Thứ Bảy, 30 tháng 7, 2016

KÝ ỨC CHÓI LỌI 20

(ĐC sưu tầm trên NET)

CHIẾN DỊCH THẬP VẠN ĐẠI SƠN1
(Tiến công, từ ngày 10 tháng 6 đến ngày 5 tháng 7 năm 1949)


Cuối năm 1948, Giải phóng quân Trung Quốc do Đảng cộng sản Trung Quốc lãnh đạo đã giành được những thắng lợi to lớn. Quân Quốc dân đảng của Tưởng Giới Thạch bị đẩy lùi từ Hoa Trung xuống Hoa Nam và đang tìm đường tháo chạy ra biển Đông. Chính vì vậy, ở vùng Quảng Đông, Quảng Tây, quân “địa phương” của Quốc dân đảng ra sức củng cố vùng hậu phương này để làm hậu thuẫn cho quân chủ lực của Tưởng Giới Thạch vừa phải rút chạy, vừa phải chống cự với Giải phóng quân Trung Quốc. Ở biên khu Điền Quế và Việt Quế - một bộ phận quan trọng của “căn cứ địa Hoa Nam”, lực lượng vũ trang cách mạng có trên ba tiểu đoàn tập trung và một số đội du kích địa phương, nhưng do bị bọn Quốc dân đảng tập trung càn quét liên miên, nên họ gặp một khó khăn lớn là không có cơ sở ổn định, phải luôn di động. Hơn nữa, việc chuẩn bị một địa bàn tác chiến cho đại quân chủ lực của Giải phóng quân Trung Quốc (Đại quân Nam Hạ) tràn xuống tiến công các đạo quân của Tưởng Giới Thạch đã là một vấn đề cấp thiết được đặt ra. Chính trong hoàn cảnh ấy, theo chỉ thị của Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, đầu tháng 3 năm 1949, Bộ tư lệnh biên khu Việt Quế cử chính uỷ Sần Minh Coóng (tức Trần Minh Giang) sang Việt Nam liên hệ với ban chỉ huy trung đoàn 59, đề nghị ta đưa quân sang phối hợp đánh quân Quốc dân đảng, giúp Trung Quốc xây dựng khu giải phóng ở vùng Ung - Long - Khâm2, tiếp giáp với các tỉnh Cao Bằng, Lạng Sơn và Hải Ninh của ta. Việc đưa quân sang đất bạn là một vấn đề rất lớn hệ trọng, nên trung đoàn 59 đã báo cáo lên cấp trên để xin chỉ thị.

Thể theo yêu cầu cấp thiết của bạn, Ban Thường vụ Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ thị cho Bộ Tổng tư lệnh đưa quân sang giúp, mặc dù lúc đó ta mới bước vào năm thứ ba của cuộc kháng chiến chống Pháp, đang còn khó khăn rất lớn về nhiều mặt. Ngày 23 tháng 4, Đại tướng Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp ra mệnh lệnh số 464B/TTL3, gửi cho Bộ tư lệnh Liên khu 1. Phần nhiệm vụ, bản mệnh lệnh ghi rõ: “Bộ Tổng tư lệnh quyết định: phối hợp cùng các Lực lượng vũ trang Giải phóng quân Biên khu Việt Quế - Điền Quế, kịp thời hành động giúp Giải phóng quân xây dựng một khu giải phóng ở vùng Ung-Long-Khâm, liền biên giới Đông Bắc của ta, thông ra bể, gây điều kiện khuếch trương lực lượng đón đại quân Nam Hạ. Đồng thời hoạt động để mở rộng khu tự do Đông Bắc ra tận biên giới và thông ra bể, liền với khu giải phóng Việt Quế...4.

Theo sự thoả thuận của ta và của bạn, Bộ Tổng tư lệnh quyết định thành lập Bộ chỉ huy tiến công giải phóng Biên khu Việt Quế - Điền Quế, mang biệt danh “Bộ Tư lệnh Thập Vạn Đại Sơn” gồm Lê Quảng Ba (chỉ huy trưởng Mặt trận Đông Bắc) làm Tư lệnh; Trần Minh Giang (Đại diện Bộ chỉ huy Biên khu Việt Quế) làm Chính trị uỷ viên. Toàn chiến dịch đặt dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Bộ Tổng tư lệnh.
___________________________________
1.Còn có tên gọi: Chiến dịch tiến công giải phóng Biên khu Điền Quế - Việt Quế.
2.Vùng Ung-Long-Khâm gồm ba huyện Ung Ninh, Long Châu và Khâm Châu. Trên thực tế, bộ đội Việt Nam sang giúp bạn, hoạt động tác chiến ở các huyện Long Châu, Khâm Châu và Phòng Thành, ta đã giúp bạn khôi phục và mở rộng khu căn cứ địa ở vùng Ung-Khâm-Phòng.
3.Trích trong cuốn: “Những tài liệu chỉ đạo chiến dịch của Trung ương Đảng, Tổng Quân uỷ và Bộ Tổng tư lệnh” - t.1, BTTM xuất bản, trang 265-267, Lưu trữ Viện LSQSVN (TL-1309).
4.Trích trong cuốn : “Những tài liệu chỉ đạo chiến dịch của Trung ương Đảng, Tổng Quân uỷ và Bộ Tổng tư lệnh” - t.1, BTTM xuất bản, trang 265-267-Lưu trữ Viện LSQSVN (TL-1309).

 
Lực lượng tham gia chiến dịch: Về phía ta có trên bốn tiểu đoàn được tổ chức thành lực lượng đặc biệt1 gồm hai chi đội (6 và 28); hình thành hai mặt trận, hai hướng tiến công:

Mặt trận phía tây Thập Vạn Đại Sơn  (Mặt trận Long Châu - Biên khu Điền Quế) do đồng chí Thanh Phong (Phó tư lệnh Liên khu I) làm Tư lệnh mặt trận; đồng chí Chu Huy Mân, Chính uỷ trung đoàn 74 và đồng chí Hoàng Long Xuyên, trung đoàn trưởng trung đoàn 28 làm Phó Tư lệnh. Lực lượng gồm: Tiểu đoàn 73 thuộc trung đoàn 74, Liên khu 1; tiểu đoàn 35 thuộc trung đoàn 308 của Bộ, một đại đội sơn pháo 70mm, một đại đội trợ chiến và bộ phận quân y, thông tin, các lực lượng này được tổ chức thành Chi đội 28. Ngoài ra còn có hai đại đội địa phương, một đại đội của huyện Thoát Lãng (nay là Văn Uyên) và một đại đội của tỉnh Lạng Sơn. Quân ta lấy danh nghĩa là “Giải phóng quân Tả Giang”, tiểu đoàn 73 được gọi là “Đoàn 25”, tiểu đoàn 35 gọi là “Đoàn 35”. Trên mặt trận này, lực lượng Giải phóng quân Trung Quốc có hai đại đội và một số đội vũ trang địa phương; đồng chí Lộc Hoà (tức Ké Lộc), Tư lệnh khu Tả Giang - Long Châu tham gia trong Bộ tư lệnh Mặt trận.

Mặt trận phía đông Thập Vạn Đại Sơn (Biên khu Việt Quế) bên kia biên giới Lạng Sơn, Hải Ninh do đồng chí Lê Quảng Ba trực tiếp làm Tư lệnh; đồng chí Trần Minh Giang làm Chính uỷ. Lực lượng trên hai tiểu đoàn: tiểu đoàn 426 được tăng cường một đại đội 1488; tiểu đoàn 1 (còn gọi là tiểu đoàn Minh Hổ); một bộ phận cơ quan tham mưu, chính trị, hậu cần của mặt trận Duyên Hải - Đông Bắc, được bổ sung thêm các tổ quân y, quân dược chuyển thành cơ quan trực thuộc Bộ Tư lệnh Thập Vạn Đại Sơn (mặt trận phía Đông). Hai tiểu đoàn 426 và 1 được tổ chức thành chi đội 6; đồng chí Nam Long, trung đoàn trưởng trung đoàn 59 được cử làm Chi đội trưởng, đồng chí Hoàng Bình, trung đoàn trưởng trung đoàn độc lập Hải Ninh làm Chi đội phó, đồng chí Đỗ Trình làm Chính trị uỷ viên chi đội kiêm Chính trị hợp trợ viên cho Bộ Tư lệnh Thập Vạn Đại Sơn. Sau trận Trúc Sơn, đồng chí Đỗ Trình được gọi về nước nhận nhiệm vụ mới, đồng chí Dũng sang thay2.

Trên mặt trận này, lực lượng Giải phóng quân Trung Quốc có ba tiểu đoàn được tổ chức thành một chi đội (chi đội 3) do đồng chí Vương Cương (Voòng Coóng) làm chi đội trưởng, ngoài ra còn có một số trung đội du kích địa phương.

Bên cạnh chính uỷ Trần Minh Giang, phía bạn còn có: Trần Phát, uỷ viên khu Thập Vạn Đại Sơn ; Lê Công (Lầy Cống), Tham mưu trưởng; Lê Liên (Lý Sỉu), Chủ nhiệm Chính trị; Hoàng Nhị Thư (Vòng Dì Chế) phụ trách hậu cần.

Các đơn vị của ta được lệnh đi làm nhiệm vụ quốc tế khẩn trương chuẩn bị về mọi mặt. Nhiều đoàn cán bộ được phái đi trước chuẩn bị chiến trường, công tác tư tưởng, tổ chức được tiến hành tỷ mỷ, chu đáo. Cán bộ, chiến sĩ được học tập về nhiệm vụ quốc tế, tìm hiểu phong tục tập quán, ngôn ngữ và học một số từ, câu để giao tiếp với nhân dân địa phương. Các đơn vị được bổ sung thêm trang bị, vũ khí (có đủ súng trường, lựa đạn và cả trung liên, trung đội hoả lực có cối 60mm), phương tiện thông tin và lương thực, thực phẩm; lực lượng hậu cần còn mang theo dược liệu, dụng cụ pha chế thuốc và tăng cường cán bộ quân y để giải quyết “hậu cần tại chỗ”. Các đơn vị của bạn được trang bị đầy đủ súng trường Thất cửu (7,9 mm), lựu đạn, tiểu liên, trung liên (ở cấp trung đội) và súng cối (ở cấp đại đội). Đồng bào làm gạo rang, chè lam, nước gừng ủng hộ bộ đội. Phụ nữ vá quần áo, khâu bao gạo, thanh niên vót tre đan mũ và giã giò tặng bộ đội. Công tác chuẩn bị kéo dài gần một tháng. Bộ đội được cấp thêm mỗi người 15 ngày gạo tính từ ngày vượt biên giới đề phòng bạn không tiếp tế kịp.
______________________________________
1.Chỉ thị số 84/CTNE của Bộ Tổng Tham mưu do Tổng Tham mưu trưởng Hoàng Văn Thái ký ngày 28 tháng 4 năm 1949. Lưu trữ Viện LSQS (TL.1309).
     Trước chiến dịch, tiểu đoàn 426 là tiểu đoàn tập trung thuộc trung đoàn 59 của Liên khu 1 do đồng chí Biên Cương làm tiểu đoàn trưởng, đồng chí Đỗ Đình Khúc làm chính trị viên (khi rút về nước, đồng chí Khúc ngã bệnh, từ trần) và đồng chí Trần Vinh làm tiểu đoàn phó. Tiểu đoàn 1 (tức Minh Hổ) thuộc trung đoàn độc lập Hải Ninh do tiểu đoàn trưởng Minh Hổ chỉ huy. Tiểu đoàn phần lớn là anh em dân tộc Ngái từ Triều Châu Trung Quốc di cư sang.

2.Lúc đó, Hoàng Thế Dũng, nguyên chính trị viên trung đoàn Hải Kiến (Hải Phòng - Kiến An, sau này mang phiên hiệu trung đoàn 42), phái viên của Cục Chính trị Bộ tư lệnh (nay là Tổng cục Chính trị).
     Đồng chí Việt Hưng, trung đoàn phó trung đoàn 59 ở lại trong nước để chỉ đạo các đại đội độc lập của trung đoàn đang phân tán hoạt động ở hai tỉnh Bắc Giang, Hải Ninh và đường số 4 từ nam Lạng Sơn ra Tiên Yên, Móng Cái. Sau đó, đồng chí Việt Hưng có nhiệm vụ đưa bộ đội sang bảo vệ đường rút về của quân ta qua địa phận Thượng Tư và Tư Lạc. (Hiện có một vài ý kiến cho rằng đồng chí Việt Hưng sang làm Tham mưu trưởng Chi đội 6. Đơn vị bảo vệ đường rút về này đã diệt được một đồn biên phòng của địch.

 


 



WWW
 


Chiến dịch diễn ra trên địa bàn ba huyện: Long Châu, Khâm Châu và Phòng Thành. Mỗi huyện có diện tích tương đương và lớn hơn một tỉnh của Việt Nam. Dãy Thập Vạn Đại Sơn (mười vạn ngọn núi) là dãy núi cao, rừng rậm, hiểm trở nằm giữa ranh giới hai tỉnh Quảng Đông và Quảng Tây. Địa bàn diễn ra chiến dịch là hai vùng rộng lớn phía tây và phía đông dãy Thập Vạn Đại Sơn, bao gồm: những dãy núi cao, những vùng bán sơn địa, những cánh đồng rộng và vùng đồng bằng duyên hải, với nhiều làng mạc và thị trấn (trong đó có những thị trấn lớn tương đương thành phố Hà Nội như: Nà Lường, Giang Bình, Síu Tổng, Đông Hưng). Các trục đường bộ chạy dài nối giữa các thị trấn. Nhiều sông rộng, suối lớn. Khí hậu rất khắc nghiệt. Dân cư trên địa bàn phần lớn là nghèo vì bị bọn thổ phỉ và quân Quốc dân đảng cướp phá nhiều lần. Họ cũng chưa được giác ngộ cách mạng.

Lực lượng địch có trên năm trung đoàn. Khu Long Châu (Mặt trận phía Tây) là một trong 14 khu quân sự của Quốc dân đảng ở tỉnh Quảng Tây, do hai trung đoàn bảo an, và nhiều đội bảo vệ, tuần sát dân đoàn ở các huyện đóng giữ. Khu Khâm Châu và Phòng Thành (Mặt trận phía Đông) lực lượng địch có trên ba trung đoàn, chúng bố trí hai trung đoàn ở Đông Hưng, một trung đoàn ở Phòng Thành.

Trên cả hai vùng, tuỳ theo địa thế và mức độ (lớn, nhỏ) của từng vị trí, đồn bốt, chúng bố trí từ một đến hai trung đội, có nơi đến bốn đại đội quân Quốc dân đảng, chưa kể các dân đoàn hương và các đội vũ trang riêng của địa chủ. Nếu chúng thống nhất được hai lực lượng này sẽ trở thành đối tượng rất nguy hiểm đối với ta. Nhưng ở thời kỳ này, quân Quốc dân đảng đang hoang mang, lòng người ly tán, “quân đội” và “dân hương” rời rạc, không thống nhất được với nhau.

Chi đội trưởng Nam Long dẫn đầu đoàn cán bộ đi chuẩn bị chiến trường hướng Khâm Châu, Phòng Thành. Đường từ Bản Chắt (Chi Lăng) qua các huyện Tứ Lạc, Thượng Tư sang Khâm Châu núi thấp dễ đi, nhưng rất gần đồn bốt của quân Pháp và quân Quốc dân đảng nên Bộ tư lệnh chiến dịch chấp nhận đề nghị phương án hành quân vượt qua Thập Vạn Đại Sơn đoạn đường qua đỉnh đèo Bắc Luân, cao 1.013 mét. Từ sáng sớm ngày 18 đến 21 tháng 6 bộ đội ta vượt đoạn đường đèo hiểm trở vô cùng gian khổ qua Thập Vạn Đại Sơn, tập kết tại Pắc Lầu, địch ở đây hoảng sợ bỏ chạy. Ngay 24 tháng 6, quân ta tiến vào Phù Lủng. Ngày 25, địch ở Nà Số (gần Phù Lủng) cũng bỏ chạy về Nà Lường. Ta tiến vào Nà Số, tại đây Bộ tư lệnh họp bàn kế hoạch tác chiến.

Sau những ngày hành quân gian khổ đến vị trí tập kết, các đơn vị lại rơi vào tình thế rất nghiệt ngã: hết lương thực. Tình hình cung cấp của bạn rất khó khăn, bộ đội ta buộc lòng phải tiến hành công tác dân vận để “thu lương”. Vào làng nào quân ta cũng tổ chức quét dọn vệ sinh sạch sẽ, chữa bệnh, bôi thuốc trị ghẻ lở cho người già, trẻ em, dạy hát cho thanh thiếu niên, v.v... Do làm tốt công tác dân vận nên các đơn vị đã thu mua được lương thực, thực phẩm, dần dần khắc phục được nạn đói và củng cố được sức khoẻ cho bộ đội trước khi bước vào chiến đấu.

Mặt trận phía tây Thập Vạn Đại Sơn cũng gặp một khó khăn tương tự như Mặt trận phía Đông, chiến trường lạ, đối tượng tác chiến mới, địa bàn rất rộng trong khi công tác chuẩn bị chiến trường gặp nhiều khó khăn, nhất là thiếu lương thực; nhưng bộ đội ta đã nêu cao tinh thần quốc tế vô sản, đoàn kết phối hợp với Quân giải phóng Trung Quốc bước ngay vào cuộc chiến đấu.

Sáng 10 tháng 6, Chi đội 28 chia thành hai mũi bất ngờ tiến công mạnh trên hướng chính của Mặt trận: Thuỷ Khẩu - Hạ Đống, mở đường tiến về thị xã Long Châu. Bộ binh phối hợp với pháo binh tiến công diệt đồn Thuỷ Khẩu (đối diện với Phục Hoà - Cao Bằng) do một đại đội địch đóng giữ. Sau hai ngày chiến đấu, tổ chức nhiều đợt xung phong, đến đêm 12 tháng 6, Đoàn 25 hoàn toàn làm chủ vị trí và truy kích tàn quân địch chạy về hướng Long Châu. Cùng thời gian trên, vị trí Hạ Đống cũng bị đại đội 164 Đoàn 35 tiêu diệt. Ngày 14 tháng 6, quân ta diệt luôn La Hồi. Quân Quốc dân đảng đưa một tiểu đoàn từ Long Châu xuống ứng chiến cho đồng bọn ở Độc Sơn (một vị trí ven sông nằm giữa La Hồi - Hạ Đống). Ngày 15 tháng 6, chúng bị quân ta chặn đánh, dồn vào các hang đá ven sông Tả Giang gần thị trấn Hạ Đống. Bị bao vây chặt suốt từ sáng đến tối 15, phần lớn tiểu đoàn địch bị diệt và bị bắt, số ít còn lại tháo chạy về Long Châu. Đoàn 35 hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ đánh điểm, diệt viện.

Trên hướng phối hợp Nam Quan - Ải Khẩu, hai đại đội và một trung đội hoả lực cối 60mm do đồng chí Hoàng Long Xuyên, Phó tư lệnh Mặt trận chỉ huy, phối hợp với một trung đội địa phương do đồng chí Ké Lộc chỉ huy đã bố trí một đại đội và trung đội địa phương bao vây đồn Nam Quan. Đại đội thứ hai và trung đội hoả lực phục kích đoạn đường qua dãy núi đá ở Pha Luông trên đường Bằng Tường đến Nam Quan, hai điểm này cách nhau 15 km. Ngày 12 tháng 6, ta tiến hành bao vây. Bị vây chặt trong một tuần, quân Tưởng trong đồn không còn gì ăn, định rút, nhưng bị ta chặn đánh lại phải co vào đồn cầu cứu viện binh. Địch cho hai đại đội từ Bằng Tường lên ứng cứu. 8 giờ sáng, đội hình địch lọt vào trận địa phục kích. Ta nổ súng diệt tại trận năm tên, bắt sống 25 tên, thu 12 súng Thất cửu. Địch bỏ chạy tán loạn về Bằng Tường. Quân ta lập tức truy kích. Cùng ngày, ta bao vây bức địch rút bỏ vị trí Ải Khẩu chạy về Bằng Tường. Ta truy kích tiếp. Ngày 13 tháng 6, địch ở Bằng Tường rút chạy. Một trung đội lính Pháp từ Đồng Đăng tiến lên Nam Quan cũng bị ta đánh lui.

Bị đánh dồn dập, bất ngờ từ nhiều hướng, quân Quốc dân đảng vội vã rút bỏ một loạt vị trí: Lôi Bình, Bằng Kiều, Thông Keo, Thượng Thạch, Hạ Thạch đồng thời dồn theo một số lớn dân chúng chạy về Long Châu. Thị xã Long Châu trở nên rối loạn. Đợt tiến công đầu tiên kết thúc thắng lợi. Căn cứ cách mạng ở Long Châu được mở rộng, chính quyền cách mạng được thiết lập ở nhiều nơi. Tận dụng lúc địch hoang mang, ta tiến sâu vào vùng địch kiểm soát, kêu gọi, tổ chức nhân dân nổi dậy. Quân ta hoàn toàn kiểm soát đoạn đường Thuỷ Khẩu - Hạ Đống trên tuyến Cao Bằng - Long Châu. Tuyến phòng thủ của địch từ Bằng Tường qua Long Châu tới Lôi Bình bị đánh dồn ở hai đầu và uy hiếp mạnh ở giữa. Địch phải tập trung lực lượng co về phòng thủ Long Châu chờ tiếp viện. Ngày 24 tháng 6, quân tiếp viện từ Nam Ninh đến, Long Châu trở thành điểm co cụm mạnh của địch.
 

 


Mặt trận phía đông Thập Vạn Đại Sơn: Sau khi nghiên cứu tình hình, ngày 1 tháng 7, Bộ tư lệnh quyết định tiến công Trúc Sơn, một thị trấn cửa khẩu lớn (mỗi bề một km) gần Đông Hưng do bốn đại đội đóng giữ. Từ Trúc Sơn có đường thuỷ thông ra biển và đường bộ đến Đông Hưng, Phòng Thành. Quân địch đóng trong các phố; bốn góc có bốn lô cốt, lô cốt mẹ cao 7,8 mét xây bằng gạch, có nhiều lỗ châu mai. Quanh lô cốt bố trí nhà lính ở, có hàng rào tre vót nhọn bao quanh. Phía ta, tiểu đoàn 426 thạo đánh phục kích, tập kích, tiểu đoàn Minh Hổ quen hoạt động du kích, cả hai đơn vị chưa có kinh nghiệm đánh công kiên. Bạn có ba tiểu đoàn, một đại đội ở Hợp Phố, còn hai đại đội ở Phòng Thành và Khâm Châu nhưng cũng chưa thạo đánh công kiên.

0 giờ 15 phút đêm 5 tháng 7, quân ta từ ba mặt nổ súng. Cối 82mm, 60mm và trung liên, đại liên phát huy hoả lực. Địch cũng bắn trả mãnh liệt. Đại đội 86 chiếm được một phố nhưng không hạ được lộ cốt vì đạn Badôka không nổ. Các đại đội 85, 87 cũng gặp khó khăn vì hoả lực địch. Trận đánh kéo dài đến sáng, cả hai bên đều bị tiêu hao. Bộ tư lệnh chủ trương chuyển sang bao vây và tiêu diệt lô cốt chính để kìm chế Trúc Sơn, hãm lương, buộc địch hàng. Đến ngày thứ ba, hết gạo, bộ đội ta phải ăn ngô rang. Nhưng do giữ nghiêm kỷ luật dân vận nên nhân dân cảm mến đã nấu cháo, mổ lợn tiếp tế và động viên quân ta giết giặc. Trong lúc bao vây, các đơn vị chặn viện đã nhiều lần tổ chức đánh viện cả trên đường bộ và đường thuỷ từ Đông Hưng và Phòng Thành đến Trúc Sơn. Sau năm ngày bao vây, 4 giờ ngày 10 tháng 7, bộ đội ta rút khỏi Trúc Sơn về Vọng Thôn. Địch chết và bị thương (cả ở căn cứ và trên đường bị phục kích) gần hai đại đội, ta cũng hy sinh và bị thương 53 đồng chí, có một đại đội trưởng, một trung đội trưởng và ba tiểu đội trưởng.

Sau trận Trúc Sơn, Bộ Tư lệnh phái tiểu đoàn phó Trần Vinh đem một trung đội trở lại Phù Lủng làm công tác dân vận, chuẩn bị địa bàn cho quân ta rút từ đồng bằng lên núi khi cần thiết. Bọn Quốc dân đảng cho 500 quân đi càn, trung đội đi cùng đồng chí Trần Vinh trong năm ngày đã đánh ba trận: Pắc Cáp, Cốc Phào, Nà Sậm, địch rút quân. Ngày 7 tháng 5, chi đội 3 của bạn sử dụng một tiểu đoàn chủ lực và tập trung 11 trung liên tiêu diệt quân Quốc dân đảng đóng trên những ngọn đồi xung quanh Trúc Sơn, thu toàn bộ vũ khí. Hoảng sợ, địch bỏ Trúc Sơn rút về Đông Hưng. Tiếp đó chúng bỏ Nà Lường rút về Phòng Thành. Vùng giải phóng khu Thập Vạn Đại Sơn được mở rộng. Chính quyền cấp huyện đầu tiên được thành lập ở Nà Lường. Nhiều địa chủ phản động bỏ chạy về Đông Hưng và Phòng Thành. Bạn đã bắt đầu thu được thuế ở cửa khẩu Trúc Sơn.

Sau một thời gian củng cố, quân ta tiếp tục tiến công địch ở quanh Nà Số, bức chúng rút khỏi Vòng Chúc, ngày 25 tháng 7, đánh địch vận động ở Mào Lẻng (Mao Lĩnh). Quân ta vượt sông sang Khâm Châu đuổi đánh đoàn thuyền lương của tên trùm phỉ Trương Thuy Quý trên bến Trường Thán. Đầu tháng 8, trên đường hành quân từ Nà Số đi Khâm Châu, bộ đội ta gặp địch, trận tao ngộ chiến diễn ra ở núi Quan Đường (phía nam Nam Ninh). Quân địch lên chiếm điểm cao bên đường. Ta nhanh chóng chiếm điểm cao đối diện và phát huy hoả lực bắn mạnh sang rồi xung phong đánh bật chúng ra khỏi các điểm cao. Địch phải dồn xuống khe núi. Ta dùng trung liên và lựu đạn diệt nhiều tên, số còn lại ra hàng. Trong trận này ta diệt một đại đội địch, bắt 35 tên, thu nhiều vũ khí. Nhân dân trong vùng phấn khởi mang gạo, thịt uý lạo bộ đội.

Ngày 16 tháng 8, phối hợp với bạn, ta phục kích địch tại On Mộc trên đường Tai Tri đi Khâm Châu. Sau một giờ chiến đấu, ta diệt và bắt sống nhiều tên. Cuối tháng 8, phối hợp với du kích địa phương, ta diệt và bắt 100 tên phỉ có cả tên chỉ huy. Cuối tháng 10, khi chỉ huy bạn đã liên lạc được với đại quân Trung Quốc, ta được lệnh rút về nước. Bộ tư lệnh để lại một đại đội phối hợp với bạn tiếp tục làm nhiệm vụ xây dựng cơ sở và đánh địch ở vùng biên giới hai tỉnh Quảng Đông và Hải Ninh. Cánh quân trên Mặt trận phía Đông đã hoàn thành nhiệm vụ.

Mặt trận phía Tây: Nhận thấy các đơn vị của ta gặp phải một số khó khăn, lương thực và đạn lại chưa bổ sung kịp, Bộ tư lệnh quyết định chuyển sang vây hãm địch, đồng thời tập trung lực lượng về chuẩn bị đánh chiếm thị trấn Ninh Minh. 10 ngày cuối tháng 6, ta và bạn cử những bộ phận nhỏ áp sát thị xã Long Châu, tiến hành trinh sát vũ trang, vừa bắn phá quấy rối vừa tuyên truyền vận động nhân dân và tổ chức nghi binh đánh lạc hướng địch.

Ngày 30 tháng 6, ta siết chặt vòng vây Ninh Minh. Ngày 1 tháng 7, bộ đội ta hình thành nhiều mũi tiến công vào Ninh Minh. Nhưng quân địch hoảng sợ đã rút chạy từ đêm hôm trước qua sông Kỳ Cùng sang Ninh Giang. Địch bỏ lại 300 tấn thóc, một kho quân dược và nhiều đồ dùng quân sự. Nhân dân khen bộ đội Việt Nam đánh giỏi, kỷ luật nghiêm, họ đã tình nguyện làm liên lạc dẫn đường giúp bộ đội đánh quân Quốc dân đảng và ủng hộ nhiều lương thực, thực phẩm, thuốc men.

Ngày 3 tháng 7, ta chuẩn bị đánh Thượng Kim. Nhưng nhờ có quân tăng viện từ Nam Ninh đến, bọn chỉ huy Quốc dân đảng ở Long Châu tổ chức chiếm lại Hạ Thạch, ra sức củng cố Ninh Giang, Thượng Kim để chiếm lại Ninh Minh. Xét thấy lực lượng ta ít, lương và đạn hết, ta không thực hiện được ý định đánh Thượng Kim. Ngày 5 tháng 7, Bộ Tổng tư lệnh chỉ thị kết thúc chiến dịch, rút quân về nước. Ta để lại một bộ phận thuộc đại đội địa phương Văn Uyên phối hợp hoạt động và củng cố cơ sở với bạn ở vùng Nam Quan - Ải Khẩu. Đại đội địa phương của Thoát Lãng hoạt động ở vùng Lôi Bình.

Sau gần một tháng tiến công và hoạt động, bộ đội của ta ở mặt trận phía Tây đã cùng với Quân giải phóng Trung Quốc đánh tiêu diệt và làm tan rã nhiều đơn vị quân Quốc dân đảng; diệt và làm bị thương và bắt gần 400 tên; thu 534 súng các loại; đánh chiếm và bức rút các vị trí: Thuỷ Khẩu, La Hồi, Hạ Đống, Lôi Bình, Thượng Thạch, Ninh Minh...; giải phóng năm hương cùng hàng vạn dân. Ở mặt trận phía đông, quân ta và bạn đã loại khỏi vòng chiến đấu một trung đoàn quân Quốc dân đảng; bức rút và giải phóng 10 trong số 12 thị trấn lớn và nhỏ (Phù Lủng, Nà Số, Nà Thìu, Nà Lường, Giang Bình, Síu Tổng, Đồng Chúc, Mào Lẻng, Đông Hưng...), mở rộng và củng cố căn cứ địa Thập Vạn Đại Sơn của bạn, tạo thành hậu cứ, địa bàn vững chắc cho đại quân Nam Hạ của bạn tiến xuống; đồng thời đã vừa tạo thuận lợi cho quân ta hoạt động ở vùng Đông Bắc, vừa thiết thực ngăn chặn được tàn binh của Quốc dân đảng không tràn xuống vùng Cao Bằng, Lạng Sơn và Hải Ninh của ta. Mục tiêu, nhiệm vụ cơ bản của chiến dịch ta đã hoàn thành.

Trong cuộc họp chung của Bộ Tư lệnh Thập Vạn Đại Sơn (gồm cả ta và bạn) đã tổng kết chiến dịch và đánh giá: “Thắng lợi về quân sự đã quan trọng, nhưng thắng lợi về chính trị còn lớn hơn nhiều”. Bằng công sức và xương máu, bộ đội ta đã trực tiếp góp phần xây đắp tình hữu nghị giữa nhân dân hai nước Trung Quốc mới và Việt Nam mới. Góp phần tuy nhỏ nhưng rất quý và vẻ vang vào sự nghiệp giải phóng Trung Quốc. Chiến dịch cũng đã khẳng định tinh thần kỷ luật rất cao, thương dân hết mực và dũng cảm vô song, hy sinh thân mình vì nghĩa vụ quốc tế cao cả của bộ đội ta.

Nét nổi bật nhất của nghệ thuật chiến dịch ở đây là khi tiến công tiêu diệt cứ điểm không thành công, ta đã dùng kế vây hãm kết hợp với bố trí lực lượng để đánh viện, do đó tuy quân ít hơn hẳn, trang bị kém hơn địch nhưng ta đã tạo một thế đánh và đạt được hiệu suất chiến đấu khá cao. Quân địch nhanh chóng tan rã.

CHIẾN DỊCH LÊ LỢI
(Tiến công, từ ngày 25 tháng 11 năm 1949 đến ngày 30 tháng 1 năm 1950)1


Thực hiện chủ trương của Trung ương Đảng, ngày 13 tháng 9 năm 1949, Bộ Tổng tư lệnh hạ mệnh lệnh giao nhiệm vụ cho Bộ tư lệnh Liên khu 3 mở chiến dịch tiến công vào phân khu Hoà Bình nhằm mục đích: Chọc thủng hành lang đông - tây của địch; đánh thông đường liên lạc của ta giữa Việt Bắc với miền xuôi (Liên khu 3,4); tiêu diệt sinh lực địch, phá khối ngụy binh Mường tại vùng Hoà Bình - Đường số 6.

Hoà Bình là vùng rừng rậm núi cao, ở phía tây Bắc Bộ, cách Hà Nội 75 ki-lô-mét. Phía tây là dãy núi Trường Sơn, phía đông có dãy Ba Vì, giữa hai dãy núi là vùng rừng rậm với nhiều đồi liên tiếp và cánh đồng Vĩnh Đồng, huyện Lương Sơn khá rộng. Đường bộ có ba tuyến: Đường số 6 từ ngã tư Xuân Mai lên Hoà Bình, Chợ Bờ, Sơn La. Đường 12 từ Nho Quan qua Vụ Bản sang Hoà Bình. Đường 21 từ Sơn Tây qua ngã tư Xuân Mai đi Chi Nê. Đường thuỷ có sông Đà thông với sông Hồng ở Trung Hà, Sơn Tây, ngược lên Hoà Bình, Chợ Bờ, là dòng sông lớn nước sâu, chảy xiết. Nhưng cả đường thuỷ và bộ đều là đường độc đạo bị rừng núi bao bọc. Thời tiết hai mùa rõ rệt, mùa mưa lũ (hè - thu) và mùa khô (thu - đông). Dân cư phần lớn là đồng bào dân tộc, đông nhất là người Mường, sống thưa thớt, nghèo và lạc hậu. Với chính sách thực dân, địch đã xây dựng đội quân ngụy Mường khá đông đảo, nhưng lính Mường nhát, dễ dao động.

Tại phân khu Hoà Bình, lực lượng địch có tiểu đoàn 1 trung đoàn 5 lê dương, 12 đại đội ngụy Mường và lính lang (trong số này có 80 phần trăm là ngụy Mường) có hai pháo 105 mm, 20 cối và nhiều vũ khí bộ binh; tổ chức thành bảy tiểu khu với 28 vị trí đồn bốt. Các tiểu khu: Thị xã Hoà Bình, Cao Phong, Vụ Bản, Chợ Bờ, Toàn Thắng, Mai Hạ và Tu Vũ, bố trí dọc đường 6 từ Đồng Bến tới Suối Rút, dọc đường 12 từ Vụ Bản tới Hoà Bình. Các vị trí cách nhau từ 5 đến 10 ki-lô-mét, đoạn Chợ Bờ - Hoà Bình cách nhau xa hơn. Binh lính chủ quan, lơ là, công sự sơ sài, ghép gỗ đổ đất, nhà tranh, có giao thông hào, xung quanh có hàng rào tre bao bọc, thỉnh thoảng có gài mìn và cắm chông, đào hào đề phòng lực lượng ta. Một số vị trí lô cốt xây gạch như Vụ Bản, Hoà Bình, Chợ Bờ dựa vào đồn lính khố xanh cũ.

Địch ở đây chủ yếu lấy trung đội làm đơn vị chiếm đóng. Một số vị trí có hai trung đội hoặc một đại đội; phần lớn là lính ngụy và lính lang, chỉ có một số chỉ huy là người Âu - Phi. Riêng thị xã Hoà Bình có một tiểu đoàn thuộc trung đoàn 5 lê dương.

Lực lượng ta tham gia chiến dịch gồm có ba trung đoàn chủ lực (9, 66 và 209); hai trung đoàn địa phương (12 và 48) và tiểu đoàn 930 của Liên khu 10; một tiểu đoàn và hai đại đội pháo binh (tiểu đoàn 750 trung đoàn 66 và hai đại đội thuộc trung đoàn 9 và 209); ba đại đội công binh thuộc các trung đoàn chủ lực. Ngoài ra còn bộ đội địa phương, dân quân du kích và hàng nghìn dân công phục vụ.

Bộ chỉ huy chiến dịch: Tư lệnh chiến dịch: Hoàng Sâm (nguyên Tư lệnh Liên khu 3), Chính ủy: đồng chí Lê Quang Hoà (Chính ủy Liên khu 3), Phó tư lệnh: Lê Trọng Tấn (trung đoàn trưởng 209) và một đồng chí trong Bộ tư lệnh liên khu 4 (đầu tháng 9, Bộ Tổng tư lệnh ra mệnh lệnh chuẩn bị chiến dịch Lê Lợi và quyết định về thành phần Bộ chỉ huy như đã nêu. Nhưng đến cuối tháng 11, trước giờ nổ súng của chiến dịch, đồng chí Văn Tiến Dũng được chỉ định thay đồng chí Lê Quang Hoà làm chính ủy)2.

Phương châm tác chiến chiến dịch là: Đối với chủ lực, tập trung lực lượng đánh nhanh, giải quyết nhanh những vị trí chính của địch trong phạm vi Hoà Bình, Tu Vũ, Xuân Mai, Suối Rút. Chặn tiếp viện trên dọc sông Đà và đường số 6. Các đại đội độc lập và lực lượng vũ trang địa phương tổng phá ngụy quyền, phá xứ Mường tự trị; phát triển ngụy vận, phá khối ngụy Mường; thành lập chính quyền ta, phát động chiến tranh nhân dân, mở rộng cơ sở cách mạng trong xứ Mường.

Quyết tâm của Bộ chỉ huy chiến dịch là: Phân tán các trung đoàn chủ lực thành ba mặt trận để tiến công tiêu diệt các vị trí: Đồng Hến, Gò Bùi, Suối Rút, Mỏ Hẽm, Chợ Bờ trên đường 6; Ta-nê, Nghẹ trên đường 12. Thực hiện “chỉ đạo thống nhất, chỉ huy độc lập từng mặt trận”.

Trước chiến dịch, từ ngày 25 tháng 10 đến ngày 25 tháng 11, Bộ chỉ huy chiến dịch tổ chức nhiều cuộc họp quán triệt nhiệm vụ và soạn kế hoạch thực hiện nhiệm vụ. Tổ chức Ban chuẩn bị chiến trường của Bộ chỉ huy chiến dịch và các mặt trận; chỉ huy các cấp tiến hành trinh sát thực địa, điều tra tình hình địch, địa hình. Bộ đội tiến hành huấn luyện các khoa mục: Bộ binh đánh điểm, phục kích, tao ngộ, đánh đêm. Các đơn vị đắp sa bàn các vị trí được phân công đánh để luyện tập. Tổ chức hiệp đồng chiến đấu giữa bộ binh và các binh chủng. Công binh tập dọn mìn, chôn mìn, cắt dây thép gai bí mật, đánh bộc phá phá hàng rào dọn đường cho bộ binh. Pháo binh tập bắn đạn thật để điều chỉnh cho chính xác, tập bắn yểm hộ cho bộ binh xung phong. Các đơn vị đều học và tập hành quân, trú quân ở vùng rừng núi, chống quân nhảy dù, xe tăng, xe lội nước của địch và cách bắn máy bay bằng súng trường.

Công tác chính trị: Thực hiện “Tam đại dân chủ”3 quán triệt nhiệm vụ chiến dịch, các đơn vị, cá nhân hăng hái xung phong và đăng ký thi đua lập công. Tổ chức công tác chính trị trong hành quân, trú quân, đặc biệt chú trọng giáo dục công tác dân vận và địch vận cho bộ đội vì dân vùng này trình độ giác ngộ còn thấp, ngụy binh Mường cầu an, sợ chết, dễ tan rã.

Chuẩn bị hậu cần: Đặt ba trạm tiếp tế, cụ thể: khu A ở Chợ Bến - Chợ Đồi, tiếp tế cho các đơn vị hoạt động trên đường số 6 và 21. Khu B ở Nho Quan, tiếp tế cho bộ đội hoạt động dọc đường 12 đi Vụ Bản. Khu C ở Quảng Tế và Xóm Biện, tiếp tế cho bộ đội hoạt động dọc phía tây đường 12. Tổng cộng 2.442 tấn gạo, 144 tạ muối, 61 tạ cá, 15 tạ đường, 22 tạ vừng và một số lợn, gà, vịt. Ngoài ra các đơn vị còn tổ chức đội tiếp tế rau và hoa quả tươi đưa lên mặt trận.

Vũ khí chuẩn bị đủ cho chiến đấu đợt 1 và một phần đợt 2. Thông tin liên lạc: Liên lạc chạy chân 258 người, tổ chức thành nhiều trạm từ Bộ chỉ huy chiến dịch tới sở chỉ huy các trung đoàn và các đơn vị. Vô tuyến điện có bảy máy chia thành hai mạng: Các trung đoàn với Bộ chỉ huy chiến dịch, Bộ chỉ huy chiến dịch với Bộ Tổng tư lệnh. Hữu tuyến điện có 45 máy điện thoại, bảy tổng đài và 140 ki-lô-mét dây, chia thành hai mạng từ sở chỉ huy trung đoàn tới tiểu đoàn. Riêng trung đoàn 66 mắc dây tới sở chỉ huy của Bộ chỉ huy chiến dịch, còn các trung đoàn 9 và 209 ở xa nên không mắc.
___________________________________
1.Trong “Thống kê các chiến dịch chống Pháp, chống Mỹ” tr. 52 ghi 30-12-1949 kết thúc chiến dịch.
2.Đại tướng Võ Nguyên Giáp “Chiến đấu trong vòng vây”, Nxb QĐND, H.1995, tr. 391.
3.Tổ chức cho toàn thể quân nhân bàn bạc, góp ý, xây dựng ba công tác lớn trong đơn vị: Công tác xây dựng về chính trị, công tác quân sự (bàn cách đánh, huấn luyện...) và công tác hậu cần, chăm lo đời sống bộ đội.


 

 


WWW
 


Chiến dịch chia làm hai đợt:

Đợt 1 (từ ngày 25 tháng 11 đến ngày 25 tháng 12 năm 1949):

Trên mặt trận đường số 6, Chiến dịch được mở màn bằng trận đánh diệt gọn vị trí Gốt ở nam đường 6 bằng nội ứng. Ngay sau đó ngày 25 tháng 11, trung đoàn 66 (thiếu một tiểu đoàn) chia thành hai bộ phận: tiểu đoàn 456 đánh kỳ tập vào vị trí Mát nhưng không thành công. Ngày 25 tháng 11, tiểu đoàn 567 cùng với một tiểu đoàn pháo và một trung đội công binh diệt gọn vị trí Đồng Bến và phá sập hai cầu. Ngày 27, địch tăng 1.300 quân lên khu vực Xuân Mai. Tiểu đoàn 567 cơ động về Miếu Môn chặn địch trên đường 21. Ngày 2 tháng 12, địch cho một trung đoàn lập vị trí Đầm Huống ở nam đường 6, đồng thời lập 1.000 quân cơ động (có hai phần ba là Âu - Phi), hai pháo 105mm tập trung ở Xuân Mai, Đồng Bái. Ngày 25 tháng 12, tiểu đoàn 567 và tiểu đoàn pháo tiến công tiêu diệt vị trí Đầm Huống.

Trên mặt trận sông Đà: 16 giờ ngày 25 tháng 11, trung đoàn 209 tiến công và bao vây Mỏ Hẽm, Suối Rút đến sáng 28 thì tiêu diệt hai vị trí. Từ 23 đến 28, để cứu nguy, địch phải dùng máy bay đánh phá, thả dù tiếp tế và đưa lực lượng lên đóng lại vị trí Mỏ Hẽm và tăng viện cho Chợ Bờ một tiểu đoàn Âu - Phi do trung tá Len-nuy-ơ chỉ huy. Tiểu đoàn 154 thuộc trung đoàn 209 đánh phục kích, diệt một trung đội quân tăng viện tại Bến Bưởi. Phán đoán quân địch ở vị trí Mỏ Hẽm là quân cơ động, chúng không thể ở lâu, sẽ có quân khác lên thay, trung đoàn 209 do trung đoàn trưởng Lê Trọng Tấn chỉ huy, để lại một tiểu đoàn vây hãm vị trí, còn lại phần lớn lực lượng bố trí trên đường số 6, đoạn chợ Bờ - Mỏ Hẽm. Ngày 6 tháng 12, khi địch rút qua, ta đã nổ súng tiêu diệt hoàn toàn đại đội 4 tiểu đoàn 1 trung đoàn lê dương 5. Ngày 14 tháng 12, tiểu đoàn 154 và lực lượng pháo binh, phòng không, công binh tăng cường bao vây chuẩn bị tiến công hai đại đội địch ở Chợ Bờ. Đánh lần một không thành, Bộ chỉ huy mặt trận điều thêm tiểu đoàn 930 nhưng tiến công cũng không thành công. Tiểu đoàn 154 rút về Khả Cầu, tiểu đoàn 930 tiếp tục bao vây.

Mặt trận đường số 12: Ngày 29 và 30 tháng 11, trung đoàn 9 tiêu diệt vị trí Tử Nê và Đồi Bóng. Địch hoang mang rút khỏi các đồn nhỏ về tập trung ở các vị trí lớn như Mang Luông, Khang rút về Toàn Thắng, Nghẹ rút về Cao Phong, Đầm rút về Vụ Bản. Ngày 10 tháng 12, quân ngụy ở Toàn Thắng và ngày 25 tháng 12 ở Cổ Lũng giết đồn trưởng và mang vũ khí ra hàng. Địch lập một đại đội cơ động (có hai phần ba là lính lê dương) trên đường 12 từ Hoà Bình về Quy Hậu để yểm hộ cho Bưng và Cao Phong. Đợt 1 chiến dịch kết thúc, trung đoàn 9 rút về Cẩm Thuỷ chuẩn bị cho đợt 2.

Đợt 2 (từ ngày 15 tháng 1 đến ngày 30 tháng 1 năm 1950):

Ngày 15 tháng 1 năm 1950, Bộ chỉ huy chiến dịch hạ quyết tâm tiêu diệt Vụ Bản. Trên mặt trận Đường số 6: Ngày 16 tháng 1, tiểu đoàn 136 cùng bộ đội địa phương dùng nội ứng tiêu diệt hoàn toàn vị trí Rậm. Mặt trận Đường 12: Ngày 17 tháng 1, pháo ta bắn vào Vụ Bản, Chiềng Vang. Địch cho một tiểu đoàn (thiếu một đại đội) từ Hoà Bình xuống Khang và Toàn Thắng. Tiểu đoàn 353 trung đoàn 9 lên bố trí tại Nghẹ đề phòng địch từ Toàn Thắng tăng viện cho Vụ Bản. Địch rút đồn Thân Thương (tiền đồn) về Vang. 24 giờ ngày 19 tháng 1, ta tiến công Vụ Bản không thành công. Địch từ Quy Hậu tăng viện cho Vụ Bản một đại đội, bị trung đoàn 9 chặn đánh, ngày 21 tháng 1, chúng mới tới được Vụ Bản. Địch thả dù tiếp tế cho Vụ Bản và Vang, máy bay oanh tạc vào trận địa của quân ta. Bộ chỉ huy chiến dịch quyết tâm tiến công lần thứ 2 vào Vụ Bản đêm 29 tháng 1 nhưng không thành công. Cùng ngày, trung đoàn 48 tiến công tiêu diệt vị trí Mát. Ngày 30 tháng 1 năm 1950, Bộ chỉ huy ra lệnh kết thúc chiến dịch.

Kết quả: Ta diệt 11 vị trí, bức rút 13 vị trí. Địch chết 830 tên, bị thương 351 tên, bị bắt và hàng 366 tên, tan rã 73 tên. Ta thu 407 súng trường, 51 liên thanh, sáu cối. Ta hy sinh 104 đồng chí, bị thương 208 và bị bắt ba đồng chí.



Chiến dịch Lê Lợi được chuẩn bị chu đáo, bộ đội có quyết tâm cao.

Đợt 1 mở màn đạt hiệu suất cao. Nhưng trên hướng chủ yếu của chiến dịch, sự chỉ đạo, chỉ huy không khai thác hết khả năng đánh điểm, vây điểm để diệt viện. Sau khi cát cứ điểm Đồng Bến, Tử Nê, Đồi Bóng, nhất là Đầm Huống bị diệt, địch co về các vị trí lớn và tăng viện từ Hà Nội lên nhưng ta chỉ đánh được một trận phục kích, diệt được một đại đội ở Bủng Chiêng. Cán bộ và chiến sĩ vẫn tồn tại khuynh hướng ham tiến công vị trí, kể cả khi địch đã tăng quân, sức ta đã giảm, nên việc triển khai lực lượng đánh viện chưa đầy đủ, hạn chế hiệu suất chiến đấu. Riêng trên hướng thứ yếu, trung đoàn 209 lúc đầu bỏ lỡ cơ hội diệt địch ngoài công sự khi chúng tăng viện cho Chợ Bờ, sau đó đã biết chuyển hướng hoạt động, hình thành thế trận vừa bao vây Chợ Bờ, Mỏ Hẽm vừa bố trí lực lượng phục kích nên ngày 16 tháng 12 đã diệt được hai đại đội Âu - Phi khi chúng rút về Chợ Bờ; đồng thời đẩy địch vào tình thế hoàn toàn bất lợi - chiếm đóng hay rút chạy khỏi Mỏ Hẽm, đều dễ bị tiêu diệt.

Kết quả chiến dịch tuy không đạt được tất cả mục tiêu đã đề ra, chưa khai thông được đường 6, nối Việt Bắc với Khu 3, Khu 4; chưa phá tan được ngụy Mường, nhưng ta đã diệt được 10 vị trí, bức rút 13 vị trí khác, tiêu diệt được một bộ phận sinh lực địch, phá vỡ những mảng lớn cơ sở của địch, đánh mạnh vào kế hoạch lập xứ Mường tự trị và tinh thần lính ngụy người Mường; phá được một phần thế uy hiếp của địch đối với phía tây Liên khu 3, bước đầu mở được đường giao thông liên lạc giữa Việt Bắc với Thanh - Nghệ; xây dựng được cơ sở của ta trong địa bàn; nhất là trình độ chỉ huy và khả năng tác chiến của bộ đội đã tiến một bước đáng kể, tạo ra những yếu tố cơ bản để chuyển sang thời kỳ mới của cách mạng: Tổng phản công.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét