Thứ Tư, 13 tháng 7, 2016

CHUYỆN ÍT BIẾT 21

(ĐC sưu tầm trên NET)

Bí ẩn Đại Hồng Thủy: Con tàu Noah có hình chóp giống kim tự tháp?


Trên cánh cửa dẫn vào nhà thờ Baptistery ở Florence, Ý của họa sĩ thời kỳ Phục Hưng Lorenzo Ghiberti, có một tấm pano minh họa cuộc đời của Noah sau khi ông trở lại đất liền. Điều kỳ lạ là, con tàu ông dùng có hình dạng của một kim tự tháp. (Ảnh: Internet)
Trên cánh cửa dẫn vào nhà thờ Baptistery ở Florence, Ý của họa sĩ thời kỳ Phục Hưng Lorenzo Ghiberti, có một tấm pano minh họa cuộc đời của Noah sau khi ông trở lại đất liền. Điều kỳ lạ là, con tàu ông dùng có hình dạng của một kim tự tháp. (Ảnh: Internet)

Theo một phần nội dung mới được số hóa của Cuộn Sách Biển Chết, con tàu Noah khác biệt với quan điểm được nhìn nhận hiện nay. Tư liệu 2.000 năm tuổi này có thể là bằng chứng cho thấy con tàu này có hình dạng của một kim tự tháp.
Hơn 50 năm về trước, một chàng trai chăn cừu người Bedouin (Ả rập) đã ngẫu hứng ném một hòn đá vào một hang động và điều này đã vô tình dẫn tới phát hiện khảo cổ lớn nhất của thế kỷ 20. Chàng trai người Bedouin này đã nghe thấy tiếng động vọng lại khi hòn đá đập vỡ một chậu đất nung. Sau khi khám xét, cậu đã phát hiện được tư liệu đầu tiên của Cuộn Sách Biển Chết (Dead Sea Scrolls). Khi tất cả các cuộn sách (cuộn giấy da) được sắp xếp và phân loại, người ta ước tính có khoảng 800 bản thảo. Khoảng ¼, hay hơn 200 bản thảo, là bản chép tay các phần trong Kinh thánh Hebrew.

Two scrolls from the Dead Sea Scrolls lie at their location in the Qumran Caves before being removed for scholarly examination by archaeologists. (public domain) Hai cuộn sách từ các Cuộn Sách Biển Chết tại hiện trường nơi phát hiện trong quần thể hang động Qumran, trước khi được các nhà khảo cổ học tách rời để mang đi nghiên cứu. (Ảnh: Wikipedia)
Hai cuộn sách từ các Cuộn Sách Biển Chết tại hiện trường nơi phát hiện trong quần thể hang động Qumran, trước khi được các nhà khảo cổ học tách rời để mang đi nghiên cứu. (Ảnh: Wikipedia)

Hiện nay, sau gần 5 năm, một phòng thí nghiệm được thiết lập bởi Cơ quan Khảo cổ Israel (Israel Antiquities Authority) như một phần trong dự án Phòng thí nghiệm Số hóa các Cuộn sách Biển Chết Leon Levy (Leon Levy Dead Sea Scrolls Digital Library project), đã chụp quét hàng chục nghìn đoạn nội dung trong những cuộn sách bằng một camera đặc dụng.
Mỗi đoạn nội dung đã được chụp hình 28 lần với độ phân giải cao sử dụng các chiều dài bước sóng ánh sáng khác nhau. Công nghệ cao cấp này cho phép các nhà nghiên cứu đọc các từ và ký tự không thể đọc được trước đây. Một số đoạn nội dung mới được số hóa này đã cung cấp những cái nhìn mới mẻ cho các sự tích nổi tiếng trong Kinh Thánh.

Part of the scroll discussing judgment day, before being scanned. Credit: Israel Antiquities Authority Đoạn nội dung đề cập đến Ngày Phán Xét cuối cùng, trước khi được chụp quét. (Ảnh: Cơ quan Khảo cổ Israel)
Đoạn nội dung đề cập đến Ngày Phán Xét cuối cùng, trước khi được chụp quét. (Ảnh: Cơ quan Khảo cổ Israel)
Part of the scroll discussing judgement day after the scan. Credit: Israel Antiquities Authority Đoạn nội dung đề cập đến Ngày Phán Xét cuối cùng, sau khi được chụp quét. (Ảnh: Cơ quan Khảo cổ Israel)
Đoạn nội dung đề cập đến Ngày Phán Xét cuối cùng, sau khi được chụp quét. (Ảnh: Cơ quan Khảo cổ Israel)

Giải mã các đoạn nội dung mới

Theo trang nhật báo Haaretz của Israel, sự hiểu biết mới nhất về các đoạn nội dung đã thay đổi vốn hiểu biết trước đây của chúng ta về con tàu Noah. Trước đây, cái từ theo sau cụm từ “chiều cao của con tàu” bị lu mờ, không thể nhìn rõ dù đã được quan sát qua các bức ảnh chụp có độ phân giải cao. Tuy nhiên, kết quả chụp quét mới nhất cho thấy cụm từ chính xác phải là ne’esefet, có nghĩa là “tụ lại”.
Theo nhà nghiên cứu TS  Alexey Yuditsky, cụm từ này ám chỉ rằng các khung sườn của con tàu Noah đã tụ lại tại chóp đỉnh, tạo nên một hình kim tự tháp. TS Yuditsky cho rằng Septuagint, một bản dịch tiếng Hy Lạp của Kinh Thánh từ thế kỷ 3 TCN, đã sử dụng một động từ tiếng Hy Lạp với ý nghĩa tương đồng để miêu tả con tàu Noah. Ngoài ra, các tác giả thời Trung Cổ như Maimonides cũng từng nói rằng con tàu Noah có phần mái nhọn.
Các cụm từ mới được giải mã trên các cuộn giấy da cổ đã nằm ẩn giấu trong hàng thế kỷ, nhưng hiện đã chịu hé lộ câu trả lời cho rất nhiều ẩn đố thâm niên, cùng lúc đưa ra nhiều ẩn đố mới. Trước đây, sự tích về con tàu Noah chủ yếu được biết đến nhờ Sách Sáng Thế. Tuy nhiên, các Cuộn Sách Biển Chết được phát hiện trong hang động Qumran ở sa mạc Judean đã góp phần làm sáng tỏ thêm sự tích này.

Qumran cave 4 in the Judean Desert, where ninety percent of the scrolls were found (public domain) Hang động số 4 ở sa mạc Judean, nơi 90% các Cuộn Sách Biển Chết đã được phát hiện. (Ảnh: Wikipedia)
Hang động số 4 ở sa mạc Judean, nơi 90% các Cuộn Sách Biển Chết đã được phát hiện. (Ảnh: Wikipedia)

Con tàu Noah – không chỉ đơn thuần là một câu chuyện trong Kinh Thánh


The Biblical story of Noah’s Ark has intrigued millions of people for years. Câu chuyện về con tàu Noah trong Kinh Thánh đã hấp dẫn hàng triệu người trong nhiều năm. (Ảnh: Getty Images)
Câu chuyện về con tàu Noah trong Kinh Thánh đã hấp dẫn hàng triệu người trong nhiều năm. (Ảnh: Getty Images)

Các Cuộn Sách Biển Chết chứa thông tin về rất nhiều chủ đề hấp dẫn và gây tranh cãi trong lịch sử, và câu chuyện về Noah và trận Đại Hồng Thủy chỉ là một trong số đó. Christos Djonis, tác giả khách mời trên trang Ancient Origins, đã giải thích như sau trong một loạt bài viết gồm hai phần với tựa đề “Bằng chứng về trận Đại hồng thủy: Sự thật hay chỉ là truyền thuyết?” (phần 1phần 2), rằng câu chuyện về con tàu Noah không chỉ là một sự tích trong Kinh Thánh:
“Câu chuyện về một “Trận Đại hồng thủy” được Chúa (hay các vị Thần theo các tư liệu cổ xưa hơn) gửi tới nhằm hủy diệt nhân loại tội lỗi là một sự kiện phổ biến góp mặt trong rất nhiều nền văn hóa và tín ngưỡng trên khắp thế giới, và trải dài tới tận giai đoạn lịch sử đầu tiên từng được ghi nhận.
Từ Ấn Độ cho đến Hy Lạp cổ đại, vùng Lưỡng Hà và ngay cả trong các cộng đồng thổ dân bản địa Bắc Mỹ, không hề thiếu những câu chuyện mà thoạt nghe rất tương đồng với nhau. Một số trong những câu chuyện này thật sự giống nhau đến nỗi một người có thể thốt lên rằng phải chăng tất cả các nền văn minh trên địa cầu đều đã từng trải qua một sự kiện tương tự (…)
Chỉ sau giai đoạn 7.000 TCN khi mực nước biển bắt đầu ổn định trở lại, thì đời sống của con người mới một lần nữa trở về đúng quỹ đạo. Các vùng đất gần biển không còn phải bị bỏ hoang để di tản đến các vùng đất cao hơn, ít nhất là ở hầu hết các khu vực, và trong khoảng từ 6000 TCN đến 5000 TCN, một lần nữa, chúng ta bắt đầu nhìn thấy các dấu hiệu của hoạt động con người gần khu vực biển.
Liệu đây chỉ đơn thuần là một sự trùng hợp ngẫu nhiên khi lịch sử “được ghi nhận” đã bắt đầu vào khoảng thời gian này? Liệu có đúng khi nói rằng những con người thời kỳ đầu vẫn còn quá nguyên thủy để có thể để lại đằng sau các dấu tích về sự tồn tại của họ, hay những trang đầu tiên của lịch sử đã bị “cuốn trôi” bởi Trận Đại hồng thủy từ Kỷ Băng Hà gần đây nhất? Sau cùng, dường như ngay khi các hoàn cảnh khí hậu khắc nghiệt thoái lui, sẽ không mất nhiều thời gian để nhân loại có thể tự khôi phục lại một lần mới”.
canh cong Baptistery florenceCác tấm pano trên cánh cửa dẫn vào nhà thờ Baptistery ở Florence, Ý của họa sĩ thời kỳ Phục Hưng Lorenzo Ghiberti, minh họa các cảnh tượng trong Kinh Cựu Ước. Một trong những tấm pano minh họa cuộc đời của Noah, đặc biệt là trong giai đoạn sau trận Đại Hồng Thủy, khi Noah trở lại đất liền với sự trợ giúp của Chúa. Điều kỳ lạ là, con tàu ông dùng có hình dạng của một kim tự tháp, từ đó củng cố thêm cho luận điểm mới này.

Chi tiết tấm pano minh họa cuộc đời của Noah sau khi ông trở lại đất liền. Điều kỳ lạ là, con tàu ông dùng có hình dạng của một kim tự tháp, từ đó củng cố thêm cho luận điểm mới này. (Ảnh: Internet)
Chi tiết tấm pano minh họa cuộc đời của Noah sau khi ông trở lại đất liền. Điều kỳ lạ là, con tàu ông dùng có hình dạng của một kim tự tháp, từ đó củng cố thêm cho luận điểm mới này. (Ảnh: Internet)
Tác giả: Natalia Klimczak, Ancient Origins.
Đăng tải với sự cho phép. Đọc bản gốc ở đây.
Quý Khải biên dịch

Những nhân vật lịch sử đằng sau các quân bài ‘J, Q, K’ trong bộ tú lơ khơ


Quân bài K cơ trong bộ tú lơ khơ. (Ảnh: Internet)
Quân bài K cơ trong bộ tú lơ khơ. (Ảnh: Internet)

Ai trong chúng ta hẳn cũng từng cầm đến bộ tú lơ khơ (hay còn gọi là bộ bài tây), nhưng những ý nghĩa đằng sau các con số, và những nhân vật lịch sử đại diện cho các quân “J, Q, K” thì chắc hẳn ít ai biết.
52 lá bài trong bộ bộ tú lơ khơ (hay còn gọi là bộ bài tây) là tương ứng với 52 tuần trong một năm. 4 loại chất: cơ (hình trái tim), rô (hình thoi), chuồn hay tép (hình lá cánh chuồn) và bích (hình ngọn giáo) là tượng trưng cho 4 mùa trong năm.
Mỗi một loại chất có 13 quân bài (từ 2 đến át) là vì mỗi mùa có 13 tuần. Một ngày có ban ngày và ban đêm nên quân bài cũng có hai màu sắc đen và đỏ. “J, Q, K” bao gồm 12 quân bài tượng trưng cho 12 tháng trong năm.
Ngoài 52 quân bài ra thì còn có hai quân Phăng-teo (hay còn gọi là Joker). Hai quân Joker này tượng trưng cho mặt trời (ban ngày) và mặt trăng (ban đêm). Nếu coi mỗi quân Joker này là 1 điểm, “J” là 11, “Q” là 12 và “K” là 13 thì 53 lá bài có tổng là 365 điểm, tượng trưng cho 365 ngày trong năm. Nếu như cộng 54 lá bài lại sẽ có tổng là 366 thể hiện năm có nhuận.
Cũng có một giả thuyết khác, đó là coi mỗi Joker là 0.5 điểm thì tổng 54 lá bài sẽ là 365 điểm tương ứng với 365 ngày. Nhưng điều quan trọng nhất chính là “J, Q, K” trong bộ bài tượng trưng cho 12 nhân vật lịch sử và những câu chuyện về họ. Hãy cùng tìm hiểu nhé!

Những nhân vật lịch sử đằng sau các quân bài ‘J, Q, K’ trong bộ tú lơ khơ


Quân K chuồn (tép) trong bộ bài tú lơ khơ. (Ảnh: Internet)
Quân K chuồn (tép) trong bộ bài tú lơ khơ. (Ảnh: Internet)

Quân bài K tép là Alexander Đại đế. Alexander Đại đế (Alexander the Great hoặc Kyng Alisaunder, 356 – 323 trước Công nguyên) là quốc vương thứ 14 của nhà Argea ở Vương quốc Macedonia là con của Vua Philip II. Vào năm 20 tuổi, ông kế thừa ngôi vị, là người có mưu toan thống trị thế giới.

Quân bài K rô trong bộ tú lơ khơ. (Ảnh: Internet)
Quân bài K rô trong bộ tú lơ khơ. (Ảnh: Internet)

Quân bài K rô là Gaius Julius Caesar (100 TCN — 44 TCN) một lãnh tụ quân sự và chính trị của La Mã và là một trong những người có tầm ảnh hưởng lớn nhất trong lịch sử thế giới. Ông xuất thân trong gia đình quý tộc, từng đảm nhận chức quan về tài vụ, thầy tế lễ, thẩm phán, quan hành chính, quan giám sát…
Năm 49 TCN, ông đã lãnh đạo quân đội đánh chiếm Rome, đánh bại Pompeii và thiết lập quyền lực trong một chế độ độc tài. Năm 44 TCN Caesar bị sát hại. Hình ảnh Caesar trên đồng tiền xu của đế quốc La Mã là ảnh nghiêng và trong 4 quân K chỉ có K rô là mặt nghiêng, trong tay cầm chiếc rìu.

Quân bài K cơ trong bộ tú lơ khơ. (Ảnh: Internet)
Quân bài K cơ trong bộ tú lơ khơ. (Ảnh: Internet)

Quân bài K cơ là vua Charlemagne. Charlemagne Charles Đại đế (742—814AD) là vua của người Frank (768 – 814), về sau ông lên ngôi Hoàng đế La Mã. Trong suốt 14 năm trị vì, ông đã phát động hơn 50 cuộc chinh phạt, khống chế đơn hơn một nửa lãnh thổ châu Âu. Trên bảng khắc hình tượng Charlemagne đầu tiên bằng gỗ, người đục đã vô tình làm chiếc đục sượt qua môi trên khiến bộ ria của ông bị mất đi. Trên quân K cơ vị vua duy nhất không có ria chính là phỏng theo hình tượng của vua Charlemagne.

Quân bài K bích trong bộ tú lơ khơ. (Ảnh: Internet)
Quân bài K bích trong bộ tú lơ khơ. (Ảnh: Internet)

Quân bài K bích là vua David. Vua David (1040 TCN – 970) là vị vua nổi tiếng của vương quốc Israel thống nhất. Ông giỏi về diễn tấu đàn hạc, và đã viết rất nhiều bài thánh ca trong thánh kinh nên trong các hình vẽ về ông đều có hình ảnh cây đàn. Ngoài ra trong một thuyết pháp khác có nói vua David yêu thích hí kịch vì vậy trang phục mà ông mặc là trang phục diễn kịch.

Quân Q chuồn (tép) trong bộ bài tú lơ khơ. (Ảnh: Internet)
Quân Q chuồn (tép) trong bộ bài tú lơ khơ. (Ảnh: Internet)

Q nhép là hoàng hậu Argine. Liên quan đến Q nhép là câu chuyện chiến tranh của giới quý tộc ở nước Anh. Hoàng tộc Lancaster lấy hoa hồng đỏ làm biểu tượng. Hoàng tộc York lấy hoa hồng trắng làm biểu tượng. Sau khi hai hoàng tộc này trải qua cuộc chiến về hoa hồng, họ đã hòa giải và kết hợp lại với nhau, nên trên tay vị hoàng hậu này cầm bông hoa hồng.

Quân bài Q rô trong bộ tú lơ khơ. (Ảnh: Internet)
Quân bài Q rô trong bộ tú lơ khơ. (Ảnh: Internet)

Q rô là hoàng hậu Rachel. Theo “Kinh Thánh Genesis” ghi lại, Rachel là người vợ thứ hai của Jacob (tổ tiên của người Do Thái) và là người vợ mà ông yêu quý nhất. Bà là mẹ của Joseph và Benyamin, là con gái của Laban và em gái của Leah – người vợ đầu tiên của Jacop.

Quân bài Q cơ trong bộ tú lơ khơ. (Ảnh: Internet)
Quân bài Q cơ trong bộ tú lơ khơ. (Ảnh: Internet)

Q cơ là nữ hoàng Judith. Judith là nhân vật trong thánh kinh “Cựu Ước.” Bà là quả phụ xinh đẹp của Hebrew cổ. Bà đã dùng sắc đẹp và mưu trí hạ sát Holoferne, hùng tướng của Philitinh cứu được người dân thành Bethulia.

Quân bài Q bích trong bộ tú lơ khơ. (Ảnh: Internet)
Quân bài Q bích trong bộ tú lơ khơ. (Ảnh: Internet)

Q bích là nữ hoàng Eleanor. Eleanor là vợ của hoàng đế Leopold I. Đây là quân bài duy nhất trong 4 quân Q mà hoàng hậu cầm vũ khí.

Quân J chuồn (tép) trong bộ bài tú lơ khơ. (Ảnh: Internet)
Quân J chuồn (tép) trong bộ bài tú lơ khơ. (Ảnh: Internet)

J tép là hiệp sĩ Lancelot (Sir Lancelot Du Lac), một trong những dũng sĩ bậc nhất của vua Arthur. Về sau, vị hiệp sĩ này đã trở thành một nhà tu hành để ăn năn tội lỗi – gây ra một cuộc chiến phân chia không cần thiết trong hội nghị bàn tròn của vua Arthur.

Quân bài J rô trong bộ tú lơ khơ. (Ảnh: Internet)
Quân bài J rô trong bộ tú lơ khơ. (Ảnh: Internet)

J rô là ai thì có một số giả thuyết khác nhau. Có giả thuyết cho rằng J rô là Hector, con trai của vua Priamus, anh trai của Paris. Hector đã hi sinh khi chiến đấu với Achilles trong cuộc chiến thành Troy. Ông là chiến binh đầu tiên của thành Troy và được xưng là “Bức tường thành của Troy.”

Quân bài J cơ trong bộ tú lơ khơ. (Ảnh: Internet)
Quân bài J cơ trong bộ tú lơ khơ. (Ảnh: Internet)

J cơ là La Hire. La Hire (1390-1443AD) là người tùy tùng của vua Charles VII le Victorieux, là trợ thủ đắc lực của thánh nữ Jeanne d’ Arc.

Quân bài J bích trong bộ tú lơ khơ. (Ảnh: Internet)
Quân bài J bích trong bộ tú lơ khơ. (Ảnh: Internet)

Có giả thuyết cho rằng J bích là Wallenstein. Nhưng trong một giả thuyết khác lại cho rằng J bích là Ogier là người tùy tùng của Charlemagne.
Như vậy có thể thấy, bộ bài 52 lá mà chúng ta chơi hằng ngày có những ý nghĩa sâu xa và bao quát những nhân vật trong quãng thời gian lịch sử thật to lớn. Tìm hiểu lịch sử cũng thật thú vị, thậm chí có thể còn thú vị hơn cả chơi bài, bạn có đồng ý không?
Theo Meirihaowen
Mai Trà biên dịch

Vlad kẻ đâm xuyên: Nguồn gốc của nhân vật bá tước Dracula khét tiếng


Hình miêu tả Vlad III trong hình tượng Dracula. (Ảnh: Internet)
Hình miêu tả Vlad III trong hình tượng Dracula. (Ảnh: Internet)

Ai là nhân vật có thật đã khơi mào cho các nhà văn viết nên những câu chuyện kinh dị về Dracula?
Tuy ma cà rồng thường được liên hệ với Cơ-đốc giáo (ma cà rồng được cho là sẽ bị đẩy lùi bởi các vật phẩm thần thánh như cây thánh giá và nước thánh), nhưng niềm tin vào loài sinh vật này, hay những cá nhân có đặc tính ma cà rồng, đã xuất hiện từ những thời kỳ xa xưa. Lấy ví dụ, vào thời Hy Lạp và La Mã cổ đại, có các câu chuyện kể về những loài sinh vật trở về từ cõi chết để uống máu người sống.
Năm 1896 SCN, Bram Stoker, một nhà văn người Ireland, đã viết một cuốn tiểu thuyết mang tựa đề Dracula, và kể từ đó đã trở thành một trong những tác phẩm kinh điển của dòng tiểu thuyết kinh dị Gô-tích. Tuy rằng trên thực tế Dracula là một nhân vật tưởng tượng, nhưng có thể nói rằng Stoker không hề lôi ông ra từ hư vô. Thay vào đó, Dracula được cho là đã được dựa trên một nhân vật lịch sử có thật, nhưng tính ma cà rồng của người này mạnh đến bao nhiêu thì còn tuỳ thuộc vào các độc giả.
Nhân vật Dracula của Stoker được cho là đã được dựa trên hoàng tử xứ Wallachia (Romania ngày nay) vào thế kỷ 15, Vlad III. Vlad được sinh ra vào thời điểm nào đó trong khoảng từ 1428 đến 1431, có lẽ ở thành phố Sighisaora, Transylvania. Tiền tố ‘Dracul’ ở đầu là dựa theo tên của cha ông, nghĩa là rồng (Dragon), bắt nguồn từ vị trí của cha ông, Vlad II Dracul, trong Hội Rồng (Order of the Dragon). Đây là một hội hiệp sĩ được thành lập bởi Sigismund, vị vua của Hungary, nhằm bảo vệ Cơ-đốc giáo ở Đông Âu chống lại Đế quốc Ottoman (hay Đế quốc Thổ Nhĩ Kỳ).
vlad dracula ke dam xuyen
Chân dung của vương công Vlad III trong lâu đài Ambras. (Ảnh: Wikipedia)
Năm 1442, Vlad và anh trai của ông, Radu, đã bị người Ottoman bắt làm con tin để có được sự trung thành của cha họ. Năm 1448, Vlad đã được phóng thích, và cùng với sự hỗ trợ từ Ottoman, ông đã chiếm ngai vàng xứ Wallachia trước khi bị lật đổ vào mùa thu cùng năm. Tuy nhiên, Vlad đã lấy lại được ngai vàng vào năm 1456 và trở thành Hoàng tử xứ Wallachia cho tới năm 1462. Năm 1462, quân Ottoman, dưới sự lãnh đạo của vua Melmed II (cũng chính là vị sultan đã chiếm đóng Constantinople), đã xâm lược Wallachia, nhưng đã bị đẩy lùi khi Vlad viện đến lối đánh du kích.
Tuy nhiên, thắng lợi của Vlad không kéo dài quá lâu, khi Melmed II đã bỏ lại người em trai của Vlad, Radu, để mang quân đến đánh Wallachia. Tuy đã đánh thắng quân Ottoman thêm một số trận, nhưng Vlad lại nhanh chóng tiêu hết tiền và phải nhờ tới sự trợ giúp của quân Hungary/bị họ chặn đứng khi đang rút quân trở về. Kết quả là, Vlad đã bị bắt và tống giam vào nhà ngục. Ông chỉ được thả ra khỏi tù vào 12 năm sau. Cái chết đột ngột của Radu vào năm 1475 đã cho phép Vlad một lần nữa lấy lại ngai vàng của Wallachia vào năm 1476, nhưng ông đã mất cùng năm trong một trận đánh với quân Ottoman.
Tuy rằng Vlad khá nổi tiếng trên khắp Châu Âu bởi sự tàn bạo của mình (theo một số nguồn tin), những có lẽ chính phương thức hành hình yêu thích của ông đã đem lại cho ông vị thế như đã có trong lịch sử. Sau khi chết, Vlad III được biết đến với biệt danh Vlad Tepes (kẻ đâm xuyên).
Đóng cọc là phương thức hành hình yêu thích của Vlad, và theo ghi chép ông đã làm điều này trên diện rộng. Người ta cho rằng sau khi rút lui khỏi một trận đánh chống lại quân Ottoman vào năm 1462, ông đã đóng cọc và đem đi trưng bày khoảng 20.000 người bên ngoài thành phố Targoviste như một cách để ngăn cản quân Ottoman đang đuổi theo phía sau. Đòn tấn công tâm lý này đã có hiệu quả, khi có tuyên bố cho rằng cảnh tượng này quá ghê rợn đến nỗi Melmed II, sau khi chứng kiến quy mô tàn sát của Vlad và cảnh tượng hàng nghìn cái xác đang phân hủy đang bị quạ rỉa, đã quyết định quay đầu lại và trở về Constantinople.
vlad dracula ke dam xuyen 1(Ảnh: Internet)
Tuy nhiên, đây mới chỉ là một phần của câu chuyện. Vlad III đã được người Romania hoan nghênh như một vị anh hùng dân tộc vì đã bảo vệ đất nước trước quân Ottoman xâm lược. Ngay cả trong thời kỳ của ông, ông đã được nhìn nhận như một người bảo vệ cho thế giới Cơ-đốc, bất chấp các tội ác đã phạm phải.
Có lẽ chính nhân vật Dracula của Stoker đã đẩy Vlad lên ánh hào quang của quốc tế. Thời ngày nay, Dracula đã trở thành tên một nhãn hiệu nhằm thúc đẩy sự phát triển của ‘ngành du lịch Dracula’ ở Romania. Năm 2001, Romania dự định xây dựng một ‘Dracula Land’, một công viên giải trí dựa trên nhân vật Dracula. Tuy nhiên, sự phản đối từ dư luận trong nước và quốc tế đã khiến việc xây dựng bị trì hoãn, và cuối cùng bị hủy bỏ. Tuy vậy, đây không phải là một thất bại toàn diện đối với Romania, vì nó đã mang Romania đến với thế giới và đã làm nổi bật thành công những gì đất nước này có thể mang lại cho các du khách, ngoài chính bản thân nhân vật Dracula.
Tác giả: Ḏḥwty, Ancient Origins.
Đăng tải với sự cho phép. Đọc bản gốc ở đây.
Quý Khải biên dịch

Đã tìm thấy nhà ngục từng giam cầm ‘Bá tước Dracula’


Các đường hầm và nhà ngục mới được phát hiện trong lâu đài Tokat ở Thổ Nhĩ Kỳ. (Ảnh: Doğan News Agency)
Các đường hầm và nhà ngục mới được phát hiện trong lâu đài Tokat ở Thổ Nhĩ Kỳ. (Ảnh: Doğan News Agency)

Các nhà khảo cổ học Thổ Nhĩ Kỳ đã phát hiện được một đường hầm bí mật, các phòng lưu trữ, một chỗ trú ẩn của quân đội, và hai nhà ngục trong quá trình tu sửa lâu đài Tokat, nơi Vlad III kẻ đâm xuyên, người đã truyền cảm hứng cho nhân vật Dracula của Bram Stoker, được cho là đã từng bị giam giữ vào đầu thế kỷ 15.
Theo trang tin Hurriyet, công tác tu sửa đã được triển khai lần đầu vào năm 2009, và chỉ đến năm 2014 các nhà khảo cổ học mới phát hiện được các đường hầm và nhà ngục bí mật. “Lâu đài hoàn toàn bị bao xung quanh bởi các đường hầm bí mật. Thật sự rất bí ẩn”, nhà khảo cổ học Ibrahim Cetin, người tham gia khai quật, nói. Công tác khai quật trước đó tại tòa lâu đài đã phát hiện được một đường hầm dài 100 m ở mặt phía bắc, vốn được cho là đã được sử dụng bởi các cô con gái của nhà vua để đi đến khu phòng tắm La Mã gần tòa lâu đài.
lau dai tokat giam cam ba tuoc dracula 1Đường hầm được phát hiện tại lâu đài Tokat, được cho là đã được sử dụng bởi các cô con gái của nhà vua để đi đến khu phòng tắm La Mã gần tòa lâu đài. (Ảnh: Hurriyet)
Tokat là một thị trấn ở khu vực phía Tây đế quốc Pontus. Thị trấn này đã bị người Turk Seljuk chiếm đóng vào cuối thế kỷ 12 và sau đó được sáp nhập vào Đế quốc Ottoman vào năm 1392. Một trong số những công trình kiến trúc có giá trị lịch sử lớn lao ở Tokat là tàn tích thành cổ nằm trên một ngọn đồi dốc phía trên thành phố, thường được nhận diện là lâu đài Tokat hay pháo đài Dazimon. Chính tại nơi này các nhà sử học nói rằng hoàng tử Vlad III và người em trai của ông Radu đã bị giam cầm vào năm 1442.
lau dai tokat giam cam ba tuoc dracula
Lâu đài Tokat, Thổ Nhĩ Kỳ. (Ảnh: Internet)
Vlad III là một vị hoàng tử vào thế kỷ 15, là nhân vật Bram Stoker đã dựa vào để để viết cuốn tiểu thuyết Gô-tích nổi tiếng ‘Dracula’ vào năm 1897. Vlad được sinh ra trong khoảng từ 1428 đến 1431, có lẽ ở thành phố Sighişaora, Transylvania. Tiền tố ‘Dracul’ ở đầu là dựa theo tên của cha ông, nghĩa là rồng (Dragon), bắt nguồn từ vị trí của cha ông, Vlad II Dracul, trong Hội Rồng (Order of the Dragon). Đây là một hội hiệp sĩ được thành lập bởi Sigismund, vua của Hungary, nhằm bảo vệ Cơ-đốc giáo ở Đông Âu chống lại Đế quốc Ottoman (hay Đế quốc Thổ Nhĩ Kỳ).
ba tuoc dracula vlad IIIChân dung của vương công Vlad III trong lâu đài Ambras. (Ảnh: Wikipedia)
Năm 1442, Vlad và em trai Radu, vốn chỉ là những đứa trẻ vào thời điểm đó, đã bị người Ottoman bắt làm con tin để có được sự trung thành của cha họ. Chính trong khoảng thời gian này các nhà sử học cho rằng hai vị hoàng tử trẻ đã bị giam cầm trong lâu đài Tokat. Ông Cetin nói rằng có lẽ Vlad đã bị nhốt bên trong một trong những nhà ngục mới được phát hiện. “Khó để có thể nói chính xác căn phòng nơi Dracula bị giam cầm, nhưng ông ta đã ở xung quanh đây”, ông nói.
Chính trong những năm tháng bị giam cầm thời thơ ấu này, Vlad được cho là đã nuôi giữ một lòng thù hận sâu sắc đối với người Ottoman, dẫn tới hành động hung ác của ông đối với họ sau này. Người ta cho rằng sau khi rút lui khỏi một trận đánh chống lại quân Ottoman vào năm 1462, ông đã đóng cọc và đem đi trưng bày khoảng 20.000 người bên ngoài thành phố Targoviste như một cách để ngăn cản quân Ottoman đang đuổi theo phía sau. Đòn tấn công tâm lý này đã có hiệu quả, khi có tuyên bố cho rằng cảnh tượng này quá ghê rợn đến nỗi Melmed II, sau khi chứng kiến quy mô tàn sát của Vlad và cảnh tượng hàng nghìn cái xác đang phân hủy đang bị quạ rỉa, đã quyết định quay đầu lại và trở về Constantinople.      
dracula vlad ke dam xuyen(Ảnh: Internet)
Vlad III, hay Vlad kẻ đâm xuyên, như biệt danh của ông sau này, rốt cuộc đã bị bắt giữ và giam cầm trong vòng 12 năm. Sau cái chết của em trai ông vào năm 1475, ông đã lấy lại được ngai vàng xứ Wallachia (một bộ phận của Romania ngày nay). Thời gian, địa điểm và nguyên nhân chính xác của cái chết của ông vẫn còn là một điều bí ẩn, nhưng người ta cho rằng ông đã chết trong khoảng từ tháng 10 đến tháng 12 năm 1476, sau khi biến mất trong một trận chiến với người Ottoman.
Tác giả: April Holloway, Ancient Origins.
Đăng tải với sự cho phép. Đọc bản gốc ở đây.
Quý Khải biên dịch

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét