho một gia đình nghèo mắc bệnh đậu mùa và dọn đến ở với người chị gái tên Gilberte. Tại đây, Pascal bị bệnh tật hành hạ suốt hai tháng trời. Ông trút hơi thở cuối cùng vào ngày 19 tháng 8 năm 1662, hưởng thọ 39 tuổi. Để ghi nhớ bậc Vĩ nhân Khoa học này, người ta đã phát hành tem thư, tổ chức các buổi thuyết trình về Triết học, Toán học và Văn chương. Nhiều phòng triển lãm đã trưng bày các tác phẩm của Pascal cùng chiếc máy tính là phát minh lừng danh của nhà toán học thiên tài này.
Minh Ly
(Tổng hợp theo cand.com.vn)
(Tổng hợp theo cand.com.vn)
BLAISE PASCAL - 'CÂY SẬY BIẾT SUY NGHĨ'
Uy Viễn | |||||||
Blaise Pascal là một "thần đồng khoa
học". Năm 16 tuổi, ông đã đưa ra một định lý mới về hình chóp. Năm 19
tuổi, chế ra một máy cộng, tiền thân của chiếc máy tính sau này. Cùng
với Pierre de Fermat, ông được coi là một trong những người sáng lập ra
lý thuyết toán xác suất. Hiện có nhiều mệnh đề và biểu thức toán học
mang tên Pascal... Tuy nhiên, ngoài các lĩnh vực trên, Pascal còn được
ghi nhận như một nhà triết học lỗi lạc và một nhà văn kiệt xuất, là "ông
tổ của chủ nghĩa hiện sinh"...
Nhân dịp tổ chức UNESCO đang xúc tiến các hoạt động nhằm kỷ niệm 350 năm ngày mất của Blaise Pascal (1662- 2012), xin được cùng bạn đọc ôn lại một số mẩu chuyện thú vị liên quan đến cuộc đời của Pascal - tác giả câu nói trứ danh "Con người là một cây sậy, nhưng là cây sậy biết suy nghĩ"... 1. Blaise Pascal sinh ngày 19 tháng 6 năm 1623 tại Clermont Ferrand, miền Auvergne nước Pháp. Khi Pascal chào đời, ông Etienne - cha của Pascal - đang giữ cương vị Chánh án tòa Hộ tại địa phương. Năm Pascal lên 3 tuổi, mẹ cậu từ trần, để lại 3 người con bấy giờ còn rất nhỏ. Tuy nhiên, ông Etienne vẫn quyết định ở vậy nuôi con và sự hy sinh của ông sau này đã được đền đáp xứng đáng. Ngay từ nhỏ, Pascal đã thể hiện là một đứa trẻ có tư chất khác thường. Cậu hay hỏi người lớn những câu hỏi không dễ giải đáp. Bản thân ông Etienne, sau nhiều lần "bí mật" quan sát con trai cũng tin tưởng rằng con mình là một thiên tài. Ông quyết định dạy con theo cách thức riêng của mình. Năm 1631, khi Pascal lên 8 tuổi, ông Etienne đã xin từ chức và đưa cả gia đình lên Paris để tiện cho việc nâng cao học vấn cho các con. Khởi đầu, ông Etienne buộc Pascal học tiếng La Tinh và tiếng Hy Lạp tới năm 12 tuổi. Vì đây là hai ngôn ngữ thuộc loại khó học nên để con trai có sự tập trung, ông Etienne đã cất giấu không cho con tiếp cận với các sách về khoa học nói chung và toán học nói riêng. Vậy mà một hôm, bước vào phòng con trai, ông bất ngờ trông thấy cậu con đang loay hoay dùng phấn chứng minh trên nền nhà một định luật của Euclide. Từ trước tới nay, nào ông Etienne có dạy cho con học toán bao giờ, huống hồ đây lại là một bài toán quá khó ngay cả với người lớn. Nghe con thuật lại cách chứng minh, người cha đã không kìm nén được sự vui sướng. Ở tuổi 12, Pascal đã chứng minh được rằng tổng số các góc trong một tam giác bằng hai góc vuông, đúng như Euclide đã từng phát biểu. Từ đây, Pascal mới được cha cho phép đọc các cuốn khái luận của Euclide. Với trí thông minh trời phú, cậu bé đọc tới đâu hiểu tới đó. Chẳng bao lâu, với việc mầy mò tự học, Pascal đã trở thành một nhà toán học trẻ có hạng. Năm 16 tuổi, Pascal công bố một công trình toán học: "Về thiết diện của đường coniques", trong đó cậu đã chứng minh một định lý nổi tiếng (sau này mang tên Pascal). Đó là định lý về lục giác thần kì. Pascal đã rút ra 400 hệ quả từ định lý này. Nhà toán học đồng thời là nhà triết học vĩ đại Descartes đã phải thốt lên: "Thật không thể tưởng tượng nổi một người ở tuổi thiếu niên lại có thể làm nên một công trình tầm cỡ như thế". Tác phẩm của Pascal đã khiến rất nhiều nhà toán học xuất sắc đương thời phải bái phục. Không ít người còn giục "tác giả nhí" cho in thành sách, song vì khiêm tốn, Pascal đã thoái thác. Chính vì lẽ đó mà tới nay, thiên hạ chỉ lưu giữ được hai cuốn sách đầu tay của bậc thiên tài này mà thôi. Năm Pascal 17 tuổi, thấy cha - bấy giờ chuyển sang sống bằng nghề kế toán - quá vất vả với các phép tính, Pascal đã nảy ra ý định chế tạo một chiếc máy tính. Sau mấy năm lao động miệt mài, cậu đã chế tạo xong chiếc máy tính với đủ chức năng cộng, trừ, nhân, chia, tuy rằng chưa phải được nhanh cho lắm. Đây chính là tiền thân của chiếc máy tính hiện nay. Và để ghi dấu ấn của Pascal, hiện người ta đã lấy tên ông đặt cho một ngôn ngữ lập trình là ngôn ngữ Pascal. Sinh thời, ông Etienne không phải là người mộ đạo. Tuy nhiên, khi ông qua đời vào năm 1651, cô em gái liền kề của Pascal là Jacqueline đã vào sống trong một tu viện tại Port Royal. Năm 1654, Pascal tới thăm em gái. Chuyến viếng thăm này đã khiến Pascal càng thêm "ghê tởm sự giả dối cực độ của người đời". Cũng năm đó, sau một lần thoát chết trong vụ tai nạn xe cộ, Pascal đã có nhiều chuyển hướng trong nhận thức. Ông bắt đầu quan tâm tới tôn giáo và thần học. Ông viết sách bình luận về tôn giáo, dùng trước tác của mình thuyết phục mọi người thấy cái cao cả của đạo Cơ Đốc. Các tác phẩm của ông trong thời kỳ này gồm "Những bức thư của Louis de Montalte" viết cho một người bạn ở tỉnh nhỏ (1656 - 1657) - được coi là một áng văn kinh điển; tác phẩm "Suy nghĩ" (xuất bản năm 1669, sau khi tác giả qua đời) - được xem là một tác phẩm triết học và văn chương bậc thầy. Những việc làm của Pascal ít nhiều đều bị ảnh hưởng bởi những vụ việc liên quan tới người thân. Những năm cuối đời, sau khi một người cháu của Pascal thoát chết nhờ một sự may mắn thần diệu, Pascal chuyên tâm đọc sách và tìm kiếm tư liệu viết nên cuốn "Biện hộ cho Thiên Chúa Giáo" (tức cuốn "Suy nghĩ" xuất bản sau này). Về cuối đời, Pascal ngày càng sa vào lối sống khổ hạnh. Tháng 6 năm 1662, ông đem tặng căn hộ mình đang ở cho một gia đình nghèo mắc bệnh đậu mùa và dọn đến ở với người chị gái tên gọi Gilberte. Tại đây, Pascal đã bị bệnh tật hành hạ suốt hai tháng trời và ông đã trút hơi thở cuối cùng vào ngày 19 tháng 8 năm đó, hưởng thọ 39 tuổi. 3. Là một nhà triết học, Pascal rất nổi tiếng với định nghĩa "Con người là một cây sậy, nhưng là cây sậy biết suy nghĩ". Tương truyền, định nghĩa này có xuất xứ như sau: Một lần, có người bạn đã khẩn khoản khuyên nhủ ông từ bỏ khoa học để đi vào tôn giáo, với lý do: "Con người chỉ là một cây sậy yếu ớt trước tạo hóa vô biên. Làm sao anh có thể đương đầu nổi với giông tố cuộc đời". Pascal đã tự tin trả lời: "Đúng, con người chỉ là một cây sậy mềm yếu, nhưng là một cây sậy biết suy nghĩ. Vì thế, nó không bao giờ chịu cho giông tố dập vùi…". Tuy rất nổi tiếng với các phát kiến trong lĩnh vực khoa học tự nhiên, song Pascal cũng lại là người có những nhận xét, phân định rất được các nhà nghiên cứu khoa học xã hội "tâm phục khẩu phục". Chẳng hạn như việc ông phân biệt ở con người "hai loại đầu óc khác nhau". Một loại "đầu óc hình học" - nặng về lý tính; và một loại "óc tế nhị" - nặng về trực giác, tình cảm. Ngay các sách khoa học của Pascal cũng thấm đẫm vẻ đẹp văn chương. Giáo sư Trịnh Xuân Thuận - một nhà khoa học Mỹ gốc Việt nổi tiếng trong lĩnh vực vật lý thiên văn từng tâm sự rằng, hồi nhỏ, ông học trường Pháp ở Sài Gòn và rất thích đọc sách của các nhà triết học, nhà văn, nhà thơ Pháp như Pascal, Descartes. Giáo sư Trịnh Xuân Thuận cho rằng: "Để cho người đọc thích đọc sách khoa học và khiến họ không thể rời bỏ nó như khi đọc một cuốn tiểu thuyết hay thì khi viết, ngoài tính khoa học, tôi luôn để ý đến cách diễn đạt văn chương nữa". Qua nhận xét ấy - nhận xét của một nhà khoa học có thể đọc thẳng tác phẩm từ nguyên bản tiếng Pháp - ta có thể thấy sức hấp dẫn của văn phong Pascal mạnh mẽ đến nhường nào. Nhân đây, cũng xin nhắc lại với bạn đọc rằng, trong các danh ngôn vẫn thường được nhắc đi nhắc lại, được in trong nhiều cuốn lịch, trong nhiều cuốn sổ tay, có không ít câu là của nhà toán học kiêm nhà triết học, nhà văn Pascal. Ví như câu danh ngôn này: "Con tim có những lý lẽ mà nhiều khi lý trí không thể hiểu nổi". Một câu danh ngôn rất nổi tiếng phải không các bạn? Không chỉ có vậy, Pascal chính là tác giả của lời bình luận trứ danh về cái mũi của Nữ hoàng Ai Cập Cleopatra: "Nếu cái mũi của Cleopatra dài thêm một chút thì cục diện thế giới sẽ thay đổi". Đây không phải là cách nói của nhà toán học, mà là cách nói của một nhà văn |
|||||||
Nguồn: Văn nghệ Công an |
LỬA của PASCAL (PASCAL’s FIRE)
Abstract: Everyone knows that Blaise Pascal was one of the greatest scientists in 17th
century, but he is rather one of the greatest thinkers of all time. His
thoughts constitute an exceptional chapter of epistemology, in which
“Pascal’s Fire” is a miraculous event that less people know.
Mọi người đều biết Blaise Pascal là
một trong những nhà khoa học vĩ đại nhất của thế kỷ 17, nhưng đúng hơn,
ông là một trong những nhà tư tưởng vĩ đại nhất của mọi thời đại. Tư
tưởng của ông tạo nên một chương đặc biệt của triết học nhận thức, trong
đó “Lửa của Pascal” là một sự kiện mầu nhiệm mà ít người biết.
Nếu có một tên tuổi vĩ đại khắc sâu vào
tâm trí tôi ngay từ khi còn nhỏ, để rồi đeo đẳng cho đến tận bây giờ,
thì đó là BLAISE PASCAL. Vậy mà mãi cho tới gần đây tôi mới “khám phá”
ra một sự kiện vô cùng quan trọng trong đời ông: một cuộc gặp gỡ kỳ lạ mà ông đã ghi lại trong một tờ giấy được giấu kín, như một ghi nhớ với tiêu đề: “FEU” (Lửa).
Bản “ghi nhớ” (memorial) ấy chỉ lộ ra sau khi ông mất, và có lẽ nó sẽ
không làm cho ai chú ý nếu không được viết ra bởi một người phi thường
như Pascal.
Pascal có một cuộc đời ngắn ngủi, chỉ có
39 năm (1623 – 1662), nhưng tư tưởng của ông là bất diệt. Tuy nhiên bức
chân dung Pascal do sách báo và nền giáo dục mô tả nói chung không đầy
đủ: trong khi mọi người đều biết Pascal là một thần đồng toán học thì
hầu như rất ít người biết rõ tư tưởng triết học và thần học của ông, mặc
dù có thể đây mới là phần tài sản lớn nhất và quý giá nhất mà ông để
lại cho hậu thế.
Vì Pascal trước hết là một nhà toán học,
nên chủ đề triết học được ông thảo luận sâu sắc nhất cũng là triết học
về nền tảng của toán học. Đọc những thảo luận triết học này, tôi kinh
ngạc nhận thấy tư tưởng của ông có nhiều điểm rất tương đồng với tư
tưởng của Kurt Gödel, tác giả của Định lý Bất toàn trong thế kỷ 20. Điều
kinh ngạc ấy xuất phát từ sự thiếu hiểu biết của tôi – trước đây tôi
luôn nghĩ Gödel là người đầu tiên vạch rõ bản chất hạn chế của toán học.
Nhưng đọc Pascal, tôi biết mình đã lầm. Hôm nay tôi muốn nhấn mạnh rằng
Pascal chính là người đầu tiên vạch rõ bản chất hạn chế của tư duy lý trí và vai trò quyết định của cảm thụ trực giác trong hành trình khám phá sự thật. Thú
vị thay khi nhận ra rằng Pascal và Gödel cách nhau gần 3 thế kỷ, nhưng
“tư tưởng lớn gặp nhau” (les grands esprits se rencontrent)!
1/ Từ Pascal tới Gödel:
Muốn hiểu Pascal, hãy đọc PENSÉES (Suy
tưởng), tác phẩm nổi tiếng nhất của ông, được xuất bản lần đầu tiên năm
1669, bẩy năm sau khi ông mất. Chú ý rằng Pensées được viết ra sau cuộc gặp gỡ kỳ lạ đã nói ở trên. Điều đó có ý nghĩa gì?
Tôi sẽ trả lời câu hỏi đó ở cuối bài viết
này. Còn bây giờ, xin độc giả chú ý ngay tới một trong những tư tưởng
chủ đạo của Pensées:
“Bước cuối cùng của lý lẽ là nhận ra rằng tồn tại vô số thứ ở phía bên kia tầm với”[1].
Tư duy lý lẽ dù có giỏi đến mấy, rốt cuộc
cũng chỉ đạt tới một ngưỡng nhất định, không thể vượt qua. Bên kia cái
ngưỡng ấy có rất nhiều sự thật mà con người muốn biết và rất nên biết,
nhưng tư duy lý lẽ bất lực. Muốn vượt ngưỡng – muốn nắm bắt được những
sự thật ở bên kia tầm với – con người phải vận dụng TRỰC GIÁC, mà Pascal
thường gọi là khả năng nhận biết của trái tim. Ông nói:
“Chúng ta nhận biết chân lý không chỉ bởi lý lẽ, mà còn bằng trái tim”[2].
Thậm chí trái tim nhận biết còn sâu sắc hơn lý trí:
“Trái tim có những lý lẽ của nó mà lý trí không hiểu”[3].
Pensées được viết theo kiểu liệt kê, đánh
số từng câu nói. Rất nhiều câu đã trở thành châm ngôn đi vào lịch sử,
được người đời trích dẫn rất nhiều, vì chúng quá sâu sắc.
Nhưng có bao nhiêu người thực sự hiểu hết chiều sâu của những triết lý đó?
Có một thực tế là, trong khi người ta dạy
cho học trò trong nhà trường nhiều thành tựu của Pascal, như Tam giác
Pascal, Định luật thủy tĩnh Pascal, và đặc biệt là Lý thuyết xác suất,…
nhưng dường như tuyệt nhiên người ta không bao giờ nhắc đến tư tưởng
triết học của Pascal, và tất nhiên, càng không bao giờ đề cập đến tư
tưởng tôn giáo của Pascal.
Tại sao vậy?
Phải chăng vì triết học của Pascal nhấn mạnh đến chỗ yếu của tư duy lý trí?
Phải chăng vì Pascal đề cao tư duy cảm thụ hơn tư duy lý trí?
Nếu đúng như vậy thì xem ra thái độ đối
xử của người đời đối với triết học của Pascal cũng có phần giống thái độ
đối xử của người đời đối với Định lý Bất toàn của Gödel.
Xin đặc biệt lưu ý rằng:
Mặc dù cuối thế kỷ 20, nhân loại đã bừng
tỉnh ra để tôn vinh Định lý Bất toàn như một trong những khám phá vĩ đại
nhất của thế kỷ 20 và Kurt Gödel được tạp chí Time bình chọn là nhà
toán học vĩ đại nhất thế kỷ 20, nhưng trong một thời gian rất dài, kể từ
khi định lý này ra đời năm 1931 đến cuối thế kỷ 20, rất nhiều người làm
việc ngay trong ngành toán cũng không hề hay biết gì về Gödel. Đó không
phải là tình hình ở riêng Việt Nam, mà là tình hình phổ biến trên toàn
thế giới. Tại sao vậy? Đơn giản vì Định lý Gödel chỉ ra chỗ yếu của toán
học nói riêng và khoa học nói chung. Nó chỉ ra cho con người thấy rằng
toán học nói riêng và nhận thức lý trí nói chung là bất toàn, không bao
giờ đầy đủ, không bao giờ có thể biết hết mọi sự thật. Thật bất ngờ,
triết học toán học của Pascal cũng nêu lên những nhận định tương tự!
Thật vậy, Định lý Bất toàn của Gödel chứng minh rằng toán học không bao giờ có thể xây dựng được một hệ tiên đề đầy đủ làm nền tảng vững chắc cho chính bản thân nó.
Nếu ai đó tưởng rằng Toán học là một khoa học hoàn hảo tới mức có thể
phân biệt rạch ròi mọi sự kiện trắng/đen trong toán học thì người đó đã
lầm. Bản chất của vấn đề là ở chỗ Toán học, dù chặt chẽ đến mấy, nhưng
xét đến cùng vẫn phải dựa trên những mệnh đề đầu tiên không thể chứng
minh mà chúng ta gọi là các tiên đề (axioms).
Vấn đề là hệ tiên đề có đủ chắc chắn và đáng tin cậy hay không?
Đó là một câu hỏi lớn mà Pascal đã nêu lên từ thế kỷ 17, như một cảnh báo sớm đối với những ai có niềm tin tuyệt đối vào tư duy lý trí.
Pascal không dừng lại ở cảnh báo đó, mà
lập luận rằng Toán học cuối cùng vẫn phải dựa trên “đức tin” – niềm tin
vào các tiên đề đã được lựa chọn. Không có cách nào để chứng minh hệ
tiên đề đó là hoàn toàn chắc chắn, ngoài niềm tin vào TRỰC GIÁC.
Để thấy vai trò của TRỰC GIÁC, hãy nhìn
vào Hình học Euclid, môn hình học mà tất cả mọi học sinh đều được học
trong nhà trường từ hơn 2000 năm nay. Các nhà thông thái bậc nhất đều
ngưỡng mộ môn hình học này. Hồi ký của Albert Einstein kể lại thời niên
thiếu từng say mê môn hình học đó đến mức gọi nó là “Hình học thiêng
liêng” (Holy Geometry). Lịch sử khoa học kể rằng kể rằng Isaac Newton
coi Hình học Euclid là mô hình mẫu mực để ông xây dựng tác phẩm bất hủ
“Những Nguyên lý Toán học của Triết học Tự nhiên” (Philosophiæ Naturalis
Principia Mathematica). Tổng thống Abraham Lincoln từng mang theo cuốn
Hình học Euclid trong sự nghiệp luật sư và chính trị, vì nó giúp ông
tranh biện sắc sảo, thuyết phục,… Nhưng có một nhà thông thái chê Hệ
tiên đề của Euclid là nghèo nàn, không đầy đủ, đó là David Hilbert, một
trong những nhà toán học lớn nhất thế kỷ 20. Trào lưu Hilbert đã dấy lên
mạnh mẽ trong trường phổ thông ở Tây phương những năm 1950-1960 đến nỗi
đã “hạ bệ Euclid”, như GS Hoàng Tụy đã mô tả[4].
Đích thân Hilbert đã lao vào xây dựng một hệ tiên đề mới cho Hình học
Euclid, sau này được gọi là Hệ tiên đề Hilbert. Trong một thời gian dài,
các môn đệ của Hilbert ra sức tán tụng hệ tiên đề này như một mẫu mực
của phương pháp tiên đề. Nhưng sự thật không tương xứng với sự thổi
phồng đó. Tôi đã viết một bài báo về vấn đề này, nhan đề “Hệ tiên đề Hilbert có hoàn hảo?”,
đăng trên tạp chí Tia Sáng tháng 08/2002, trong đó đã chỉ ra rằng không
có cơ sở nào để khẳng định Hệ tiên đề Hilbert là đầy đủ[5].
Bản thân Euclid, bằng trực giác thiên tài, đã chọn ra 5 tiên đề, trong
đó Tiên đề 5 (Tiên đề đường song song) là một câu chuyện kỳ lạ và hấp
dẫn còn hơn cả chuyện thần thoại. Thật vậy, Tiên đề 5 từng bị nhiều
người ngờ vực – rất nhiều nhà toán học tài giỏi bậc nhất không tin nó,
ra sức chứng minh nó, để sau hơn 2000 năm lại phải quay về với Euclid,
tin rằng Tiên đề 5 là một tiên đề nền tảng của Hình học Euclid. Tuy
nhiên, công sức của họ đã được đền đáp bằng việc khám phá ra một thứ
hình học mới: Hình học Phi-Euclid, dựa trên tiên đề trái ngược
với Tiên đề 5 mà ngày nay thường được gọi là Tiên đề Lobachevsky. Hình
học Phi-Euclid là một trong những thành tựu khoa học vĩ đại nhất của
nhân loại. Nó là sản phẩm của ba bộ óc thiên tài: Lobachevsky, Janos
Bolyai và Karl Gauss. Tuy nhiên, nguồn mạch dẫn tới thành tựu vĩ đại ấy
là Tiên đề 5 của Euclid. Một tiên đề bị nghi ngờ trong suốt 2000 năm mà
không bị đánh đổ, để từ đó đẻ ra một thành tựu vĩ đại thì chính tiên đề
ấy cũng vĩ đại! Tiên đề 5 của Euclid là kết quả của một TRỰC GIÁC thiên
tài!
Trực giác là công cụ giúp con người nắm bắt được sự thật ở bên kia tầm với. Đó là tư tưởng của Pascal, thể hiện rõ trong tác phẩm chủ yếu sau đây:
“De l’Esprit géométrique et de l’Art de persuader” (Về tinh thần hình học và Nghệ thuật thuyết phục), được viết vào khoảng năm 1658, chia làm hai phần:
Phần I: “De l’Esprit Géométrique” (Về Tinh thần Hình học)
Phần II: “De l’Art de persuader” (Về Nghệ thuật thuyết phục).
Trong
Phần I, Pascal xem xét bản chất của quá trình khám phá chân lý bằng con
đường lý trí. Ông chỉ ra rằng một trong những phương pháp chủ yếu của
tư duy khoa học là phương pháp suy diễn (deduction) – phương pháp thiết
lập những định lý dựa trên những chân lý đã được thiết lập từ trước.
Ngay lập tức, Pascal lập luận rằng những chân lý đã được thiết lập từ
trước ấy lại đòi hỏi những chân lý từ trước nữa làm chỗ dựa cho nó.
Chuỗi đòi hỏi ấy cứ thế kéo dài vô tận, và do đó lý trí suy diễn sẽ
không bao giờ đạt tới những chân lý đầu tiên!
Nói cách khác, lý trí suy diễn không bao giờ giải thích được nguyên nhân đầu tiên!
Pascal nhấn mạnh rằng, bằng phương pháp
suy diễn rất hoàn hảo của nó, hình học có thể phát triển đến bất kỳ mức
độ nào nó muốn và nó có thể, dựa trên một số nguyên lý ban đầu được thừa
nhận như những tiên đề, nhưng không có cách nào để biết những tiên đề này là hoàn toàn chắc chắn.
Ông lưu ý: “Tất cả những chân lý này không thể chứng minh được; ấy thế mà chúng lại là nền tảng và nguyên lý của Hình học”[6].
Tuy nhiên, đó không phải là lỗi của hình học, mà là một bản chất tất yếu của nhận thức lý trí suy diễn. Ông nói: “… nếu khoa học này không định nghĩa và chứng minh được mọi thứ thì lý do đơn giản là vì nó không thể”[7].
Hóa ra Pascal là người đầu tiên nhận xét
toán học không thể chứng minh được mọi thứ! Ngót 300 năm sau, Định lý
Gödel cũng khẳng định điều đó: trong toán học tồn tại những mệnh đề
“không thể quyết định được” (undecidable) – không thể chứng minh và cũng
không thể bác bỏ.
Trong Phần II, Pascal viết:
“Nếu nền tảng không đảm bảo vững chắc thì tòa nhà xây trên đó cũng không thể đảm bảo vững chắc”[8].
Đối với toán học, nền tảng chính là hệ
tiên đề, tòa nhà chính là các định lý rút ra từ hệ tiên đề đó. Hình học
Euclid là một tòa nhà được xây trên hệ tiên đề của nó. Euclid có thể coi
là ông tổ của phương pháp tiên đề, nhưng bản thân Euclid chú trọng đến
tòa nhà nhiều hơn việc xem xét nền móng. Chính Pascal mới là người đầu
tiên bận tâm tới việc xem xét nền móng của tòa nhà hình học.
Nói
cách khác, Pascal là người đầu tiên đề cập đến vai trò và ý nghĩa của
hệ tiên đề, điều mà hai thế kỷ rưỡi sau đó, David Hilbert phát triển lên
thành một tư tưởng lớn của toán học, được gọi là Lý thuyết Tiên đề
(Axiomatic Theory) hoặc Phương pháp Tiên đề (Axiomatic Method). Nhưng
phải nhấn mạnh ngay rằng Pascal đi tới kết luận hoàn toàn khác với
Hilbert: Trong khi Hilbert tin tưởng mạnh mẽ rằng Toán học trước sau
thể nào cũng sẽ tìm ra những hệ tiên đề chắc chắn làm nền tảng vững chắc
cho toàn bộ Toán học thì Pascal đã sớm nhận ra rằng vấn đề hệ tiên đề
phụ thuộc hoàn toàn vào TRỰC GIÁC. Nhưng trực giác ở đâu ra?
Với người vô thần, câu hỏi trên bị thả
nổi, không có câu trả lời. Hoặc trả lời rằng trực giác tự nó có. Trả lời
như vậy cũng như chưa trả lời.
Với người hữu thần, trực giác là một PHÉP MẦU của Chúa.
Bách khoa toàn thư Wikipedia cho biết: trong tiểu luận “Về nghệ thuật thuyết phục”, Pascal “nhấn mạnh rằng những
nguyên lý đầu tiên này chỉ có thể nắm bắt được bằng trực giác, và rằng
sự thật này khẳng định sự cần thiết phải nhờ cậy đến Chúa trong việc
khám phá ra chân lý”[9].
Đến đây, có lẽ độc giả đã hiểu vì sao trong bài Lý lẽ của Trái tim[10] tôi đã nêu nhận xét:
“Nếu Hilbert nghiền ngẫm Pascal, có thể ông đã không phạm sai lầm như thế”.
2/ Sai lầm của Hilbert:
Có thể giả định Hilbert không hề đọc
Pascal. Ít nhất cá nhân tôi chưa bao giờ thấy một tài liệu nào về
Hilbert có nhắc đến Pascal, dù chỉ là loáng thoáng. Tuy nhiên cũng khó
tin một người như Hilbert lại không bao giờ để mắt tới một học giả lớn
như Pascal. Giả thiết hợp lý nhất có lẽ là Hilbert đã từng đọc Pascal,
nhưng ông không chấp nhận Pascal về mặt triết học, và càng không chấp
nhận Pascal về mặt thần học và tôn giáo.
Vậy quan điểm tôn giáo và triết học của Hilbert ra sao?
Giống như Stephen Hawking gần đây tuyên
bố Chúa không còn cần thiết nữa, gần 100 năm trước Hilbert cũng từng
tuyên bố tương tự như thế. Đối với ông, khoa học không cần đến Chúa, và
càng không cần đến tôn giáo. Chỉ riêng điều đó có lẽ cũng đã đủ để ông
không thể chấp nhận triết học và tôn giáo của Pascal.
Một lần, có người phàn nàn với ông rằng
Galileo không chịu nhận tội, Hilbert lập tức nổi giận nói như mắng vào
mặt người này rằng:
“Nhưng ông ấy không phải một thằng
ngu. Chỉ những thằng ngu mới có thể tin rằng chân lý khoa học cần đến
các thánh tử đạo; chuyện đó có thể cần thiết trong tôn giáo, còn chân lý
khoa học thì tự nó sẽ chứng minh vào thời điểm thích đáng”[11].
Thực ra Hilbert đã được rửa tội theo Đạo
Tin lành Cải cách (Reformed Protestant Church). Nhưng sau này ông bỏ đạo
và trở thành người vô thần. Ông thường lập luận rằng chân lý toán học
hoàn toàn độc lập với sự hiện hữu của Chúa hoặc bất kỳ một giả định tiên
nghiệm (priori assumption) nào khác.
Niềm tin ấy mạnh mẽ đến nỗi bất chấp
những chứng minh toán học không thể chối cãi của Định lý Gödel công bố
năm 1931, Hilbert vẫn công bố tác phẩm “Die Grundlagen der Mathematik”
(Cơ sở của Toán học) vào năm 1934, trong đó dõng dạc tuyên bố:
“Toán học là một khoa học không có
những giả định tiên nghiệm nào cả. Để khám phá ra nó, tôi không cần đến
Chúa như Kronecker, không cần giả định về một năng lực đặc biệt… như
Poincaré, không cần trực giác bẩm sinh như Brower chủ trương…”[12].
Ngay
câu đầu tiên của tuyên bố trên đã cho thấy Hilbert sai. Liệu Toán học
có thể không có giả định tiên nghiệm nào không? Tại sao giỏi như Hilbert
mà lại có thể tuyên bố tùy tiện như thế? Không, ông không tùy tiện, ông
cho rằng lý trí có thể xác định được cả những nguyên lý đầu tiên! Ông
nghĩ rằng toán học sẽ tìm ra cách để kiểm tra một hệ tiên đề có đầy đủ
hay không, có chắc chắn hay không, có hoàn hảo hay không. Tất nhiên,
Định lý Gödel đã chứng minh Hilbert sai. Tham vọng của chương trình
Hilbert là không tưởng, phản khoa học!
Nhưng nguồn gốc sâu xa dẫn tới sai lầm của Hilbert là gì?
Câu trả lời:
Là ở chỗ ông không tin vào TRỰC GIÁC, và do đó ông càng không tin vào Chúa!
Vậy xét cho cùng, Hilbert là một bộ óc vĩ
đại, nhưng trái tim của ông nghèo nàn, khô héo, ông không tin vào cảm
xúc, ông chỉ tin vào lý luận, thậm chí ông chỉ tin vào lý luận bằng
những ký hiệu hình thức, và do đó không có gì để ngạc nhiên khi ta thấy
ông ra sức bênh vực lý thuyết của Cantor, và ông trở thành một đại biểu
xuất sắc của các nhà khoa học vô thần!
Pascal khác hẳn những người như Hilbert chính ở chỗ đó! Ông viết trong Pensées:
“Chủ nghĩa vô thần thể hiện sức mạnh của
tinh thần, nhưng chỉ ở một mức độ nhất định mà thôi” (Athéisme marque de
force d’esprit, mais jusqu’à un certain degré seulement).
Tóm lại, CON NGƯỜI KHÁC NHAU Ở CẢM XÚC CHỨ KHÔNG PHẢI Ở LÝ LUẬN!
Pascal là con người của cảm xúc! Đặc biệt kể từ khi ông có “cuộc gặp gỡ kỳ lạ”.
3/ Cuộc gặp gỡ kỳ lạ – LỬA của Pascal:
Năm Pascal 31 tuổi, một sự kiện đặc biệt đã xảy ra trong đời ông, vĩnh viễn làm thay đổi con người ông: Pascal được thị kiến Chúa. Nói một cách dễ hiểu: Pascal đã có một cuộc gặp gỡ bất ngờ với Chúa!
Trải nghiệm tâm linh mạnh mẽ
ấy xẩy ra vào đêm ngày 23 tháng 11 năm 1654, kéo dài hai tiếng đồng hồ,
từ 10 giờ 30 tối đến 12 giờ 30 đêm, và ông lập tức ghi chép lại những
gì ông đã chứng kiến, để ghi nhớ cho chính mình. Trong bản ghi nhớ đó,
ông mô tả những gì ông nhìn thấy như Lửa cháy, nhưng ông nhận biết rõ
ràng đó là Chúa – Chúa có hình ảnh của con người và quan tâm tới con
người (personal God), tức là Chúa quan phòng của Thiên Chúa giáo mà bản
thân ông tôn thờ, thay vì chỉ là Đấng Sáng tạo mà khoa học và triết học
thừa nhận. Ông kết thúc bản ghi nhớ đó bởi một câu trong Sách Thánh Vịnh
của Cựu Ước: “Con sẽ không quên lời của Người. Amen”.
Bằng chứng về cái đêm kỳ lạ ấy – đêm
Pascal được mặc khải thị kiến Chúa – đã được phát hiện một cách tình cờ.
Số là một hôm, sau khi Pascal mất, một người đầy tớ trung thành trong
khi xếp dọn quần áo và đồ dùng của ông, bỗng nhận thấy một chỗ cộm lên ở
chiếc áo khoác của ông. Nhìn kỹ, người này nhận ra một vết khâu, bèn mở
ra và thế là tìm thấy một mẩu ghi chép được viết trên giấy da, và một
bản sao chép trên một mẩu giấy đã sờn nhưng được bảo quản rất cẩn thận.
Toàn bộ ghi chép đều là chữ viết tay của Pascal, đánh dấu một sự kiện
quan trọng nhất trong đời ông. Phát hiện này làm sáng tỏ lý do của một
thói quen của Pascal khi còn sống, đó là việc ông đi đâu cũng mặc chiếc
áo khoác này. Chỉ sau khi ông mất, khi bí mật về bản ghi nhớ được khám
phá, người ta mới vỡ nhẽ ra rằng hóa ra ông thường xuyên mặc chiếc áo đó
để tự nhắc nhở mình không một phút nào được lãng quên cuộc gặp gỡ kỳ
diệu trong “Đêm Lửa”.
Bản ghi nhớ được viết theo kiểu đánh dấu
sự kiện, câu cú rất ngắn gọn, thậm chí chỉ một mình ông hiểu, cốt để
khắc sâu những gì đã xẩy ra và nói rõ ấn tượng của ông lúc đó như thế
nào. Nguyên văn như sau:
Năm hồng ân Thiên Chúa 1654,
Thứ Hai, ngày 23 Tháng 11, Lễ Kính Thánh Clement, Đức Giáo hoàng và Thánh tử đạo, và các Thánh tử đạo khác,
Lễ Vọng Thánh Chrysogone, Thánh tử đạo, và các Thánh tử đạo khác.
Khoảng từ 10 giờ rưỡi tối cho tới khoảng 12 giờ rưỡi đêm.
LỬA
“Chúa của Abraham, Chúa của Isaac, Chúa của Jacob”,
không phải Chúa của các nhà triết học và bác học.
Chắc chắn. Xác thực. Cảm xúc. Vui mừng. Bình an.
Chúa của Giê-su Kitô
Chúa của anh và Chúa của tôi.
“Chúa của anh sẽ là Chúa của tôi”.
Quên hết thế gian và mọi thứ, trừ Chúa.
Chỉ có thể nhận biết Người theo những cách đã dạy trong Tin Mừng.
Sự vĩ đại của linh hồn con người.
“Cha công bằng, thế gian chẳng hề biết Cha, nhưng con đã biết Cha”
Vui, vui mừng, mừng vui, khóc lên vì vui.
Tôi đã tách khỏi Cha:
Nguồn nước hằng sống đã từ bỏ tôi
“Chúa của con, Người sẽ từ bỏ con ư?”
Xin cho tôi mãi mãi không tách khỏi Người.
“Đây là cuộc sống đời đời, mà họ biết chỉ có Cha là Thiên Chúa thật,
và là Đấng mà Cha đã gửi xuống, Chúa Giê-su Kitô”.
Chúa Giê-su Kitô.
Chúa Giê-su Kitô.
Tôi đã rời bỏ Người; Tôi đã chạy trốn, chối bỏ, đóng đanh Người vào Thập giá.
Xin đừng bao giờ để tôi tách khỏi Người,
Người chỉ được gìn giữ chắc chắn bởi những cách đã dạy trong Tin Mừng:
Hy sinh tất cả và nhẹ nhàng.
Vâng phục hoàn toàn với Chúa Giê-su Kitô và với Đấng chăn dắt tôi
Mãi mãi trong niềm vui vì một ngày được rèn luyện thử thách trên thế gian
Con sẽ không bao giờ quên lời của Người. Amen.
Nếu bạn chưa hề đọc Kinh Thánh, có thể bạn không hiểu hết các ý tứ trong “Lửa”
của Pascal. Và nếu bạn chưa từng có một trải nghiệm tâm linh nào để tin
vào những hiện tượng siêu nhiên, có thể bạn cũng khó tin rằng Pascal đã
thực sự thị kiến Chúa.
Để hiểu “Lửa”, tất nhiên bạn phải
biết Kinh Thánh, ít nhất ở mức nắm được những khái niệm tối thiểu. Ngay ở
câu đầu tiên của bản ghi nhớ, Pascal đã khẳng định Chúa mà ông được thị
kiến là Chúa của Abraham, của Isaac, của Jacob, tức Chúa của Do Thái
giáo và Thiên Chúa giáo. Đó là Đấng sáng tạo ra vũ trụ đồng thời cũng là
Đấng sáng tạo ra loài người, quan tâm đến con người và can thiệp vào
cuộc sống con người, thưởng phạt con người một cách công minh, mà Thiên
Chúa giáo gọi là Chúa quan phòng.
Chúa quan phòng khác với Chúa của các nhà
khoa học. Các nhà khoa học phần lớn cũng tin vào Chúa, nhưng đó chỉ là
Đấng sáng tạo ra vũ trụ, buộc vũ trụ tuân thủ các quy luật vận động do
Ngài ban hành, rồi để mặc cho vũ trụ vận hành theo các quy luật đó. Ngài
không can thiệp vào đó nữa. Nói cách khác, Chúa của các nhà khoa học
không bận tâm tới con người, không can thiệp vào cuộc sống của con
người, không thưởng phạt con người. Nếu bạn cầu nguyện với Chúa của các
nhà khoa học thì sẽ vô ích. Bạn phải cầu nguyện với Chúa của tôn giáo,
bởi Chúa của tôn giáo mới quan tâm tới bạn. Nói cách khác, Chúa của các
nhà khoa học không có trái tim, không có cảm xúc.
Như chúng ta đã biết, Pascal là con người
cảm xúc, và do đó Chúa của ông là Chúa của tôn giáo. Ông đã vô cùng may
mắn được gặp Chúa mà ông tin tưởng và tôn thờ. Ông muốn truyền niềm tin
đó tới nhân loại. Các tác phẩm triết học được nhắc đến trong bài
này, từ triết luận “Về tinh thần hình học và về nghệ thuật thuyết phục”
cho đến PENSÉES, đều được viết sau “Đêm Lửa”. Vì thế nội dung của các
tác phẩm ấy đều nhấn mạnh đến sự khiếm khuyết của tư duy lý trí và vai
trò khai mở của cảm thụ trực giác trong quá trình tìm kiếm chân lý.
Nếu bạn không tin vào cảm thụ trực giác
của chính bạn, mà tin vào đống sách vở chữ nghĩa uyên bác mà bạn được
nhồi nhét vào đầu, bạn có thể đoạt được bằng tiến sĩ hay thậm chí hậu
tiến sĩ, nhưng bạn rất khó để nhận chân sự thật!
Chẳng hạn, có thể rất giỏi toán theo
nghĩa là có thể giải được những bài toán khó, làm nghề dạy Toán, nghiên
cứu Toán, nhưng lại không hiểu bản chất của Toán học, và do đó sẽ định
hướng nghiên cứu và giáo dục Toán học một cách sai lầm. David Hilbert và
trào lưu Toán học Mới những năm 1960 là cái gương tầy liếp cho hậu thế
soi rọi!
Đó cũng chính là tình trạng giáo dục tệ
hại ngày nay. Người ta đua nhau đánh đố học trò mà không hiểu để làm gì.
Các thầy thường làm cho học trò sợ hãi thầy nhiều hơn là yêu mến thầy,
bởi các thầy không biết kích thích tư duy trực giác, mà chỉ nặng về bầy
mưu đặt mẹo làm khổ học trò. Trong khi Hình học Euclid là một môn học
cực kỳ hấp dẫn vì nó kích thích tư duy trực giác thì nhiều người lại
khuyên nên bỏ môn học này! Tư duy hiện đại ngày càng ưa hình thức giả
dối, đi ngược với nền giáo dục truyền thống xa xưa.
Thực ra để giải một bài toán, đã rất cần
có một trực giác nhạy bén, thay vì chỉ cần một cẩm nang logic để dẫn bạn
tới đích. Để khám phá ra một định lý hay một định luật lại càng cần
phải có trực giác mạnh hơn, nhạy bén hơn. Để khám phá ra những sự thật
tâm linh hoặc những hiện tượng siêu nhiên lại còn đòi hỏi trực giác mạnh
hơn gấp bội! Trực giác lúc này đã nâng lên tới cấp độ của linh giác
hoặc những trải nghiệm tâm linh (spiritual experiences / supernatural
contacts).
Alexis Carrel, một nhà khoa học đoạt Giải
Nobel năm 1912 về Sinh-Y học, nói: “Trực giác là một khả năng rất gần
với thấu thị; nó dường như là một khả năng ngoại cảm nhận biết hiện
thực”[13].
Từ trực giác, bạn sẽ khám phá ra rằng “có
rất nhiều thứ ở bên kia tầm với” của tư duy lý trí, và như Pascal đã
kết luận, để với tới những sự thật ấy, bạn không thể không nhờ đến một
ánh chớp lóe lên trong đầu bạn. Ánh chớp ấy chính là ánh sáng của Chúa.
Thiên Chúa giáo gọi đó là sự mặc khải. Phật giáo gọi là NGỘ.
Chúa Jesus nói: “Phúc cho ai không thấy mà tin!”.
Được thị kiến Chúa như Pascal là những
trường hợp vô cùng hi hữu. Rất nhiều người trong chúng ta không có cái
may mắn đó. Nhưng nếu bằng trực giác, linh giác, và bằng trải nghiệm
cuộc đời mà chúng ta nghiệm thấy có Chúa, cảm thấy có Chúa, rồi tin có
Chúa, tức là không thấy mà tin, ấy là chúng ta rất có Phúc, như Chúa
Jesus đã nói.
Niềm tin ấy rất quan trọng, bởi nó không
chỉ giúp bạn mở rộng tầm mắt, khai sáng sự hiểu biết, mà còn giúp bạn
đứng vững trước sóng gió bão táp của cuộc đời, hiểu được ý nghĩa cuộc
sống, và giữ được tư cách, phẩm chất đạo đức của con người, bất chấp mọi
biến thiên của xã hội.
4/ Thay lời kết:
Tôi và con gái tôi, Kiều My, một chuyên
gia lập trình của Úc, thường trao đổi với nhau những bài học thú vị học
được từ cuộc sống, sách vở, phim ảnh, âm nhạc, nghệ thuật,… Kiều My tâm
sự với tôi lý do tại sao cô mê PENSÉES, đơn giản vì khi đọc tiểu sử
Louis Pasteur, một nhà bác học vĩ đại mà cô ngưỡng mộ, thấy Pasteur lúc
cuối đời chỉ đọc hai thứ: một là Alexandre Dumas, hai là Pensées của
Pascal. Kiều My nói: “Xem thế đủ biết Pensées phải là một tuyệt tác. Đến
khi đọc Pensées thì thấy quả là một tuyệt tác!”.
Còn tôi thì chịu ảnh hưởng về Pascal trực
tiếp từ thân phụ tôi, cụ Phạm Đình Biều, nguyên kỹ sư công chính thời
Pháp thuộc, một trong những tác giả của những đường hầm xuyên núi ở Nam
Trung Bộ thuộc tuyến xe lửa Bắc-Nam Việt Nam những năm 1930-1940.
Hồi tôi khoảng 9 – 10 tuổi, ông thường
đèo tôi trên xe đạp đi chơi. Vừa đi ông vừa yêu cầu tôi đọc cho ông nghe
“indentités remarquables” (hằng đẳng thức đáng nhớ), rồi ông dạy tôi
cách khai triển lũy thừa của một nhị thức theo quy tắc Tam giác Pascal,
kể cho tôi nghe những câu chuyện huyền thoại về nhân vật thần đồng này.
Lớn lên, tôi lại nghe ông tấm tắc ca ngợi Pascal như nhà hiền triết sâu
sắc nhất của Tây phương. Mỗi lần đọc được một câu chí lý của Pascal, ông
lại chép miệng, lắc đầu thán phục, rồi thích thú đọc lại và bình phẩm
cho tôi nghe, mặc dù tôi chỉ hiểu lõm bõm hay có khi không hiểu gì.
Nhưng những gợi mở ấy làm cho tôi tò mò, cứ thấy ở đâu có tên Pascal là
tôi để ý. Chính nhờ cái tò mò ấy mà tôi dần dà biết nhiều về Pascal.
Càng biết tôi càng ngỡ ngàng trước những điều phi thường ở con người quá
đặc biệt này. Đến khi vỡ nhẽ ra rằng sự hiểu biết về Pascal có ảnh
hưởng vô cùng lớn đến khả năng nhận thức sự thật, tôi nghĩ phải viết một
cái gì đó về Pascal để tỏ lòng biết ơn bố. “Lửa của Pascal” nằm trong ý
định đó.
Để kết, xin trích một ý kiến trong Lời
Dẫn Nhập của T. S. ELIOT cho cuốn “Pascal’s Pensées”, do E. P. Dutton
& Co., Inc. xuất bản năm 1958 tại New York:
“Pascal là một trong những tác giả sẽ
được và phải được nghiên cứu lại một lần nữa bởi những người thuộc mọi
thế hệ. Không phải vì ông thay đổi, mà vì chúng ta thay đổi. Không phải
vì sự hiểu biết của chúng ta về ông tăng lên, mà vì thế giới của chúng
ta biến đổi và thái độ của chúng ta hướng tới sự biến đổi đó. Lịch sử
những nhận định của nhân loại về Pascal và về những nhân vật thuộc tầm
cỡ ông là một phần của lịch sử nhân văn. Điều đó chỉ ra tầm quan trọng
mãi mãi của ông”.
Sydney 16/12/2013
PVHg
[1] La dernière démarche de la raison est de reconnaître qu’il y a une infinité de choses qui la surpassent (Pensées, B.Pascal)
[2] Nous connaissons la vérité, non seulement par la raison, mais encore par le cœur (Pensées, B.Pascal)
[3] Le cœur a ses raisons que la raison ne connaît point (Pensées, B.Pascal)
[4] “Dạy toán ở trường phổ thông: nhiều điều chưa ổn”, Hoàng Tụy, tạp chí Tia sáng số Tháng 12/ 2001.
[5] Đã công bố trên PhamVietHung’s Home.
[6]
Toutes ces vérités ne se peuvent démontrer, et cependant ce sont les
fondements et les principes de la géométrie (De l’Esprit géométrique et
de l’Art de persuader, Blaise Pascal)
[7]
De là vient que si cette science ne définit pas et ne démontre pas
toutes choses, c’est par cette seule raison que cela nous est impossible
(De l’Esprit géométrique et de l’Art de persuader, Blaise Pascal)
[8] … si on n’assure le fondement on ne peut assurer l’édifice (Pensées, Blaise Pascal)
[9]
He asserted that these principles can be grasped only through
intuition, and that this fact underscored the necessity for submission
to God in searching out truths (Wikipedia, Blaise Pascal).
[10] Đã đăng trên PhamVietHung’s Home ngày 05/12/2013
[12] Nguồn như ghi chú 11.
[13] Intuition comes very close to clairvoyance; it appears to be the extrasensory perception of reality
Những câu nói hay của Pascal, Danh ngôn Pascal
14- Pythagoras
-570-495
Hy Lạp
Toán Học
Pythagoras
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Thời đại | Triết học tiền Socrates |
---|---|
Lĩnh vực | Triết học Phương Tây |
Trường phái | Học thuyết Pythagoras |
Sở thích | Triết lý toán học |
- | |
Pythagoras đã thành công trong việc tin rằng tổng 3 góc của một tam giác bằng 180° và nổi tiếng nhất nhờ định lý toán học mang tên ông. Ông cũng được biết đến là "cha đẻ của số". Ông đã có nhiều đóng góp quan trọng cho triết học và tín ngưỡng vào cuối thế kỷ 7 TCN. Về cuộc đời và sự nghiệp của ông, có quá nhiều các huyền thoại khiến việc tìm lại sự thật lịch sử không dễ. Pythagoras và các học trò của ông tin rằng mọi sự vật đều liên hệ đến toán học, và mọi sự việc đều có thể tiên đoán trước qua các chu kỳ.
Tiểu sử
Mới 16 tuổi, cậu bé Pythagoras đã nổi tiếng về trí thông minh khác thường. Cậu bé theo học nhà toán học nổi tiếng Thales, và chính Thales cũng phải kinh ngạc về tài năng của cậu. Để tìm hiểu nền khoa học của các dân tộc, Pythagoras đã dành nhiều năm đến ấn Độ, Babilon, Ai Cập và đã trở nên uyên bác trong hầu hết các lĩnh vực quan trọng: số học, hình học, thiên văn, địa lí, y học, triết học.
Vào tuổi 50, Pythagoras mới trở về tổ quốc của mình.Ông thành lập một ngôi trường ở miền Nam nước Ý, nhận hàng trăm môn sinh, kể phụ nữ, với thời gian học gồm 5 năm gồm 4 bộ môn: hình học, toán học, thiên văn, âm nhạc.Chỉ những học sinh giỏi vào cuối năm 3 mới được chính Pythagoras trực tiếp dạy.Trường phái Pythagoras đã đóng một vai trò quan trọng trong việc phát triển khoa học thời cổ, đặc biệt là về số học và hình học.
Ngay sau khi di cư từ Samos tới Crotone, Pythagoras đã lập ra một tổ chức tôn giáo kín rất giống với (và có lẽ bị ảnh hưởng bởi) sự thờ cúng Orpheus trước đó.
Pythagoras đã tiến hành một cuộc cải tạo đời sống văn hoá ở Crotone, thúc giục các công dân ở đây làm theo đạo đức và hình thành nên một thế giới tinh hoa (elite) xung quanh ông. Trung tâm văn hoá này có các quy định rất chặt chẽ. Ông mở riêng các lớp cho nam sinh và nữ sinh. Những người tham gia tổ chức của Pythagoras tự gọi mình là Mathematikoi. Họ sống trong trường, không được có sở hữu cá nhân và bị yêu cầu phải ăn chay. Các sinh viên khác sống tại các vùng gần đó cũng được ông cho phép tham gia vào lớp học của Pythagoras. Được gọi là Akousmatics, các sinh viên đó được ăn thịt và có đồ sở hữu riêng.
Theo Iamblichus, các môn đồ Pythagoras sống một cuộc sống theo quy định sẵn với các môn học tôn giáo, các bữa ăn tập thể, tập thể dục, đọc và học triết học. Âm nhạc được coi là nhân tố tổ chức chủ chốt của cuộc sống này: các môn đồ cùng nhau hát các bài ca tụng Apollo; họ dùng đàn lyre để chữa bệnh cho tâm hồn và thể xác, ngâm thơ trước và sau khi ngủ dậy để tăng cường trí nhớ.
Lịch sử của Định lý Pythagoras mang tên ông rất phức tạp. Việc Pythagoras đích thân chứng minh định lý này hay không vẫn còn chưa chắc chắn, vì trong thế giới cổ đại khám phá của học trò cũng thường được gán với cái tên của thầy. Văn bản đầu tiên đề cập tới định lý này có kèm tên ông xuất hiện năm thế kỷ sau khi Pythagoras qua đời, trong các văn bản của Cicero và Plutarch. Mọi người tin rằng nhà toán học Ấn Độ Baudhayana đã tìm ra Định lý Pythagoras vào khoảng năm 800 TCN, 300 năm trước Pythagoras.
Ngày nay, Pythagoras được kính trọng với tư cách là người đề xướng ra Ahlu l-Tawhīd, hay đức tin Druze, cùng với Platon.
Nguồn: Nguyễn Anh
Các môn đồ của Pythagoras
- Bài chính: Học thuyết Pythagoras
Theano, con gái của Brontinus, là một nhà toán học. Bà được cho là người đã viết các tác phẩm về toán học, vật lý, y học và tâm lý học trẻ em, dù không tác phẩm nào còn tồn tại đến ngày nay. Tác phẩm quan trọng nhất của bà được cho là về các nguyên lý của sự trung dung. Ở thời đó,phụ nữ thường bị coi là vật sở hữu và chỉ đóng vai trò người nội trợ, Pythagoras đã cho phép phụ nữ có những hoạt động ngang quyền với nam giới trong tổ chức của ông.
Tổ chức của Pythagoras gắn liền với những điều ngăn cấm kỳ lạ và mê tín, như không được bước qua một thanh giằng, không ăn các loại đậu (vì bên trong đậu "có chứa" phôi thai người). Các quy định đó có lẽ tương tự với những điều mê tín thời sơ khai, giống như "đi dưới một cái thang sẽ bị đen đủi," những điều mê tín không mang lại lợi ích nhưng cũng không nên bỏ qua. Tính ngữ mang tính lăng nhục mystikos logos (bài nói thần bí) đã từng hay được dùng để miêu tả các công việc của Pythagoras với mục đích làm lăng mạ ông. Hàm ý ở đây, akousmata có nghĩa là "các quy định," vì thế những điều cấm kỵ mê tin ban đầu được áp dụng cho những akousmatikoi, và nhiều quy định có lẽ đã được tạo ra thêm sau khi Pythagoras đã chết và cũng không liên quan gì đến các mathematikoi (được cho là những người duy nhất gìn giữ truyền thống của Pythagoras). Mathematikoi chú trọng nhiều hơn tới sự hiểu tường tận vấn đề hơn akousmatikoi, thậm chí tới mức không cần thiết như ở một số quy định và các nghi lễ tâm linh. Đối với mathematikoi, trở thành môn đồ của Pythagoras là vấn đề về bản chất thiên phú và sự thấu hiểu bên trong.
Các loại đậu, màu đen và trắng, là phương tiện sử dụng trong các cuộc biểu quyết. Câu châm ngôn "abstain from beans" (tránh xa đậu) trong tiếng Anh có lẽ đơn giản chỉ sự hô hào không tham gia bỏ phiếu. Nếu điều này đúng, có lẽ nó là một ví dụ tuyệt vời để biết các ý tưởng đã có thể bị bóp méo như thế nào khi truyền từ người này qua người khác và không đặt trong đúng hoàn cảnh. Cũng có một cách khác để tránh akousmata - bằng cách nói bóng gió. Chúng ta có một số ví dụ như vậy, Aristotle đã giải thích cho họ: "đừng bước qua cái cân", nghĩa là không thèm muốn; "đừng cời lửa bằng thanh gươm", nghĩa là không nên bực tức với những lời lẽ châm chích của một kẻ đang nóng giận; "đừng ăn tim", nghĩa là không nên bực mình với nỗi đau khổ, vân vân. Chúng ta có bằng chứng về sự ngụ ý kiểu này đối với các môn đồ Pythagoras ít nhất ở thời kỳ đầu thế kỷ thứ 5 trước Công nguyên. Nó cho thấy rằng những câu nói kỳ lạ rất khó hiểu đối với người mới gia nhập.
Trường phái Pythagoras cũng nghiên cứu âm nhạc.Họ giải thích rằng độ cao của âm thanh tỉ lệ nghịch với chiều dài của dây và ba sợi dây đàn có chiều dài tỉ lệ với 6,4,3 sẽ cho âm êm tai.
Các môn đồ Pythagoras cũng nổi tiếng vì lý thuyết luân hồi của tâm hồn, và chính họ cũng cho rằng các con số tạo nên trạng thái thực của mọi vật. Họ tiến hành các nghi lễ nhằm tự làm trong sạch và tuân theo nhiều quy định sống ngày càng khắt khe mà họ cho rằng sẽ khiến tâm hồn họ tiến lên mức cao hơn gần với thượng đế. Đa số những quy định thần bí liên quan tới tâm hồn đó dường như liên quan chặt chẽ tới truyền thống Orpheus. Những tín đồ Orpheus ủng hộ việc thực hiện các lễ nghi gột rửa tội lỗi và lễ nghi để đi xuống địa ngục. Pythagoras có liên hệ chặt chẽ với Pherecydes xứ Syros, nhà bình luận thời cổ được cho là người Hy Lạp đầu tiên truyền dạy thuyết luân hồi tâm hồn. Các nhà bình luận thời cổ đồng ý rằng Pherecydes là vị thầy có ảnh hưởng lớn nhất tới Pythagoras. Pherecydes đã trình bày tư tưởng của mình về tâm hồn thông qua các thuật ngữ về một pentemychos ("năm góc" hay "năm hốc ẩn giấu") - nguồn gốc có lẽ thích hợp nhất giải thích việc các môn đồ Pythagoras sử dụng ngôi sao năm cánh làm biểu tượng để nhận ra nhau giữa họ và biểu tượng của sức mạnh bên trong (ugieia).
Trường phái Pytago khảo sát hình vuông có cạnh dài một đơn vị và nhận ra không thể biểu thị độ dài đường chéo của nó bằng một số nguyên hay phân số, tức là tồn tại các đoạn thẳng không biểu thị được theo đoạn thẳng đơn vị bởi một số hữu tỉ.Sư kiện naỳ được so sánh với việc tìm ra hình Ơ-clit ở thế kỉ XIX.
Cũng chính các môn đồ Pythagoras đã khám phá ra rằng mối quan hệ giữa các nốt nhạc có thể được thể hiện bằng các tỷ lệ số của một tổng thể nhỏ số (xem Pythagorean tuning). Các môn đồ Pythagoras trình bày tỉ mỉ một lý thuyết về các con số, ý nghĩa thực sự của nó hiện vẫn gây tranh cãi giữa các học giả.Họ cho rằng số 1 là nguồn gốc của mọi số, biểu thị cho lẽ phải; số lẻ là "số nam", số chẵn là "số nữ";số 5 biểu thị việc xây dựng gia đình; số 7 mang tính chất của sức khỏe; số 8 biểu thị cho tình yêu... Trước lúc nghe giảng,các học trò của Pytago đọc những câu kinh như:"Hãy ban ơn cho chúng tôi, hỡi những con số thần linh đã sáng tạo ra loài người!". Pytago còn nghiên cứu cả kiến trúc và thiên văn. Ông cho rằng trái đất có hình cầu và nằm ở tâm vũ trụ.
Các tác phẩm
Không văn bản nào của Pythagoras còn tồn tại tới ngày nay, dù các tác phẩm giả mạo tên ông - hiện vẫn còn vài cuốn - đã thực sự được lưu hành vào thời xưa. Những nhà phê bình thời cổ như Aristotle và Aristoxenus đã tỏ ý nghi ngờ các tác phẩm đó. Những môn đồ Pythagoras thường trích dẫn các học thuyết của thầy với câu dẫn autos ephe (chính thầy nói) - nhấn mạnh đa số bài dạy của ông đều ở dạng truyền khẩu. Pythagoras xuất hiện với tư cách một nhân vật trong tác phẩm Metamorphoses của Ovid, trong đó Ovid đã để Pythagoras được trình bày các quan điểm của ông.Ảnh hưởng tới Platon
Pythagoras hay ở nghĩa rộng hơn là các môn đồ của Pythagoras được cho là đã gây ảnh hưởng mạnh tới Platon. Theo R. M. Hare, ảnh hưởng của ông xuất hiện ở ba điểm:- Tác phẩm Cộng hòa của Platon có thể liên quan tới ý tưởng "một cộng đồng được tổ chức chặt chẽ của những nhà tư tưởng có cùng chí hướng", giống như một ý tưởng đã được Pythagoras đưa ra tại Croton.
- có bằng chứng cho thấy có thể Platon đã lấy ý tưởng của Pythagoras rằng toán học, và nói chung, tư tưởng trừu tượng là một nguồn tin cậy cho sự tư duy triết học cũng như "cho các luận đề quan trọng trong khoa học và đạo đức".
- Platon và Pythagoras cùng có chung ý tưởng "tiếp cận một cách thần bí tới tâm hồn và vị trí của nó trong thế giới vật chất". Có lẽ cả hai người cùng bị ảnh hưởng từ truyền thống Orpheus
Các câu trích dẫn nói về Pythagoras
- "Ông ta được khâm phục đến nỗi các môn đồ của ông thường được gọi là 'những nhà tiên tri tuyên truyền ý Chúa'...", Diogenes Laertius, Lives of Eminent Philosophers, VIII.14, Pythagoras; Loeb Classical Library No. 185, p. 333
- "...the Metapontines named his house the Temple of Demeter and his porch the Museum, so we learn from Favorinus in his Miscellaneous History.", Diogenes Laertius, Lives of Eminent Philosophers, VIII.15, Pythagoras; Loeb Classical Library No. 185, p. 335
- "Hoa quả của đất chỉ nở một hai lần trong năm, còn hoa quả của tình bạn thì nở suốt 4 mùa"
- "Trong xã giao đừng đổi bạn thành thù mà hãy đổi thù thành bạn."
- "Hãy tập chiến thắng sự đói khát, sự lười biếng và sự giận dữ"
- " Đừng thấy cái bóng to của mình trên vách tường mà tưởng mình vĩ đại"
- " Hãy chỉ làm những việc mà sau đó mình không hối hận và bạn mình không phiền lòng."
- " Chưa nhắm mắt ngủ nếu chưa soát lại tất cả những việc đã làm trong ngày."
- " Chớ coi thường sức khỏe. hãy cung cấp cho cơ thể đúng lúc những đồ ăn, thức uống và sự tập luyện cần thiết."
- " Hãy sống giản dị, không xa hoa."
- " Hãy tôn trọng cha mẹ của bạn"
- Trang này được sửa đổi lần cuối lúc 01:03 ngày 5 tháng 7 năm 2016.
Pytago và cuộc đời ít ai biết bên ngoài định lý mang tên ông
Pytago (Pythagoras) có lẽ là
nhân vật nổi tiếng nhất trong số các triết gia Hy Lạp cổ đại thuộc nhóm
Tiền Sô-crát (Socrates). Danh tiếng của ông chủ yếu đến từ Định lý
Pytago, một định lý toán học vẫn được sử dụng rộng rãi ngày nay.
Ngoài
vai trò là một nhà toán học, Pytago còn là một nhà tư tưởng có ảnh hưởng
trong nhiều lĩnh vực khác nhau. Lấy ví dụ, trong đời mình, ông đã có
những đóng góp quan trọng trong lĩnh vực tôn giáo. Tuy nhiên, những khía
cạnh này của Pytago đã bị lu mờ trước ánh hào quang của định lý toán
học của ông.
Những câu chuyện đa chiều về đời tư của Pytago
Pytago
sinh ra vào khoảng 570 TCN và đã sống những năm tháng đầu đời tại Samos,
một hòn đảo Hy Lạp ở vùng biển Đông Aegean. Cha ông là Mnesarchus, một
người buôn đá quý, còn mẹ ông là Pythais. Pytago có hai hoặc ba anh em
ruột.
Một số
nhà sử học cho rằng Pytago đã kết hôn với một phụ nữ tên là Theano và có
một cô con gái tên là Damo, và một cậu con trai tên là Telauges. Số
khác cho rằng Theano là học trò của Pytago, chứ không phải vợ ông. Tuy
vậy, một số khác cho rằng Pytago chưa bao giờ kết hôn và cũng không có
con.
Tượng bán thân của Pytago – bản sao La Mã từ nguyên bản Hy Lạp. Bảo tàng Capitolini, Rome, Italy. (Ảnh: Wikipedia)
Những cuộc hành trình của Pytago
Tuy rằng
tình trạng hôn nhân của Pytago vẫn là một đề tài được tranh luận, nhưng
đa số đều đồng ý rằng vị triết gia này đã rời quê nhà vào khoảng 530
TCN do bất mãn với các chính sách của bạo chúa Polycrates. Chính trong
khoảng thời gian này, hoặc có lẽ trước đó, Pytago đã ghé thăm Ai Cập và
Babylon (một số còn cho rằng ông đã đến Ấn Độ), và dần làm quen với
những tôn giáo và phong tục của các nền văn hoá nơi đây.
Rốt cục,
Pytago đã dừng chân ở Croton (thành phố Crotone ngày nay), tại thời
điểm đó là một thành phố Hy Lạp ở miền nam nước Ý, và được giao nhiệm vụ
dạy học cho trẻ em và phụ nữ tại thành phố này. Pytago đã trở thành một
người có ảnh hưởng trong vùng, và thậm chí đã tạo dựng được một nhóm
những môn đồ ở Croton.
Tuy
nhiên, chính danh tiếng của ông đã mang ông đến bờ vực sụp đổ. Người ta
cho rằng Cylon, một thanh niên trẻ xuất thân trong một gia đình quý tộc,
đã bày tỏ nguyện vọng được tham gia nhóm của ông. Khi nguyện vọng của
anh bị từ chối, anh đã tập hợp một nhóm những người chống đối Pytago để
công kích ông. Kết quả là Pytago đã bị trục xuất khỏi Croton và phải rời
đến Metapontum vào khoảng 500 TCN, và tại đây ông đã qua đời vài năm
sau đó.
Các giáo lý “Pytago”
Một
trong những khó khăn khi nghiên cứu những giáo lý của Pytago là không có
một tư liệu chép tay nào của ông còn sót lại. Do đó, ngày nay người ta
cần phải dựa vào các nguồn tư liệu thứ cấp để tìm hiểu về các công trình
của ông. Tuy nhiên, điều này làm nảy sinh một vấn đề khác, khi những
thế hệ môn đồ sau này của Pytago có xu hướng gán cho Pytago các ý tưởng
của chính họ. Trên thực tế, vẫn chưa rõ Định lý Pytago (hay bất kỳ các
định lý nào khác của ông) đã được chứng minh bởi chính Pytago hay bởi
những môn đồ của ông.
Lối sống của Pytago
Dù vậy,
chúng ta vẫn có thể chắc chắn một vài điều về các giáo lý của Pytago.
Tuy rằng tư tưởng Pytago đa phần tiếp nhận ảnh hưởng từ toán học, nhưng
các môn đồ của ông còn tham gia vào lĩnh vực huyền bí. Lấy ví dụ, Pytago
có thể là người đầu tiên giới thiệu cho người Hy Lạp ý tưởng về sự bất
diệt của linh hồn con người và sự luân hồi. Đây là một thách thức căn
bản đối với tín ngưỡng truyền thống ở Olympia, vì việc đề cao linh hồn
con người lên tầm bất tử đã hạ thấp giá trị của các vị thần trên đỉnh
Olympus cũng như sự tôn thờ của người dân đối với họ, đồng thời nâng cao
tầm quan trọng của việc chăm sóc (thờ cúng, làm lễ, …) cho linh hồn
người chết.
Việc
chăm sóc linh hồn người chết như vậy có thể được quan sát trong “lối
sống của Pytago”, một bộ các đặc trưng có lẽ đã nhắm vào việc bảo đảm
những kiếp luân hồi tốt nhất có thể trong tương lai. Một đặc trưng trong
“lối sống của Pytago” này là việc nhấn mạnh vào một chế độ ăn uống
kiêng khem.
Tuy
nhiên, bằng chứng cho những chế độ kiêng khem này thường mâu thuẫn với
nhau. Lấy ví dụ, một số nguồn cho rằng tất cả các loại thịt đều bị cấm,
trong khi số khác cho rằng chỉ một số các loại thịt nhất định (của các
loài động vật không được sử dụng cho việc hiến tế) mới cần phải được
kiêng. Còn có những nguồn tin khác cho rằng không hề có việc cấm ăn
thịt.
Chế độ
ăn uống kiêng khem nổi tiếng nhất của Pytago có lẽ là việc cấm ăn các
loại đậu. Không có sự nhất quán về lý do đằng sau điều cấm kỵ này, và
những đồn đoán thời cổ đại liên quan đến vấn đề này cho thấy thói quen
này được coi là khá lập dị.
Những lý do được đưa ra cho việc kiêng ăn đậu của Pytago bao gồm:
- Đậu gây đầy hơi, từ đó ảnh hưởng đến giấc ngủ và sự thanh thản trong tâm trí,
- Hình dáng của đậu giống với tinh hoàn.
- Niềm tin cho rằng nếu hạt đậu bị vùi lấp trong phân, chúng sẽ biến thành hình người.
Pytago
là một nhân vật có ảnh hưởng, khi “lối sống Pytago”, tuy rằng khá lập dị
dưới cặp mắt hiện đại, vẫn được thực hành trong thế kỷ thứ 4 TCN,
khoảng một thế kỷ sau khi ông qua đời. Thêm vào đó, với thực tế rằng có
rất nhiều tác giả cổ đại đã viết về ông (dẫu rằng quan điểm của họ
thường mâu thuẫn với nhau) cho thấy ông cũng là một nhân vật được kính
trọng.
Dù thế
nào đi nữa, thật đáng tiếc khi không còn công trình nào của Pytago được
lưu lại, nghĩa là chúng ta không thể hoàn toàn chắc chắn về những giáo
lý nguyên gốc của ông.
Cuối
cùng, cũng cần lưu ý rằng, ngày nay “Pytago – nhà triết học” thường bị
làm lu mờ trước ánh hào quang của “Pytago – nhà toán học”, bởi vì chính
những đóng góp của ông cho toán học, chứ không phải cho triết học hay
tôn giáo, đã làm nên danh tiếng của ông ngày nay.
Pythagoras – Nhà toán học ghét ăn đậu
Pythagoras (Pytago, 580 – 495 Trước Công nguyên), nhà triết học, toán
học người Hy Lạp nổi tiếng với định lý Pytago trong hình học. Học trò
của Thales (Talét) cũng là người tuân theo triết lý của thuyết ăn chay.
Giáo lý nổi bật của thuyết này là nghiêm cấm đụng chạm hay ăn đậu dưới
mọi hình thức.
Và hạt đậu cũng là một phần nguyên nhân dẫn đến cái chết của Pytago. Truyện kể rằng, khi bị một băng nhóm tấn công rượt đuổi, Pythagos vô tình chạy đến một cánh đồng trồng toàn đậu, nhưng ông đã quyết định thà chết còn hơn bước chân vào cánh đồng này. Chính vì vậy, bọn người tấn công đã cắt cổ ông ngay tức khắc.
Pythagoras thà chết chứ không chịu ăn/đụng vào đậu |
Và hạt đậu cũng là một phần nguyên nhân dẫn đến cái chết của Pytago. Truyện kể rằng, khi bị một băng nhóm tấn công rượt đuổi, Pythagos vô tình chạy đến một cánh đồng trồng toàn đậu, nhưng ông đã quyết định thà chết còn hơn bước chân vào cánh đồng này. Chính vì vậy, bọn người tấn công đã cắt cổ ông ngay tức khắc.
15- Nicolaus Copernicus
1473-1543
Ba Lan
Thiên Văn Học
Mikołaj Kopernik
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Mikołaj Kopernik Nicolaus Copernicus |
|
---|---|
Chân dung tại Toruń - 1580
|
|
Sinh | 19 tháng 2, 1473, Toruń (then Thorn), Royal Prussia, Kingdom of Poland |
Mất | 24 tháng 5, 1543 (70 tuổi), Frombork (Frauenburg), Warmia, Kingdom of Poland |
Tôn giáo | Roman Catholic |
Ngành | Toán học, thiên văn học, canon law, Y học, kinh tế học |
Alma mater | Kraków University, Bologna University, University of Padua, University of Ferrara |
Nổi tiếng vì | Thuyết nhật tâm |
Chữ ký |
Mục từ "Copernicus" dẫn đến bài này. Xin đọc về các nghĩa khác tại bài Copernicus (định hướng).
Mikołaj Kopernik (thường được phiên âm trong tiếng Việt là Cô-péc-ních; tiếng Anh: Nicolaus Copernicus, tiếng Đức: Nikolaus Kopernikus) (19 tháng 2, 1473 – 24 tháng 5, 1543) là một nhà thiên văn học đã nêu ra hình thức hiện đại đầu tiên của thuyết nhật tâm (Mặt Trời ở trung tâm) trong cuốn sách mang tính mở đầu một kỷ nguyên của ông, cuốn Về sự chuyển động quay của các thiên thể (De revolutionibus orbium coelestium). Copernicus sinh năm 1473 tại thành phố Toruń, ở Hoàng gia Phổ, một tỉnh tự trị của Vương quốc Ba Lan (1385–1569). Ông học tập ở Ba Lan và Ý, và dành phần lớn cuộc đời làm việc ở Frombork, Hoàng gia Phổ, nơi ông mất năm 1543.Kopernik là một trong những học giả có hiểu biết về nhiều phương diện ở thời mình. Ông là một nhà toán học, thiên văn học, luật gia, nhà tâm lý học, học giả kinh điển, nhà cai trị, viên chức hành chính, nhà ngoại giao, nhà kinh tế, và người lính. Trong số những khả năng của mình, ông đã lựa chọn thiên văn học làm nghề nghiệp chính, sự phát triển thuyết nhật tâm (mặt trời ở trung tâm chứ không phải Trái Đất là trung tâm) của ông được coi là giả thuyết khoa học quan trọng nhất trong lịch sử. Nó đã đánh dấu bước chuyển sang thiên văn học hiện đại và từ đó là khoa học hiện đại, khuyến khích các nhà thiên văn trẻ, các nhà khoa học và các học giả có thái độ hoài nghi với những giáo điều đã tồn tại từ trước.
Tiểu sử
- Andrzej trở thành giáo sĩ ở Frombork
- Barbara trở thành một tu sỹ dòng thánh Benedict
- Katarzyna cưới một nhà buôn và là ủy viên hội đồng thành phố, Bartłomieja Gertnera
Vì vậy ông chỉ có thể tới thăm Frombork vào năm 1501. Ngay khi vừa tới nơi, ông đã yêu cầu và nhận được giấy phép quay trở lại Ý để hoàn thành các nghiên cứu tại Padua (với Guarico và Fracastoro) và tại Ferrara (với Giovanni Bianchini), nơi ông nhận được bằng tiến sĩ luật giáo sĩ năm 1503. Người ta cho rằng chính Padua là nơi ông đã gặp những đoạn văn của Cicero và Plato về quan niệm cổ đại về chuyển động của Trái Đất, và từ đó hình thành trực giác đầu tiên về lý thuyết của chính mình trong tương lai. Những lần quan sát và những ý tưởng thích hợp cho lý thuyết của ông đã bắt đầu năm 1504.
Sau khi hoàn thành việc nghiên cứu, ông rời Ý đến sống và làm việc ở Frombork. Một khoảng thời gian trước khi quay trở lại Warmia, ông đã nhận được một vị trí ở Học viện Nhà thờ của Hội Thánh Linh (Holy Cross) ở Wrocław, Silesia, và ông đã từ chức này vài năm trước khi chết. Mặc dầu trong cả phần đời còn lại, ông đã thực hiện các quan sát và tính toán thiên văn nhưng chúng chỉ diễn ra trong giờ nghỉ và không được coi là nghề nghiệp của ông.
Kopernik đã làm việc nhiều năm với Nghị viện Phổ về cải cách triều đình và xuất bản một số nghiên cứu về giá trị tiền tệ; với tư cách Thống đốc Warmia, ông tách thuế và thương mại ra khỏi tư pháp. Chính lần này (bắt đầu năm 1519, năm sinh của Thomas Gresham là năm Kopernik tiến tới với một trong những sự lặp lại sớm nhất về lý thuyết được gọi là Luật Gresham. Trong những năm này, ông cũng phải đi lại nhiều để giải quyết các công việc hành chính và ngoại giao, cho Tổng Giám mục Warmia.
Năm 1514 ông viết Commentariolus — một bản viết tay ngắn nói về những ý tưởng của ông về những lý thuyết Nhật tâm - chỉ để trao đổi với những người bạn. Sau đó ông tiếp tục thu thập các bằng chứng cho một nghiên cứu chi tiết hơn. Trong thời gian chiến tranh giữa Quân kị sĩ Teutonic và Vương quốc Ba Lan (1519–1524) Kopernik đã bảo vệ thành công Olsztyn với cương vị chỉ huy các lực lượng hoàng gia bị bao vây bởi các lực lượng của Albert xứ Brandenburg.
Năm 1533 Albert Widmannstadt thực hiện nhiều bài diễn giảng ở Roma, giới thiệu phác thảo lý thuyết của Kopernik. Những bài giảng này được nhiều Hồng y giáo chủ quan tâm, trong đó có cả Giáo hoàng Clement VII. Tới năm 1536 lý thuyết của Kopernik đã hoàn thiện, và một số lời đồn đại về lý thuyết của ông đã đến tai những bậc trí thức trên toàn Châu Âu. Kopernik nhận được nhiều lời mời xuất bản từ nhiều nơi trên lục địa này.
Trong một bức thư đề ngày Roma, 1 tháng 11, 1536, Hồng y Nicola Schönberg xứ Capua đã yêu cầu Kopernik thông báo thêm về các ý tưởng của ông và muốn có một bản dành riêng cho hồng y; "Vậy thì, người có học thức, không muốn trở nên lạc lõng, Tôi yêu cầu ông trình bày thật rõ ràng khám phá của mình cho thế giới trí thức, và gửi tôi trong thời gian ngắn nhất những lý thuyết của ông về Vũ trụ, cùng với những bảng biểu và những thông tin liên quan tới vấn đề này." Một số người cho rằng bức thư này có thể đã khiến Kopernik lợi dụng nó để xuất bản (tác phẩm của ông), trong khi một số người khác cho rằng bức thư này cho thấy Nhà thờ muốn đảm bảo rằng những ý tưởng của ông phải được xuất bản.
Dù nhiều người yêu cầu, Kopernik vẫn trì hoãn việc xuất bản cuốn sách của ông; lý do chính có thể vì những lời chỉ trích đối với việc đưa ra công khai tác phẩm mang tính cách mạng này. Về vấn đề này, các nhà sử học về khoa học như Lindberg và Numbers nói rằng: "Nếu Kopernik thực sự có lo ngại về việc xuất bản cuốn sách, thì chính những phản ứng của các nhà khoa học chứ không phải của giới giáo sĩ khiến ông lo lắng. Một giáo sĩ khác trước ông - Nicole Oresme (một Giám mục) ở thế kỷ 14 và Nicholas xứ Cusa (một Hồng y giáo chủ) thế kỷ 15 - đã tranh luận một cách tự do về khả năng chuyển động của Trái Đất, và không có lý do để cho rằng việc ý tưởng này tái xuất hiện vào thế kỷ 16 có thể gây nên sự náo động tôn giáo."
Vào năm 1539, Kopernik vẫn đang hoàn thành kiệt tác của mình (kể cả nếu ông không tin chắc rằng mình muốn xuất bản nó) khi Georg Joachim Rheticus, một nhà toán học vĩ đại người Wittenberg, tới Frombork. Philipp Melanchthon đã sắp xếp cho Rheticus tới thăm nhiều nhà thiên văn học và nghiên cứu cùng với họ. Rheticus đã trở thành một học trò của Kopernik và đã ở lại với ông nhiều năm, trong thời gian này ông viết một cuốn sách, Narratio prima, phác thảo các nét chính của lý thuyết. Năm 1542, dưới tên Kopernik, Rheticus xuất bản một luận văn về lượng giác học (sau này được thêm vào cuốn sách thứ hai cuốn Về các chuyển động (De revolutionibus)). Dưới áp lực mạnh mẽ của Rheticus, và thấy rằng thái độ đầu tiên của mọi người đối với tác phẩm của ông là khả quan, Kopernik cuối cùng đã đồng ý trao cuốn sách cho người bạn thân của ông là Tiedemann Giese, Giám mục xứ Chełmno (Kulm), để chuyển cho Rheticus in ở Nürnberg.
Truyền thuyết nói rằng bản in đầu tiên của cuốn Về những chuyển động đã được đặt vào tay Kopernik đúng vào ngày ông chết, vì vậy ông đã có thể vĩnh biệt opus vitae ("tác phẩm để đời") của ông. Có lẽ ông đã tỉnh lại sau khi bị đột quỵ-gây ra hôn mê, nhìn vào cuốn sách và chết êm ái. Kopernik được chôn tại nhà thờ Frombork. Những nỗ lực tìm kiếm xương cốt ông của các nhà khảo cổ học đã không mang lại thành công và mặc dù họ đã tìm thấy nhiều ngôi mộ đáng chú ý từ nhiều thời đại khác nhau. Ngày 3 tháng 10 năm 2005, các nhà khảo cổ học đã thông báo rằng vào tháng 8 họ đã tìm thấy xương sọ của Kopernik (xem Phần mộ dưới đây).
Hệ nhật tâm của Kopernik
Các lý thuyết có sớm hơn
Trước đó, đã có nhiều tài liệu viết về lý thuyết hệ nhật tâm.Những dấu vết đầu tiên về một mô hình nhật tâm được tìm thấy trong nhiều bản Kinh Vệ Đà bằng tiếng Phạn được viết ở Ấn Độ cổ trước thế kỷ thứ 7 TCN: các cuốn Vệ Đà, Aitareya Brahmana và Shatapatha Brahmana. Bài luận Vishnu Purana bằng tiếng Phạn ở thế kỷ thứ 1 viết kỹ về nhiều khái niệm nhật tâm.
Philolaus (thế kỷ thứ 4 TCN) cũng có một trong những giả thuyết đầu tiên về chuyển động của Trái Đất, có lẽ có cảm hứng từ các lý thuyết của Pythagoras về Trái Đất hình cầu.
Aristarchus xứ Samos vào thế kỷ thứ 3 TCN đã phát triển một số lý thuyết Heraclides Ponticus (nói về chuyển động của Trái Đất trên trục của nó) từ đó cho thấy, đối với những gì từng được biết, nó là mô hình chính thức đầu tiên về một hệ nhật tâm. Tác phẩm của ông về hệ nhật tâm nay đã thất truyền, do đó người ta chỉ có thể đoán ông đã đi tới những kết luận đó như thế nào. Theo Plutarch, thì có lẽ việc đáng chú ý nhất là một người cùng thời với Aristarchus đã buộc tội ông là nghịch đạo khi "bắt Trái Đất quay".
Aryabhata ở Ấn Độ đã đi trước khám phá của Copernicus 1000 năm và đã thiết lập một mô hình nhật tâm mà trong đó Trái Đất quay quanh trục của nó và chu kỳ của Trái Đất và các hành tinh được xác định theo Mặt Trời đứng yên. Ông cũng là người đầu tiên phát hiện ra rằng ánh sáng từ Mặt Trăng và các hành tinh khác là phản chiếu lại ánh sáng Mặt Trời, và rằng các hành tinh quay theo một quỹ đạo hình elíp quanh Mặt Trời.
Tác phẩm của những nhà thiên văn học Ả Rập thế kỷ thứ 14 ibn al-Shatir cũng chứa đựng những khám phá tương tự của Kopernik, và người ta cho rằng Kopernik có thể đã bị ảnh hưởng từ đó.
Kopernik đã trích dẫn Aristarchus và Philolaus trong một bản chép tay đầu tiên của cuốn sách của ông hiện vẫn còn, cho rằng: "Philolaus tin vào sự chuyển động của Trái Đất, và một số người nói rằng Aristarchus xứ Samos ủng hộ ý kiến này." Vì một số lý do còn chưa biết, ông đã bỏ đoạn này trước khi xuất bản cuốn sách.
Ý tưởng đến với Kopernik không phải từ việc quan sát các hành tinh, mà từ đọc sách của hai tác giả đó. Trong Cicero ông đã thấy trích dẫn lý thuyết của Hicetas. Plutarch cũng trích dẫn từ Pythagoras, Heraclides Ponticus, Philolaus và Ecphantes. Các tác giả đó đã đề xuất một Trái Đất chuyển động quanh một Mặt Trời ở trung tâm. Kopernik không coi ý tưởng của mình có nguồn gốc từ Aristarchus như đã được nói đến ở trên. Khi cuốn sách của Kopernik được xuất bản, nó có một lời nói đầu, được đưa lên mà không có ý kiến của ông, của nhà thần học Andreas Osiander. Giáo sĩ này cho rằng Kopernik viết cuốn sách về nhật tâm cho rằng Trái Đất chuyển động chỉ là một giả thuyết toán học, chứ không phải cho rằng đó là khả năng hay thậm chí là sự thật. Điều này hiển nhiên được viết ra để làm dịu đi phản ứng tôn giáo chống lại cuốn sách, nhưng không có bằng chứng cho thấy Kopernik đã coi hình thức nhật tâm chỉ đơn giản thích hợp về mặt toán học, không liên quan tới thực tế. Các lý thuyết của Kopernik phủ nhận lời giải thích Mặt Trời quay quanh Trái Đất trong Cựu Ước (Joshua 10:13).
Có tranh cãi rằng trong khi phát triển toán học về hệ nhật tâm, Kopernik đã sử dụng không chỉ toán học Hy Lạp mà cả toán học và thiên văn học truyền thống Hồi giáo, đặc biệt là các tác phẩm của Nasir al-Din Tusi, Mu'ayyad al-Din al-‘Urdi và ibn al-Shatir.
Hệ Ptolemy
Lý thuyết thông dụng ở Châu Âu khi Kopernik đang hoàn thành tác phẩm của mình là lý thuyết do Ptolemy viết ra trong cuốn Almagest của ông, đã xuất hiện vào khoảng năm 150. Hệ Ptolemy được hình thành từ nhiều lý thuyết coi Trái Đất là trung tâm đứng yên của vũ trụ. Các ngôi sao được gắn vào một mặt cầu bên ngoài và nó quay nhanh, ở mức độ tương đối với nhau, trong khi các hành tinh được đặt trên những mặt cầu nhỏ hơn và mỗi hành tinh có một mặt cầu riêng biệt. Để giải thích những điều kỳ lạ của quan điểm này, như chuyển động thụt lùi quan sát thấy ở nhiều hành tinh, một hệ thống các ngoại luân (epicycles) được đem ra sử dụng, theo đó hành tinh quay trên một trục nhỏ trong khi vẫn quay trên một trục lớn xung quanh Trái Đất. Một số hành tinh bị ấn định là có những ngoại luân "chính" (nhờ thế có thể quan sát được chuyển động thụt lùi) và "phụ" (chỉ đơn giản quay một chiều).Một lý thuyết phụ trợ của Ptolemy sử dụng các mặt cầu đồng tâm: các mặt cầu bên trong mặt cầu mà hành tinh đang quay, cũng có thể quay một chút. Các nhà thiên văn cũng hay sử dụng nhiều biến thể như thuyết lệch tâm — theo đó trục quay được bù thêm và không hoàn toàn nằm ở tâm - hay được thêm các ngoại luân vào các ngoại luân.
Cống hiến duy nhất của Ptolemy cho lý thuyết này là ý tưởng về một sự cân bằng - một sự bổ sung rắc rối cho thấy rằng, khi đo chuyển động của Mặt Trời, thỉnh thoảng ta sử dụng trục trung tâm của vũ trụ, nhưng thỉnh thoảng lại đưa ra một vị trí khác. Điều này có một ảnh hưởng bao trùm khiến cho một số quỹ đạo trở nên "lắc lư," một sự thực đã làm Kopernik rất bối rối (sự lắc lư đó nêu ra sự đáng ngờ của ý tưởng về những "mặt cầu" mà các hành tinh quay trên đó). Cuối cùng, sau mọi sự phức tạp đó, các nhà thiên văn vẫn không thể làm quan sát thực tế và lý thuyết trùng khớp với nhau. Vào thời của Kopernik, hệ Ptolemy kiểu mới nhất là của Peurbach (1423-1461) và Regiomontanus (1436-1476).
Lý thuyết của Kopernik
Lý thuyết chính của Kopernik được xuất bản trong cuốn, De revolutionibus orbium coelestium (Về chuyển động quay của các thiên thể) vào năm ông mất, 1543, mặc dù ông đã tiến gần tới lý thuyết này từ nhiều thập kỷ trước.Kopernik cũng thay thế những vòng cân bằng của Ptolemy bằng nhiều ngoại luân. Đây là nguồn chính cho rằng hệ của Kopernik thậm chí còn có nhiều ngoại luân hơn hệ của Ptolemy. Với sự thay đổi này, hệ của Kopernik chỉ có một kiểu chuyển động tròn duy nhất, sửa chữa lại những điều mà ông cho là không chính xác trong hệ của Ptolemy. Nhưng khi Kopernik đặt Mặt Trời vào vị trí trung tâm của mặt cầu của trời, ông không cho nó là trung tâm của vũ trụ mà chỉ ở gần nó.
Về mặt thực nghiệm, hệ của Kopernik không tốt hơn kiểu của Ptolemy. Kopernik nhận thức được điều này và không thể đưa ra "bằng chứng" quan sát trong cuốn sách của mình, thay vào đó ông lại dựa vào những tranh luận về một hệ chính xác và đúng đắn hơn. Từ khi cuốn sách được xuất bản tới khoảng năm 1700, rất ít nhà thiên văn tin vào hệ của Kopernik, mặc dù cuốn sách đó được truyền bá khá rộng (khoảng 500 bản sách được cho là vẫn còn tồn tại, đó là một con số lớn so với tiêu chuẩn khoa học của thời đó). Tuy nhiên, nhiều nhà thiên văn học, đã chấp nhận một số khía cạnh của lý thuyết so với những thuyết khác, và hệ của ông đã có ảnh hưởng lớn đối với những nhà khoa học về sau này như Galileo và Johannes Kepler, những người đã chấp nhận, và đấu tranh cho nó và (đặc biệt là trường hợp của Kepler) tìm cách cải thiện nó. Những quan sát của Galileo về các tuần của Sao Kim đã cho thấy bằng chứng quan sát thực nghiệm đầu tiên cho lý thuyết của Kopernik.
Hệ của Kopernik có thể được nói gọn trong bảy đề xuất, như chính Kopernik đã tập hợp trong một Compendium của cuốn De revolutionibus orbium coelestium được tìm thấy và xuất bản năm 1878.
Bảy phần của lý thuyết Kopernik là:
- Không có một trung tâm của vũ trụ
- Trung tâm của Trái Đất không phải là trung tâm vũ trụ
- Trung tâm của vũ trụ gần Mặt Trời
- Khoảng cách từ Trái Đất đến Mặt Trời là không thể nhận thấy nếu so sánh với khoảng cách tới các ngôi sao
- Chuyển động quay của Trái Đất giải thích cho chuyển động thấy hàng ngày của các ngôi sao
- Những chuyển động quan sát thấy hàng năm của Mặt Trời được gây ra khi Trái Đất chuyển động quanh Mặt Trời
- Chuyển động thụt lùi của các hành tinh được gây ra bởi chuyển động của Trái Đất, mà người quan sát đứng trên nó
Về chuyển động của các thiên thể
Tác phẩm này được chia làm sáu cuốn:
- Cái nhìn chung về lý thuyết nhật tâm, và một sự trình bày ngắn gọn về ý tưởng của ông về thế giới.
- Đa số là lý thuyết, trình bày các nguyên tắc của thiên văn hình cầu và một danh sách các ngôi sao (là một nền tảng cho những tranh cãi phát triển lên trong những cuốn sách tiếp theo).
- Đa phần dành cho những chuyển động thực tế của Mặt Trời và những hiện tượng liên quan.
- Miêu tả Mặt Trăng và những chuyển động quỹ đạo của nó.
- Giải thích cụ thể về hệ thống mới.
- Trình bày cụ thể về hệ thống mới.
Kopernik và chủ nghĩa của Kopernik
Nhiều ý nghĩa đã được gán cho lý thuyết của Kopernik một phần từ ý nghĩa khoa học đúng đắn của nó. Tác phẩm của ông ảnh hưởng tới cả tôn giáo và khoa học, giáo điều cũng như tự do của vấn đề khoa học. Vị trí của Kopernik với tư cách là một nhà khoa học thường được so sánh với Galileo Galilei.
Công trình của Kopernik phản đối giáo điều tôn giáo được chấp nhận sau đó: nó có thể cho thấy rằng không cần thiết phải có một (Đức Chúa) tuyệt đối trao linh hồn, quyền lực và cuộc sống cho thế giới và con người - khoa học có thể giải thích mọi điều được cho là của Chúa.
Tuy nhiên, chủ nghĩa của Kopernik cũng mở một lối đi cho tính nội tại, quan điểm cho rằng một lực lượng siêu nhiên, hay một vị thần thánh, thâm nhập vào mọi vật tồn tại - một quan điểm từ đó được phát triển thêm trong nhiều triết học hiện đại. Chủ nghĩa nội tại cũng dẫn tới chủ nghĩa chủ quan: với lý thuyết rằng có thể nhận thức rằng những tạo vật thực tế, rằng không có thực thể tồn tại độc lập với nhận thức. Vì thế một số người cho rằng Chủ nghĩa Kopernik đánh đổ những nền tảng của khoa học Trung Cổ và siêu hình học.
Một hệ quả của Chủ nghĩa Kopernik là quy luật khoa học không cần thiết phải phù hợp với thực tế. Sự đối nghịch này với hệ của Aristoteles vốn đặt cao tầm quan trọng của nguồn gốc của hiểu biết thông qua các giác quan.
Khái niệm của Kopernik đánh dấu một sự cách mạng khoa học. Thực vậy một số cho rằng nó đứng ngang bằng với sự khởi xướng của "cuộc cách mạng khoa học" . Immanuel Kant mang tính biểu tượng của cách mạng do Kopernik khởi xướng - chủ nghĩa duy lý ưu việt của nó - công nhận rằng chính sự hợp lý của con người là cách làm sáng tỏ về những hiện tượng quan sát được. Những nhà triết học gần đây cũng tìm thấy những giá trị triết học trong chủ nghĩa Kopernik.
Trích dẫn
- Goethe
- "Trong tất cả các khám phá và ý kiến, không có cái nào có ảnh hưởng đến tinh thần hơn học thuyết của Kopernik. Thế giới mới được biết là tròn thì phải bị đòi hỏi từ bỏ đặc quyền lớn lao của địa vị trung tâm vũ trụ. Có lẽ không bao giờ nhân bị đòi hỏi lớn lao như thế — vì khi chấp nhận điều này thì nhiều việc bị tan tành mây khói! Việc gì sẽ xảy ra với Eden của chúng ta, thế giới của sự ngây thơ, lòng mộ đạo, và thi ca; bằng chứng từ giác quan; sự tin tưởng đến một niềm tin thơ - đạo? Không đáng ngạc nhiên khi những người đương thời không muốn từ bỏ những ý niệm này và chống đối bằng mọi cách một học thuyết mà những người tin tưởng cho phép và đòi hỏi một tầm nhìn tự do và ý tưởng vĩ đại chưa bao giờ được biết, hay tưởng tượng nổi."
- Nietzsche
- "Tôi thấy hài lòng khi nghĩ về sự đúng đắn của vị quý tộc Ba Lan lật đổ nghị quyết của một cuộc họp (nghị viện) với sự phủ quyết đơn giản; và Kopernik người Ba Lan dường như từ sự đúng đắn này chống lại tất cả các kiểu ý kiến của những người khác theo cách đúng đắn và rộng lớn nhất."
- Kopernik
- "Vì tôi không say mê lắm với những quan điểm của riêng mình nên tôi không coi trọng suy nghĩ của người khác về chúng. Tôi biết rằng những ý kiến của một nhà triết học không phải là chủ đề cho sự phán xét của những người bình thường, bởi vì đó chính là sự nỗ lực của ông ta nhằm tìm kiếm sự thực trong mọi vấn đề, trong phạm vi sự cho phép của Chúa trời với loài người. Tuy vậy, tôi cho rằng cần xa lánh những quan điểm hoàn toàn sai trái. Những người biết rằng sự kết luận của nhiều thế kỷ đã đưa tới việc thừa nhận quan điểm rằng Trái Đất đứng yên ở trung tâm vũ trụ, như trung tâm của nó là trung tâm của vũ trụ, Tôi phản đối, coi đó là một tuyên bố điên cuồng nếu tôi đưa ra điều xác nhận rằng Trái Đất chuyển động.
- "Khi một con chuyển động êm đềm về phía trước, các thủy thủ thấy chuyển động của nó được phản ánh qua mọi sự vật bên ngoài, tuy nhiên mặt khác họ cũng có thể cho rằng mình đang đứng yên, cùng với mọi vật trên thuyền. Theo một số cách, chuyển động của Trái Đất có thể là điều không thể nghi ngờ đưa lại cảm giác rằng toàn thể vũ trụ đang chuyển động.
- "Vì thế cùng với những lý thuyết cổ đại, vốn không còn chính xác nữa, chúng tay hãy cho phép các lý thuyết mới đó được xuất hiện, đặc biệt khi chúng tỏ ra rất chính xác, đơn giản và mang lại nhiều thông tin quan sát quý báu. Khi các lý thuyết còn được quan tâm, không ai có thể chờ đội một sự chính xác hoàn toàn từ thiên văn học, thiên văn học không thể cung cấp điều đó, ít nhất anh ta chấp nhận các ý tưởng chính xác được đưa ra cho một mục đích nào khác, và việc quay lưng lại với nó chính là điều ngu xuẩn lớn hơn việc quan tâm tới nó. Tạm biệt."
- Tuyên bố của Thượng viện Ba Lan ra ngày 12 tháng 6 năm 2003
- "Ở thời điểm kỷ niệm năm trăm ba mươi năm ngày sinh và bốn trăm sáu mươi năm ngày mất của Mikołaj Kopernik, Thượng viện Cộng hòa Ba Lan bày tỏ sự kính trọng sâu sắc nhất và cầu nguyện cho con người Ba Lan kiệt xuất đó, một trong những nhà khoa học vĩ đại nhất trong lịch sử Thế giới. Mikołaj Kopernik, nhà thiên văn học nổi tiếng thế igới, tác giả của công trình mang tính đột phá "O obrotach sfer niebieskich" là người đã "Bắt Mặt trời đứng yên và Trái Đất chuyển động". Ông đã tự nâng mình thành một nhà toán học, kinh tế học, luật sư, bác sĩ và linh mục cũng như là một người bảo vệ Lâu đài Olsztyn trong cuộc chiến tranh Ba Lan-Teutonic kiệt xuất của đất nước. Ký ức về những thành tựu của ông sẽ tồn tại lâu dài và trở thành một nguồn cảm hứng cho các thế hệ tương lai."
- Allgemeine Deutsche Biographie
- "Vấn đề quốc tịch đã trở thành chủ đề của nhiều cuốn sách khác nhau; một sự tranh cãi về quốc tịch của người sáng lập ra quan niệm hiện tại của chúng ta về thế giới giữa Ba Lan và Đức, nhưng như đã được chỉ ra rằng về quốc tịch cha mẹ của Kopernik chúng ta không thể chắc chắn được điều gì; cha ông dường như khi sinh là một người Slav, mẹ ông là một người Đức; ông đã sinh ra tại một thành phố; nơi chính quyền quản lý nó và người dân sử dụng hệ thống giáo dục Đức, tuy nhiên ông sinh ra với giấy tờ của Ba Lan; ông đã học tập tại Cracow ở thủ đô Ba Lan, sau đó tại Italia và sống tới cuối đời ở Frauenburg với tư cách một tăng hội; ông viết sách bằng tiếng Latinh và tiếng Đức. Trong khoa học ông là một con người, không thuộc về một quốc gia, công việc của ông, những nỗ lực của ông thuộc về cả thế giới, và chúng ta không quá quan tâm tới việc thực tế Kopernik là một người Ba Lan hay người Đức, mà coi ông là một người có tâm hồn tự do, một nhà thiên văn học vĩ đại, người cha của ngành thiên văn học mới, tác giả của một cái nhìn đúng đắn về thế giới."
Phần mộ
Mộ ở tình trạng xấu và không phải tất cả xương cốt đều còn. Các nhà khảo cổ học hy vọng tìm thấy họ hàng của Kopernik để xác định qua ADN.
Bối cảnh lịch sử về vấn đề quốc tịch của Kopernik
Vì sự không chắc chắn của các nhà địa lý, tới nay vẫn còn vấn đề đang tranh cãi về việc Kopernik là người Đức hay người Ba Lan Cha của Kopernik, cũng tên là Nicolaus (Mikołaj) và có thể là họ Koppernigk, từng là một công dân của Kraków, sau này là thủ đô Ba Lan, nhưng ông đã rời thành phố này vào năm 1460 để chuyển tới Toruń. Thành phố này là một phần của Liên minh Hanseatic, cũng như là Liên bang Phổ mà chỉ vài năm trước khi Mikołaj ra đời đã xảy ra một cuộc khởi nghĩa (ngay sau đó dẫn tới Cuộc chiến mười ba năm khi họ yêu cầu vua Ba Lan sáp nhập Phổ vào lãnh thổ của ông) giành độc lập từ Hiệp sĩ Teuton, những kẻ đã cai trị vùng này trong hai trăm năm, áp đặt thuế má nặng nề làm chậm phát triển kinh tế trong tỉnh. Với Hiệp ước Toruń lần hai năm 1466, thành phố này và phần phía tây của Phổ trở thành một vùng đất của Vương quốc Ba Lan mang tên Prusy Królewskie, vốn đã ủng hộ cuộc khởi nghĩa, trong khi phần đông vẫn nằm dưới quyền cai quản của những hiệp sĩ Teuton trở thành miền Đông Phổ sau đó.Kopernik, được gọi Mikołaj Kopernik trong tiếng Ba Lan và Nikolaus Kopernikus trong tiếng Đức, sinh ở Toruń và sống gần trọn cuộc đời làm việc ở Royal Prussia, một nơi tự trị và là một vùng đất của Hoàng gia Ba Lan - nó có nghị viện riêng, triều đình, ngân khố (mà Kopernik có tham gia) và quân đội. Ông cũng trông nom việc bảo vệ Allenstein/Olsztyn với vị trí chỉ huy các lực lượng của nhà vua Ba Lan khi đội quân của Albert xứ Brandenburg bao vây thành trì.
Vào thế kỷ 19, với sự nổi lên của chủ nghĩa quốc gia Đức, đã có nhiều nỗ lực nhằm tuyên bố rằng Kopernik chính là người Đức và bác bỏ những quan hệ của ông với Ba Lan , tuy nhiên, sau năm 1945 những cố gắng đó đã hoàn toàn thất bại. Để đáp lại, người Ba Lan gắng tuyên bố rằng Kopernik thực sự là người Ba Lan và cố gắng bác bỏ những nguồn gốc Đức có thể có của ông. Có lẽ gia đình ông về mặt chủng tộc là người Đức, và chắc chắn Kopernik nói thạo tiếng Đức, trong khi không có minh chứng trực tiếp về việc ông biết tiếng Ba Lan. Ngôn ngữ chính của ông dùng khi viết là tiếng Latinh. Tuy nhiên, Kopernik sinh ở Đông Phổ, sau này là Prusy Królewskie vì những mối quan hệ của nó với Vương quốc Ba Lan. Ông đã trở thành một người dân tỉnh Prussian Ermland hay Warmia, một địa phận Giám mục được miễn trừ, trong suốt phần đời còn lại ông là một thần dân trung thành của Prince-Bishop (Thái ấp chủ giáo) Công giáo vào thời điểm khi đa số người Phổ và Đức đã theo đạo Tin lành. Hiện nay ông được chấp nhận chung là người Ba Lan. Cùng lúc đó, cần nhớ rằng trong thời Kopernik, quốc tịch có ít ý nghĩa hơn hiện nay, và mọi người thường không nghĩ rằng họ là người Ba Lan hay người Đức
Vì thế, trong hoàn cảnh hiện tại, Kopernik có thể được coi là người Đức Ba Lan về mặt chủng tộc, nhưng đặt một con người trong lịch sử vào hoàn cảnh hiện đại thì không có ý nghĩa gì. Điều quan trọng là đặt Kopernik trong hoàn cảnh lịch sử và khoa học của ông.
- Trang này được sửa đổi lần cuối lúc 20:35 ngày 22 tháng 6 năm 2016.
Tìm thấy di cốt nhà thiên văn Copernicus
Các nhà khảo cổ học Ba Lan tìm thấy phần mộ của Corpernicus trong một nhà thờ Cơ đốc từ năm 2005, nhưng họ phải chờ tới ba năm để xác nhận đó là nơi yên nghỉ của nhà thiên văn học thiên tài.
Phát hiện này kết thúc những
đồn đoán kéo dài nhiều thế kỷ về nơi yên nghỉ của nhà thiên văn học từng
đề ra hình thức hiện đại đầu tiên của thuyết nhật tâm, theo đó Mặt
trời, chứ không phải Trái đất, là trung tâm của vũ trụ.
Ảnh Nicolaus Copernicus do máy tính dựng. Ảnh: AP.
|
Jerzy
Gassowski, giám đốc Viện Nhân chủng và Khảo cổ ở Pultusk, Ba Lan, cho
biết ông và cộng sự tìm thấy thi thể Copernicus tại một nhà thờ Cơ đốc ở
Frombork, Ba Lan. Họ dùng kỹ thuật tái tạo cơ trên xương sọ và nhận
thấy khuôn mặt do máy tính dựng lên rất giống những bức chân dung của
Copernicus, đặc biệt là chiếc mũi gãy và vết sẹo ở phía trên mắt trái.
Ngoài ra, chiếc sọ thuộc về một người đàn ông ở độ
tuổi 70. Copernicus qua đời vào năm 1543 và cũng hưởng thọ 70 tuổi.
“Chúng tôi cho rằng bộ xương đó thuộc về Copernicus, nhưng vẫn còn nhiều
nghi vấn cần được giải đáp”, Jerzy phát biểu.
Để tìm hiểu kỹ hơn, Marie Allen, chuyên gia di truyền
người Thụy Điển, phân tích ADN từ cột sống, một chiếc răng và xương đùi
của bộ xương. Sau đó bà phân tích ADN của 4 sợi tóc của nhà thiên văn
học người Ba Lan trong thư viện thuộc Đại học Uppsala, nơi bà làm việc.
“Hai trong 4 sợi tóc có cấu trúc ADN giống hệt những chiếc xương”, Marie tuyên bố.
Một bức chân dung của Nicolaus Copernicus được vẽ trong thế kỷ 16. Ảnh: uqam.ca.
|
Copernicus
được chôn tại nhà thờ Frombork, nơi ông phục vụ với tư cách giáo sĩ,
nhưng ngôi mộ không được đánh dấu. Những chiếc xương mà nhóm của Jerzy
tìm thấy nằm bên dưới một tấm đá lát nền. Nhóm chuyên gia của Viện Nhân
chủng và Khảo cổ Ba Lan bắt đầu tìm kiếm di hài Copernicus từ năm 2004
theo yêu cầu của Jacek Jezierski, một giám mục Ba Lan.
Nicolaus Copernicus chào đời vào ngày 19/2/1473 tại
thành phố Toruri, Ba Lan. Ông học tập ở Ba Lan, Italy và dành phần lớn
cuộc đời làm việc ở Frombork. Copernicus am hiểu toán học, thiên văn
học, luật, tâm lý, chính trị. Ông từng là người lính, viên chức hành
chính, nhà cai trị, nhà ngoại giao, học giả kinh tế và giáo sĩ trước khi
tập trung nghiên cứu thiên văn.
Thuyết nhật tâm do ông nghiên cứu trong khoảng thời
gian 1508-1514 được coi là giả thiết quan trọng nhất trong lịch sử. Tuy
nhiên, Copernicus chỉ công bố lý thuyết chính vào năm 1543 trước khi qua
đời. Nó được trình bày trong cuốn, De revolutionibus orbium coelestium
(Về chuyển động quay của các thiên thể). Lý thuyết của ông trái ngược
với Kinh thánh, giáo hội và cả những lý thuyết thiên văn học trước đó.
Chúng có ảnh hưởng quan trọng đối với những nhà khoa học sau này, trong
đó có Galileo, Descartes và Newton.
V.L (theo AP)
Ông đã được chôn cất trong một ngôi mộ tại thánh đường nơi trước kia ông đã một lần phục vụ như là một giáo sĩ luật và một bác sĩ, nói trong một bản của Liên Hiệp Báo Chí trên trang mạng Hoa Kỳ ABC News.
Cô-péc-ních, người đã sống từ 1473 đến 1543, đã chết như một nhà thiên văn học ít ai biết đến làm việc trong một vùng xa xôi phía bắc của Ba Lan, cách xa với các trung tâm học vấn của Âu Châu. Ông đã dành nhiều năm lao động trong những thời gian rảnh rỗi để phát triển học thuyết của mình, cái mà sau này bị chỉ trích lên án như là một kẻ dị giáo bởi vì nó loại bỏ Trái Đất và con người ra khỏi vị trí trung tâm của vũ trụ.
Hình mẫu ban đầu của ông dựa trên những tính toán toán học phức tạp và sự quan sát bằng mắt thường bầu trời bởi vì lúc này kính thiên văn vẫn chưa được phát minh.
Sau khi ông chết, phần còn lại của ông ấy đã được đặt vào một ngôi mộ không đánh dấu rõ ràng dưới sàn nhà của của một nhà thờ lớn ở Frombork, trên bờ biển Ban-tích (Baltic) Ba Lan, vị trí chính xác không ai được biết.
Vào hôm thứ bảy, phần còn lại của ông đã được ban phép lành và rảy nước thánh bởi các giáo sĩ cao cấp nhất của Ba Lan trước khi một lính danh dự mang áo quan của ông một cách trọng thể qua bậc gạch đỏ hùng vĩ của vương cung thánh đường và dần hạ thấp trở lại đúng vị trí nơi phần đầu sọ và các xương của ông được tìm thấy vào năm 2005.
Tại thời điểm lời thúc dục của vị giám mục địa phương, các nhà khoa học đã bắt đầu tìm kiếm các phần còn lại của nhà thiên văn học và cuối cùng đã phát hiện ra một đầu sọ và các khúc xương của một ông già 70 tuổi - tuổi Cô-péc-ních khi chết.
ABC cho biết vụ tái tạo hình dạng trên máy vi tính do các chuyên gia pháp lý thực hiện dựa trên xương sọ cho thấy cái mũi gẫy và các đặc điểm khác giống hệt bức tự họa của Cô-péc-ních.
THUYẾT NHẬT TÂM TỪNG BỊ COI LÀ DỊ GIÁO
Thuyết
Nhật Tâm Hệ bị chế nhạo - hay thậm chí còn bị coi là dị giáo quyết liệt
ở thế giới phương Tây - cho đến 400 năm trở về trước.
Trước đó quan điểm được chấp nhận phổ
biển là Trái Đất nằm ở tâm, và Mặt Trời, Mặt Trăng và những hành tinh đã
biết khác (tổng cộng là năm) di chuyển xung quanh nó. Mô hình này được
nhà khoa học người Ai Cập Claudius Ptolemaeus (Ptolemy) công bố vào thế
kỷ thứ hai sau Công Nguyên.
Cho đến 1543 mới có một nhà khoa học và
là giáo sĩ người Ba Lan Nicolaus Copernicus (1473-1543) xuất bản lý
thuyết dám lấy Trái Đất khỏi trung tâm và đưa Mặt Trời vào.
Không ngạc nhiên, lý thuyết của
Copernicus đối diện với sự chống đối khủng khiếp từ giới tu sĩ. Thực ra,
Copernicus đã đoán trước được công trình của mình sẽ bị đối xử như thế
nào, vì không muốn đối đầu với những ý kiến phản đối, ông đã trì hoãn
việc xuất bản cho đến năm mình mất.
Nhưng dù sao thì lý thuyết của
Copernicus cũng không hoàn hảo. Ngoại trừ việc đặt Mặt Trời vào trung
tâm thì quỹ đạo của các hành tinh đã sai.
Nhiều thập kỷ sau, nhà thiên văn học
người Đức Johannes Kepler (1571-1630) trở thành người tìm ra câu trả lời
chính xác. Những hành tinh không chuyển động trong một quỹ đạo tròn
hoàn toàn. Thay vào đó, quỹ đạo của chúng hơi có dạng elip-hình giống
như vòng tròn bị đè bẹp.
Cùng với nhà quan sát người Ý Galileo
Galilei (1564-1642), Kepler là dụng cụ để xác nhận một lần nữa rằng mô
hình của Ptolemy đã sai hoàn toàn-mặc dù nó đã thống trị một khoảng thời
gian đáng nể là 1500 năm.
Thuyết hệ nhật tâm của Nicolaus Copernicus
(Nicolaus Copernicus đã quan sát quy luật vận động của các hành tinh và hằng tinh, đồng thời ông cũng sưu tập, phân tích và tiến hành so sánh với các tài liệu quan sát thiên thể của các nhà thiên văn học khác).
Qua quá trình miệt mài quan sát và nghiên cứu, Copernicus đã đưa ra lời thách thức đối với “Thuyết địa tâm” (trái đất là trung tâm vũ trụ) chiếm vị trí thống trị lâu dài trong lịch sử thiên văn học châu Âu. Hơn hai nghìn năm trước đó, con người luôn cho rằng trái đất là trung tâm của vũ trụ, tất cả các hành tinh khác kể cả mặt trời và quan niệm này là bất di bất dịch. Học thuyết về sự vận động thiên thể của Copernicus đánh dấu sự mở đầu trong lĩnh vực lý giải vũ trụ của nhân loại, mở ra những bước đi đầu tiên cho ngành thiên văn học hiện đại.
Copernicus là người đầu tiên vận dụng phương pháp quan sát khoa học làm cơ sở để đưa ra lý luận khoa học, (trước đó cơ sở của lý luận khoa học đều dựa trên logic và tư tưởng). Bằng khám phá này và phương phát nghiên cứu của mình, Copernicus không những đã mở đường cho lĩnh vực nghiên cứu thiên văn học hiện đại mà còn xây dựng nên phương pháp nghiên cứu khoa học hiện đại.
├ Học thuyết này đã được hình thành như thế nào?
Năm 1499, Copernicus tốt nghiệp trường đại học Bologna của Italia và làm giáo sĩ trong một nhà thờ. Sau đó ông trở về Ba Lan làm việc cho chú của mình, ông Bishop Waczenrode, giáo chủ của nhà thờ Thiên Chúa Frauenburg Cathedral. Compernicus sống ở tầng trên cùng của nhà thờ nên ông có thể thường xuyên quan sát thiên văn.
Ngày đó, người ta một mực tin vào mô hình vũ trụ do nhà khoa học người Hy Lạp Ptolemy đưa ra 1500 năm trước. Ptolemy cho rằng trái đất là trung tâm của vũ trụ, tất cả các thiên thể bao gồm mặt trăng, mặt trời và các hằng tinh đều chuyển động xoay quanh trái đất trong một vòng tròn hình cầu lớn, các hằng tinh thì cách xa trái đất, chúng nằm ngoài khoảng không của khối cầu lớn này. Thế nhưng , qua quá trình quan sát tỉ mỉ, các nhà khoa học đã phát hiện ra rằng quy luật vận động của các hành tinh không phù hợp với quan điểm của Ptolemy. Một số nhà khoa học đã sửa đổi học thuyết quỹ đạo vũ trụ của Polemy, học đưa thêm vào nhiều hơn các quỹ đạo vận động của thiên thể trên quy đạo đã có (hay gọi là quỹ đạo thiên thể nhỏ). Cách làm như vậy đã cho thấy mỗi hành tinh đều chuyển động theo chu vi hình tròn quanh trái đất. Vài trăm năm sau, mô hình vũ trụ này càng thể hiện rõ sự sai lệch. Các nhà khoa học tiếp tục đưa thêm nhiều quỹ đạo vào trong mô hình, các hành tinh vẫn luôn men theo từng quỹ đạo chuyển động theo chu vi hình tròn.
Copernicus muốn dùng các kỹ thuật hiện đại thời bấy giờ(thế kỷ XVI) để cải tiến trắc lượng của Ptolemy, ông quyết định loại bỏ một vài quỹ đạo nhỏ.
Trải qua gần 20 năm miệt mài tiến hành đo đạc vị trí của các hành tinh, kết quả mà Copernicus thu được vẫn không khác nhiều so với mô hình vận động thiên thể của Ptolemy đưa ra là mấy.
Copernicus muốn tìm hiểu xem nếu như quan sát sự vận động của các hành tinh này trên một hành tinh khác đang chuyển động thì kết quả sẽ là như thế nào. Xuất phát từ thắc mắc đó, trong đầu ông nảy ra một ý nghĩ: Nếu như trái đất cũng đang vận động thì các hành tinh khác sẽ như thế nào khi nhìn từ trái đất? Ý nghĩ đó đã hiện lên rõ rệt trong đầu óc ông.
Trong thời gian một năm, Copernicus tiến hành quan sát các hành tinh ở vào những thời điểm khác nhau và với khoảng cách khác nhau, ông nhận ra rằng sự vận động ở mỗi hành tinh là không giống nhau, từ đó ông phát hiện ra rằng trái đất không thể đứng ở vị trí trung tâm quỹ đạo chuyển động của các hành tinh được.
Suốt trong thời gian 20 năm tiến hành quan sát , Copernicus phát hiện ra trong khoảng thời gian một năm, duy chỉ có mặt trời là không có những thay đổi rõ rệt. Điều đó có nghĩa là khoảng cách từ trái đất đến mặt trời là bất biến. Nếu như trái đất không phải là trung tâm của vũ trụ, thì mặt trời chính là trung tâm của vũ trụ. Copernicus lập tức nhận ra: Nếu như đặt mặt trời vào vị trí trung tâm của vũ trụ thì trái đất sẽ quay quanh mặt trời. Khám phá đó của ông đã xóa bỏ tất cả các mô hình quỹ đạo nhỏ, trực tiếp chứng minh được các hành tinh đã biết luôn chuyển động theo chu vi hình tròn xung quanh mặt trời.
├ Thế nhưng, liệu người ta có thể tin vào mô hình vũ trụ mới do Copernicus đưa ra không? Tất cả mọi người trên thế giới, nhất là các giáo chủ có quyền lực tối cao, liệu họ có chấp nhận được học thuyết mặt trời là trung tâm vũ trụ hay không?
https://www.facebook.com/TimHieuveDanhNhanTheGioi/photos/a.479947488690939.114971.479904185361936/549910925027928/?type=1
Do lo sợ trừng phạt của giáo chủ, Copernicus đã không dám công bố phát hiện của mình. Năm 1543, phát hiện đó của ông mới được công bố. Thế nhưng, ngay cả đến thời điểm đó, học thuyết này vẫn tiếp tục vấp phải sự chế nhạo và khinh miệt của các giáo hội, các trường đại học, các nhà thiên văn học cùng các tổ chức khác. Sáu mươi năm sau, Jonhannes Kepler và Galileo Galilei đã chứng minh tính chính xác trong học thuyết của Copernicus.
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét