Thứ Sáu, 22 tháng 7, 2016

CA SĨ QUỲNG GIAO

(ĐC sưu tẩm trên NET)

Vĩnh biệt ca sỹ Quỳnh Giao

  • 5 tháng 8 2014
 
Lễ tang ca sỹ Quỳnh Giao vừa được tổ chức tại Nam California, Hoa Kỳ cuối tháng 7 vừa qua sau khi bà qua đời một tuần trước đó tại Garden Grove.
Sinh năm 1946 tại làng Vỹ Dạ, Huế, bà có tên thật là Nguyễn Phước Công Tằng Tôn Nữ Đoan Trang.
Năm 5 tuổi, cha của Đoan Trang qua đời và người mẹ tái giá với nhạc sĩ Dương Thiệu Tước.

Thân thế và dòng tộc

Về dòng họ, ca sỹ thuộc Hoàng phái vì có song thân là cụ Ưng Quả và danh ca Minh Trang, đều từ Huế.
Thân phụ Nguyễn Phước Ưng Quả, hiệu Vân Hán (1905-1951) là cháu nội Tuy Lý Vương Miên Trinh, người con thứ 11 của vua Minh Mạng và em vua Thiệu Trị.
Nhà giáo Ưng Quả là học giả uyên bác được giới khảo cứu Việt học của Pháp kính trọng và là bậc thầy của một thế hệ giáo sư, sau này có nhiều khoa trưởng của các Đại học thời độc lập.
Ông cũng từng là Thái tử Thiếu bảo khi dạy học Thái tử Bảo Long, Hiệu trưởng trường Quốc học tại Huế, Giám đốc Nha học chánh Trung Phần thuộc Bộ Học của nước Việt Nam thời Pháp và tác giả của nhiều công trình biên khảo về văn hóa và mỹ thuật Việt Nam, từng phiên dịch văn chương Pháp qua Việt ngữ và văn học Việt qua Pháp ngữ.
Cũng trong dòng họ, Tướng Nguyễn Khoa Nam gọi cụ Ưng Quả là cậu, em ruột của mẹ.
Thân mẫu Quỳnh Giao, nghệ sĩ Minh Trang, có khuê danh là Nguyễn Thị Ngọc Trâm, là con gái của Thượng thư Nguyễn Hy. Bà là cháu ngoại của Công chúa Công Tằng Tôn Nữ Tốn Tùy, tức Mỹ Lương Công chúa, là chị cả của vua Thành Thái.
Ở tại Huế đến khi lên bảy, Quỳnh Giao mới vào Sài Gòn sống với thân mẫu và kế phụ là Dương Thiệu Tước, một nghệ sĩ đã góp phần khai phá nền tân nhạc cải cách, nhạc sư đàn Tây Ban Cầm và là cháu nội của một danh sĩ Bắc Hà, Thượng thư Dương Khuê.
 

Sự nghiệp âm nhạc

Do huyết thống và lại sống trong môi trường âm nhạc, Quỳnh Giao có năng khiếu về nhạc từ bé.
Vừa cắp sách vào lớp trung tiểu học, Quỳnh Giao vừa học nhạc tại trường Quốc gia Âm nhạc (trường có thêm ban Kịch nghệ sau này) và được sự dìu dắt về dương cầm của danh sư Đỗ Thế Phiệt và về nhạc lý từ nhạc sĩ Hùng Lân.
Với Hùng Lân, Quỳnh Giao là một trong những học trò giỏi nhất của ông.
Là dương cầm thủ xuất sắc, Quỳnh Giao đã trình tấu cùng nhiều danh cầm Việt Nam và ngoại quốc trong Dàn Nhạc Giao Hưởng của trường Quốc gia Âm nhạc dưới sự điều khiển của Nhạc trưởng Đỗ Thế Phiệt và nhiều lần xuất hiện trong các chương trình hòa nhạc tại Đông Nam Á.
Quỳnh Giao từng tốt nghiệp lớp dương cầm ở Trung Tâm văn Hóa Pháp, Alliance Française và thực sự đến với âm nhạc vào năm 1961, khi mới 15 tuổi.
 
Quỳnh Giao trở thành một ca sĩ quan trọng trong những chương trình ca nhạc của các đài phát thanh Sài Gòn
Lúc đó, bà Minh Trang đang cộng tác với ban Tây Hồ của nhạc sĩ Hoàng Trọng thì mất giọng nên Quỳnh Giao được mời vào thay thế cho mẹ.
Từ đó, Quỳnh Giao trở thành một ca sĩ quan trọng trong những chương trình ca nhạc của các đài phát thanh Sài Gòn, Quân Đội và Tiếng Nói Tự Do trước năm 1975.
Trong những năm đầu 1970 Quỳnh Giao cũng với các em gái Vân Quỳnh, Vân Khanh và Vân Hòa thành lập Ban tứ ca Bốn Phương chuyên hát tại vũ trường Ritz và thâu âm cho các trung tâm Băng nhạc Jo Marcel, Phạm Mạnh Cương và Premier.

Sau 1975

Khi biến cố 1975 bùng nổ, Quỳnh Giao cùng gia đình di tản vào Tháng Tư và được anh ruột đón về miền Đông Hoa Kỳ.
Bào huynh của Quỳnh Giao là Giáo sư Nguyễn Phước Bửu Dương khi ấy dạy văn chương Pháp và Trung Hoa trong Đại học Hoa Kỳ.
Ông là một trong những người Việt đầu tiên tốt nghiệp Tiến sĩ tại Đại học Harvard và nay sống tại miền Nam California với gia đình Quỳnh Giao.
Tại miền Đông, Quỳnh Giao mở lại lớp dương cầm tại gia và yểm trợ rồi đón nhận thân mẫu cùng các em vượt biên qua Mỹ.
Trong thời gian này, Quỳnh Giao thực hiện lấy hai băng cassette có chủ đề "Hát Cho Kỷ Niệm" vào các năm 1983 và 1988.
Tự đệm lấy dương cầm với phần phụ họa của Văn Phụng và vài nhạc sĩ, Quỳnh Giao trình bày lại những ca khúc đẹp nhất của tân nhạc với lời giới thiệu của các nghệ sĩ Vũ Thành, Phạm Duy, Phạm Đình Chương, Cung Tiến, Thái Thanh, Kim Tước, Châu Hà, Mai Thảo, Lê Văn, Duyên Anh, Bùi Bảo Trúc, Phạm Văn Kỳ Thanh...
Sang năm 1986, Quỳnh Giao cũng được nhà văn Duyên Anh mời trình bày đĩa nhạc "Còn Thoáng Chiêm Bao".
Cùng giai đoạn ấy, Quỳnh Giao cộng tác và lưu diễn một số nơi với nhạc sĩ Phạm Đình Chương, nhưng cơ hội không nhiều vì sinh hoạt văn nghệ chưa phát triển rực rỡ như sau này.
Sau khi tái giá với chuyên gia kinh tế Nguyễn-Xuân Nghĩa, sau là nhà bình luận hợp tác với các đài phát thanh quốc tế và các tờ báo Việt ngữ tại Hoa Kỳ, Quỳnh Giao qua California sinh sống kể từ 1991.
Trong môi trường sinh động và đông đảo người Việt tại miền Tây Hoa Kỳ, Quỳnh Giao có cơ hội mở rộng hoạt động tân nhạc.
Quỳnh Giao lần lượt thực hiện nhiều đĩa nhạc có giá trị nghệ thuật, đa số với hòa âm của Duy Cường và hợp tác với nhiều trung tâm để hoàn thành đĩa Đêm Tàn Bến Ngự - Tình Khúc Dương Thiệu Tước (1995) với tiếng hát Kim Tước, đĩa Tình Khúc Văn Cao (1995) cùng tiếng hát Mai Hương và có những ca khúc ghi âm riêng lẻ trong nhiều đĩa phát hành từ 1993 đến 2006.

Viết báo và làm phát thanh

Năm 1997 Quỳnh Giao thực hiện cho ban Việt ngữ đài BBC chương trình "Suối Nguồn Tân Nhạc Việt Nam".
Được phát thanh hàng tuần qua 20 buổi, chương trình thuộc loại "nhạc sử" vì nói về 60 năm tân nhạc cải cách Việt Nam từ thời phôi thai năm 1938 đến sau này.
  Bà Quỳnh Giao qua California sinh sống kể từ 1991
Quỳnh Giao phân đoạn theo thời gian, theo thể tài và đọc lời giới thiệu với phần minh diễn của các ca sĩ và phần phát biểu của nhiều nhạc sĩ.
Nhờ nội dung phong phú và nhạc hiệu là bản Bến Xuân của Văn Cao do chính Quỳnh Giao diễn tả, Suối Nguồn Tân Nhạc được thính giả yêu thích nên là một trường hợp hiếm hoi được BBC cho phát lại lần thứ hai.
Nguyên nhân sâu xa nữa sẽ được hiểu ra sau này là Quỳnh Giao có ký ức rất sâu, đã sống với tân nhạc từ bé, gần gũi với các nhạc sĩ và ca sĩ như trong một đại gia đình nên nắm vững hoàn cảnh ra đời của từng ca khúc.
Người ta thấy được điều này khi đọc Quỳnh Giao.
Quỳnh Giao viết về nhạc thì cũng như kể chuyện về các nghệ sĩ bằng hữu của thân mẫu.
Nhưng kiến thức sâu sắc về nhạc và về kỹ thuật trình bày còn giúp người đọc nhớ lại và có sự thưởng ngoạn cao hơn với từng tác phẩm, từng tác giả hay người trình diễn.
Quỳnh Giao cộng tác với giai phẩm Xuân của Việt Báo và nhật báo Người Việt trong mục "Tạp Ghi" với những bài định kỳ mỗi tuần và trên Người Việt kể từ năm 2005, đến nay đã có gần 500 bài.
Không chỉ đọc Quỳnh Giao, người ta còn nghe thấy tiếng nói thanh quý rất ăn micro của người nghệ sĩ.
Những ai còn nhớ tới Quỳnh Giao trong chương trình Suối Nguồn Tân Nhạc năm xưa trên làn sóng đài BBC tìm lại được tiếng nói đó qua mục Vòng Chân Trời Văn Học Nghệ Thuật với nhà báo Lê Đình Điểu của đài phát thanh VNCR.
Tháng 10, năm 2011, tờ Người Việt cho xuất bản Tạp Ghi Quỳnh Giao, một cuốn sách thuộc loại ăn khách với 67 bài trên hơn 400 trang.
Mùa Xuân 2014, Quỳnh Giao được xe cấp cứu đưa vào nhà thương vì bị ung thư phổi.
Bà qua đời ở Fountain Valley ở miền Nam California, hôm 23/7 vừa nhiều thập niên làm đẹp cho đời bằng tiếng hát tuyệt vời và những bài viết về nghệ thuật, về mỹ thuật.
"Lòng Ta Ở Với Người" là tên một ca khúc của Trần Dạ Từ mới được Quỳnh Giao ghi âm mà chưa phổ biến. Có lẽ đấy cũng là lời ca rất đúng về tấm lòng của người nghệ sĩ vừa ra đi.
Bài tổng hợp từ các tin đã đăng trên báo chí tiếng Việt ở Hoa Kỳ và tư liệu gia đình bà Quỳnh Giao gửi cho BBC.Các chương trình bằng âm thanh của BBC Tiếng Việt gồm cả 'Suối Nguồn Tân Nhạc Việt Nam' hiện được lưu trữ dạng kỹ thuật số (digital archives) ở London và Đại học Stanford, Hoa Kỳ.

TIẾNG HÁT THỦY TINH CỦA CA SĨ QUỲNH GIAO - Biên soạn: Phan Anh Dũng

PDF Print E-mail

Hai hôm trước, tôi có nhận thông báo từ Nhạc sĩ Phạm Anh Dũng (Santa Maria, California) là Ca sĩ Quỳnh Giao đã qua đời. Tôi bàng hoàng vì không ngờ chị ra đi quá nhanh ở tuổi 68. Sở dĩ tôi nói quá nhanh là vì chỉ mới vài tháng trước, tôi được tin chị lâm bệnh nặng nên "tạm thời" ngưng chương trình "Câu Chuyện Văn Nghệ với Quỳnh Giao" ở Người Việt TV do Nam Phương, rồi Lê Hồng Quang đồng phụ trách. Lúc ấy, tôi thầm nghĩ: "tội nghiệp cho ca sĩ Lê Hồng Quang, anh vừa mới bắt tay cộng tác với ca sĩ Quỳnh Giao mục văn nghệ thật lý thú này!"
Tôi nhớ lại một kỷ niệm đẹp vào tháng 3 năm 2012, nhân dịp qua Nam California, Tâm Hảo và tôi đã gặp một số nghệ sĩ như Nhà Soạn Nhạc Lê Văn Khoa, Ca sĩ Lê Hồng Quang tại studio dạy nhạc, Nhạc sĩ Thanh Trang, Nhạc sĩ Tuấn Khanh tại quán phở "Hoa Soan Bên Thềm Cũ", và 2 Họa sĩ Vi Vi và Cát Đơn Sa (ở San Diego).
 
Chúng tôi có đến thăm ca sĩ Quỳnh Giao tại tư gia ở Fountain Valley. Căn nhà xinh xắn, vườn tược gọn ghẽ, trang trí thanh nhã và dĩ nhiên không thể thiếu cái đàn piano ở phòng khách. Chị vui tươi, trẻ trung niềm nở chào đón "khách phương xa". Sau đó, chị ký tặng một số sách "Tạp Ghi Quỳnh Giao" vừa ra mắt vài tháng trước (10/2011). Tuy ở xa nhưng chị vẫn được tin tức của anh chị em văn nghệ vùng Hoa Thịnh Đốn.
 
Theo thiển ý, ca sĩ Quỳnh Giao là một người có thực tài về nhiều khía cạnh nghệ thuật. Ngoài ca hát, chị còn đàn và dạy piano, viết văn, làm chương trình "talk show" TV ...
 
Chị được nuôi dưỡng trong một môi trường âm nhạc lý tưởng (Mẹ là danh ca Minh Trang, kế phụ là nhạc sĩ Dương Thiệu Tước). Bề dày kinh nghiệm của chị từ sự học hỏi và thực hành hầu như mỗi ngày từ các ban Tuổi Xanh, Tây Hồ, Tiếng Tơ Đồng, Tiếng Nhạc Tâm Tình... và được huấn luyện chính thức từ các giáo sư nổi tiếng của Trường Quốc Gia Âm Nhạc (Quỳnh Giao tốt nghiệp thủ khoa ngành piano và nhạc pháp). Trong thời gian này, chị vẫn theo học ở trường Trung Học Gia Long.

Ca sĩ Quỳnh Giao có giọng hát soprano, thanh, mỏng và có kỹ thuật cao về đơn ca và hát bè. Danh ca Châu Hà đã từng nhận định: "tiếng hát Quỳnh Giao vẫn trong, chưa hề vẩn đục, tôi đặt tên cho giọng hát này là giọng hát thủy tinh" khi
giới thiệu Quỳnh Giao hát nhạc phẩm "Yêu" của Nhạc sĩ Văn Phụng năm 1988.
Có lẽ là một ngạc nhiên cho giới yêu âm nhạc: Quỳnh Giao có ngón đàn piano khá điêu luyện, đã từng trình tấu solo hay đàn với dàn nhạc khi còn trẻ. Chị còn sáng tác một số ca khúc, thí dụ như: Bâng Khuâng, sáng tác năm 1965, âm điệu cổ điển, được nhạc trưởng Vũ Thành khen ngợi.

Quỳnh Giao cộng tác nhiều năm với Báo Người Việt, giữ mục viết tạp ghi văn nghệ, phần lớn viết về ca nhạc sĩ Việt Nam trước 1975 và ngoại quốc. Bài viết của chị dễ đọc, dí dỏm, dựa trên kinh nghiệm sống thực cộng thêm khảo cứu.

Chị nói chuyện lưu loát, duyên dáng với người cộng tác và nghiên cứu kỹ lưỡng nên nhịp nhàng, lôi cuốn khi giữ mục "Câu Chuyện Văn Nghệ với Quỳnh Giao" ở Người Việt TV.

Xin được thành tâm cảm ơn những đóng góp tích cực quý báu của người nghệ sĩ tài hoa Quỳnh Giao cho tân nhạc Việt Nam.
 
Cầu mong hương linh nghệ sĩ Quỳnh Giao, pháp danh: Như Nghiêm, khuê danh: Nguyễn Phước Công Tằng Tôn Nữ Đoan Trang, sớm về cõi Niết Bàn.
Phan Anh Dũng (Richmond, Virginia - USA; 25 tháng 7, 2014)

                                         Mời đọc: toàn bài viết pdf (đăng trên Cỏ Thơm số 68)

             

                    Tiểu sử chính thức của nghệ sĩ Quỳnh Giao
                                (Nguồn http://www.nguoi-viet.com/ - Monday, July 28, 2014)
                                                   
                                        Di ảnh nghệ sĩ Quỳnh Giao. (Hình: Gia đình cung cấp)

Quỳnh Giao sinh tại Vỹ Dạ của cố đô Huế vào ngày 8 Tháng Mười Một năm 1946 với khuê danh là Nguyễn Phước Công Tằng Tôn Nữ Ðoan Trang.

Nói theo lối cổ điển về thân thế, Quỳnh Giao thuộc “Hoàng phái” từ song thân là cụ Ưng Quả và danh ca Minh Trang.

Thân phụ là Nguyễn Phước Ưng Quả, hiệu Vân Hán (1905-1951), cháu nội Tuy Lý Vương Miên Trinh, tự Khôn Chương, hiệu Tĩnh Phố, người con thứ 11 của vua Minh Mạng và em vua Thiệu Trị. Nhà Giáo Ưng Quả là học giả uyên bác được giới khảo cứu Việt học của Pháp kính trọng và là bậc thầy của một thế hệ giáo sư, sau này có nhiều khoa trưởng của các đại học thời độc lập. Học Giả Ưng Quả từng là Thái Tử Thiếu Bảo khi dạy học Thái Tử Bảo Long, Hiệu trưởng trường Quốc Học tại Huế, giám đốc Nha Học Chánh Trung Phần thuộc Bộ Học của nước Việt Nam thời Pháp và tác giả của nhiều công trình biên khảo về văn hóa và mỹ thuật Việt Nam, từng phiên dịch văn chương Pháp qua Việt ngữ và văn học Việt Nam Pháp ngữ... Ngoài ra, cụ còn là người thẩm âm sành nhạc và gẩy đàn nguyệt khi tiêu khiển.
Cụ Ưng Quả mất vào năm 1951 tại Bộ Học sau một cơn trụy tim, thọ 46 tuổi, khi Quỳnh Giao mới lên năm.
Cũng trong dòng họ, Tướng Nguyễn Khoa Nam gọi cụ Ưng Quả là cậu, em ruột của mẹ.
Thân mẫu Quỳnh Giao, nghệ sỹ Minh Trang, có khuê danh là Nguyễn Thị Ngọc Trâm, là con gái của Thượng Thư Nguyễn Hy. Bà là cháu ngoại của Công Chúa Công Tằng Tôn Nữ Tốn Tùy, tức Mỹ Lương Công Chúa. Công Chúa Mỹ Lương được người đương thời tôn xưng là “Ngài Chúa Nhất” vì là chị cả của vua Thành Thái. Bà Ngọc Trâm sinh năm 1921, tốt nghiệp Tú Tài Pháp, làm biên tập viên và xướng ngôn viên song ngữ Pháp-Việt trong lãnh vực phát thanh từ thời Pháp. Bà lấy nghệ danh Minh Trang từ khi hát cho đài Pháp Á vào buổi bình minh của nền tân nhạc Việt Nam.

Nghệ danh ấy là sự kết hợp tên của con trai và con gái của bà là hai nghệ sỹ Bửu Minh và Ðoan Trang. Bửu Minh là danh thủ violon, ngồi ghế concert master của dàn nhạc hòa tấu Stuttgart Symphony ở Ðức. Danh ca Minh Trang đã tạ thế vào Tháng Tám năm 2010 tại California Hoa Kỳ.

Ở tại Huế đến khi lên bảy Quỳnh Giao mới vào Sài Gòn sống với thân mẫu và kế phụ là Dương Thiệu Tước, một nghệ sĩ đã góp phần khai phá nền tân nhạc cải cách, nhạc sư đàn Tây Ban Cầm và là cháu nội của danh sĩ, Thượng thư Dương Khuê.

Do huyết thống và lại sống trong môi trường âm nhạc, Quỳnh Giao có năng khiếu về nhạc từ bé.

Khi danh ca Minh Trang lập ban hát thiếu nhi đầu tiên là Thiếu Sinh Nhi Ðồng thì Ðoan Trang đã cùng anh trai tham dự, với tiếng hát thiếu nhi của Mai Hương, Bích Chiêu, Bạch Tuyết, Kim Chi, Quốc Thắng và Tuấn Ngọc.... Sau năm 1953, khi hai kịch sĩ Kiều Hạnh và Phạm Ðình Sĩ (song thân của Mai Hương) vào Nam thì Minh Trang nhường cặp nghệ sĩ này điều hành ban hát Nhi Ðồng và đổi tên ra Ban Tuổi Xanh cho thích hợp với lứa tuổi của ca sĩ thiếu nhi. Ðấy là lúc xuất hiện những tiếng hát như Hoàng Oanh, Mai Hân, Phương Hoài Tâm, Xuân Thu....

Vừa cắp sách vào lớp trung tiểu học, Quỳnh Giao vừa học nhạc tại trường Quốc Gia Âm Nhạc (trường có thêm Ban Kịch Nghệ sau này) và được sự dìu dắt về dương cầm của danh sư Ðỗ Thế Phiệt (dì Ngọc Thuyền trong gia đình) và về nhạc lý từ nhạc sĩ Hùng Lân. Với Hùng Lân, Quỳnh Giao là một trong những học trò giỏi nhất của ông. Sau bảy năm học nhạc, năm 1963, Quỳnh Giao tốt nghiệp thủ khoa về dương cầm lẫn nhạc pháp, và sau này còn được sự dìu dắt về thanh nhạc của một giáo sư Pháp, cứ được gọi là Madame Robin.

Là dương cầm thủ xuất sắc, Quỳnh Giao đã trình tấu cùng nhiều danh cầm Việt Nam và ngoại quốc trong Dàn Nhạc Giao Hưởng của trường Quốc Gia Âm Nhạc dưới sự điều khiển của Nhạc Trưởng Ðỗ Thế Phiệt và nhiều lần xuất hiện trong các chương trình hòa nhạc tại Ðông Nam Á.

Do Minh Trang bị hen suyễn phải giải nghệ, ở tuổi 15, Quỳnh Giao chính thức hát thay mẹ và một cách thường xuyên trong nhiều ban nhạc lớn tại các đài phát thanh. Từ đó, với nghệ danh Quỳnh Giao do nhạc sĩ Hoàng Trọng đặt cho, Quỳnh Giao vừa đi học vừa đi hát tại các đài phát thanh Sài Gòn, Quân Ðội, Tiếng Nói Tự Do và đài Vô Tuyến Truyền Hình Việt Nam sau này, trong các ban nhạc của Vũ Thành, Hoàng Trọng, Hoàng Lang, Phạm Duy, Anh Ngọc, v.v....

Trong hoàn cảnh thân mẫu về hưu, kế phụ làm công chức, là một nhạc sĩ tài hoa có nhiều đam mê, Quỳnh Giao thực tế hỗ trợ gia đình và được năm em bên dòng họ Dương vô cùng yêu quý. Từ năm 1968, Quỳnh Giao còn dạy dương cầm tại gia về nhạc cổ điển Tây phương và lập gia đình, được một con gái là Dzương Ngọc Bảo Cơ sau này tốt nghiệp cử nhân về Giáo Dục tại Hoa Kỳ.

Trong lãnh vực phát thanh có đào tạo chuyên nghiệp thời trước, các ca sĩ không được chọn ca khúc mà phải trình bày những bản nhạc có hòa âm sẵn theo yêu cầu tại chỗ của nhạc trưởng. Ngoài giọng ca, họ phải biết ký âm pháp, giỏi nhạc, một ngày ứng khẩu hát nhiều bài khác nhau trước máy vi âm được phát thanh trực tiếp. Quỳnh Giao là một trường hợp tiêu biểu cho các ca sĩ đài phát thanh.

Khi biến cố 1975 bùng nổ, Quỳnh Giao cùng gia đình di tản vào Tháng Tư và được anh ruột đón về miền Ðông Hoa Kỳ. Bào huynh của Quỳnh Giao là Giáo Sư Nguyễn Phước Bửu Dương khi ấy dạy văn chương Pháp và Trung Hoa trong đại học Hoa Kỳ. Ông là một trong những người Việt đầu tiên tốt nghiệp tiến sĩ tại Ðại Học Harvard và nay sống tại miền Nam California với gia đình Quỳnh Giao.

Tại miền Ðông, Quỳnh Giao mở lại lớp dương cầm tại gia và yểm trợ rồi đón nhận thân mẫu cũng các em vượt biên qua Mỹ.

Trong thời gian này, Quỳnh Giao thực hiện lấy hai băng cassette có chủ đề “Hát Cho Kỷ Niệm” vào các năm 1983 và 1988. Tự đệm lấy dương cầm với phần phụ họa của Văn Phụng và vài nhạc sĩ, Quỳnh Giao trình bày lại những ca khúc đẹp nhất của tân nhạc với lời giới thiệu của các nghệ sĩ Vũ Thành, Phạm Duy, Phạm Ðình Chương, Cung Tiến, Thái Thanh, Kim Tước, Châu Hà, Mai Thảo, Lê Văn, Duyên Anh, Bùi Bảo Trúc, Phạm Văn Kỳ Thanh, v.v... Qua năm 1986, Quỳnh Giao cũng được nhà văn Duyên Anh mời trình bày đĩa nhạc “Còn Thoáng Chiêm Bao.”

Cùng giai đoạn ấy, Quỳnh Giao cộng tác và lưu diễn một số nơi với nhạc sĩ Phạm Ðình Chương, nhưng cơ hội không nhiều vì sinh hoạt văn nghệ chưa phát triển rực rỡ như sau này. Ðáng chú ý thì năm 1988 và 1989 đã cùng Kim Tước và Mai Hương trình bày nhạc Cung Tiến với dàn nhạc thính phòng của nhạc công người Mỹ tại miền Bắc, miền Nam California, Chicago và Minnesota.

Ðấy là lúc khán giả biết đến những ca khúc mới và thuộc loại khó diễn tả nhất của Cung Tiến, như 10 bài Vang Vang Trời Vào Xuân phổ thơ Thanh Tâm Tuyền. Và nhất là tác phẩm Hoàng Hạc Lâu, phổ thơ Thôi Hiệu qua phần cảm dịch của Vũ Hoàng Chương.

Sau khi tái giá với chuyên gia kinh tế Nguyễn-Xuân Nghĩa - sau này là nhà bình luận hợp tác với các đài phát thanh quốc tế và các tờ báo Việt ngữ tại Hoa Kỳ, Quỳnh Giao qua California sinh sống kể từ 1991. Trong môi trường sinh động và đông đảo người Việt tại miền Tây Hoa Kỳ, Quỳnh Giao có cơ hội mở rộng hoạt động tân nhạc.

Quỳnh Giao lần lượt thực hiện nhiều đĩa nhạc có giá trị nghệ thuật, đa số với hòa âm của Duy Cường, như Khúc Nguyệt Quỳnh (1992), Tiếng Chuông Chiều Thu (1996), Chiều Về Trên Sông (1997), Ngàn Thu Áo Tím (1998), Hành Trình Phạm Duy (1999), Hình Ảnh Một Buổi Chiều (2000), Tình Khúc Văn Phụng & Hoàng Trọng (2001), Thơ Tình Phổ Nhạc (2002), Hoa Xuân (2003), Trở Về Thôn Cũ (2005) và Tình Khúc Phạm Duy (2006).

Ngoài ra, Quỳnh Giao hợp tác với nhiều trung tâm để hoàn thành đĩa Ðêm Tàn Bến Ngự - Tình Khúc Dương Thiệu Tước (1995) với tiếng hát Kim Tước, đĩa Tình Khúc Văn Cao (1995) cùng tiếng hát Mai Hương và có những ca khúc ghi âm riêng lẻ trong nhiều đĩa phát hành từ 1993 đến 2006.

Trong giai đoạn này, Quỳnh Giao còn có hai cống hiến khác cho tân nhạc.

Nhờ sống gần Kim Tước và Mai Hương tại miền Nam California, ba chị em trình diễn với nhau nhiều hơn và khi hợp ca thì tự động chia bè rất ăn khớp với sự điêu luyện độc đáo. Từ đó, Ban tam ca Tiếng Tơ Ðồng Hải Ngoại ra đời để nhắc về ban nhạc Tiếng Tơ Ðồng nổi tiếng trước 75 của nhạc sĩ Hoàng Trọng khi ấy còn ở trong nước.

Ðáng kể hơn, là năm 1997 Quỳnh Giao thực hiện cho ban Việt ngữ đài BBC chương trình Suối Nguồn Tân Nhạc Việt Nam. Ðược phát thanh hàng tuần qua 20 buổi, chương trình thuộc loại “nhạc sử” vì nói về 60 năm tân nhạc cải cách Việt Nam từ thời phôi thai năm 1938 đến sau này.

Quỳnh Giao phân đoạn theo thời gian, theo thể tài và đọc lời giới thiệu với phần minh diễn của các ca sĩ và phần phát biểu của nhiều nhạc sĩ. Nhờ nội dung phong phú và nhạc hiệu là bản Bến Xuân của Văn Cao do chính Quỳnh Giao diễn tả, Suối Nguồn Tân Nhạc được thính giả yêu thích nên là một trường hợp hiếm hoi được BBC cho phát lại lần thứ hai.

Nguyên nhân sâu xa nữa sẽ được hiểu ra sau này là Quỳnh Giao có ký ức rất sâu, đã sống với tân nhạc từ bé, gần gũi với các nhạc sĩ và ca sĩ như trong một đại gia đình nên nắm vững hoàn cảnh ra đời của từng ca khúc.

Người ta thấy được điều này khi đọc Quỳnh Giao.

Các môn sinh của thầy Ưng Quả trong trường Quốc Học thì không ngạc nhiên khi thấy Quỳnh Giao cầm bút. Sinh thời, nhà giáo ngày xưa là người lịch lãm tài hoa với ngón đàn nguyệt mà cũng là một cây bút sắc xảo. Quỳnh Giao tiếp nhận được huyết thống ấy, mà có lẽ khi còn thiếu thời đã không tự biết.

Năm 1986, nhân dịp mừng sinh nhật thứ 65 của nhạc sĩ Phạm Duy, từ miền Ðông, Quỳnh Giao đã có bài viết được đăng trên tờ Văn Học xuất bản tại California. Sau đó là một bài về nhạc sĩ Vũ Thành vừa tạ thế vào năm 1987. Ðược sự khuyến khích của nhà văn Nguyễn Mộng Giác khi ấy phụ trách tờ Văn Học, Quỳnh Giao đã viết nhiều hơn từ tùy bút đến truyện ngắn cho Văn Học và các tờ báo định kỳ khác, kể cả Thế Kỷ 21. Khởi đầu là đề tài âm nhạc, gần như một loại tự truyện về thế giới tân nhạc Việt Nam, sau này, Quỳnh Giao mở tầm viết và gây thích thú cho người đọc...

Quỳnh Giao viết về nhạc thì cũng như kể chuyện về các nghệ sĩ bằng hữu của thân mẫu. Nhưng kiến thức sâu sắc về nhạc và về kỹ thuật trình bày còn giúp người đọc nhớ lại và có sự thưởng ngoạn cao hơn với từng tác phẩm, từng tác giả hay người trình diễn. Nhờ vậy, độc giả cảm nhận được giá trị đích thực của các ca khúc.

Khi mở ra loại đề tài như điện ảnh, văn chương hay mỹ thuật, Quỳnh Giao còn cho thấy sự am hiểu rộng lớn và thấu đáo. Với văn phong nhẹ nhàng, cái nhìn tinh tế và cách nói khiêm nhường dí dỏm về mình, Quỳnh Giao lôi cuốn bạn đọc và dần dần có một thành phần bạn đọc riêng.

Những điều ấy trở thành rõ rệt khi Quỳnh Giao cộng tác với giai phẩm Xuân của Việt Báo và nhật báo Người Việt trong mục “Tạp Ghi” với những bài định kỳ mỗi tuần. Tạp Ghi Quỳnh Giao là mục ăn khách trên Người Việt kể từ năm 2005. Cho đến nay thì đã có gần 500 bài.

Không chỉ đọc Quỳnh Giao, người ta còn nghe thấy tiếng nói thanh quý rất ăn micro của người nghệ sĩ. Những ai còn nhớ tới Quỳnh Giao trong chương trình Suối Nguồn Tân Nhạc năm xưa của BBC tìm lại được tiếng nói đó qua mục Vòng Chân Trời Văn Học Nghệ Thuật với nhà báo Lê Ðình Ðiểu của đài phát thanh VNCR. Sau này, khi Người Việt TV thành hình từ Người Việt Online, Quỳnh Giao xuất hiện trên màn ảnh trong chương trình “Câu Chuyện Văn Nghệ” cùng Nam Phương hay Lê Hồng Quang. Ðấy là lúc khán giả thấy ra “cây bút Quỳnh Giao” bằng xương thịt, với lối ứng khẩu tự nhiên và nhu mì để nói về đủ loại đề tài hấp dẫn.

Trong khi đó, ở nhà, Quỳnh Giao tiếp tục việc dạy đàn và mở lớp luyện giọng.

Tháng 10, năm 2011, tờ Người Việt cho xuất bản Tạp Ghi Quỳnh Giao, một cuốn sách thuộc loại ăn khách với 67 bài trên hơn 400 trang. Qua năm 2012, Quỳnh Giao chuẩn bị hoàn thành cuốn thứ hai thì ngã trong vườn và bị thương nặng. Sau một cuộc giải phẫu công phu vào Tháng Năm, việc sử dụng tay trái đã bị trở ngại. Lớp dạy đàn mở ra từ mấy chục năm trước coi như chấm dứt.

Mùa Xuân 2014, Quỳnh Giao tưởng mình ho vì bị cảm lạnh. Nhưng sau một tháng chữa trị bình thường mà bệnh không dứt. Vào một đêm của đầu Tháng Ba khi bị mất giọng, Quỳnh Giao mới được xe cấp cứu đưa nhà thương và hôm sau thì như bị sét đánh. Ung thư phổi. Ðiều này là bất ngờ vì trước đó không hề có triệu chứng gì, kể từ khi chiếu điện vì gãy cánh tay mặt.

Sau hơn bốn tháng giải quyết bằng hóa trị rồi xạ trị, Quỳnh Giao suy yếu dần về thể lực mà thần trí vẫn minh mẫn lạc quan. Cho tới khi phải thường xuyên dùng ống dưỡng khí và đối phó với nhiều biến chứng thì tình hình trở thành nguy kịch. Ðêm Thứ Ba rạng ngày Thứ Tư 23 Tháng Bảy, Quỳnh Giao lặng lẽ gỡ ống dưỡng khí và ra đi thanh thản trong giấc ngủ trước sự bàng hoàng ngơ ngác của chồng con.

Quỳnh Giao làm đẹp cho đời bằng tiếng hát tuyệt vời và những bài viết về nghệ thuật về mỹ thuật. Người ta thấy yêu đời và yêu người hơn khi nghe hay đọc Quỳnh Giao.

“Lòng Ta Ở Với Người” là tên một ca khúc của Trần Dạ Từ mới được Quỳnh Giao ghi âm mà chưa phổ biến. Có lẽ đấy cũng là lời ca rất đúng về tấm lòng của người nghệ sĩ vừa ra đi...
        
 
 
                                            
Quỳnh Giao hát Nụ Cười - Thơ: Thích Nữ Chân Thiền - Nhạc: Tuấn Khanh - Hòa âm, thâu thanh: Duy Quang, Duy Cường
    
                                       Phóng sự của Người Việt TV (youtube)
   
   
  
             
   
   
                              Westminster: Lễ Tiễn Biệt Nữ Danh Ca Quỳnh Giao - Việt Báo - 31/07/2014
   
         
Đưa tiễn Quỳnh Giao (Nguồn: http://www.diendantheky.net/)

(Đã được Nhà văn Phạm Xuân Đài đọc trong buổi tưởng niệm ca sĩ Quỳnh Giao vào trưa ngày 30 tháng 7, 2014 tại nhà quàn Peek Family, Westminster - Nam California, trước giờ hỏa thiêu).

Kính thưa quý vị,

Hôm nay chúng ta tiễn đưa một người bạn nghệ sĩ của chúng ta về cõi vĩnh hằng với rất nhiều nuối tiếc. Đối với riêng tôi, nỗi tiếc nuối rất sâu đậm, vì từ lâu tôi đã nhận ra và cảm phục Quỳnh Giao là con người rất mực tài hoa.

Quỳnh Giao đã được nuôi dưỡng trong giai đoạn trưởng thành của nền tân nhạc Việt Nam, đã được học hành đến nơi đến chốn trong trường Quốc Gia Âm Nhạc của Việt Nam Cộng Hòa, đã đậu thủ khoa khi ra trường, đã sống trọn vẹn trong môi trường âm nhạc từ trong gia đình ra ngoài xã hội, từ nhỏ đến lớn, từ trong nước ra hải ngoại. Tài năng về âm nhạc của Quỳnh Giao chắc chắn hôm nay sẽ được những người trong giới âm nhạc nói tới. Nhưng khả năng và kiến thức về âm nhạc, nghệ thuật còn thể hiện trong lãnh vực viết lách, có thể nói cho tới giờ phút này, ít ai có được những thuận lợi để viết về âm nhạc Việt Nam trong thời kỳ của mình hơn là Quỳnh Giao.

Với lợi thế lớn lên trong gia đình của đôi nghệ sĩ nổi tiếng Dương Thiệu Tước-Minh Trang, lại tham gia vào thế giới âm nhạc từ thủa bé, Quỳnh Giao đã tích lũy không biết bao nhiêu là kỷ niệm và sự quen biết với các nhạc sĩ, ca sĩ, bao nhiêu là kiến thức về các tác phẩm và các sinh hoạt âm nhạc đủ loại của suốt thời gian sống tại miền Nam. Đọc Quỳnh Giao, người ta mới thấy tác giả đúng là một cuốn tự điển sống về cái thế giới ấy, một cây bút đầy linh động không chỉ vì sự hiểu sâu biết kỹ, mà còn vì khả năng diễn đạt bằng văn chương những chỗ uẩn áo của âm nhạc phát tiết ra nơi từng người nghệ sĩ, dù là người sáng tác hay là người trình diễn. Nếu ai có ý định viết về nhạc sử của miền Nam trước 1975, tôi nghĩ người ấy cần tham khảo rất nhiều bài viết về âm nhạc của Quỳnh Giao.

Nhưng có lẽ ít người trong chúng ta được biết là Quỳnh Giao còn có con mắt nhìn nghệ thuật tạo hình một cách đặc sắc. Khoảng thời gian từ 1995 đến khoảng năm 2000, tại trụ sở của ba cơ quan văn hóa là đài phát thanh VNCR, hội VAALA và tòa soạn báo Thế Kỷ 21 tại đường Acacia, Garden Grove, một nhóm người đã cùng nhau hoạt động rất vui tươi và hiệu quả. Cùng với anh Lê Đình Điểu, anh em chúng tôi như Vũ Ánh, Lê Văn Khoa, Đinh Quang Anh Thái, Ngô Mạnh Thu, Becky Ngô, Quỳnh Giao, Trần Đại Lộc, Phạm Phú Minh, Hoàng Trọng Thụy vân vân... đã quây quần để làm công tác truyền thông và văn học nghệ thuật. Hồi đó Quỳnh Giao mỗi tuần phụ trách một chương trình về âm nhạc cùng với Lê Đình Điểu trên đài VNCR, có số thính giả mến mộ rất đông. Một lần tại trụ sở ấy chúng tôi tổ chức triển lãm một loạt tranh 10 bức mới sáng tác tại Mỹ của họa sĩ Trịnh Cung từ Việt Nam sang, có tên gọi là Âm vang của đất. Quỳnh Giao xem tranh và đã viết cho báo Thế Kỷ 21 bài nhận định hội họa có tựa đề: Xem tranh Trịnh Cung: Chuyển Động và Âm Thanh. Chúng tôi mời quý vị nghe lại vài đoạn ngắn của bài này.

“Nếu các lục địa xô đẩy nhau, như vào thuở tạo thiên lập địa, ta có thể thấy sự vỡ nát của đá và có khi sự tuôn trào của nham thạch đỏ ối như vàng, hay nâu xậm tựa bùn đất. Nếu hoàn cảnh xô đẩy khiến một nghệ sĩ hội họa từ Việt Nam được lãng du trên lục địa Hoa Kỳ, để ngắm nhìn người và đất, ta có thể có mười họa phẩm hoàn tất trong thời gian ngắn - vài giây động đất của thiên nhiên vĩnh cửu. Nhưng, người đó phải có sức sáng tác của một họa sĩ trẻ và nghệ thuật già dặn của người đã sống để vẽ từ thời thái cổ. Trịnh Cung là người đó, và nơi ông, âm vang của đất đã thành bản hợp xướng hoành tráng của màu sắc và ánh sáng.”
...
“Ánh sáng trong tranh Trịnh Cung - tỏa ra từ cả những mảng đậm tím hay nâu cam - là ngôn ngữ của âm nhạc trong giai điệu majeur, êm và sáng, dịu mà không buồn. Âm vang của đất, nơi Trịnh Cung, là một bài hợp xướng vui tươi, không ủ dột như nhiều ca khúc của ta (...) Tôi sở dĩ nghĩ tới âm thanh của màu sắc vì trước mỗi bức tranh lại rung động như nghe được một giai điệu âm nhạc. Âm nhạc đã dẫn tôi vào hội họa Trịnh Cung vì ông thường kết hợp màu sắc để đưa người xem vào nhạc.”

Đọc Quỳnh Giao viết về hội họa, tôi mới ngộ ra rằng tất cả các hình thái nghệ thuật của con người đều liên quan với nhau. Người xưa nói “thi trung hữu họa” - trong thơ có họa - nay tôi vừa được biết thêm “họa trung hữu nhạc” - trong họa có nhạc, hoặc nói ngược lại, trong nhạc có họa, thì chắc cũng không sai. Trong cái này có cái kia, vì mỗi hình thái nghệ thuật của con người đều chỉ là một cách biểu hiện cái Đẹp mà con người mang trong tâm hồn nó.

Quỳnh Giao là người hiểu tất cả những điều đó, chị đúng là một con người tài hoa. Cụ Nguyễn Du đã nói rằng “những đấng tài hoa (thì) thác là thể phách, còn là tinh anh”.

Thưa chị Quỳnh Giao, hôm nay chúng tôi tiễn đưa thể phách của chị trở thành tro bụi, nhưng phần tinh anh, tức là tài sản tinh thần mà chị để lại thì thật phong phú, sẽ còn lại mãi mãi với chúng tôi hôm nay và cho nhiều thế hệ về sau.

Xin giã từ chị Quỳnh Giao.

Cuối tháng Bảy 2014.
   
    
    
   
" Cho đi lại từ đầu
Chưa đi vội về sau
Xin đi từ thơ ấu
Đi vui và bên nhau
Trong tim thì sôi máu
Khóe mắt có trăng sao
Bông hoa cài trên áo,
Trên môi một nguyện cầu
Cho đi lại từ đầu
Chưa đi vội về sau.
Cho đi lại từ đầu
Chưa đi vội về sau
."
Quỳnh Giao hát bài Kỷ Niệm của Phạm Duy
 
      Chương trình tiễn biệt nghệ sĩ Quỳnh Giao Sáng Thứ Tư 30 Tháng Bảy 2014
WESTMINSTER (NV) - Theo thông báo từ gia đình, sẽ có một chương trình tiễn biệt nghệ sĩ Quỳnh Giao, do thân hữu và người ái mộ thực hiện, tại tang lễ của người quá cố.

Tang lễ được gia đình cử hành vào hai ngày Thứ Ba và Thứ Tư, 29 và 30 Tháng Bảy, tại Peek Family Funeral Home, Phòng Số Năm, địa chỉ là 7801 Bolsa Avenue, Westminster, California.

Ðặc biệt, trước lễ Di quan và Hỏa táng vào trưa Thứ Tư, 30 Tháng Bảy, từ lúc 11 giờ 30 sẽ có phần tiễn biệt của một số đại diện thân hữu hiểu tài nghệ, cuộc đời và yêu thương những cống hiến rất đẹp của Quỳnh Giao.

Nhà báo Ðinh Quang Anh Thái điều hợp chương trình, với phần phát biểu của các diễn giả:

- Nhạc sĩ Cung Tiến, từ Minnesota về dự tang lễ.

- Danh ca Kim Tước, đã hát cùng Quỳnh Giao từ nửa thế kỷ trước.

- Danh ca Mai Hương, đã hát cùng Quỳnh Giao từ Ban Thiếu Nhi đến sau này.

- Nhà thơ Trần Dạ Từ, bạn thâm giao của gia đình Quỳnh Giao từ khi còn bé.

- Nhà báo Phạm Xuân Ðài, tri kỷ với ngòi bút và tiếng nói Quỳnh Giao trên đài phát thanh.

- Nhà văn Nhã Ca, người yêu thương theo dõi bệnh tình của Quỳnh Giao từ những ngày đầu.

- Tài tử Kiều Chinh, nói về Quỳnh Giao ở ngoài đời.

Thuộc thế hệ trẻ hơn thì có:

- Nhà thơ Trịnh Y Thư, bạn chí thiết đã viết lời một ca khúc cổ điển do Quỳnh Giao trình bày.

- Phóng viên Nam Phương, đã có nhiều chương trình phỏng vấn Quỳnh Giao trên Người Việt TV.

- Doãn Quốc Hưng, từng đệm đàn Tây Ban Cầm và hàn huyên với Quỳnh Giao về nghệ thuật.

- Kiến trúc sư Nguyễn Bá Khanh, ngưỡng mộ Quỳnh Giao về âm nhạc, điện ảnh và văn học.

- Tiến Sĩ Tenzin Dorjee của Ðại Học Fullerton, từ hội nghị tại Oregon bỏ về sớm để tiễn Quỳnh Giao sau khi cung thỉnh chư tăng Tây Tạng đến làm lễ bên giường bệnh từ nhiều tháng trước.

Chúng ta sẽ tiễn đưa một nghệ sĩ khả ái và đa tài, trong tinh thần giã biệt một cuộc đời đã làm đẹp cho người khác, khi trình bày âm nhạc và viết về văn học nghệ thuật Việt Nam. (Ð.B.)
             
              
              
                                 Phân Ưu từ website của Nhạc sĩ Lê Dinh (Montreal, Canada)
             Từ Biệt Quỳnh Giao - Nguyễn Xuân Nghĩa - 02/08/2014
                                             
                                             Quỳnh Giao & phu quân Nguyễn Xuân Nghĩa
Nghe hồn bóng xế... mai này sẽ mới *
Trong đời người, tình yêu và cái chết là loại cảm nghiệm riêng, chỉ kẻ trong cuộc mới biết. Khi hai biến cố ấy hòa làm một thì người trong cuộc thấy hạnh phúc rã rời và đành viết lời hư vô....

Nhà thơ có thể viết "tình yêu như trái phá" - trường hợp Trịnh Công Sơn. Quỳnh Giao là trái chín - vừa rụng. Trong sự tuần hoàn hay luân hồi miên viễn của chúng sinh, với cái lý của "sinh, lão, bệnh, tử," trái cây không thể ở mãi trên cành. Nhưng khi trái chín rời cành thì cũng là lúc gây mầm cho đời sống về sau.

Quỳnh Giao là trái ngọt đã gây mầm khi còn xanh mướt trên cành, ở tuổi mười lăm.

Đấy là phần "tiểu sử", với trọng tâm là tiểu hơn sử.

Khi trời chưa mờ sáng ngày 23, theo xe cấp cứu từ nhà tới dưỡng đường, bên cạnh là Bảo Cơ nhợt nhạt, người viết này tụng Nam Mô Guru Bay... mà rõ là "tâm viên ý mã". Vì nhớ đến Tô Đông Pha trong bài "Tặng Đông Lâm Tổng trưởng lão":

Khê thanh tiện thị quảng trường thiệt
Sơn sắc khởi phi thanh tịnh thân.
..

Chỉ vì đêm tụng tám vạn bốn nghìn bài kệ, sáng sau vẫn ngơ ngác chẳng biết mình là ai, nói gì. Vì thế, khi trời tờ mờ sáng là điện thoại cho bằng hữu, theo giờ tỉnh giấc của từng người, trong khi đại gia đình được biết tin dữ và trở thành "tang gia"...

* * *

Dấu hiệu của đau khổ, của vô minh rồi trái chín gây mầm đã xuất hiện từ đầu Tháng Ba, khi có sự chẩn đoán của khoa học về bệnh tình bất ngờ.

Bên giường bệnh, người viết mời ông bạn thân là Vũ Tài Lục đến bắt mạch và luận về y, lý, số với lá tử vi trên tay. Nỗi lo mơ hồ với Hoả Linh bên Hóa Kỵ làm hai người đều ngại. Vũ Tài Lục lắc đầu, nhưng về đến nhà còn phân vân và bói lại theo thể Bát tự rồi quay về nói với người bệnh: có hy vọng nếu qua đến tháng sinh là Tháng Mười âm lịch ...

Từ nơi chốn xa xôi hơn về cả không gian và thực chứng, khi người bạn Tenzin Dorjee được biết tin bèn liên lạc với Tu viện Tây Tạng Nyingma tại Mundgod ở miền Nam Ấn Độ để thỉnh ý chư tăng. Bên đó lập tức có ba khóa lễ Tse Wang (chúc thọ), Tse Tor (xin phóng sinh cầu trường thọ) và mười vạn lần niệm Phật theo nghi thức Dus Sum Sang Gyas Bum Ther của ngài Bồ Tát Liên Hoa Sinh Guru Padmasambhava.

Từ đấy mới có sự ân cần tụng niệm của Tu viện trưởng Khensur Rinpochet và chư tăng quanh giường bệnh, trong hai buổi liền. Cùng lúc đó, bằng hữu của Quỳnh Giao cũng được yêu cầu dâng lễ trong các nhà thờ Công giáo và Tin Lành. Chỉ vì thấy người thân yêu nhất lâm ác bệnh thì mọi lý luận khi tỉnh táo đều là vô nghĩa và mọi lời thành khẩn cầu xin đều cần thiết.

Các khái niệm Chân Như, Vô Thường, Trung Ấm Bardo Thodol hay giải thoát tràn ngập trong nhà cùng tiếng kệ. Tại nhà thương thì khoa học ra tay bằng hóa trị với Carbo Platinum hoà cùng Alimta, rồi bằng xạ trị với các phương pháp hiện đại như CyberKnife hay True Beam ...

Cứ vậy, trong nhiều tháng liền, hàng ngày, hàng đêm và hàng giờ con gái ở trên lầu thì kê nệm bên giường để chăm sóc mẹ với từng viên thuốc, muỗng canh. Ở dưới nhà thì người viết đọc tin, đọc kinh, soạn bài, thắp nhang, nhiều khi ngủ thiếp với lời thú nhận của Tô Đông Pha: Dù thiên kinh vạn quyển, nhiều lúc mỉnh chẳng nói được cho ai ... Nóng lạnh tự biết.

Bây giờ thì biết rồi. Biết trong nước mắt.

Trong gần một phần tư thế kỷ, người viết này được ở bên Quỳnh Giao, hiểu thêm về nhạc và nghệ thuật sống. Còn được nhắc nhiều lần: "anh là người tâm từ khẩu trực, đại khoan tiểu cấp mà hư đốn nhiều lần! Hãy định thần, tu tỉnh, mềm lại, chậm hơn và đừng dùng trí tuệ nói ác nếu muốn thực thi Bồ tát hạnh ... Sư phụ Geshe Tsultim Gyeltsen của anh đã dạy anh như vậy thì hãy nhớ."

Nay người trang nhã từ tốn, nói điều tốt, hát lời đẹp và viết chuyện tử tế để làm vui cho người đã ra đi trong niềm tiếc thương của bao người. Vì thế, Quỳnh Giao sẽ trở lại, với hình sắc khác.

Chỉ mong rằng khi đó, vào một kiếp khác, mình vẫn được hạnh ngộ, khi mai này sẽ mới ...
__________

(*) Thơ Trịnh Y Thư trong
"Chiều Rơi Mênh Mang", lời Việt của ca khúc Spanish Dance # 5 của Granados, Quỳnh Giao trình bày trong đĩa Khúc Nguyệt Quỳnh năm 1992.
                                  Cassettes và CDs của Quỳnh Giao

Quỳnh Giao thực hiện:

1. Quỳnh Giao - Hát Cho Kỷ Niệm 1, 1986
2. Quỳnh Giao - Hát Cho Kỷ Niệm 2, 1988
3. Khúc Nguyệt Quỳnh, 1992
4. Tiếng Chuông Chiều Thu, 1996
5. Chiều Về Trên Sông, 1997
6. Ngàn Thu Áo Tím, 1998
6. Hành Trình Phạm Duy, 1999
7. Hình Ảnh Một Buổi Chiều, 2000
8. Văn Phụng & Hoàng Trọng, 2001
9. Thơ tình Phổ nhạc, 2002
10. Hoa Xuân, 2003
11. Xuân Tha Hương, 10 bài hát về Quê Hương đánh dấu ba mươi năm Quỳnh Giao xa quê nhà, 2005
12. Tình ca Phạm Duy, 10 bài hát Quỳnh Giao yêu thích nhất, 2005
Các Trung tâm khác thực hiện:

1. Đêm Tàn Bến Ngự - Tình Khúc Dương Thiệu Tước: Quỳnh Giao-Kim Tước, Mai Ngọc Khánh thực hiện, 1995
2. Tình Khúc Văn Cao: Mai Hương-Quỳnh Giao, Mai Ngọc Khánh thực hiện, 1995
3. Tìm Nhau Bốn Mùa: Kim Tước, Mai Hương, Quỳnh Giao và Duy Trác. Kim Tước thực hiện 1998.
                                                          Một số hình ảnh
                                       
                              Danh ca Minh Trang và 2 con Bửu Minh (trái) và Đoan Trang (ca sĩ Quỳnh Giao)
                                      
               
                          
                                             Dương cầm thủ Quỳnh Giao thu hình trước 1975 
                                                 
 

                    
                                              Kiều Chinh, Nhã Ca, Vi Khuê, Quỳnh Giao - Virginia 
                    
                                            Quỳnh Giao, Nguyễn Xuân Nghĩa, ÔB Nguyễn Mộng Giác (1993)
    
                         Mai Thảo, Ngọc Hoài Phương, Lê Văn, Quỳnh Giao, Nguyễn Xuân Nghĩa, Trần Duy Đức
                    
                                     Trần Dạ Từ, Nguyễn Xuân Hoàng, Nguyễn Xuân Nghĩa, Quỳnh Giao
                         
                                                          Quỳnh Giao, Mai Hương & Đoàn Chính 
                                        
                                                             Nhạc sĩ Ngô Thụy Miên & Quỳnh Giao
                         
                                                     Nhà văn Song Thao & Quỳnh Giao
               
                                      Ca sĩ: Anh Ngọc, Mai Hương, Kim Tước, Quỳnh Giao, Hà Thanh                              
                                     
                 Ca sĩ: Anh Dũng (Cali), Kim Tước, Quỳnh Giao, Mai Hương - Buổi nhạc "Chiều Nhớ" - 2006 ở Virginia
                       
                           Ban Tiếng Tơ Đồng Hải Ngoại - Quỳnh Giao, Mai Hương, Kim Tước (1991)
 
                   Mai Hương, Kim Tước, Quỳnh Giao, Hoài Trung, Anh Ngọc & Hoài Bắc (1991)
                 Từ trái: Kim Tước, Thái Thảo, Bích Liên, Duy Quang, Phạm Duy, Quỳnh Giao, Mai Hương ...
                  
Ca sĩ Quỳnh Giao trình bày "THỤY KHÚC" của Vũ Thành (hòa âm: Lê Văn Khoa) - Chương trình A Lifetime of Music 2013 California - Nhạc Trưởng Khánh Hồng điều khiển dàn nhạc Vietnamese American Philharmonic Symphony Orchestra
       
Ca sĩ Quỳnh Giao (áo vàng cam bên phải) - Đêm nhạc Cung Tiến "Vết Chim Bay" 2010 với các ca sĩ: Anh Dũng, Bích Liên, Phạm Hà, Trần Đại Phước, Phạm Đăng Khoa, Lê Hồng Quang, Bích Vân, Lệ Thu ...
              
                                  Kim Tước, Quỳnh Giao, Từ Công Phụng, Mai Hương, Ngọc Hà
        
                    Lê Văn Khoa Concert "Người Viết Lịch Sử Việt Nam Bằng Âm Nhạc" - 2008 - California
                 
                   Irinia Starodub, Kateryna Myronyuk, Bích Vân, ÔB Thái Đắc Nhã, Vũ Thùy Hạnh, Quỳnh Giao
 Quỳnh Giao, Tiếng Ca Mở Nẻo Lam Kiều - Bài viết của: Hồ Trường An

Tôi biết tiếng hát Quỳnh Giao từ khi tôi vào trường Cao Tiểu Vĩnh Long (Collège de Vinh-Long) vào năm 1950. Lúc đó cô chỉ là một cô ngọc nữ xinh tươi với cái tên là Công Tằng Tôn Nữ Đoan Trang, lấy cái tên Đoan Trang của mình làm nghệ danh. Cô hát chung với ông anh Bửu Minh của mình (lấy nghệ danh là Anh Minh). Cả hai là con chung của nữ danh ca Minh Trang và hoàng thân Nguyễn Phước Ưng Quả. Ông Ưng Quả là thầy dạy của Thái tử Bảo Long, một bậc trí thức nổi bật trong hoàng tộc thuở đó, đã từng viết nhiều tờ báo tiếng Pháp do người Pháp chủ trương.
Quỳnh Giao là hậu duệ của ngài Tuy Lý Vương Miên Trinh. Vương cùng ông anh khác mẹ là ngài Tùng Thiện Vương nổi tiếng về thi ca. Dòng dõi của vương, về bên nữ có vài bà tôn nữ giỏi thơ văn như Công Tằng Tôn Nữ Tri Túc (bút hiệu là Cỏ May, Cỏ Tháng Giêng), Công Tằng Tôn Nữ Tri Thức (bút hiệu là Hoàng Du Thụy), Công Huyền Tôn Nữ Nha Trang (bút hiệu là Thanh Nhung). Riêng Công Tằng Tôn Nữ Đoan Trang khi đến tuổi cài trâm lại lấy nghệ danh là Quỳnh Giao. Và khi ra hải ngoại, cô bắt đầu cầm bút viết phê bình văn chương, viết những bài tưởng niệm các nhạc sĩ vừa qua đời hay vinh danh các nhạc sĩ còn tại thế.

Tôi đã say mê cô ngọc nữ Đoan Trang cùng cậu kim đồng Anh Minh song ca bài “Dưới Nắng Hồng” của Dương Thiệu Tước. Eo ơi, cả hai mới sáu bảy tuổi chứ mấy, khi hát mà còn ngân nga rựa ràng nào khác cặp song ca Bích Chiêu & Tuấn Ngọc vốn là hai chị em ruột (chị gái và em trai). Và khi Đoan Trang lớn lên để trở thành cô xuân kiều xinh tươi thì tôi quên hẳn cô vì lúc đó cô theo đuổi việc sách đèn và học môn dương cầm tại trường Quốc Gia Âm Nhạc. Đến khi cô trở thành thiếu nữ đoan trang thùy mị với nghệ danh Quỳnh Giao thì tôi được nghe cô hát trên đài Sài Gòn và đài Quân Đội, khi thì song ca với Mai Hương, khi thì tam ca với Mai Hương và Như Thủy (em gái Nhật Trường), và sau hết tam ca với Mai Hương và Phương Nga. Làm sao tôi quên được Mai Hương, Quỳnh Giao và Như Thủy tam ca bản “Hồ Lãng Bạc” của Xuân Tùng; ở điệp khúc cả ba ca thật xôn xao như sóng lớp lớp bủa vào mạn thuyền, nghe đã hết sức!

Vào năm 1971, tôi mới được diện kiến Quỳnh Giao tại đài Sài Gòn. Cô có dắt cháu Dương Ngọc Bảo Cơ (con gái duy nhất của cô) theo. Cô bé bước đi lẫm chẫm xinh xắn như một quả tim. Còn Quỳnh Giao thì giữ dáng dấp một cô thiếu nữ 16. Chiếc áo dài của cô bằng lụa tằm hơi dầy nhưng mềm mại ửng màu nguyệt bạch, cách tô chuốc son phấn quá phơn phớt, quá gượng nhẹ của cô làm tôi tưởng chừng đó là một nữ sinh viên hơn là một ca sĩ. Tuy nhiên ở chỗ giáp nhau ở cổ áo, cô có cài chiếc trâm nhỏ hình tròn cỡ cúc áo có nạm chuỗi hột lấp lánh. Trong cuộc phỏng vấn cô, tôi tán gẫu với cô nhiều hơn là đặt câu hỏi. Tuy nhiên khi bài phỏng vấn đăng trên tuần san Minh Tinh, cô rất hài lòng. Và cô mời tôi đến tư thất cô cho biết. Thuở đó cặp uyên ương DNH & Quỳnh Giao ở chung với dì cô là bà quả phụ Đỗ Thế Phiệt (giáo sư trường Quốc Gia Âm Nhạc). Tuy là sống dưới mái nhà với bà Đỗ, nhưng cả hai có giang sơn biệt lập với chỗ ở của bà. Cho nên những khi tôi đến viếng cô thì không bao giờ tôi gặp bà.

Miền Nam thất thủ; trước ngày 30/4/75 vài hôm, gia đình Quỳnh Giao di tản qua đảo Guam rồi định cư trên tiểu bang Virginia. Còn tôi, phải đợi đến hai năm sau mới định cư trên đất Pháp. Bên kia Đại Tây Dương, Quỳnh Giao dạy tư gia môn dương cầm. Trên đất Pháp, tôi làm báo, viết báo. Và mãi tới năm 1983, tôi bắt đầu viết văn trở lại. Tới năm 1986, nhờ nhà thơ nữ Vi Khuê cũng ở Virginia mà Quỳnh Giao và tôi nối lại giao du. Vào năm 1989, tôi qua bên Washington D.C. ra mắt quyển “Giai Thoại Hồng”, có ở chơi nhà vợ chồng cô một ngày một đêm. Thuở đó cô còn chung sống với anh DNH ở thành phố Annandale. Rồi sau đó, chín năm sau, tức là vào năm 1999, tôi trở qua Washington D.C. ra mắt quyển “Theo Chân Những Tiếng Hát” thì cô không còn ở Annandale nữa; cô đã ly dị anh H. từ lâu, hình như vào năm 1990 thì phải và đã thiên cư qua bên California.

Vào một sáng giữa thu lành lạnh, nhưng nắng đẹp tuyệt vời như bạc lỏng, Quỳnh Giao lái xe đến nhà bạn của tôi tức là Tiến sĩ Phạm Văn Hải (khi viết văn ký bút hiệu Hải Vân Phạm Văn Hải) ở trong vùng thơ mộng nhất của thành phố Falls Church để đưa tôi đi ăn trưa tại tiệm mì Kim Sơn. Chúng tôi có nhiều chuyện để kể cho nhau nghe, chuyện ca giới lẫn chuyện văn giới, chuyện những văn nghệ sĩ còn kẹt ở quê nhà cho nên chẳng ai ăn hết tô mì. Sau đó, cô đưa tôi về tư thất cô nằm trong khu tráng lệ của thành phố Fairfax. Nhà cô sạch bóng, cách chưng dọn thật trang nhã. Tại phòng khách có treo tấm ảnh phóng đại của cô chụp chung với người bạn lòng của cô. Đó là anh Nguyễn Xuân Nghĩa, một chính khách và cũng là một học giả.

Cách xa nhau 9 năm, trong khoảng thời gian ấy, chúng tôi thư từ qua lại chỉ có vài lần. Nhưng khi thực hiện được dĩa nhạc nào, Quỳnh Giao cũng nhớ gửi tặng tôi. Gặp lại cô ở Virginia, tôi thấy cô đẹp dễ sợ. Trước đó, nhan sắc cô chỉ dễ coi mà thôi. Cô trội hơn các ca sĩ khác ở vẻ cao sang thanh thoát của một tôn nữ, ở kiến thức văn chương nghệ thuật theo truyền thống “con nhà tông không giống lông cũng giống cánh”. Nhưng bước vào tuổi ngũ tuần, cô hiện thân là một trung niên mỹ phụ. Thần thái cô sáng rực lên. Gương mặt với cặp má hơi thỏn của cô thuở nào thì giờ đây lại đầy đặn thêm ra. Cặp lưỡng quyền tuy thế vẫn không mất, vẫn còn rõ nét để tạo cho cô một vẻ duyên dáng nồng mặn. Bởi vì không có lưỡng quyền rõ nét, khuôn mặt người đàn bà sẽ trơ trẻn và phèn phẹt như tảng bánh đúc thế nào ấy! Cặp mắt cô được tô viền đen, sáng rờn rợn, sáng uy nghiêm...

Trong lúc chuyện vãn về ca nhạc, Quỳnh Giao không dùng những danh từ chuyên biệt dành cho âm nhạc, mà dùng những ngôn từ rất là “bà già trầu” đã được tôi nạm lác đác trong quyển “Theo Chân Những Tiếng Hát” của tôi. Không hiểu có phải cô muốn làm đẹp lòng tôi mà nói những tiếng quê mùa? Hoặc là cô thấy ngôn ngữ chuyên biệt dành cho âm nhạc trở thành những pho cẩm thạch vô hồn khi bàn chuyện với một tác giả ưa viết truyện miệt vườn như tôi? Hay là trong lúc nói chuyện với người bạn cố tri, cô thấy ngôn ngữ “bà già trầu miền Nam” lại gợi cảm hơn?
            
Hồi còn ở quê nhà, trên Tivi tôi chưa thấy ai hát bản “Xuân Và Tuổi Trẻ” của La Hối (do Thế Lữ phổ lời) tươi vui rạng rỡ như Quỳnh Giao, dù khi diễn tả bài này cô không nhún nhẩy, không phô trương mắt liếc miệng cười. Hát mà lẳng nhức lẳng nhối, điệu đà, ỏn ẻn như mấy cô vợ bé nũng nịu với chồng là không có cô. Ở ngay tiếng hát cô, khán thính giả đã thấy mùa xuân tươi sáng và tuổi trẻ hạnh phúc ở trong đó rồi. Còn bản “Giòng Sông Xanh” của Johann Strauss (do Phạm Duy phổ lời Việt) nữa chi. Cô hát sao mà nhẹ nhàng, thênh thang, trơn ngọt, ngân bằng nguyên âm (vocaliser) thật sướng tai! Từng chuỗi ngân dài như dải lụa rập rờn trong gió tuôn ra không chút nắn nót.

Thuở đó, Quỳnh Giao hơi gầy, hơi kiều nhược, nhưng giọng cô lại khá mạnh. Mỗi sáng cô uống một cốc nước cam vắt pha mật ong để cho trơn cổ mát họng trước khi tự luyện giọng bằng cách vocaliser từ thấp lên cao, từ cao xuống thấp những vần a, e, ê, i, o, ô, ơ, u, ư… Đó là lối luyện chân truyền của các ca sĩ Tây Phương.

Quỳnh Giao hát cực kỳ điêu luyện, ai cũng biết. Quỳnh Giao tốt nghiệp môn dương cầm trường Quốc Gia Âm Nhạc, có ngón đàn tươi và sành điệu, chắc chẳng ai quên. Nhưng mấy ai biết được sự thủy chung và ý tình thắm thiết của cô đối với ca hát? Ca hát là tôn giáo của cô, là mục đích mà cô đeo đuổi hơn ba phần tư cuộc đời, dù khách sành điệu của cô quá ít, dù kẻ biết được cái chân giá trị của giọng hát cô chẳng được bao người đi nữa.

Ở ngoài đời, Quỳnh Giao có cung cách thật cao sang, cho nên cô giữ gìn tiếng hát cô quý phái theo. Cô không bao giờ vừa hát vừa nhỏng nhẻo với khán giả, hoặc làm như hổn hển say nhừ lạc thú ái ân như mấy bà sủng phi ỏn ẻn mê hoặc đức vua hiếu sắc hiếu dâm, như mấy cô kỹ nữ nịch ái các khách làng chơi khờ khạo. Cô đưa tình cảm vào giọng hát có chừng mực. Người chưa sành điệu khó cảm thông nổi giọng hát của cô vì đối với họ nó hơi làn lạt, chưa đủ ngọt say sưa như mật ong, mà cũng không đắng đậm như mật gấu. Tuy nhiên cô không hát quá chân phương như Mộc Lan hay như Anh Ngọc. Tình cảm trong giọng hát của cô phơn phớt và dịu nhẹ. Cô cũng dùng nét láy thật mềm để trang sức cho giọng hát mình thêm nét gợi cảm, để nữ tính cô được bộc lộ một phần nào. Hình như cho tới bây giờ, Quỳnh Giao vẫn giữ giọng thiếu nữ non mềm và tươi mươn mướt, một giọng trong ngần và trắng lóa như pha lê. Từ khi ra hải ngoại, khi hát ở những chỗ hơi trầm, tiếng cô hơi khào khào một chút, thật gợi cảm như giọng thiếu phụ. Tuy nhiên, rồi đâu cũng vào đó, tiếng hát cô cũng trở về cái giọng thánh thiện và trinh khiết gợi nên hình ảnh thiên thần cánh trắng.

Giọng Quỳnh Giao thuộc loại kim (soprano). Khi hát ở những chỗ ngang ngang thì nó quá dịu mềm làm cho chúng ta nghĩ tới hình ảnh các cô khuê nữ kiều nhược. Khi lên cao, giọng cô tuy không xé lụa như giọng Ánh Tuyết, tuy không lảnh lót chuông ngân như giọng Thùy Nhiên năm nào, nhưng vẫn chắc, vẫn dẻo, vẫn thoải mái và thống khoái. Cô lại còn ưa chuyền hơi, từ tiếng chót câu đầu cô ngân nga thật dài rồi bắt qua tiếng đầu của câu sau với một làn hơi óng ả vóc nhung tơ và dồi như nước sông mùa lũ, nghe mà cảm thấy đã cái lỗ tai biết dường nào!

Từ năm 1986 cho tới bây giờ, ngoài hai băng nhạc “Hát Cho Kỷ Niệm 1” và “Hát Cho Kỷ Niệm 2”, Quỳnh Giao thực hiện cho riêng mình những dĩa nhạc “Khúc Nguyệt Quỳnh”, “Tiếng Chuông Chiều Thu”, “Chiều Về Trên Sông”, “Ngàn Thu Áo Tím”, “Hành Trình Phạm Duy”. Lại còn dĩa nhạc “Tìm Nhau Bốn Mùa” mà cô hát chung với Kim Tước và Mai Hương nữa chi!

Quỳnh Giao thường hát những bài chọn lọc, có phẩm chất cao. Cô không chiều theo thị hiếu của khán thính giả tạp nhạp. Cô nhắm vào khách sành điệu ít oi, dù nghìn người chỉ có một người đi nữa. Cô hát những bản có nhiều chỗ lên cao để cô có thể biểu diễn giọng kim cao vút và sáng nguy nga, sáng lồng lộng của mình như “Chiều Về Trên Sông” của Phạm Duy, “Tiếng Dương Cầm” và “Mưa Trên Phím Ngà” của Văn Phụng, “Hẹn Một Ngày Về” của Lê Hữu Mục, “Tiếng Thời Gian” của Lâm Tuyền, “Hoài Cảm” và “Thu Vàng” của Cung Tiến. Bản “Sao Đêm” của Lê Trọng Nguyễn và bản “Đường Chiều Lá Rụng” của Phạm Duy tuy không có chỗ lên quá cao nhưng vẫn là hai bản khó hát, các ca sĩ có kỹ thuật non kém sẽ hát tuột giọng, đâm hơi, lạc giọng… Nhưng vốn có kỹ thuật thâm hậu, Quỳnh Giao hát rất đúng giọng, không sai một bán cung, rất điệu nghệ, càng nghe càng khoái.

Càng lớn tuổi, cô càng luyện giọng siêng chăm hơn nên làn hơi cô thêm mạnh, chuỗi ngân càng đẹp tuyệt vời. Rõ ràng là đây là rượu bồ đào càng để lâu càng nồng ngát say sưa.

Từ căn bản, giọng hát của Quỳnh Giao trong như nước ngọt mát rỉ rả trong lòng giếng trên chùa đồi Mai mà nhà văn Nguyễn Tuân đã nói tới trong truyện ngắn "Những Cái Ấm Đất" (trong tập truyện "Vang Bóng Một Thời"). Nước ấy ngon khác nào nước mưa sa giữa trời được hứng bằng chiếc bồn Xích Bích tráng men mà nữ sĩ Mộng Tuyết Thất Tiểu Muội đã tả trong quyển tiểu thuyết dã sử "Nàng Ái Cơ Trong Chậu Úp". Hai thứ nước ấy dùng pha trà, chưng yến, chưng sâm rất ngon; nhưng khi múc từ giếng từ bồn ra uống liền thì nước trôi tới đâu mát mẻ khỏe khoắn tới đó, làm ẩm khách liên tưởng tới cam lộ trong tịnh bình của Quan Thê Âm Bồ Tát.
Ngoài âm sắc trong veo như vừa kể, tiếng hát đó tràn tới ta như nắng mai thật sáng đẹp, thật tươi vàng như hổ phách vào ngày Nguyên Đán hay những ngày cận Tết. Nắng đó như giát thủy tinh lên lá cây bóng mượt, như rắc pha lê lên mặt ao đầm gợn sóng lăn tăn ... Những tấm lụa đào phơi trong nắng sẽ hắt ánh hồng rực rỡ lên đôi má trắng mịn của cô gái đến gần lụa làm người ngắm tưởng chừng như cô đang say rượu hợp cẩn. Những bông hoa hải đường, hồng nhung, thiên lý, hoa ti-gôn, hoa đậu ván, hoa mướp, hoa cải sẽ thắm sắc và xôn xao màu hơn.

Tiếng hát cao vút không gợn đục bởi tình cảm sướt mướt của Quỳnh Giao một khi cất lên như đưa tâm hồn khán thính giả đến tận nẻo Lam Kiều in trên mây xanh nổi chập chùng mây trắng để họ bước vào cõi tiên. Ở đó, sẽ có những nàng tiên như trong cổ tích Việt Nam như Giáng Hương, Giáng Kiều, Liễu Hạnh hay những nàng tiên như trong thần thoại của Trung Hoa như Hằng Nga, Vân Anh, Thái Loan, Lộng Ngọc đón đợi chúng ta bằng những tiếng hát lót nền cho tiếng hát của Quỳnh Giao.


Hồ Trường An
(Bài viết trích trong sách"Chân Dung Những Tiếng Hát - Quyển 1", Nhà xuất bản Tân Văn Tokyo, năm 2000)

        
Mời nghe toàn bộ cassette "Hát Cho Kỷ Niệm 2"  do Quỳnh Giao trình bày - với lời giới thiệu các bản nhạc của Minh Trang, Thái Thanh, Kim Tước, Vũ Thành, Phạm Duy, Châu Hà, Duyên Anh, Phạm Văn Kỳ Thanh, Bùi Bảo Trúc, Dương Ngọc Hoán
       Một kỷ niệm đẹp, Lê Hồng Quang hát với ca sĩ Quỳnh Giao và Bảo Cơ: Viễn Du của Phạm Duy
                          
                                         
           
                                            Thi nhạc sĩ Phan Ni Tấn (Canada) hoài niệm
                                      
                        Mời thưởng thức: "Ngàn Thu Áo Tím" - Sáng Tác: Hoàng Trọng & Vĩnh Phúc
                        Hòa Âm: Lê Ngọc Chấn & Cung Tiến - Song Ca: Quỳnh Giao & Nguyễn Thành Vân 
           Bài thơ ở trên của Lê Thị Kim Phượng (Melbourne, Úc Châu), youtube do Lê Thị Kim Oanh thực hiện
                               
                                    Minh Trang, Quỳnh Giao, Đinh Cường (California 2004)
Thôi rồi giọng hát Quỳnh Giao
lịm đi và tắt. ôi chao một đời

mới đây và mới đây thôi
chỉ trong phút chốc sao trời đổi ngôi

nghe tin chị. lòng bồi hồi [1]
đám mây trắng quá khi chiều tôi đi

ngậm ngùi thay ánh mắt ai
đã về bên mẹ Thiên Thai suối nguồn …

Họa sĩ Đinh Cường - Virginia, July 23, 2014

[1] nữ ca sĩ Quỳnh Giao vừa mất lúc 3 giờ sáng nay 23 – 7 – 2014 tại California.
Quỳnh Giao tên thật Công Tằng Tôn Nữ Đoan Trang, sinh năm 1946 tại Vỹ Dạ- Huế
(chị em chú bác ruột với họa sĩ Bửu Chỉ) con gái của nữ danh ca Minh Trang.
                      
                                            Quỳnh Giao, Đinh Cường, Nguyễn Xuân Nghĩa - California
       Quỳnh Giao hát, như đi tìm chân dung mình qua thi, ca
                                                 Du Tử Lê - 2005

Tôi, nhiều lần được thấy chị bước ra sân khấu, dịu dàng với nụ cười trẻ thơ, đứng giữa một Mai Hương, đằm thắm, một Kim Tước trầm, tịnh - Hợp ca, những ca khúc được coi là bất tử của nền tân nhạc Việt Nam, trên, dưới năm mươi năm.


Nữ Ca Sĩ Quỳnh Giao 5 tuổi

Tôi, nhiều lần được thấy chị khoan thai bước tới, ngồi xuống chiếc dương cầm, đơn ca, những ca khúc, tự thân vốn đòi hỏi nơi người thưởng ngoạn một trình độ, một cảm quan không phổ thông, đại chúng.

Tôi nhiều lần được nghe tiếng hát chị tha thiết, chênh vênh trên những nát tan; sâu, kín nơi những nồng nàn tình khúc, thất lạc.

Đó là những lúc tôi một mình, với đĩa nhạc, với tiếng hát sang cả, lênh đênh niềm xa, vắng của chị.

Đó là những lúc, không một hình ảnh cụ thể nào của chị diễn ra trước mắt tôi. Nhưng chẳng vì thế mà, tôi không thể hình dung chị.

Trong đời thường, tôi không có cơ hội giao tiếp quá nhiều với chị, để mọi nét đặc thù của một nhân dáng, một dung nhan, trở thành nhàm, nhạt.

Trong đời thường, tôi cũng không có quá ít cơ hội tiếp xúc với chị, để ở mức độ chẳng một ngưng đọng nào, khắc, rạch đậm nét trong tôi.

Nghe chị hát, từ những đĩa nhạc, tôi có thể hình dung chị, buổi sáng, thả bước chân đầu ngày trên đường phố Saigòn.

Nghe chị hát, từ những đĩa nhạc, tôi có thể hình dung chị, buổi trưa, rừng, cây, Hoa Thịnh Đốn.

Nghe chị hát, từ những đĩa nhạc, tôi có thể hình dung chị, buổi tối, ngọn đèn, quây quần, tình thân, California.

Hình ảnh nào, nơi người nữ, mang tên Quỳnh Giao, (vừa kể,) nổi tiếng từ khi còn rất trẻ, với tôi, vẫn là hình ảnh gần xa, bước ra từ âm nhạc.

Tôi muốn gọi, đó là hình ảnh của một Quỳnh Giao, nhạc sĩ...

Hình ảnh nào, nơi người nữ, mang tên Quỳnh Giao, (vừa kể,) từ rất sớm, đã có lấy cho riêng mình, một thổ ngơi, một phong cách, với tôi, cũng vẫn là hình ảnh gần xa, bước ra từ dương cầm, từ tiếng hát.

Tôi muốn gọi, đó là hình ảnh của một Quỳnh Giao, ca sĩ.

Nhưng, tôi thực sự bất lực. Tôi thực sự không thể hình dung, lúc một Quỳnh Giao nhạc sĩ, bước tới (và,) ngồi xuống, bàn viết.

Tôi không thể hình dung, hình ảnh chị, khi cúi xuống, những trang văn xuôi, truyện ngắn...

Tôi không thể hình dung, chị với những đoạn văn, viết về thảm kịch của sự bất phân chia giữa thân, tâm một nghệ sĩ; giữa tài năng và diện mạo: Hai mặt đối nghịch của đồng xu số kiếp!

Nhưng tôi cảm nhận được cái sóng sánh đến muốn trào, lăn của những rung cảm thầm kín nơi một Quỳnh Giao, nhà văn, qua văn xuôi.

Quỳnh Giao không chỉ hát như một ca sĩ đã thành danh, (mà,) Quỳnh Giao còn hát, như nhà văn đi tìm chân dung và, linh hồn mình, qua thi, ca, nữa.

Du Tử Lê 
                 Gửi Người Em Nhỏ - Tùy bút Hồng Thủy

Người em nhỏ của tôi tuổi không trẻ lắm, nhưng dáng dấp lúc nào cũng xinh xắn, mảnh mai như một cô nữ sinh.  Nàng có giọng nói thật trong, êm dịu, miệng cười có duyên và nói chuyện rất dí dỏm. Ở lứa tuổi hơn 7 bó của tôi, chắc chắn ai cũng biết nàng vì nàng là một trong những ca sĩ nổi tiếng của ban hợp ca Tiếng Tơ Đồng một thời vang bóng cùng với hai ca sĩ đàn chị Mai Hương, Kim Tước.

Ngoài giọng ca thiên phú, nàng còn là một giáo sư dậy Dương Cầm tốt nghiệp thủ khoa trường Quốc Gia Âm Nhạc Sài Gòn. Một điều rất đặc biệt về nàng mà không phải ai cũng biết, nàng là một nhà văn có tài, viết những bài tạp ghi về lãnh vực âm nhạc thật xuất sắc. Nhờ đọc cuốn tạp ghi của nàng mà cái đầu óc tờ lờ mờ về âm nhạc của tôi được mở mang và hiểu biết rất nhiều về các tài danh nổi tiếng của nền âm nhạc  thế giới và cả Việt Nam nữa. Những bài viết của nàng chứng tỏ sự hiểu biết rất sâu xa về âm nhạc với lối hành văn thật hay của một nhà văn có tài.

Nàng là ca sĩ Quỳnh Giao, ái nữ của Giáo sư Ưng Quả và ca sĩ thật nổi tiếng ngày xưa Minh Trang mà tôi được hân hạnh xưng hô thân mật là cô Minh Trang. Cô Minh Trang là người bạn nhỏ thân thiết của mẹ tôi. Tuy mẹ tôi lớn tuổi hơn cô, nhưng vì hai gia đình là hàng xóm ở Huế nên thời con gái mẹ tôi và cô Minh Trang rất thân thiết. Hai chị em hay rủ nhau đi ciné, đi dạo phố và hay tỉ tê tâm sự với nhau.   Không ai ngờ Cô Minh Trang lại ra đi trước mẹ tôi. Ngày được tin Cô Minh Trang mất, mẹ tôi cứ chép miệng nhắc đi nhắc lại "tội nghiệp cô, cô còn trẻ, còn khoẻ hơn mẹ nhiều. Lẽ ra Thượng Đế phải cho mẹ đi trước cô mới phải". Sau đó, mẹ lan man kể cho tôi những kỷ niệm đẹp của mẹ với cô. Cuối cùng mẹ kết luận một câu làm tôi ngạc nhiên hết sức: "cái cô em nhỏ này hư thật, dám đi trước chị mà không có một lời giã từ". Nói rồi nước mắt mẹ ứa ra.  Tôi phải ôm lấy mẹ vỗ về. "Hôm con gặp cô ở đám cưới Orchid Lâm Quỳnh, con gái Hạnh Tuyền vợ anh Du Tử Lê.  Cô hỏi thăm mẹ và cô nói cô phục và thương mẹ lắm.  Góa chồng còn quá trẻ mà ở vậy nuôi con".  Nói với mẹ xong tôi cũng chẩy nước mắt, nước mắt khóc cho cô Minh Trang và nước mắt khóc thương thân phận mẹ tôi.

Bây giờ xin trở lại chuyện hai chị em. Tuy hai bà mẹ thân thiết nhưng sau khi lập gia đình mỗi người phiêu bạt một ngả. Chiến tranh đã đẩy họ cách xa nhau, nên chúng tôi không có cơ hội gặp gỡ.  Cho tới khi qua Mỹ, tình cờ chúng tôi quen biết nhau ở buổi họp mặt của bạn bè. Chúng tôi quí mến nhau trước khi khám phá ra tình thân của hai bà mẹ. Thân thiết nhau rồi chúng tôi mới biết hai bà mẹ là bạn cố tri. Từ đó hai chị em lại càng quí mến nhau hơn. Chúng tôi có những ‘cái duyên’ với nhau rất lạ. Hai chị em sinh cùng ngày, cùng tháng. Dĩ nhiên là khác năm vì Quỳnh Giao trẻ hơn tôi.  Cả hai cùng thích mầu tím và tình cờ cùng chọn màu tím làm nền cho bìa tác phẩm đầu tiên của mình.

Cuốn Tạp Ghi của Quỳnh Giao và tuyển tập "Những Cánh Hoa Dại Mầu Vàng" của tôi đều có hình bìa mầu tím của mộng mơ. Tôi thích nghe Quỳnh Giao hát bài
Kỷ Niệm (Phạm Duy) và Đêm Mầu Hồng (Phạm Đình Chương & Thanh Tâm Tuyền), sau này tôi mới biết đó cũng là 2 bài hát mà Quỳnh Giao rất thích. Sau này Quỳnh Giao rời qua Cali, chúng tôi không còn cơ hội gần nhau nữa.  Quỳnh Giao ơi, chúng ta xa mặt nhưng không cách lòng.  Lúc nào chị cũng quí mến cô em nhỏ của chị và cầu chúc cho em mau khỏi bệnh và gặp những điều may mắn an lành.

                        ---------------------------
Bài tùy bút trên tôi đã viết trước khi Quỳnh Giao vĩnh biệt mọi người đúng 10 ngày. Tôi được tin Quỳnh Giao bị ung thư phổi rất trễ. Ngay khi biết tin, tôi đã điện thoại thăm mà không liên lạc được vì không có ai trả lời điện thoại. Tôi tìm cách liên lạc với cháu Bảo Cơ, con gái của Quỳnh Giao. Bảo Cơ cho tôi địa chỉ email của Quỳnh Giao và nói tôi cứ liên lạc với Quỳnh Giao bằng email vì Quỳnh Giao không trả lời điện thoại.
Tôi email thăm hỏi, an ủi và nói khoảng 14 tháng 7 tôi sẽ qua Cali dự Đại Hội Trưng Vương và muốn đến thăm.
Ngày hôm sau, tôi được trả lời bằng email với những dòng chữ thật dễ thương nguyên văn như sau:
Cám ơn chị đã hết lòng lo lắng, an ủi và thương em. Em cũng hy vọng khoa học bây giờ tiến bộ hơn và sẽ chữa được bệnh. Em không sợ chết mà chỉ sợ đau đớn thôi. Chị yên tâm nhé.
Thương,
QG


Không ngờ những dòng chữ đó lại là những dòng chữ cuối cùng QG gửi cho tôi. Tôi đi Cali ngày 14 tháng 7. Ngồi trên máy bay, nhớ đến Quỳnh Giao tôi đã viết vội bài tùy bút "Gửi người em nhỏ". Ngày đầu tiên đến Cali vợ chồng tôi được một nhóm bạn Hải Quân mời ăn tại nhà hàng Tài Bừu và gặp Hoàng dược Thảo, chủ báo SaiGon Nhỏ. Tôi nói với Thảo tôi có bài tùy bút viết trên máy bay, Thảo nói Thảo sẽ cho người đánh máy để đăng vào báo SaiGon Nhỏ. Nhưng vì có ý gửi Quỳnh Giao đọc trước xem Quỳnh Giao có muốn thay đổi gì không, rồi mới đưa cho Thảo. Tôi liền nhờ cậu con trai, đánh máy gấp rồi email cho Quỳnh Giao. Chờ mãi không thấy Quỳnh Giao trả lời. Tôi thắc mắc nói chuyện với ca sĩ Mai Hương, bạn thân của tôi và Quỳnh Giao, Mai Hương nói chắc là QG mệt nên trả lời chậm.
Ai ngờ đúng 10 ngày sau, Mai Hương gọi báo tin cho biết là Quỳnh Giao đã bỏ chúng tôi rồi.
Quỳnh Giao ơi, bây giờ chị lại bắt chước câu nói của mẹ chị để trách em đây: "cô em nhỏ của chị hư thật, dám bỏ chị đi trước mà không nói một lời từ giã".
Vĩnh biệt Quỳnh Giao thân yêu của chị. Mong đường em đi tới sẽ đầy niềm vui và hoa thơm cỏ lạ. Có gặp Cô Minh Trang cho chị gửi lời hỏi thăm và nói với Cô là  mẹ chị vẫn nhớ Cô lắm.

Hồng Thủy
                     Quỳnh Giao - Bài viết của: Nguyễn Long

Con gái lớn của nữ ca sỹ Minh Trang, người Huế giòng Tôn Thất, nên vóc dáng, nếp sống ngoài đời cũng như trên sân khấu, hình ảnh, dáng dấp Quỳnh Giao đã được các bạn và khán giả tặng danh hiệu “Nàng Công Chúa của Tân Nhạc Việt Nam”

Khuôn mặt trái soan, vóc dáng khoan thai dịu dàng, giọng hát trong như giòng suối, nhẹ nhàng thiết tha, truyền cảm, thủ khoa nhạc lý, piano khóa 63 & 64 trường Quốc Gia Âm Nhạc nên kỹ thuật rất vững vàng điêu luyện.

Quỳnh Giao trình diễn như diễn đạt hồn mình qua từng ca khúc, rất chọn lựa tác phẩm, khung cảnh để trình bày, thường trực trên các đài phát thanh, truyền hình, ít xuất hiện trên sân khấu, nhưng hình ảnh Quỳnh Giao “Nàng Công Chúa của Tân Nhạc Việt Nam” đã gây thành ấn tượng không thể phai mờ trong tâm khảm người Việt Nam. Tháng 8-70 Quỳnh Giao và các em thành lập ban “Tứ Ca Bốn Phương” trình diễn tại nhà hàng Ritz trên đường Trần Hưng Đạo của Jo Marcel, liên tục trong 6 tháng rất thành công. Gặp lại ngày 17-1-98, chụp hình và phỏng vấn Quỳnh Giao.

Hỏi: Thích nhạc từ bao giờ?
Quỳnh Giao: Từ nhỏ, nghe mẹ hát tối ngày mà.

Hỏi: Biết hát từ bao giờ?
Quỳnh Giao: Nhỏ xíu, bài “Reo Vang Bình Minh” của nhạc sỹ Lưu Hữu Phước, sau đó theo học trường Âm Nhạc, piano với bà Đỗ Thế Phiệt, nhạc lý với nhạc sỹ Hùng Lân, thủ khoa niên khóa 63 & 64 trường Quốc Gia Âm Nhạc về 2 môn Nhạc Lý & Piano.

Hỏi: Khởi đầu trình diễn?
Quỳnh Giao: 8 tuổi ban thiếu sinh nhi đồng trong Đại Nhạc Hội trình diễn tại rạp Moderne đường Trần Quang Thạch Tân Định, sau đó là các Đài Phát Thanh, sân khấu, phòng trà.

Hỏi: Sinh hoạt hiện thời trên sân khấu?
Quỳnh Giao: Xuất hiện trong những chương trình “Đặc biệt” yểm trợ thân hữu, cộng đồng, tôn giáo.

Hỏi: Hoạt động ngoài sân khấu?
Quỳnh Giao: Dạy Piano từ đó tới nay.

Hỏi: Ý nguyện?
Quỳnh Giao: Phục vụ hết đời cho âm nhạc, tiến triển, giữ gìn nghệ thuật.

Hỏi: Có điều chi tâm sự?
Quỳnh Giao: Cám ơn các bạn cùng khán thính giả, luôn nhớ tới Quỳnh Giao từ trên 30 năm nay, cảm ơn TRỜI đã cho cơ hội, cám ơn các nhạc sỹ đã sáng tác để ca sỹ có việc làm.

Nguyễn Long
(trích “88 Nữ Ca Sỹ Trong Nước Mỹ & Canada”. 1998)
 Giã biệt Quỳnh Giao - Nữ Ca/Nhạc/Văn sĩ đa tài (1946-2014)

"... Mấy năm trước Lê Huy có tổ chức đêm nhạc chủ đề Văn Phụng Phạm Đình Chương tại San Jose và mời ban tam ca Mai Hương Kim Tước Quỳnh Giao trình diễn. Lúc tiễn đưa ba người ra phi trường, tôi có dịp củng ngồi ăn phở chung nhưng không hiểu sao tôi lại không có một câu trò chuyện với Quỳnh Giao mặc dù đôi khi đóng vai nhà báo vẫn thích hỏi han mọi điều. Đó là lần duy nhất diện kiến.
Chiều  nay ghé nhà sách Tự Lực mua cuốn Tạp Ghi Quỳnh Giao. Đã có đọc phơn phớt từ nhà một người bạn nhưng bây giờ những dòng chữ trở nên đặc biệt hơn vì người viết vừa mới vĩnh viễn ra đi. Mở cuốn sách tình cờ ngay bài Vang Vang Trời Vào Xuân nói về thơ Thanh Tâm Tuyền, có mấy chữ " Mà Phạm Đình Chương không còn nữa, ông mất quá sớm khi vừa qua lục tuần" . Lòng tôi chợt nghĩ Quỳnh Giao mất ở tuổi sáu mươi tám như vậy có sớm không.
Là ca sĩ hát năm chục năm, là cao thủ dương cầm và những năm cuối đời nói chuyện phê bình ca nhạc cùng viết sách để trở thành văn sĩ, Quỳnh Giao quả thật là nữ nghệ sĩ đa tài và đóng góp nhiều vào sinh hoạt âm nhạc của Việt Nam. Giã biệt Quỳnh Giao với lòng mến phục và luyến tiếc."

                  
    Mời đọc: toàn bài viết của Trần Củng Sơn (pdf)
  Tản Mạn với Quỳnh Giao về Ca Khúc Việt Nam Trước 1975

"... Một đặc điểm nữa của những ca khúc trước 1975 là rất giàu cá tính. Nhiều nhạc sĩ tạo được màu sắc riêng trong những tác phẩm của mình. Giai điệu và lời của nhạc Trịnh Công Sơn như của một kẻ rong ca, không lẫn được với nhạc của ai khác. Ca khúc của Lê Uyên Phương đầy những tình cảm mãnh liệt của đôi uyên ương chưa muốn rời xa nhau. Nhạc Văn Phụng là nhạc của những người hạnh phúc, yêu đời… Những ca khúc đầy cá tính này lại còn được trình bày bởi những giọng ca cũng đầy cá tính nữa chứ. Chị Quỳnh Giao có cùng nhận xét với tôi là những ca sĩ trong nước bây giờ, giọng hát có thể rất điêu luyện, nhưng lại giống nhau quá! Chứ ngày xưa, từ Thái Thanh, Khánh Ly, Lệ Thu cho đến Thanh Thúy, Mai Lệ Huyền…, khán thính giả chẳng thể lẫn lộn được. Tại sao vậy? Bởi vì ca sĩ ngày xưa ít có ai được học hát trong những trường dạy thanh nhạc chuyên nghiệp. Họ tự nhiên hình thành giọng ca của mình. "
               Mời đọc: toàn bài viết của Đoàn Hưng (Doãn Quốc Hưng)
Trích bài "Quỳnh Giao ơi và Diễm ơi" của Nguyễn Xuân Thiệp

sinh nhật anh
vào một ngày tháng bảy
trong vườn. sói. và thơ


… tháng 7 còn có sinh nhật của Nguyễn Xuân Hoàng và Đinh Cường. Tưởng là tháng 7 vui nhưng trong niềm vui đã ươm sẵn mầm mống của nỗi buồn: bạn Nguyễn Xuân Hoàng đang trên con dốc tử sinh (từ của Ngô Thế Vinh). Trong hình chụp thấy Hoàng gầy yếu mà xót xa.Những ngày này còn có tin Hoàng nằm suốt, không bước chân ra khỏi phòng.Tháng bảy buồn còn vì sự ra đi của hai người trong chỗ tình thân: ca sỹ Quỳnh Giao và nhà văn/nhà báo Nguyễn Minh Diễm. Hai người ra đi cùng một ngày của tháng 7 này: ngày 23 tháng 7. 2014. Hôm nay, sau khi hai người bạn không còn nữa, mình ngồi nhớ lại những đoạn đời đã qua cùng những nỗi bi hoan của kiếp sống này.


Với Quỳnh Giao mình chỉ quen biết lúc đã sang Mỹ. Ngày xưa, trước 1975, ngồi làm việc trong Đài Quân Đội Sài Gòn thỉnh thoảng thấy Quỳnh Giao đi ngang qua (nàng vào hát trong một chương trình của Đài). Mình có cảm tình với Quỳnh Giao là qua dáng người rất thơ và tiếng hát sang trọng, quý phái của nàng. Thêm điều nữa: cũng như Hà Thanh, Quỳnh Giao là người Huế, sinh ở Vỹ Dạ nơi có Vương Phủ của kẻ này.Thế nhưng, như mây trời trôi đi nắng không bến đỗ, phải đợi khi sang tới Mỹ mới quen biết Quỳnh Giao. Cũng không nhớ là khởi đầu từ đâu nữa. Có lẽ từ mình làm báo Phố Văn và gặp ở nhà Nguyễn Mộng Giác hay gặp khi đi nghe một chương trình nào đó có Quỳnh Giao hát. Hồi viết báo Phố Văn, cách đây đã mươi năm rồi, trong mục Tản Mạn Nguyễn đã viết về ngôi nhà thờ con gà Đà Lạt, nhân đó nhắc tới một cuộn phim đã xem thời còn trẻ là cuốn Les Dimanches de Ville d’ Avray (Những Chủ Nhật ở Ville d’Avray). Trong phim này có cảnh anh chàng Pierre vì thương và chìu ý cô bé mồ côi Cybèle, đêm Giáng Sinh đã trèo lên đỉnh tháp nhà thờ cao vút lấy con gà bằng sắt xuống cho cô bé. Trong bài viết của Nguyễn có một chi tiết sai: Nguyễn nói Pierre là một anh chàng thất nghiệp lang thang. Quỳnh Giao đọc được bài này, liền viết thư cho Nguyễn, nói: Anh chàng Pierre là cựu sĩ quan không quân chiến đấu ở chiến trường Đông Dương. Trong một phi vụ gặp nạn, đã tìm cách đáp xuống một khu làng, và trong hoảng loạn đã lỡ giết chết một bé gái. Từ đó Pierre bị ám ảnh bởi cảnh hãi hùng xảy ra, rơi vào trạng thái tâm thần chấn động và mất một phần trí nhớ (chứng amnesia). Giải ngũ trở về, gặp bé gái Cybèle mồ côi mẹ bị cha bỏ vào ký túc xá rồi quên luôn. Pierre tự xưng là cha của Cybèle, mỗi chủ nhật tới lãnh bé ra đi chơi.

Trí nhớ và sự hiểu biết của Quỳnh Giao thật tuyệt vời. Từ đó, tình bạn với Quỳnh Giao ngày càng sâu đậm. Gặp dịp Hiệp Hội Truyền Thông Báo Chí ở Dallas mở Festival Văn Hóa, Nguyễn thay mặt anh em mời một số đông văn nghệ sĩ quen biết tới tham dự. Thử nhớ lại xem, này nhé, có Trần Mộng Tú, Phạm Xuân Đài, Phan Xuân Sinh, Lậm Chương, Nguyễn Trọng Khôi. Nguyễn Ước, Trần Doãn Nho, Trần Trung Đạo, Ngu Yên & Ngọc Phụng và Nguyên Thảo, Hoàng Xuân Sơn, Hải Phương & Queen, Ninh Hạ Nguyễn Đức Tâm, vợ chồng Triều Hoa Đại, Trần Nghi Hoàng và Hoàng Thị Bích Ti, nhà thơ Trần Thị Hà Thân… Dịp này, Quỳnh Giao đi cùng Lê Uyên và Nguyễn Đình Toàn tới. Đó là vào tháng 10 năm 2005. Ngồi ăn bún bò trong quán Tây Đô, Quỳnh Giao nói vui với mọi người: mới đó mà mình đã gần sáu bó. Nghe ai cũng ngạc nhiên vì Quỳnh Giao trông còn trẻ quá.Trong buổi văn nghệ, Quỳnh Giao hát và độc tấu dương cầm. Hình ảnh Quỳnh Giao nổi bật trên sân khấu.Cả mình và Ninh Hạ Nguyễn Đức Tâm được dịp nói tiếng Huế với Quỳnh Giao. Vui thiệt là vui.
                  
                                 Quỳnh Giao và Trần Mộng Tú ở Festival Văn Hóa Dallas 2005

Nhưng hỡi ơi ngày vui ngắn chẳng tày gang (xin lỗi phải dùng tới sáo ngữ mới thấy thấm thía). Kể từ buổi đó không có dịp gặp lại Quỳnh Giao nữa, chỉ thỉnh thoảng gọi điện thăm và gởi tặng sách báo, CD cho nhau. Rồi như sét đánh giữa trời quang mây tạnh, tin buồn tới với bạn bè anh em, trong đó có Đinh Cường, Hải Phương, Nguyễn Trọng Khôi và kẻ này cùng nhiều người nữa: Quỳnh Giao ra đi vào sáng sớm ngày 23 tháng 7. 2014. Thế là chỉ trong một thời gian ngắn, chúng ta mất đi hai ca sĩ tiêu biểu của bầu trời xứ Huế: Hà Thanh và Quỳnh Giao. Mấy hôm nay, trong ánh nắng rực rỡ của mùa hè mà lòng mình cứ chùng xuống. Thỉnh thoảng nhớ tới bạn, đi  tìm lại các CD có giọng hát Quỳnh Giao và lục tìm trên lưới những âm thanh và hình ảnh gợi lại một vùng đất vùng trời. Trong số những ca khúc Quỳnh Giao hát, mình đặc biệt yêu thích hai bài: Hình Ảnh Một Buổi Chiều và Hoàng Hạc Lâu. Ôi, vàng tung cánh hạc bay bay khuất / Trắng một màu mây vạn vạn đời… Xin chia tay cánh hạc vàng của nền âm nhạc Việt Nam.
                    
                                            Quỳnh Giao trên sân khấu Festival Văn Hóa Dallas 2005
               
                                     Vĩnh biệt Nghệ sĩ Quỳnh Giao - Phượng Hoàng giới thiệu (SBS Úc Châu)
                  Quỳnh Giao, người nghệ sĩ chuyển tải cái đẹp của âm nhạc nghệ thuật đến cho chúng ta 
                                            MP3                   Youtube (Vọng Ngày Xanh thực hiện)
                                                 
                Tưởng Niệm Quỳnh Giao - Thụy Vi biên soạn - Đài Phát Thanh Việt Nam tại Oklahoma/Atlanta
                                                             
     Chương trình phát thanh "Nhạc Chủ Đề giới thiệu Quỳnh Giao" do Duy Trác thực hiện - VOVN Houston TX - 2004
                                              MP3              Youtube  (Vọng Ngày Xanh thực hiện)
Ca sĩ Duy Trác, một giọng hát hàng đầu của tân nhạc Việt Nam trước 1975 nhận định như sau trong chương trình nhạc chủ đề ở trên:
"Một thi sĩ có định nghĩa như thế này: 'Tiểu sử của một nhà thơ là thơ của người ấy, kỳ dư chỉ là chú thích'. Đối với một ca sĩ, có lẽ cũng không có gì khác. Ngoài tiếng hát, tất cả những gì liên quan tới tiếng hát chỉ là những lời nói thêm. Vậy thì, chúng ta hãy trở lại với tiếng hát Quỳnh Giao và những gì người nghe nhận được từ tiếng hát ấy:
Quỳnh Giao hát rõ ràng, thoải mái, có vẻ như cô không cần đến môt sự cố gắng nào khi hát. Sự hòa nhập của Quỳnh Giao đối với những bài mình hát là một sự hòa nhập được đắn đo hẳn hoi. Hình như khi hát Quỳnh Giao còn muốn khẳng định sự tách rời giữa tiếng hát, bài hát và người nghe, dù đó là một sự liên hệ hỗ tương. Cái khoảng cách cần thiết, sự thật thì người ta cũng chẳng thể nào xóa bỏ được và chỉ khi nào người ta ý thức rõ ràng như thế, việc thưởng thức mới thật sự nghiêm chỉnh."
                                          
                                    Ký Giả Dương Phục của Radio Saigon Houston thực hiện
                           Vĩnh biệt Ca Sĩ Quỳnh Giao (qua cuộc phỏng vấn 15 năm trước)                           
  Trích từ bài "Vĩnh Biệt Ca Sỹ Quỳnh Giao" của đài BBC - 5 tháng 8, 2014
                                
....

Viết báo và làm phát thanh

Năm 1997 Quỳnh Giao thực hiện cho ban Việt ngữ đài BBC chương trình "Suối Nguồn Tân Nhạc Việt Nam".

Được phát thanh hàng tuần qua 20 buổi, chương trình thuộc loại "nhạc sử" vì nói về 60 năm tân nhạc cải cách Việt Nam từ thời phôi thai năm 1938 đến sau này.

Quỳnh Giao phân đoạn theo thời gian, theo thể tài và đọc lời giới thiệu với phần minh diễn của các ca sĩ và phần phát biểu của nhiều nhạc sĩ.

Nhờ nội dung phong phú và nhạc hiệu là bản Bến Xuân của Văn Cao do chính Quỳnh Giao diễn tả, Suối Nguồn Tân Nhạc được thính giả yêu thích nên là một trường hợp hiếm hoi được BBC cho phát lại lần thứ hai.

Nguyên nhân sâu xa nữa sẽ được hiểu ra sau này là Quỳnh Giao có ký ức rất sâu, đã sống với tân nhạc từ bé, gần gũi với các nhạc sĩ và ca sĩ như trong một đại gia đình nên nắm vững hoàn cảnh ra đời của từng ca khúc.

Người ta thấy được điều này khi đọc Quỳnh Giao.

Quỳnh Giao viết về nhạc thì cũng như kể chuyện về các nghệ sĩ bằng hữu của thân mẫu.

Nhưng kiến thức sâu sắc về nhạc và về kỹ thuật trình bày còn giúp người đọc nhớ lại và có sự thưởng ngoạn cao hơn với từng tác phẩm, từng tác giả hay người trình diễn.

Quỳnh Giao cộng tác với giai phẩm Xuân của Việt Báo và nhật báo Người Việt trong mục "Tạp Ghi" với những bài định kỳ mỗi tuần và trên Người Việt kể từ năm 2005, đến nay đã có gần 500 bài.

Không chỉ đọc Quỳnh Giao, người ta còn nghe thấy tiếng nói thanh quý rất ăn micro của người nghệ sĩ.

Những ai còn nhớ tới Quỳnh Giao trong chương trình Suối Nguồn Tân Nhạc năm xưa trên làn sóng đài BBC tìm lại được tiếng nói đó qua mục Vòng Chân Trời Văn Học Nghệ Thuật với nhà báo Lê Đình Điểu của đài phát thanh VNCR.

...
Các chương trình bằng âm thanh của BBC Tiếng Việt gồm cả 'Suối Nguồn Tân Nhạc Việt Nam' hiện được lưu trữ dạng kỹ thuật số (digital archives) ở London và Đại học Stanford, Hoa Kỳ.
                                                Mời đọc toàn bài viết (pdf)
                         Một số ca khúc do Quỳnh Giao trình bày
                                           
15 nhạc phẩm do Quỳnh Giao trình bày (youtube) - Jonathan Tran thực hiện
Ly Rượu Mừng (Phạm Đình Chương) - Jo Marcel và Ban Bốn Phương (Quỳnh Giao,Vân Quỳnh,Vân Hòa,Vân Khanh)
Xuân và Tuổi Trẻ (La Hối) - Quỳnh Giao 1971 - Youtube: Jonathan Tran
Huyền (Thanh Trang) - Quỳnh Giao - Ban Tiếng Nhạc Tâm Tình trước 1975
Những Nụ Gai Mòn (Trần Trịnh-Hà Huyền Chi) -Quỳnh Giao & Ban Bốn Phương - Youtube: Jonathan Tran
Áng Mây Chiều (Dương Thiệu Tước) - Quỳnh Giao
DVD "Đêm NGÀN KHƠI, Hội Trùng Dương, Mười Năm Lưu Niệm" (1992)
Thuở Ban Đầu (Phạm Đình Chương) - Quỳnh Giao - Video "Mộng Dưới Hoa" - AuVi Productions 1991
Nhớ Bạn (Vũ Thành) - Quỳnh Giao - Hòa âm & điều khiển dàn nhạc North Orange Symphony Orchestra: Lê Văn Khoa
Ra Đi Khi Trời Vừa Sáng (Phạm Đình Chương) - Kim Tước-Mai Hương-Quỳnh Giao-Anh Ngọc-Hoài Trung-Hoài Bắc 
Xóm Đêm (Phạm Đình Chương) - Kim Tước- Mai Hương- Quỳnh Giao
Tiếng Chuông Chiều Thu (Tô Vũ) - Quỳnh Giao - PPS: Liên Như
Sầu Dĩ Vãng (Quizas, Quizas - Osvaldo Farrés) Lời Việt: Minh Trang- Thái Thanh, phụ họa: Quỳnh Giao
Nắng Chiều (Lê Trọng Nguyễn) - Hùng Cường với phụ họa của Quỳnh Giao - Youtube: Jonathan Tran
Trăm Nhớ Ngàn Thương (Lam Phương) - Quỳnh Giao & Ban Bốn Phương - Youtube: Jonathan Tran
 
Bướm Hoa (Nguyễn Văn Thương) - Quỳnh Giao
Bạn Cùng Tôi (Dương Thiệu Tước) -Duy Trác & Quỳnh Giao - PPS: Liên Như
Lòng Ta Ở Với Người (Trần Dạ Từ) - Quỳnh Giao & Trần Đại Phước
Nhớ Sài Gòn (Phạm Anh Dũng) - Quỳnh Giao - Hòa âm và dương cầm: Vũ Tuấn Đức (1993)
Bài Hát Mùa Xuân (Thanh Trang) - Quỳnh Giao
Hình Ảnh Một Buổi Chiều (Lâm Tuyền) - Quỳnh Giao
Mưa Sài Gòn, Mưa Hà Nội (Phạm Đình Chương, thơ: Hoàng Anh Tuấn) - Kim Tước, Mai Hương, Quỳnh Giao
Thiên Lý Bên Đời Vẫn Ngát Hương (Thanh Trang) - Quỳnh Giao
Giấc Mơ Hồi Hương (Vũ Thành) - Quỳnh Giao. Hòa âm và đệm do ban nhạc đàn dây của nhạc sĩ Hoàng Lang. Bản ghi âm trước 1975 tại đài phát thanh Sài Gòn
Thiên Thai (Văn Cao) -Anh Ngọc-Mai Hương-Kim Tước-Quỳnh Giao & The Quintet Of Mozart Institute Of Music in Houston.Texas - Clear Lake University.1992
              
                                  
 Ca sĩ Quỳnh Giao hát: "Màu Tím Hoàng Hôn" - Nhạc: Lê Trọng Nguyễn; lời: Nguyễn Hiền - (Nhạc sĩ Nguyễn Hiền đàn accordeon)
                                   
                                  Ca sĩ Quỳnh Giao hát:  SAO ĐÊM (nhạc & lời: Lê Trọng Nguyễn)
      
                                                    Đồng Ca "Ngày Mai Trời Lại Sáng"                              Từ trái: Thanh Hùng, Trương Minh Cường, Vũ Trung Hiền, Xuân Thu,
                         Quỳnh Châu, Quỳnh Giao, Mai Hương, Bà Lê Trọng Nguyễn, Phạm Anh Dũng

                           (Nguồn: Tưởng nhớ Nhạc sĩ Lê Trọng Nguyễn - website Cỏ Thơm)               
                                      
         Mời nghe toàn bộ "Tình Khúc Văn Phụng & Hoàng Trọng" do Quỳnh Giao trình bày
1. Chán Nản (Nhạc: Văn Phụng 1972)
2. Nhạc Sầu Tương Tư (Nhạc: Hoàng Trọng và Hoàng Dương 1953)
3. Tiếng Hát với Cung Đàn (Nhạc: Văn Phụng 1972)
4. Tìm Một Ánh Sao (Nhạc: Hoàng Trọng 1962)
5. Mưa trên Phím Ngà (Nhạc: Văn Phụng và Thanh Nam 1959 - Huỳnh Nhật Tân viết phỏng theo hòa âm của Văn Phụng)
6. Bạn Lòng (Nhạc: Hoàng Trọng & Hồ Đình Phương 1956) Song ca với Nguyễn Thành Vân
7. Nỗi Buồn (Nhạc: Văn Phụng)
8. Một thuở yêu đàn (Nhạc: Hoàng Trọng 1961)
9. Suối Tóc (Nhạc: Văn Phụng và Thy Vân 1956 - Huỳnh Nhật Tân viết phỏng theo hòa âm của Văn Phụng)
10. Tình Trăng (Nhạc: Hoàng Trọng & Hồ Đình Phương 1957) 
 Quỳnh Giao Với "Tình Khúc Phạm Duy" & "Trở Về Thôn Cũ"

Trong số các ca sĩ của chúng ta, nổi tiếng ở trong nước từ trước 1975, ra khỏi nước sau 1975, vẫn còn tiếp tục hát, có lẽ Quỳnh Giao là người ít tuổi nhất.

Nhưng, trong buổi trình diễn chung mới đây, nhân dịp kỷ niệm 50 năm hát của Mai Hương, trước số khán giả đông nghẹt hội trường của nhật báo Người Việt, Kim Tước đã nói một câu hài hước rằng, ban hợp ca “Tiếng Tơ Ðồng” của họ, [gồm Kim Tước, Mai Hương, Quỳnh Giao], nay có thể gọi là ban “Tiếng Tơ Bạc” được rồi. Ðiều ấy, cũng có nghĩa là cái người ít tuổi nhất kia giờ cũng không còn trẻ nữa.

Song phải thấy Quỳnh Giao đứng trên sân khấu, nói chuyện, ứng phó với khán giả, với thái độ chững chạc - mới thấy “tuổi tác” có cái đẹp riêng. Chẳng hạn khi xuất hiện trong một tiết mục [sau] - bận một bộ đồ mới, màu vàng điểm hoa hơi sặc sỡ với một chiếc khăn cùng màu “rất điệu” vắt ngang trên tóc, khán giả cười ồ. Quỳnh Giao đã quay xuống hỏi: “Có phải quý vị cười vì Quỳnh Giao thay áo không”. Thay áo? Thật khéo. Câu nói đã lấy được hết cảm tình của khán giả. Tự nhiên người ta quên cả cách ăn mặc chỉ trước đó vài phút có thể người ta cho là hơi “xí xọn” giờ lại thấy nó có vẻ gì đó duyên dáng!

Có những tiếng hát, nghe rồi, khi gặp người hát, người ta có cảm tưởng, giữa người hát và tiếng hát, có một cái gì đó sai lạc.

Tiếng hát Quỳnh Giao hợp nhất với khuôn mặt và cả vóc dáng người hát.

Nghe và xem Quỳnh Giao hát, người ta có thể thấy ngay rằng, người như thế ắt tiếng hát phải như thế.

Mong manh. Trong sáng. Dịu dàng.

Có người cho rằng giọng hát Quỳnh Giao hơi mỏng.

Ðó là điều người ta có thể thích hay không thích.

Nhưng cái vẻ sang trọng và kỹ thuật điêu luyện của tiếng hát thì không ai có thể phủ nhận được.

Hai CD sau cùng vừa hoàn tất của Quỳnh Giao “Trở Về Thôn Cũ” và “Tình Khúc Phạm Duy” ghi dấu sự đổi thay thật sự của giọng hát Quỳnh Giao.

Như trái đã đủ chín, rượu đã đủ nồng.

Không phải chỉ vì ảnh hưởng của thời gian mà còn do những đổi thay, vui buồn của cuộc sống làm nên nữa.

Tiếng hát khoan thai hơn, dịu dàng hơn.

Người ta càng thấy rõ cái vẻ mỏng manh của giọng hát Quỳnh Giao vừa là khuyết điểm vừa là ưu điểm.

Nó không chuyên chở được những đam mê bốc cháy, nhưng lại làm cho người ta hiểu được cái đẹp, cái mong manh của đời sống.

Tham dự buổi trình diễn kỷ niệm 50 năm hát của Mai Hương, có sự tham dự của Quỳnh Giao và Kim Tước người ta ghi nhận hiện tượng này: Thính giả của họ là những thính giả đặc biệt, dù đông đảo như thế, nhưng hình như không có một người nào dưới 40 tuổi. Nhiều nhất vẫn là những người ở quanh tuổi với người hát.

Thật cảm động khi thấy quanh những hàng ghế khán giả, giữa những mái đầu hoa râm, và cả bạc trắng nữa, luôn có những tiếng lẩm nhẩm hát theo ca sĩ.

Họ thuộc gần hết các bài ca sĩ hát.

Ca sĩ hát sai cho dù chỉ một từ trong phần lời ca chắc chắn đủ gây cho họ sự khó chịu.

Họ đến đấy không phải chỉ để nghe hát mà còn muốn chia xẻ với người hát và cả tác giả nữa cái hay, cái đẹp của tác phẩm, những tang thương biến đổi của lịch sử, vì những tác phẩm ấy đã nằm sâu trong lòng họ, nhắc lại với nhau một quá khứ chung đã mất và những ngày còn lại.

Họ đến đấy để gặp lại nhau và cả để biệt nhau nữa. Như người xưa tới thăm hoa và biệt hoa vì hiểu rằng “thất thập tam nhân nan tái đáo”, một người 73 tuổi khó còn có lần trở lại...

Người hát, người nghe và một số tác giả, đã cùng tạo ra một thế giới riêng, có thể như thế.

Cái thế giới đó đã khô cạn, người đã chết, cảnh đã thay đổi, đã biến mất, tình cảm xa lạ, không có gì hấp dẫn và dính dấp với họ, họ nhập vào đấy để làm gì?

Ðó là một thực tế.

Chấp nhận thực tế ấy là chấp nhận một sự đứt rời với quá khứ.

Nhưng nếu các tác phẩm ấy rồi vẫn sẽ còn tồn tại, như nó từng tồn tại, và “người sau” có lúc chợt thắc mắc tự hỏi không biết “người xưa lưu luyến ra sao nhỉ”, họ có thể tìm và nghe lại Quỳnh Giao, để hiểu điều đó và để biết người đồng thời yêu và trình diễn những tác phẩm ấy thế nào.

Vì, Quỳnh Giao là một trong những người đáng tin cậy đấy.


Nguyễn Ðình Toàn
                    
                        Mời nghe toàn bộ CD "Trở Về Thôn Cũ" với tiếng hát Quỳnh Giao
                 
                Mời nghe toàn bộ CD "Tình Khúc Phạm Duy" với tiếng hát Quỳnh Giao


   Trích bài "Nhạc trưởng Vũ Thành và tôi" của Lê Văn Khoa - (San Diego, 25-11-1987)
                               
                                      Vũ Thành                               Lê Văn Khoa

Nhạc sĩ Vũ Thành rất kỹ với tác phẩm của mình nhưng cởi mở hơn nhạc sĩ Hùng Lân. Nhiều người biết rõ ông Vũ Thành rất trọng âm nhạc và khắt khe đối với chính bản thân mình như thế nào. Ðiều đó làm cho Quỳnh Giao thận trọng khi trình bày bài Nhặt Cánh Sao Rơi của ông. Nói cách khác Quỳnh Giao kính trọng nhạc sĩ Vũ Thành nên không muốn đàn đệm qua loa. Cô yêu cầu tôi viết phần piano cho tác phẩm này. Nhờ biết tài của tác giả cũng như người trình diễn, tôi phóng bút viết thoải mái. Dù vậy tôi vẫn có ý muốn cùng duyệt lại với nhạc sĩ Vũ Thành. Gặp ông trong chương trình Xuân Họp Mặt của Kim Tước ở Santa Ana hồi đầu năm nay, ông hứa trong vài hôm sẽ xuống San Diego chơi với tôi, nhưng vì bệnh thình lình ông không xuống được. Tôi gửi bài qua ông. Ông viết thư đáp lại như sau:

    Takoma Park, ngày 8-6-1987
    Thân gửi anh Khoa,

    Tôi vừa nhận được bản Piano “Nhặt Cánh Sao Rơi”.

    Rất cảm động thấy anh đã viết phần đệm công phu và rất hay. Giá tôi có tự viết chưa chắc đã kỹ được như thế. Ðủ thấy anh quý tôi rất nhiều. Xin thâm tạ tấm thịnh tình đó.

    Hôm tôi qua California, có gọi Dương (cụ Ðào Hữu Dương, anh họ của nhạc sĩ Vũ Thành) mấy lần mà không được. Ðịnh bụng gọi được ông Dương rồi sẽ gọi anh. Rồi bất chợt bị ốm quá không kịp chào ai cả xách khăn gói về Washington ngay. Tôi vốn không phải là pianist nên không hiểu bản anh viết có khó lắm không nhưng trông bộ chắc Quỳnh Giao tập cũng khước mới đánh được. Chưa được Quỳnh Giao cho nghe, khả năng thẩm định bằng mắt không được bén nhạy lắm nên không dám phê bình sát. Chỉ biết accord hay và phần basse rất cẩn thận đi mouvement contraire rất tài. Chắc vài hôm nữa thì sẽ được Quỳnh Giao cho nghe. Ðộ tháng Novembre hay đúng hơn cuối Décembre tôi lại sang California, sẽ gặp anh hàn huyên nhiều.

Xin thân nhiệt chúc anh chị và các cháu mạnh. Hẹn sẽ gặp lại.

Thân mến,
Vũ Thành


Ðây là bức thư ngắn nhất của nhạc sĩ Vũ Thành gửi cho tôi. Ý tứ không được mạch lạc, nét chữ càng gần cuối thư càng tháu, khó đọc, chứng tỏ ông không được khỏe tuy ông không đề cập đến.

Bài Nhặt Cánh Sao Rơi Quỳnh Giao đã thu băng. Quỳnh Giao đàn xuất sắc và hát thật hay. Ông Vũ Thành rất hài lòng. Gần ngày lâm chung, Quỳnh Giao đến thăm, ông còn thều thào hát lên những chỗ Quỳnh Giao hát mà ông thích nhất. Ðiều đó chứng tỏ ông sống trọn vẹn trong âm thanh và gạt bỏ mọi sự khác ra ngoài cuộc đời.

    Quỳnh Giao đàn và hát "Nhặt Cánh Sao Rơi" - với lời giới thiệu của Dương Ngọc Hoán và ca sĩ Kim Tước (1988)
              
        Quỳnh Giao đệm đàn "Nhặt Cánh Sao Rơi" cho ca sĩ Kim Tước hát 1992 Houston, Texas (youtube)

    "Câu Chuyện Văn Nghệ với Quỳnh Giao" ở Người Việt TV
           Với sự cộng tác của Nam Phương và Lê Hồng Quang. Mời quý vị xem vài youtube tiêu biểu:
                             
                                    Composer Lê Văn Khoa và Đêm Nhạc A Lifetime of Music
                                        Thơ Hồ Đình Phương trong nhạc của Hoàng Trọng
                                                   Đề tài Hoa trong tân nhạc Việt Nam
                                                    Tưởng Nhớ Nhạc sĩ Nhật Ngân
                                                      Đôi Nét về Ca sĩ Hà Thanh
                             

                                  
                       Mời nghe toàn bộ CD "Hoa Xuân"  do Quỳnh Giao trình bày
1. Dưới Giàn Hoa Cũ (Tuấn Khanh)
2. Hoa Xuân (Phạm Duy)
3. Cùng Một Kiếp Hoa (Võ Đức Phấn)
4. Ngọc Lan (Dương Thiệu Tước)
5. Nụ Tầm Xuân (Phạm Duy)
6. Mùa Hoa Phượng (Văn Hạnh và Lê Đô)
7. Thiên Lý Bên Đời Vẫn Ngát Hương (Thanh Trang)
8. Hoa Tiên (Phạm Duy)
9. Bướm Hoa (Nguyễn Văn Thương)
10. Hoa Mai (Canh Thân)

       
     Ra Mắt Tạp Ghi Quỳnh Giao: Ca Sĩ Viết Về Âm Nhạc
                                             (Nguồn: http://www.vietbaọ.com - 24/10/2011)

WESTMINSTER (VB) - Khoảng 300 văn thi hữu, đại diện các cơ quan truyền thanh, truyền hình, báo chí, bằng hữu và đồng hương đã tham dự buổi ra mắt cuốn Tạp Ghi Quỳnh Giao tại phòng sinh hoạt Nhật Báo Người Việt, trên đường Moran, thành phố Westminster, California, Hoa Kỳ, vào chiều Chủ Nhật, ngày 23 tháng 10 năm 2011.
Hội Trường Người Việt không còn chỗ để đặt ghế, nhiều người đến sau đã phải đứng lan ra các lối đi. Dù vậy nhiều người vẫn vui vẻ đứng theo dõi các tiết mục của buổi ra mắt cuốn Tạp Ghi Quỳnh Giao từ đầu đến cuối.
Buổi chiều mùa thu tại miền Nam Cali với khí hậu mát dịu và không nắng gắt như mấy ngày trước bổng trở nên thơ mộng và nồng ấm với những tiếng hát vượt thời gian của các đồng nghiệp của ca sĩ Quỳnh Giao như Kim Tước, Mai Hương, Lê Hồng Quang, Phạm Hà qua các ca khúc Áng Mây Chiều của Dương Thiệu Tước, Chiều Tím của Đan Thọ, Kiếp Nào Có Yêu Nhau của Phạm Duy và Hình Ảnh Môät Đêm Trăng của Văn Phụng.
Trong số những văn thi hữu tham dự có những nhà văn, nhà thơ tên tuổi trong văn đàn Việt Nam như nhà văn Doãn Quốc Sỹ, nhà văn Nhã Ca, nhà thơ Trần Dạ Từ, nhà thơ Đỗ Quý Toàn, nhà văn Nguyễn Đình Toàn, nhà văn Phạm Xuân Đài, sử gia Tạ Chí Đại Trường, nhà văn Huy Phương, nhà báo Nguyễn Xuân Nghĩa, diễn viên kịch trường Lê Tuấn, v.v… Nhà báo Đinh Quang Anh Thái phụ trách phần điều hợp chương trình với tài chọc cười cử tọa rất vui nhộn.
Nhà báo Nguyễn Xuân Nghĩa, phu quân của ca sĩ Quỳnh Giao, mở đầu buổi ra mắt sách với lời tâm tình của một ông Quỳnh Giao đóng vai trò yểm trợ tích cực cho phu nhân bằng tất cả mọi điều làm được từ góp ý cho tác phẩm đến sửa soạn cho buổi ra mắt sách.

Nhà văn Phạm Xuân Đài, Chủ Bút Tạp Chí Thế Kỷ 21, trong phần giới thiệu cuốn Tạp Ghi Quỳnh Giao, nói rằng độc giả có cảm nhận khác nhau khi đọc những bài tạp ghi hàng tuần trên Nhật Báo Người Việt với đọc cuốn sách. Theo nhà văn Phạm Xuân Đài cuốn Tạp Ghi này viết về âm nhạc. Nhà văn Phạm Xuân Đài cho rằng Quỳnh Giao được sống và trưởng thành trong môi trường âm nhạc từ gia đình với vai trò là con của nghệ sĩ Minh Trang đến sân khấu ca nhạc trong và ngoài nước cho nên, tạp ghi viết về âm nhạc là sự lựa chọn đúng. Nhà văn Phạm Xuân Đài nhận định rằng Quỳnh Giao nhờ có kiến thức và kinh nghiệm chuyên môn và bằng tâm hồn mẫn cảm với âm thanh cộng với tài viết lách nên đã có thể khắc họa được từng nhân vật của thế giới âm nhạc.

Nhà văn Huy Phương, cũng là người phụ trách mục tạp ghi trên báo Người Việt, phát biểu về tác giả Quỳnh Giao và Tạp Ghi. Huy Phương kể rằng ông quen biết Quỳnh Giao từ thời ấu thơ, trên 60 năm trước, vì cùng ở Huế. Ông nói rằng chưa thấy ai là ca sĩ mà nói về văn chương lâu bền như Quỳnh Giao. Ông cho rằng viết tạp ghi không dễ tí nào cả, bởi vì phải viết đều đặn để đúng ngày giờ cho số báo. Ông nêu ra 2 điểm độc đáo của Quỳnh Giao là người sinh trưởng ở Huế mà không biết nói giọng Huế và có tính ca sĩ mạnh hơn nhà văn.

Trong phần phát biểu, nhà văn Nguyễn Đình Toàn kể lại mối giao tình và quen biết Quỳnh Giao qua gia đình của nhạc sĩ Dương Thiệu Tước. Theo nhà văn Nguyễn Đình Toàn, trong Tạp Ghi, Quỳnh Giao đề cập đến nhiều vấn đề chứ không phải chỉ là âm nhạc, dù âm nhạc được nói đến nhiều nhất. Nhà văn Nguyễn Đình Toàn cũng nhân đấy kể một vài kỷ niệm mà ông có với Quỳnh Giao trong vòng 40, 50 năm nay. Nhà văn Nguyễn Đình Toàn kết thúc phần phát biểu bằng một khẳng định rằng Quỳnh Giao viết hay hơn là hát.

Kịch sĩ Lê Tuấn, trong lời phát biểu cho biết ông nghe Quỳnh Giao hát từ lúc còn bé và ông cũng đã đọc 40, 50 bài viết của Quỳnh Giao trước khi đọc Tạp Ghi này. Ông cho rằng trong Tạp Ghi, Quỳnh Giao rất cẩn trong trong từng chữ, từng câu. Ông nói rằng sách của Quỳnh Giao kén người đọc cũng giống như nhạc Quỳnh Giao kén người nghe vậy.

Quỳnh Giao, trong phần phát biểu cảm tưởng với tư cách là tác giả của Tạp Ghi, đã trịnh trọng bày tỏ niềm biết ơn sâu xa và kính dâng tác phẩm cho thân phụ là Cụ Ưng Quả, thân mẫu là cụ Minh Trang, và kế phụ là nhạc sĩ Dương Thiệu Tước vì nhờ huyết thống tinh tuý của cha mẹ mà bà có được cái tên Quỳnh Giao như hôm nay. Quỳnh Giao cũng nói lời cám ơn đến các diễn giả, các đồng nghiệp ca sĩ, tòa soạn báo Người Việt, phu quân Nguyễn Xuân Nghĩa, và tất cả bằng hữu đã đến tham dự buổi ra mắt Tạp Ghi.

Sau cùng, như thay cho lời cám ơn bằng hành động quý giá, Quỳnh Giao đã mời ca sĩ Kim Tước, Mai Hương, là 3 ca sĩ trong Ban Nhạc Tiếng Tơ Đồng lên sân khấu để trình bày ca khúc Hình Ảnh Một Đêm Trăng, nhạc của Văn Phụng.
                              
                                                          Quỳnh Giao ký tặng sách
                                        
       Nhà báo Nguyễn Xuân Nghĩa, phu quân của ca sĩ Quỳnh Giao, mở đầu buổi ra mắt sách với lời tâm tình ...  
                                        
                                                    Quỳnh Giao và nhà văn Doãn Quốc Sỹ 
          
          Mai Hương, Lê Tuấn, Quỳnh Giao ...                                       Quang cảnh buổi ra mắt sách
                          
                                             Xướng ngôn viên Nhã Lan & Quỳnh Giao
                           Tường thuật của Người Việt Quốc Gia TV FreeVN.net (youtube)
 
                         Tôi Đọc Tạp Ghi Quỳnh Giao - Đỗ Xuân Tê
"... Bài viết không mang dụng ý một bài điểm sách, càng không tham vọng tô hồng một cây viết nữ vốn đã nổi danh nhờ nghiệp cầm ca, mà đơn thuần vì lòng ái mộ một nghệ sĩ tôi có dịp quen biết từ năm 1965 khi đại diện quân đội mời cô tham gia Đoàn văn nghệ của VNCH sang trình diễn ở Kuala Lampur và Singapore theo lời mời của Hoàng gia Mãlai trong đó có tiết mục độc tấu piano của cô gái ở tuổi 19 có tên Quỳnh Giao trên sân khấu nước bạn nửa thế kỷ trước đây.
Nhớ Quỳnh Giao không hẳn chỉ nghe lại lời ca tiếng hát tiếng đàn qua các CD, với tôi, khi đọc lại Tạp Ghi Quỳnh Giao của người ca sĩ khi quay sang nghiệp bút cũng là một sự trân trọng người nghệ sĩ vừa bỏ đường trần về miền giao hưởng thiên thu."

                                    Mời đọc: toàn bài viết của Đỗ Xuân Tê (pdf)
                                  Vài bài viết tạp ghi của Quỳnh Giao 
                                     Bài Tạp Ghi Quỳnh Giao cuối cùng -
                             Tân nhạc Việt Nam sau di cư và trước di tản

                                                           Friday, July 18, 2014

Người Việt lãng mạn của chúng ta thường bị giằng xé với hai giấc mơ tương phản.

Sống tại vùng chật hẹp với giang hồ sông nước là sự cách trở, chúng ta mơ chân trời xa lạ “như lũ chim quyết tung trời mây”... Và dù có gặp “biển hồ mênh mông không nơi ngừng cánh tránh gió táp,” chúng ta vẫn “thề quyết ra đi từ đây.” Nhạc sĩ Lâm Tuyền ghi lại cho tiềm thức chung cái giấc mơ đó.

Thế rồi, khi đã toại lòng với “bao năm qua ta sống giang hồ xa quê nhà, nơi xa xôi muôn ý phiêu lưu dâng cho đời,” thì cũng chính tâm hồn lãng mạn ấy hát khúc ngày về. Giấc mơ hồi hương là phần tương phản của cái chí tung hoành đi tìm đất lạ.

Nếu đọc lại nhiều bài viết của Vũ Hoàng Chương thì có thể mường tượng ra giấc mơ giang hồ đó. Nó trải rộng trong hồn thơ chứ vẫn thu hẹp vào khoảnh đất nhỏ xíu. Từ Nam Ðịnh đến Hà Nội đã là một phiêu lưu. Lên tới núi rừng Việt Bắc thì đấy là cõi bạt ngàn!...

Quỳnh Giao nhắc lại Lâm Tuyền hay Vũ Hoàng Chương vì nhớ tuổi ấu thơ thao thức của mình khi sắp được đi Vũng Tầu! Lên tới Ðà Lạt thì đã tựa như vào Thiên Thai trong cổ tích....

Thế rồi một biến cố đã giập giấc mơ vào thực tại. Với nhiều người thì đấy là cơn ác mộng.

Hiệp định Genève năm 1954 chia đất nước ra hai vùng giới tuyến làm nhiều người phải giang hồ thật! Phong trào di cư từ Bắc vào Nam là biến cố lớn lao nhất thế kỷ, cho đến ngày có cuộc di tản năm 1975 và sau đó.

Nền tân nhạc cải cách Việt Nam xuất phát đầu tiên từ trong Nam vào quãng 1938-1940. Rồi bùng phát và trưởng thành là ở ngoài Bắc trong thời kỳ 1945-1954. Ðấy là giai đoạn hào hùng mà lãng mạn với rất nhiều ca khúc trữ tình. Rồi cuộc di cư 54 là một giao động lớn trong thế giới tân nhạc ấy.....

Chúng ta có những nhà soạn nhạc đã thành danh ở miền Bắc. Phần lớn trong số này cũng là nhạc công, là nhạc sĩ trình diễn chuyên nghiệp với một hay nhiều nhạc cụ. Những người vào Nam từ trước chỉ là một thiểu số hiếm hoi. Sớm nhất thì có Lê Thương từ năm 1941, trễ hơn chục năm thì có Phạm Duy và Phạm Ðình Chương trong “gia đình Thăng Long.”

Phong trào di cư từ 1954 mới xô đẩy đa số còn lại vào Nam và làm thay đổi không khí tân nhạc.

Các nhạc sĩ tên tuổi từ miền Bắc có Dương Thiệu Tước, Thẩm Oánh, Ngọc Bích, Hoàng Trọng và Vũ Thành. Những nhạc sĩ kế tiếp nổi danh như cồn ở trong Nam thì có Ðan Thọ, Nguyễn Hiền hay Nhật Bằng, Cung Tiến. Phải gõ chữ vân vân vì nhiều lắm. Những người còn ở lại miền Bắc, như Văn Cao, Hoàng Giác, Hoàng Phú, Tô Vũ hay Ðoàn Chuẩn, Nguyễn Văn Tý thì hết viết... như cũ.

Nhớ lại chuyện 60 năm trước, chúng ta tự hỏi là lớp nhạc sĩ di cư đã sáng tác những gì sau đó?

Trong mọi cơn chấn động bàng hoàng, con người chúng ta chỉ là lũ trẻ thơ. Hãy nhìn bầy trẻ khi chúng hãi sợ, hoặc gặp điều phật ý mà khó hiểu. Có những đứa thì hờn lẫy giẫy giụa, nhưng cũng có đứa lặng người không thể gào khóc. Còn gào thét là còn tin rằng ai đó sẽ phải lo cho mình, chứ nếu lặng người nín thinh thì đấy là lúc đứa trẻ bần thần tuyệt vọng nhất. Sau cơn chấn động như 1954 hay 1975, chúng ta đều lặng người trong tê tái.

Nhưng các nhạc sĩ của chúng ta lại khác bầy trẻ. Họ không nín lặng mà khóc bằng nhạc.

Cảm hứng viết nhạc hoài hương có sẵn trong tâm khảm đã từ biến cố 54 đưa tới nhiều ca khúc về cố hương. Không kể những bài đã có từ trước như “Ôi Quê Xưa” của Dương Thiệu Tước, “Tình Hoài Hương” của Phạm Duy hay “Hướng Về Hà Nội” của Hoàng Dương, chúng ta nhớ lại “Khóc Biệt Kinh Kỳ” và “Bên Bờ Ðại Dương” của Hoàng Trọng, “Xa Quê Hương” của Ðan Thọ, “Bóng Quê Xưa” của Nhật Bằng và “Tìm Về Bến Xưa” hay “Thanh Bình Ca” của Nguyễn Hiền, v.v....

Ðan Thọ và Nguyễn Hiền là hai nhạc sĩ có nhiều tác phẩm về nỗi hoài niệm quê hương đã mất kể từ thời 54.
Ngày nay, Ðan Thọ vẫn còn và có lẽ không quên sự thổn thức của 60 năm trước.

Ngồi nhớ và nghe lại thì sau biến cố Genève 54, các nhạc sĩ của chúng ta còn bị giằng xé theo một cách khác. Nhiều người vẫn tin vào một ngày trở về.

“Giấc mơ hồi hương” của Vũ Thành là tác phẩm đẹp nhất của đề tài này. Ngoài lời một được gợi lên từ một bài thơ, lời hai của chính tác giả trong điệp khúc có âm điệu khải hoàn ca: “ngoài chân mây xa bừng lên muôn ánh hào quang” vì đấy là lúc giấc mơ đã thành, là “cùng dìu nhau sát vai sống trong tình thương.”...

Người khác thì khám phá và hát mừng sự bao la choáng ngợp của miền đất mới.

Vào Nam từ trước, Phạm Ðình Chương sớm ngợi ca miền Nam đôn hậu từ hình ảnh Cửu Long của trường ca Hội Trùng Dương. Rồi qua năm 1955, ông chấm nơi này là “Ðất Lành” và hát về mối tình Nam-Bắc một nhà: “Em gái Bắc Ninh, anh trai Biên Hòa. Em đất Thanh Nghệ, anh nhà Cà Mâu. Ðồi nương thương sức cần lao, se duyên Nam Bắc ngọt ngào tình yêu”...

Cũng trong dòng nhạc đó, trường ca “Con Ðường Cái Quan” do Phạm Duy thai nghén từ năm 54 tại Paris và hoàn thành về sau ở trong Nam đã có những giai điệu “tốt tươi” nhất - chữ “tốt tươi” là của ông - là từ đoạn 16 trở về sau, khi chàng lữ khách mơ giấc hải hồ vào tới trong Nam!

Trong số nhạc sĩ di cư, Hoàng Trọng nổi danh từ đất Nam Ðịnh với nhiều ca khúc luyến nhớ. Sau khi vào Nam, từ “Mộng Ngày Hồi Hương” năm 1956, ông hòa vào niềm vui mới qua bài “Ðẹp Mùa Yên Vui” sáng tác năm 1958 với lời từ của Hồ Ðình Phương: “Miền Nam mưa nắng giao hòa, Câu hát câu hò say trời quê đẹp như gấm hoa...”

Sự giằng xé dễ hiểu mà đáng thương của người viết nhạc diễn tả tâm tình day dứt của chúng ta giữa cái cũ đã mất và cái mới đã thành đời sống thật.

Ngồi hát lại trong tâm tưởng, “Con Ðường Cái Quan” đã từ đoạn Cửu Long Giang mà hò “Về Miền Nam” và dẫn tới đoạn kết là “Ðường Ði Ðã Tới.” “Về Miền Nam” cũng là tên ca khúc của Trọng Khương. Chúng ta không đi nữa mà về. Thâm tâm hát mừng như vậy thật, chứ không vì sự tuyên truyền của loại nhạc cổ động, mà dẫu gì thì hai miền vẫn chung một đất nước.

Rồi thời gian và sự tự do của miền Nam hàn gắn tất cả và dẫn tân nhạc qua một thế giới khác lạ.

Sau khi đất nước chia đôi, trong số đông đảo các nhạc sĩ và ca sĩ di cư vào Nam có nhiều nhạc công cự phách. Nhạc khúc mới và cách trình diễn tân kỳ thổi gió mới vào nhạc qua đài phát thanh, phần phụ diễn văn nghệ của phim chiếu bóng rồi đại nhạc hội và phòng trà hay khiêu vũ trường...

Khác bộ môn văn chương là nơi mà lối viết của dân miền Nam làm phong thái chân phương của nhà văn miền Bắc trở thành sống động hơn, với những đối thoại rất gần với thực tế ngoài đời, bộ môn tân nhạc ở miền Nam lại tiếp nhận tính chất trang nhã nhiều khi cầu kỳ của ca nhạc sĩ di cư từ miền Bắc. Nghệ sĩ di cư như Dương Thiệu Tước, Vũ Thành, Hoàng Trọng, Anh Ngọc cùng các ban nhạc và lối hòa âm đã thật sự làm tân nhạc miền Nam đổi khác. Từ đó, các nhạc sĩ trong Nam không còn viết như trước nữa, nhiều ca sĩ cũng trình bày theo giọng Bắc.

Sau đấy còn có sự đóng góp của đông đảo thi sĩ di cư từ miền Bắc, và cả các nhà thơ tòng quân nhập ngũ, khiến nghệ thuật phổ thơ vào nhạc còn đem lại một phong thái khác hẳn cái thời mà chúng ta gọi là “tiền chiến.”

Cũng từ đấy, người nghe khó phân biệt được sáng tác Y Vân, Nguyễn Văn Ðông, Lê Dinh, Minh Kỳ hay Lam Phương với ca khúc của nhạc sĩ di cư đất Bắc. Nếu có khác thì đấy là giữa thể loại ca khúc của thành phố thanh bình, có men rượu, khói thuốc và cả một chút Paris, với nhạc chân quê hay nhạc của người lính thời chiến.

Cho đến khi Nam Bắc thật sự là một nhà, và khi nền tân nhạc hết phân biệt hậu phương hay tiền tuyến thì chúng ta gặp cuộc đổi đời thứ hai, biến cố 1975. Lần này cũng vẫn phong ba giông tố, nhưng không là một nơi chốn mới của quê hương mà là một sự giã biệt bi thảm hơn. Sang năm, chúng ta sẽ viết lại chuyện này....

***

Từ nhiều tháng nay, người viết ngồi dưỡng bệnh bằng nhạc, cho đến khi tòa soạn Người Việt yêu cầu một bài đặc biệt về tân nhạc trong và sau biến cố 54.

Không vì “yêu sách” của tờ báo mà vì yêu nhạc, Quỳnh Giao cố gõ lại trí nhớ mà gửi độc giả bài này, với một kết luận là sự tri ân của một người đã nghe và hát: “Nền tân nhạc Việt Nam có nhiều tác phẩm nghệ thuật nhất, và đáng nhớ nhất vì còn được hát ngày nay, là ở miền Nam, trong giai đoạn 1954-1975. Trước đấy thì chưa có và sau đó thì không còn...”
                                       
                       Memories của Lê Văn Khoa - Quỳnh Giao
                                       
          
Khi Việt Nam gặp Ukraine thì chúng ta có gì?
Một món quà Giáng Sinh ý nghĩa nhất từ nhiều thập niên. Món quà ấy là đĩa nhạc Memories nhạc sĩ Lê Văn Khoa sẽ cho ra mắt.

Với những ai thật sự yêu âm nhạc, Lê Văn Khoa không là người xa lạ. Với người khó tính và còn ước mơ một tương lai tươi sáng hơn cho nền nhạc Việt, những nỗ lực của Lê Văn Khoa từ nhiều năm qua là một niềm hy vọng. Ông cố bơi ngược dòng để đưa nhạc Việt ra khỏi lối mòn và có thể hoà chung vào dòng nhạc thế giới.

Từ một phương trời rất xa và lạ, một số nhạc sĩ Ukraine được nghe nhạc Lê Văn Khoa. Họ bèn tìm đến nhau, kết quả là một đĩa nhạc độc đáo được thực hiện tại thủ đô Kyiv (Kiev) của xứ Ukraine với dàn nhạc đại hoà tấu Kyiv Symphony Orchestra, dưới dự điều khiển của nữ nhạc trưởng Alla Kulbaba. Một dàn nhạc Ukraine cùng những tay độc tấu vĩ cầm, dương cầm, trung hồ cầm và sáo, có thực tài để trình bày các nhạc khúc của một nghệ sĩ Việt Nam.

Sự kiện ấy cũng đã là hiếm hoi độc đáo.

Chúng ta từng nghe vài nhạc sĩ Nga trình tấu giai điệu của các ca khúc phổ thông của Việt Nam và nếu yêu nhạc thì đâm ra nghi ngờ giá trị nghệ thuật của lối hội ngộ độc đáo ấy. Trường hợp của đĩa nhạc Memories và Lê Văn Khoa thì khác. Ông có mặt tại Kyiv và hợp tác trong từng bước thực hiện với những nhạc sĩ có chân tài của Ukraine nên sự cảm thông tất nhiên đã có giữa người soạn nhạc và các nghệ sĩ trình tấu.

Chẳng những có sự cảm thông giữa các nghệ sĩ mà còn có sự thông cảm của những người cùng chia sẻ hoàn cảnh là có lòng yêu nhạc vô biên nhưng bị trói buộc bởi hoàn cảnh. Họ muốn thực hiện một tác phẩm chung vì nghệ thuật hơn là vì nhu cầu thương mại.

Kết quả là một bài ngợi ca âm nhạc thật đẹp, trải trên 10 nhạc khúc mà bài nào cũng làm người nghe bồi hồi xúc động.

Với loại nhạc "không lời", giá trị tác phẩm nằm trong khả năng gợi ý hơn là phải được nâng đỡ hay diễn giải bằng lời ca, lời từ. Những ai chưa mấy quen thuộc với loại nhạc cổ điển không lời thì sẽ thích thú nhận ra giai điệu quen thuộc ở bài ngắn nhất, bài số 7, có tên là Song of the Black Horse.

Kỳ thú là tiếng dương cầm khúc khích và khốc khách như tiếng nhạc ngựa tung tăng. Lý Ngựa Ô của Lê Văn Khoa còn tối tân hơn vậy. Đây là nhạc khúc ông soạn lại cho hai dương cầm thủ. Bốn tay đan lượn trên phím đàn đã mở ra không gian mới cho một giai điệu dân ca quen thuộc của miền Nam.

Hai diệu thủ dương cầm Irina Starodub và Lyudmila Chichuck là những người tuyệt vời. Nghe kỹ thì hiểu vì sao họ đã đoạt những giải thưởng cao quý nhất về nhạc của Ukraine. Hai cô là bậc thầy về nghệ thuật trình tấu. Trong tiếng cóc cách của vó ngựa, họ không lạm dụng pedale, không đạp để gây... "ấn tượng" "hoành tráng" - những từ đang bị lạm dung đến thành vô nghĩa.

Họ chỉ nhấp rất nhẹ và diễn tả đúng ý soạn giả khó tính là Lê Văn Khoa.

Sau khi "làm quen" với loại nhạc không cần lời mà vẫn có hình ảnh đầy âm sắc, mình nên nghe một giai điệu dân ca miền Bắc qua bài Beautiful Bamboo, bài số ba theo thứ tự. Cây Trúc Xinh trong nét ngũ cung được độc tấu dương cầm. Hoàn toàn Việt Nam mà mới lạ chừng nào. Đây là phút "ừ nhỉ" của chúng ta. Ừ nhỉ, nhạc Việt Nam mình hay vậy mà xưa nay chỉ chú ý tới lời mà không cần nhớ đến cung bậc.

Qua tác phẩm số chín, bài In the Moonlight, mình mới phát giác thêm những nét đẹp ẩn giấu như ngọc của nhạc Việt. Ngũ cung của dân ca Việt Nam, theo điệu "oán" của miền Nam, trong tiếng sáo vi vu của đồng quê nước ta lại cất lên như vậy. Đêm trăng của quê nhà có những nét đẹp kỳ lạ và khác hẳn những gì mình đã từng nghe hay còn nhớ...

Mười hai năm trước, kỷ niệm hai chục năm sau biến cố bi thương của Việt Nam, Lê Văn Khoa đã làm điều kỳ lạ là dùng nhạc diễn tả mấy chục năm chinh chiến của quê hương. Đó là Tổ khúc "1975", được trình bày lần đầu năm 1995 tại miền Nam California. Từ đó, Lê Văn Khoa vẫn lặng lẽ đi tiếp.

Đĩa nhạc Memories là công trình của chuyến độc hành ấy.

Sau khi đã nghe lại giai điệu dân ca của Việt Nam để làm quen với một lối trình bày khác, mình hãy cùng bước vào thế giới âm nhạc của Lê Văn Khoa, qua những sáng tác của ông trong tác phẩm Memories này.

Bài đầu tiên là Remembrance với cả dàn nhạc và dương cầm Lyudmila Chichuck.

Mở đầu là nét Á Đông trên cung thứ buồn bã, tha thiết theo nhịp 3/4, rồi chuyển lên cung trưởng, trong sáng linh động, trước khi trở lại nỗi day dứt ban đầu. Âm nhạc là ngôn ngữ trừu tượng, nhạc khúc Remembrance dùng âm thanh vẽ ra cây cầu vồng từ chân mây u uẩn vươn tới trời cao với muôn màu hội ngộ và chìm dần như tiếng tơ trong nhớ thương luyến tiếc.

Bài thứ hai, Nocturne, có giai điệu Tây phương hơn và đòi hỏi kỹ thuật trình bày còn ráo riết hơn. Lê Văn Khoa diễn tả đêm đen đặc quánh bằng phím nhạc dương cầm và chuyển lên cung trưởng đầy kỹ thuật trong tiếng đuổi bắt âm thanh. Trong đêm đen, mọi thứ tưởng như lắng đọng, chỉ có tâm tư của người nghệ sĩ còn day dứt và sôi nổi với trăm ngàn hình ảnh. Bài Dạ Khúc của Lê Văn Khoa là tiếng nhạc của một đêm không ngủ. Đêm không đen, chúng ta không cô đơn vì tâm trí vẫn dồn dập trăm ý.

Bài thứ tư, Longing, là nhạc khúc lãng mạn diễn tả bằng trung hồ cầm và dương cầm với tiếng đàn dây gởi lên nỗi bâng khuâng lưu luyến nối tiếp trên cung trưởng của tiếng dương cầm reo vui. Rồi tan loãng dần trong giai điệu ban đầu, như một niềm hy vọng.

Bài On the Way Home, nhạc khúc thứ năm, chắc sẽ chinh phục thính giả Tây phương.

Đây là tác phẩm nhiều hình ảnh và màu sắc được viết như một bản "song ca" của hai tay dương cầm. Một đối thoại bằng nhạc của hai người. Họ đối thoại về cuộc đời, việc đồng áng, về những gian nan của nhân thế. Tiếng nhạc mở đầu chập chờn rồi dồn dập như đời sống, nhưng trong sự lầm than u uẩn đã có nguồn hy vọng. Nên nghe lại bài này nhiều lần, rồi mình sẽ cảm tạ sự sáng tạo của Lê Văn Khoa.

Khuôn khổ "Tạp ghi" này không cho phép người viết giới thiệu lại từng bài của đĩa nhạc. Vả lại, khi âm nhạc là thông điệp trừu tượng thì mỗi người nghe lại cảm thấy một khác tùy tâm cảnh của mình. Nhưng người yêu nhạc thì có thể yên tâm rằng đĩa Memories của Lê Văn Khoa là tác phẩm có giá trị, do những người có thực tài thực hiện cho chúng ta.

Người viết thì yêu thích nhất các bài Remembrance, On the Way Home, Romance và In the Moonlight, và muốn bày tỏ sự khâm phục trân quý dành cho tác giả.

Trong một thế giới ồn ào, với nhiều người đang cố hét rất nhiều và gào rất lớn để hát lên lắm ca khúc vô nghĩa nếu không có ánh sáng sân khấu thì loại nhạc của Lê Văn Khoa có sự cô đơn đáng kính của người nghệ sĩ không tìm đám đông. Ông đi tìm nghệ thuật và đã thấy. Rồi gặp nhiều nhạc sĩ có tài của một xứ Ukraine mờ mịt bên kia đại dương để thực hiện cho chúng ta một đĩa nhạc hay.

Chúng ta nên trân quý những người như vậy, và nên giới thiệu cho bằng hữu thẩm âm một tác phẩm khiến mình bớt tuyệt vọng về trình độ nghệ thuật nước nhà.

Qua Lê Văn Khoa, cũng xin được gửi đến các nhạc sĩ cùng dàn nhạc đại hoà tấu của Ukraine một lời tri ân.
                                 
                                       Ðường Chiều Lá Rụng - Quỳnh Giao

Một buổi chiều cuối năm, chúng tôi cùng hát với nhau dù chỉ được một phần cả Ngàn Lời Ca của Phạm Duy. Trong có 24 tiếng để anh chị em tổ chức một buổi sinh hoạt impromtu mà trang nghiêm, Quỳnh Giao nhận lời hát Kỷ Niệm và Ðường Chiều Lá Rụng.

Kỷ Niệm là ca khúc vừa sáng tác xong là Phạm Duy đưa cho con bé (Quỳnh Giao) hát trên đài phát thanh. Hơn hai chục năm sau đó, khi mình còn ở miền Ðông và thực hiện lấy băng nhạc Hát Cho Kỷ Niệm theo lối thủ công nghệ, ông cẩn thận gửi lời giới thiệu qua một cassette. Ðấy là kỷ niệm khó phai, nghe lại là nhạt nhòa nước mắt.

Còn Ðường Chiều Lá Rụng là một dấu ấn khác của Phạm Duy, được ông viết khi còn trẻ, vào năm 1965, căn cứ theo tập nhạc “Hát vào Ðời” xuất bản năm 1969. Nhưng trong cuốn “Ngàn Lời Ca,” thì ông viết từ năm 1958, sau khi đi du học bên Pháp về. Ðiều này có lẽ cũng đúng, vì ông đã dùng những điều học được áp dụng cho ca khúc. Ðây là bài hát có nhạc thuật cao nhất của ông, với nét ngũ cung u uẩn và những chuyển đoạn liên tục, vừa khó hát, khó nghe và khó hòa âm.
                 

Năm đó, khi vừa ráo mực, ông đưa tác phẩm cho nhạc sĩ Vũ Thành. Là trưởng phòng văn nghệ của đài Phát Thanh Sài Gòn và trưởng ban nhạc đại hòa tấu và hợp xướng Phương Hoa, Vũ Thành cũng cộng tác với đài Tiếng Nói Tự Do của Hoa Kỳ, chuyên phát các chương trình ra miền Bắc. Nổi tiếng khó tính, Vũ Thành lưỡng lự khi soạn hòa âm, vì Ðường Chiều Lá Rụng không dễ viết.

Nguyên tác của Phạm Duy là nhịp ý dìu dặt thiết tha trên ton Si thứ với nhiều quãng năm giảm (quinte diminué) làm nhiều ca sĩ trẹo lưỡi. Hát đúng giọng thì phải xuống nốt Fa thăng thấp (dưới hàng kẻ ba dòng) và lên nốt Fa thăng cao nhất (dòng kẻ thứ năm). Vũ Thành sửa lại, dùng nhịp 4/4 theo lối chậm rãi kể lể của một bản Slow và viết nhiều nốt liên ba (triolet) trong toàn bài, rồi còn hạ một cung, tức là ton La thứ. Viết xong, Vũ Thành quyết định thu thanh cho chương trình của đài Tiếng Nói Tự Do để phát ra Bắc, và vì thế trong Nam mình không được nghe.

Ông chọn Thái Thanh để trình bày tác phẩm bất hủ này. Ðấy là một chọn lựa tuyệt vời.

Thường ngày Thái Thanh vẫn nổi tiếng là cường điệu. Bà làm cho ca khúc thổn thức rũ rượi hơn và nồng nàn hơn nguyên bản. Nhưng với Ðường Chiều Lá Rụng qua hòa âm Vũ Thành thì mọi lối quằn quại điệu nghệ bỗng nhiên biến mất. Bài hát quá khó, khiến bà phải cẩn trọng từng chữ, hát sai và không theo dàn nhạc thì Vũ Thành “quạt” ngay, chẳng nể nang ai cả!

Thái Thanh hát nghiêm chỉnh, lại có cả dàn phụ họa của Anh Ngọc, Nhật Bằng, Phượng Bằng, Kim Tước, Mai Hương và Quỳnh Giao nữa, nên ca khúc là một tuyệt chiêu.
*

Như có lần người viết đã kể, khi di tản năm 1975, tài sản duy nhất được Vũ Thành đem theo là một số băng ghi âm các ca khúc quý giá ông làm cho đài Tiếng Nói Tự Do. Trong đó có Ðường Chiều Lá Rụng.
Tại hải ngoại, khi thực hiện đĩa nhạc thứ hai với tên Tiếng Chuông Chiều Thu, Quỳnh Giao chọn Ðường Chiều Lá Rụng vì yêu mến tác phẩm trứ danh này. Nhưng đưa cho Duy Cường nghe tape nhạc Vũ Thành thì bị lắc đầu: “Em không bao giờ làm giống ai và chẳng bị ảnh hưởng của ai hết!” Ðúng quá chứ! Rồi Duy Cường cũng loay hoay mãi không viết được. Anh không chịu đổi qua nhịp Slow như Vũ Thành, dù nhịp này dễ hát hơn nhiều.

Cuối cùng Duy Cường hòa âm theo kiểu ad lib, là tự do, chẳng có nhịp gì hết.

Cái khó là xưa nay ca sĩ hát ad lib thì nhạc sĩ đệm theo, chứ bao giờ lại có sự ngược là nhạc sĩ đàn ad lib và ca sĩ phải hát theo! Cường nói: “Chỉ có chị mới hát theo dàn nhạc được, và vì chị nên em mới thử nghiệm điều này.”

Hôm thu âm tại phòng thu Tomlinson, Phạm Duy đến nghe. Cô cháu hát thử câu đầu “chiều rơi trên đường vắng có ta rơi giữa chiều” bằng hai cách. Cách thứ nhất gần giống lối diễn tả của Thái Thanh, là láy vào chữ “vắng” và chữ “rơi.” Cách thứ hai là chỉ láy vào chữ “ta” mà thôi. Và hát rất đều giọng, nghiêm trang. Phạm Duy chọn cách thứ hai. Viết lại như vậy để chúng ta hiểu ý người sáng tác.
              

Cho tới giờ dường như số người hát Ðường Chiều Lá Rụng chỉ đếm trên đầu ngón tay của một bàn tay. Riêng Phạm Duy thì nhắc đến ba người là Thái Thanh, Kim Tước và Quỳnh Giao. Mà người nghe chắc cũng ít. Nhạc đã thế, lời ca lại chẳng nhắm vào cảm quan mà đầy não tính...

Quỳnh Giao đã viết nhiều nên không dám nói thêm về các lời từ của Phạm Duy khi ông đưa tình yêu lên tận cõi chết. Ðường Chiều Lá Rụng là một tiêu biểu rực rỡ và rã rời nhất với hình ảnh đầy chất siêu thực. Nhưng giờ đây, khi ông đã ra đi, mà mình hát lại với nước mắt lưng tròng thì ca khúc lại tái sinh như một bức họa.

Ông chuyển cung như dùng màu sắc để đổi ánh sáng và có nhiều câu báo hiệu lối viết sẽ thấy ở Trịnh Công Sơn về sau.

Một kỷ niệm cuối là khi ghi âm bài này với hòa âm của Duy Cường, Quỳnh Giao đã ỷ vào chỗ thân tình mà xin sửa một chữ ở câu cuối! Phạm Duy nghe lại, gật gù và cho phép!

Chiều tan trên đường tối, có ta như rã rời
Hồn ta như gò mối, đang chờ phút đầu thai.


Quỳnh Giao xin phép hát là “Hồn ta như gò mối, im chờ phút đầu thai...”

Lá đã rụng, ông đã im. Chúng ta đang chờ ông trở lại.
                                       
                    Quỳnh Giao hát "Đường Chiều Lá Rụng":    youtube    MP3
                                   

           Nghiêm Phú Phi - Bậc thầy khó quên, cái neo đã chìm - Quỳnh Giao

Năm 2008 này mở đầu với nhiều chuyện không vui.

Tin Lê Quỳnh mất làm gia đình chúng tôi bồi hồi vì nhiều kỷ niệm cùng người nghệ sĩ ấy. Trong nhà, chúng tôi nói chuyện với nhau về cô Trúc và cháu Victor, khi ấy còn rất nhỏ. Thế rồi, tin Nghiêm Phú Phi qua đời vào buổi sáng khi chuẩn bị đi dự tang lễ của Lê Quỳnh đã ập xuống như sét đánh!

Cả tuần qua, giới nghệ sĩ bàng hoàng xúc động trước tin ông qua đời. Nói là giới nghệ sĩ là nói chung, chứ những người thương tiếc ông thật ra nhiều vô kể! Từ đám sinh viên Quốc Gia Âm Nhạc ngày trước cho tới những người làm việc trong các đài phát thanh của Sàigòn. Từ nghệ sĩ tại các phòng trà trước 75, đến các nghệ sĩ trẻ, những trung tâm âm nhạc sinh hoạt ở hải ngoại... và nhất là những nhạc sinh ông đã đào tạo từ năm 1956 đến nay, trong đó có người viết bài này...

Vì vậy, lần này xin phép độc giả và thân hữu gần xa để nói chuyện riêng tư.

Ngày ấy người viết mới lên mười, được mẹ đem đến chú học đàn. Học trò thường gọi Nghiêm Phú Phi bằng thầy, chỉ duy nhất có mình gọi thầy bằng “chú”.

Chú Phi người gốc Bắc, mà nói đặc giọng Nam. Chú rất ít nói, và thường chỉ nhỏ nhẹ dạy bảo học trò cách tập, dáng ngồi... Học với ông một năm thì chuyển qua học với bà Ðỗ Thế Phiệt, là dì ruột của mình, cũng vừa về nước sau chú Phi một năm.

                         
Hàng tuần, người viết vẫn gặp chú trong trường nhạc và ở đài phát thanh. Khác với các giáo sư dương cầm tốt nghiệp từ Pháp về, thường chỉ dạy đàn trong trường nhạc và tư gia, chú Phi còn đàn trong các ban nhạc của các đài phát thanh Quốc Gia, đài Quân Ðội, đài Tự Do và đài truyền hình... Và hằng đêm, chú đội mũ đeo kính đen đánh đàn ở phòng trà Ðêm Mầu Hồng. Như một nghệ sĩ trong một quán nhạc rất... Paris.

Chú Nghiêm Phú Phi không chủ trương chỉ có nhạc cổ điển mới là chính phái, mà luôn luôn coi trọng âm nhạc Việt Nam. Chú Phi tốt nghiệp về hòa âm tại Pháp, khi trở về viết hòa âm cho các bài dân ca thì đều có nét chung là rất công phu, độc đáo. Hãy nghe lại Trường Ca Mẹ Việt Nam hay Con Ðường Cái Quan của Phạm Duy do Nghiêm Phú Phi hòa âm, chúng ta mới thấy thế nào là nghệ thuật hòa âm đã chắp cánh cho âm nhạc.

Tuy bận rộn với thời khóa biểu như con thoi, chú Phi còn là nhạc trưởng ban đại hòa tấu và hợp xướng Hải Sơn của đài phát thanh Quốc Gia. Ông vừa viết hòa âm vừa làm nhạc trưởng. Ngày ấy, Quỳnh Giao mới chỉ mười sáu, hàng tuần ngóng giờ lên đài hát ban Hải Sơn với các cô chú và anh chị. Là người nhỏ nhất trong ban lại được chú giao cho những bài hợp ca, bè hai, bè ba rất khó. Hát ban Hải Sơn là một niềm vui kỳ lạ vì phần hòa âm thật công phu, dàn nhạc lớn với cả chục vĩ cầm.

Những trường ca như Con Ðường Cái Quan của Phạm Duy hay Hội Trùng Dương của Phạm Ðình Chương thì phải là hòa âm của Nghiêm Phú Phi mới phát huy hết nghệ thuật của tác giả, khiến người nghe thấy được sự hùng vĩ tuyệt vời của đất nước.

Cũng tại đài phát thanh Quốc Gia, ngày ấy có một nữ xướng ngôn viên xinh đẹp, giọng Nam vô cùng gợi cảm, được mời riêng để giới thiệu trong các chương trình ca nhạc. Nữ xướng ngôn viên khác thì đọc tin tức, chứ riêng Ngọc Sương được đề cử giới thiệu nhạc. Hàng ngày, cô đến đọc lời giới thiệu các chương trình nhạc trong đó có ban Hải Sơn. Và, con người ít nói ở trên kia để ý đến cô lúc nào, trong đài chả ai là không biết.

Nhưng với tính ít nói đã thành thần thoại, chú Phi tỏ tình thế nào thì các danh tài cùng thời như Mộc Lan, Châu Hà hay Anh Ngọc đều thắc mắc. Họ đố nhau xem bao giờ cá cắn câu! Mà thắc mắc cũng dễ hiểu, vì cô Sương xinh đẹp nên lúc ấy có rất nhiều người theo đuổi. Sau cùng, con người ít nói ấy đã thắng tất cả các đối thủ!

Khi nhạc sư Ðỗ Thế Phiệt qua đời năm 1970, chú Phi thay thế chức vụ giám đốc trường Quốc Gia Âm Nhạc và Kịch Nghệ và tại chức cho tới khi tan hàng năm 1975. Ông và gia đình kẹt lại đến năm 1985 mới sang Mỹ định cư.

Những người bạn cùng chia sẻ năm tháng thê lương ấy đều có chung một kinh nghiệm: Nghiêm Phú Phi là người chừng mực và nghiêm túc nhất. Ông nghe tất cả mọi đài phát thanh quốc tế và ghi âm hàng đêm! Có tin đồn gì về tin tức từ bên ngoài thì đạp xe tới hỏi ông là rõ. Có hay không, đúng hay sai, ông Phi là người mà mình có thể kiểm chứng vì nghe và nhớ hết! Trong cảnh tù đầy chung, khung cửa sổ ra thế giới bên ngoài là Nghiêm Phú Phi! Một người khác nay cũng vừa hội ngộ với chú Phi ở cõi bên kia là nhạc sĩ Lê Thương.

Hãy nhớ lại Sàigòn tang thương sau 1975 để nhớ đến những người nghệ sĩ này, với cái tai được đào tạo để nghe những gì tốt đẹp nhất của con người! Thương lắm!

                                 
Lúc mới sang Mỹ, thầy trò chúng tôi gặp nhau mừng mừng tủi tủi. Kể cho nhau nghe bao nhiêu chuyện.

Cô chú Phi lén nghe đài VOA hằng đêm, chuyện gì bên Mỹ cũng theo dõi. Cô chú biết Quỳnh Giao và Mai Hương đi hát những nơi nào, lên đài trả lời phỏng vấn với Lê Văn ra sao... Và đúng năm 1985 ấy, nhà thơ Thanh Tâm Tuyền lén gửi ra ngoại quốc tập thơ “Vang Vang Trời Vào Xuân” với bút hiệu Trần Kha, được Cung Tiến phổ nguyên tập thành một song's cycle (liên khúc). Cũng khó hát như thơ Thanh Tâm Tuyền!

Năm đó, trưởng ban Việt ngữ đài VOA là Lê Văn bèn tổ chức một buổi trình bày để giới thiệu liên khúc tại vùng thủ đô Hoa Thịnh Ðốn. Thành phần ca sĩ là Mai Hương và Quỳnh Giao với dương cầm Nghiêm Phú Phi. Phải nói là nhạc sĩ Cung Tiến rất cẩn trọng với những sáng tác của ông. Chính ông đã viết luôn phần dương cầm cho liên khúc, nên ngoài Nghiêm Phú Phi, không thể tìm người đàn đúng nguyên bản của tác phẩm, ngoại trừ phải mời tới nhưng nhạc sĩ đã tốt nghiệp nhạc viện và tập dượt công phu mới trình bày nổi. Tiếng đàn điêu luyện và tính tình hiền lành của chú chiếm cảm tình mọi người. Phần hai là phần trình diễn của cặp Lê Uyên Phương, vốn là bạn thân của Cung Tiến.

Hăng hái vì thành quả của buổi Vang Vang Trời Vào Xuân, Lê Văn tổ chức 40 năm âm nhạc Phạm Ðình Chương. Lần này thành phần nghệ sĩ đông đủ hơn, gồm ban hợp ca Thăng Long hải ngoại (Hoài Bắc, Hoài Trung, Mai Hương), ban tam ca Tiếng Tơ Ðồng (Kim Tước, Mai Hương, Quỳnh Giao) và Lệ Thu. Ban nhạc cũng đông đủ hơn với Nghiêm Phú Phi, Ðan Thọ, Hoàng Thi Thao, Dương Ðức Trường và một tay trống của địa phương.

Người giới thiệu chương trình là Mai Thảo, nhà văn nổi tiếng nói thẳng, nói chẳng lấy lòng của chúng ta lại rất quý trọng Nghiêm Phú Phi, một người không thích uống rượu!

Buổi hát thành công rực rỡ, tiếng vang lan tận đến bên Âu Châu. Lê Văn được mời là người tổ chức và đem cả chương trình 40 năm âm nhạc Phạm Ðình Chương hát tại Âu Châu trong hai tuần. Lần này không có Lệ Thu mà thêm phần dân ca với Diễm Chi, và phần nhạc chiến đấu với Nguyệt Ánh. Phái đoàn đi từ Mỹ, đến Ðức Quốc hát ở Munich, Stuggart, rồi đi Thụy Sĩ hát ở Bernes và Bales, và sau cùng là Pháp hát ở tỉnh Troyes, và ngày cuối cùng hát ở rạp Maubert tại Paris.

Chúng tôi di chuyển bằng máy bay, bằng xe lửa và bằng xe hơi, đi xuyên qua các làng nhỏ, cảnh đẹp như trong truyện. Chú Phi và cô Sương vừa đến Pháp là bị rơi mất giấy tờ. Mới chân ướt chân ráo ra đến nước ngoài, chuyện giấy tờ làm chú cũng lo. Nhưng bà Lê Văn rất tháo vát, nói tiếng tây như đầm, đến consulat một buổi là xong! Ðoàn đi đến đâu cũng được tán thưởng nên nghệ sĩ vui vô cùng. Ăn cơm Tây, uống rượu Tây mà hát nhạc Việt thì là Tiên rồi. Nhưng Tiên thì cũng có lúc đau ốm: sau khi Nguyệt Ánh bị đầy bụng, không tiêu, thì Hoài Trung bị đau lưng, đêm nằm dưới đất cứng, không nằm nệm được. Vậy mà chú Phi, với cái chân bị tật, vẫn khỏe mạnh như thường.

Mỗi ngày sau khi đi đường dài cả 10 tiếng mới đến nơi, nghỉ một chút là trình diễn ngay. Ca sĩ còn có bài hát bài không phải hát, chứ nhạc sĩ, nhất là người đàn dương cầm coi như phần chính của ban nhạc thì không được nghỉ một bài nào cả. Ðêm nào cũng được kết thúc chương trình bằng trường ca Hội Trùng Dương với các giọng ca tràn đầy sức mạnh, với giọng Hoài Trung như sóng nước mênh mông và tiếng dương cầm Nghiêm Phú Phi vũ bão, bao la như nước vỡ bờ làm khán giả xúc động đến rưng lệ...

Có đi và chung sống như trong một gia đình, mới thấy cô Sương đúng là người vợ hiền, như cái xương sống của chú Phi. Chú chỉ đàn thôi, chứ việc lớn nhỏ nào cũng do cô chu toàn. Từ bài bản tới miếng ăn miếng uống, nhất nhất là gọi cô Sương. Cả ngày nghe chú gọi “mẹ, mẹ, ra làm cái này, lấy cái kia....” lúc nào cô cũng vui vẻ làm, coi chú như ông vua vậy.

Sau này, khi Quỳnh Giao ra mắt đĩa nhạc Hành Trình Phạm Duy tại Houston, với sự tham dự của Phạm Duy, thì cũng chú Phi đã chống gậy bay qua đàn dương cầm cho cô cháu hát. Ông từng nói rất vui, rằng xưa kia đã đờn cho mẹ hát, nay đờn cho con gái!

Ðấy là những kỷ niệm và báu vật không thể quên được của một người đã được biết và làm việc chung với Nghiêm Phú Phi trong hơn nửa thế kỷ.

Nhưng Nghiêm Phú Phi còn hơn vậy.

Ông bị polio và phải chống nạng, điều ấy, ai cũng biết. Ông là bậc sư về nhạc cổ điển Tây phương, tốt nghiệp ở những lò đào tạo danh tiếng nhất của Pháp, và rất khó tính khi dạy nhạc. Ðiều ấy, chúng ta cũng có thể biết, học trò đích thực của trường Quốc Gia Âm Nhạc thì càng biết. Nhưng ông là nhạc sĩ có tâm hồn Việt Nam và muốn đưa âm nhạc Việt Nam lên ngang tầm thế giới. Một số người yêu nhạc và hiểu nhạc thì có thể hiểu được ước nguyện đó của ông. Ông có một số tác phẩm viết cho dàn nhạc giao hưởng những bài divertissements dựa vào âm giai ngũ cung hoàn toàn Á đông, nhưng chỉ được trình bày đôi lần trên sân khấu trường Quốc Gia Âm Nhạc, có nhiều bản còn chưa được phổ biến...

Ðiều mà ít ai biết, Nghiêm Phú Phi còn là một cái neo.

Ông ràng chúng tôi lại với nhau, với kỷ niệm và tình cảm của năm xưa. Bất cứ ai đã từng làm việc trong trường Quốc Gia Âm Nhạc hay đài phát thanh thời xưa mà ghé thăm miền Nam California đều liên lạc với Nghiêm Phú Phi. Ông giữ mối giao tình bền chặt với từng người và liên lạc với mọi người để gần xa, từ Úc, từ Âu hay từ Việt Nam, đều có những buổi hội ngộ rưng rưng nước mắt, ngay tại nhà ông.

Khi ấy, Nghiêm Phú Phi im lặng như một ông Phật, nhìn cô Sương hầu hạ mọi người trong sự náo nhiệt đầy cảm động. Chúng tôi mà còn gặp lại được nhau, và biết tin tức của nhau, chính là nhờ Nghiêm Phú Phi. Ông mất đi, giới yêu nhạc và yêu nghề của thời xưa đã mất một cái neo.

Ðúng 10 năm trước, Mai Thảo ra đi đã đem theo cái neo ràng buộc nhiều anh chị em cầm bút với nhau. Bây giờ đến lượt Nghiêm Phú Phi trong lãnh vực âm nhạc và phát thanh.

Làm sao chúng tôi không khỏi thấy một sự trống vắng, một nỗi bơ vơ?

Trong khi viết bài này lại còn được tin, là ở miền Ðông bên kia nhà thơ Vương Ðức Lệ cũng vừa từ giã chúng ta, buổi trưa Chủ Nhật 20. Ông cũng là một người bạn đáng quý trong các nhân vật đã từng phục vụ trong ngành phát thanh, tại đài Sàigòn, trước năm 1975...

Năm 2008 này mở màn với quá nhiều mất mát...
                                 
                                 Ban Tuổi Xanh năm xưa - Quỳnh Giao

Mới đây, người viết nhận được tấm hình ban Tuổi Xanh do Phạm Duy Ðức gửi tặng.

Ðức là con trai út của cặp nghệ sĩ Thái Hằng-Phạm Duy, gửi với lời nhắn là giúp Ðức tìm ra tên từng người trong hình. Thoạt kỳ thủy, chỉ nhận ra hai bác Phạm Ðình Sĩ và Kiều Hạnh, còn trong bầy nhi đồng thì nhận ra ngay chính mình ngày bé mà thôi.

Sau vài phút xem kỹ thì nhận ra hầu hết mọi người: Chị Bích Chiêu, chị Mai Hương, chị Mai Hân và chị Bạch Tuyết trong hàng “người lớn,” vì đã trên 12 tuổi rồi. Ðến hàng “nhi đồng” thật sự gồm những đứa vắt mũi chưa sạch mới lên bẩy lên tám là Tuấn Ngọc, Quốc Thắng, Kim Chi, và người viết bài, thời ấy còn giữ tên thật là Ðoan Trang...

Một vài người khác thì mình đã quên mặt nhưng trong ký ức vẫn nhớ rõ tên như các chị Lê Phi, Lê Út... Nhưng không hiểu sao lại thiếu mặt Anh Minh, anh ruột của người viết hồi đó là một giọng chủ chốt trong ban Tuổi Xanh!

                

Nhìn hình rồi miên man nhớ đến rất nhiều kỷ niệm.

Thời kỳ đó là đầu thập niên 50. Thân mẫu của người viết là danh ca Minh Trang thành lập ra ban Thiếu Sinh Nhi Ðồng đầu tiên, nơi hoạt động chính yếu là đài phát thanh.

Trong ban có Lê Phi, Lê Út, Mai Hương, Bạch Tuyết, Bích Chiêu, Kim Chi, Quốc Thắng, Tuấn Ngọc, Anh Minh và Ðoan Trang. Nhạc sĩ duy nhất trong ban là tay pianist Hoàng Linh, chừng 18 tuổi. Anh là học trò của nhạc sĩ Võ Ðức Tuyết.

Thế rồi năm 1954, gia đình cặp nghệ sĩ Phạm Ðình Sĩ-Kiều Hạnh di cư vào Nam, thân mẫu người viết bèn nhường ban nhi đồng cho hai bác.

Cặp nghệ sĩ đổi tên ban là “Tuổi Xanh” cho thích hợp với các con bấy giờ đã trên 10 tuổi rồi, hết còn là nhi đồng. Rồi ban Tuổi Xanh có thêm Mai Hân, Tuấn Tùng... Ðấy là lớp “Tuổi Xanh” đầu tiên. Về sau là các mầm non xuất sắc khác, như Hoàng Oanh, Phương Tâm (tức Phương Hoài Tâm), Phương Mai, Xuân Thu, Tý Hon, Quỳnh Mai (tức Vân Quỳnh) và Quỳnh Như (tức Vân Hòa) là hai cô em gái của người viết.

Chắc quý độc giả cũng thắc mắc không biết các nhi đồng ngày xưa khi lớn lên hoạt động và sinh hoạt ra sao?

Xưa nay, “thần đồng” thường là các ngôi sao tắt biến khi trở thành người lớn. Như Shirley Temple giã từ màn bạc rất sớm và trở thành bà đại sứ Shirley Temple Black (Black là tên ông chồng). Như Hayley Mills con gái John Mills đóng phim rất cừ mà về sau không xuất hiện nữa.

Ðó cũng là trường hợp của các “thần đồng” Quốc Thắng hay Kim Chi của Việt Nam, lúc bé nổi tiếng như cồn. Quốc Thắng hình như học ngành y, trở thành bác sĩ. Kim Chi cháu của nhạc sĩ Thẩm Oánh khi nhỏ rất thân với người viết mà sau này mất hẳn liên lạc, không biết chị làm nghề gì, sống ở đâu.

Còn lại những người vẫn theo đuổi nghệ thuật thì trước hết phải kể đến Bích Chiêu, người chị lớn của gia đình nghệ sĩ Lữ Liên. Giã từ tuổi ấu thơ, Bích Chiêu mang giọng hát nũng nịu và man dại gieo rắc các phòng trà và và hộp đêm ở Sài Gòn. Chị trở thành thần tượng của nhiều khán thính giả. Dù chuyên hát nhạc ngoại quốc, Bích Chiêu vẫn thành công qua những ca khúc trữ tình Việt Nam.

Bài hát mang dấu ấn riêng của Bích Chiêu là “Nỗi Lòng” của Nguyễn Văn Khánh. Có lẽ cho đến giờ chưa thấy ai hát bài này lơi lả và khêu gợi như giọng hát Bích Chiêu. Cách kéo câu của chị là một tuyệt chiêu mà sau này, cô em gái Khánh Hà cũng tận dụng và thành công như bà chị.

Tuấn Ngọc cũng trở thành một nam danh ca sáng giá. Như bà chị Bích Chiêu, anh khởi đầu sự nghiệp bằng nhạc ngoại quốc, hát cho các club Mỹ. Nhưng chính là khi anh hát nhạc Việt ở hải ngoại mới trở thành thần tượng của thính giả khắp nơi. Cũng như những người con trong gia đình Lữ Liên, Tuấn Ngọc tạo cho mình một nét riêng trong cách hát, cách nhả chữ “lừng khừng,” hay cách lên một nốt cao đầy sung mãn khiến những người yêu nhạc mê thích. Chỉ cần thấy hiện tượng “bắt chước” Tuấn Ngọc trong các tài năng mới, chúng ta biết anh được sự ái mộ rộng rãi của mọi người.

Chị Mai Hương bắt đầu hát ban “người lớn” khi 18 tuổi, và là một trong những giọng ca chủ lực của hầu hết các ban trên các đài phát thanh, nhờ giọng hát ngọt ngào cộng với kiến thức về nhạc lý vững vàng.

Chị Bạch Tuyết học dược và trở thành dược sĩ. Chị Mai Hân ít hát hơn, và về sau trở thành một xướng ngôn viên chuyên nghiệp.

Có một người hát hay vô cùng khi còn nhi đồng. Theo thiển ý của người viết thì hát hay nhất trong tất cả là Tuyết Phương. Sau khi ngưng hát, Quỳnh Giao có thoáng gặp chị trong trường Gia Long khi hai đứa học cùng trường mà không cùng lớp. Cùng lớp thì có cô bạn Hoàng Oanh, về sau nổi tiếng ngâm thơ hay và là một trong những giọng hát được thu vào đĩa nhựa nhiều nhất trước 1975.

Nhân đây Quỳnh Giao cũng phải nhắc lại việc cộng tác với các đài phát thanh ngày xưa. Khi hát với các ban trên đài phát thanh, kỹ thuật thu thanh và bài vở đòi hỏi ca sĩ phải vững nhạc lý. Các nhạc trưởng đưa bài là phải cầm xem và hát ngay, cả bài đơn ca lẫn hợp ca hay phụ họa. Trong một buổi thu thanh, ca sĩ phải chu toàn nhiều nhiệm vụ: khi thì đơn ca, khi thì song ca hay tam ca, kể cả trình bày các bài hợp ca và hát phụ họa cho người khác. Trong một chương trình phát thanh mà thời ấy trong đài vẫn gọi là “émission” thì ca sĩ phái hát cỡ năm sáu bài khác nhau, cũ và mới, quen hay lạ. Rất khác với kiểu trình bày trong phòng trà cho khán giả.

Nhìn tấm hình, như nhìn cả tuổi thơ hiện về. Bỗng thấy lòng mình chùng xuống vì thời gian trôi qua mau quá, như vó câu qua cửa sổ, và nhớ ngôi nhà số 3 đường Phan Ðình Phùng tha thiết...

Ðó là đài phát thanh mà cũng là một gia đình lớn của nhiều thế hệ nghệ sĩ, từ tuổi xanh nhóc tì cho đến lão thành.
                                           
        Mời nghe toàn bộ: "Tình Khúc Văn Cao"  do Mai Hương & Quỳnh Giao trình bày

1. Thiên Thai (Văn Cao & Hoàng Thoại)- Quỳnh Giao & Mai Hương
2. Cung Đàn Xưa (Văn Cao) - Quỳnh Giao
3. Suối Mơ (Văn Cao) - Mai Hương
4. Làng Tôi (Văn Cao) - Quỳnh Giao &Mai Hương
5. Trương Chi (Văn Cao) - Quỳnh Giao
6. Ngày Mùa (Văn Cao) - Quỳnh Giao & Mai Hương
7. Bến Xuân (Phạm Duy & Văn Cao) - Mai Hương
8. Buồn Tàn Thu (Văn Cao) - Quỳnh Giao
9. Thu Cô Liêu (Văn Cao) - Mai Hương
10. Trường Ca Sông Lô (Văn Cao) - Quỳnh Giao & Mai Hương
                
     Mời nghe toàn bộ CD "Tìm Nhau Bốn Mùa" với tiếng hát Kim Tước, Mai Hương, Quỳnh Giao  & Duy Trác
                                       
Nắng dương cầm
Nguyễn Lương Vy
Tưởng niệm nữ nghệ sỹ Quỳnh Giao


Tháng Bảy nắng dương cầm réo rắt
Ngón tay người nở một trời bông
Bông biêng biếc bông trắng ngần tâm tướng
Hạc vàng bay hay hồn người mênh mông

Tháng Bảy nắng dương cầm nghiêng xuống
Tiếng hát người ghé lại thềm xưa
Trưa đứng bóng sóng về đâu biển vắng
Thương ngàn trùng âm vang tan hay chưa

Tháng Bảy nắng dương cầm rưng nụ
Trái tim người tươi lắm mùa xưa
Hương quỳnh giao hương của trời lãm thúy
Vườn trần gian đàn xanh hơn xa hơn

Tháng Bảy nắng dương cầm muốn khóc
Dung nhan người còn lại lá bay
Trời thấp xuống trời cao lên níu bóng
Xin chào nhau bi âm trong lòng tay…
    
                Nắng Dương Cầm - Thơ: Nguyễn Lương Vy, Nhạc: Lại Tôn Dũng - Tiếng hát Tâm Thư

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét