KÝ ỨC CHÓI LỌI 19
(ĐC sưu tầm trên NET)
Phạm vi hoạt động của chiến dịch gồm tám xã thuộc hai huyện Châu Thành và Cai Lậy, tỉnh Mỹ Tho với chiều dài 14 ki-lô-mét, chiều rộng tám ki-lô-mét. Là vùng thuộc đồng bằng sông Cửu Long phì nhiêu, trù phú, không gian chiến dịch nằm giữa đường 16 ở phía bắc với lộ Phú Phong và sông Cửu Long ở phía nam, giữa lộ đá Vĩnh Kim ở phía đông và lộ Ba Dừa ở phía tây. Trong vùng còn có nhiều con lộ bằng đất chạy ngang dọc nối liền các làng mạc và các thị trấn Cái Bè, Cai Lậy, thị xã Mỹ Tho và hai cứ điểm lớn của địch: Vĩnh Kim, Tân Hiệp. Đường thuỷ có sông Cửu Long và nhiều kênh rạch lớn nối thông với nhau như Thông Lưu, Mỹ Long, Trà Tận, Bà Rài. Nhưng chiến dịch diễn ra trong mùa khô nên các cánh đồng khô cạn, bộ binh vận động thuận lợi. Các con sông khi nước ròng chỉ dùng được ghe, thuyền nhỏ, hàng ngày phải đợi thuỷ triều lên tàu lớn mới đi được. Ở đây cây cối tươi tốt thuận lợi cho bộ đội vận động kín đáo, nhưng tầm nhìn bị hạn chế.
Vùng Mỹ Tho - Gò Công tuy quân Pháp tái chiếm đóng sớm, nhưng chúng chưa kiểm soát được hết; hoạt động của bộ đội và dân quân du kích địa phương khá mạnh nên địch không dám càn quét lẻ tẻ mà thường dựa vào các cứ điểm Vĩnh Kim, Chợ Giữa, Tân Hiệp để tổ chức những cuộc càn quét lớn phối hợp quân thuỷ, bộ; lực lượng từ một tiểu đoàn trở lên, cao nhất là một trung đoàn1 nhằm đốt phá, cướp bóc, lùng bắt cán bộ kháng chiến, tiêu diệt du kích để mở rộng dần phạm vi kiểm soát, thành lập “khu quốc gia” phản động. Nhân dân trong vùng phần lớn đều hướng theo cách mạng, có tinh thần kháng chiến, căm thù giặc, mong muốn bộ đội về hoạt động; chỉ có một số ít gia đình theo đạo Hoà Hảo (ở ấp Mỹ Chánh) và Cao Đài (ở xóm Rạch Ông Ban) đã đầu hàng giặc. Đầu năm 1949, chúng tổ chức 600 dân vệ từ hai lực lượng này.
Đầu tháng 11 năm 1949, chấp hành chỉ thị của Bộ tư lệnh Quân khu 8, Ban chỉ huy liên trung đoàn 105-1202 quyết định mở chiến dịch hoạt động tiến công ở vùng khu 3 huyện Châu Thành, khu 2 huyện Cai Lậy (Mỹ Tho) để tạo một hướng phối hợp với chiến dịch Cầu Kè của Khu; nhằm mục đích phá âm mưu càn quét và mở rộng khu tạm chiếm của địch ở Vĩnh Kim, Chợ Giữa, bảo vệ nhân lực, vật lực cho kháng chiến. Tiêu hao, tiêu diệt sinh lực địch, thu được một số vũ khí trang bị, nâng cao sức chiến đấu cho bộ đội.
Phương châm tác chiến: Công đồn, đánh viện (diệt đồn bằng tập kích; dùng địa lôi để diệt cơ giới và tàu tuần dương; phục kích để chặn đánh viện). Lợi dụng quy luật càn quét của địch, dùng nghi binh để đánh phục kích, kết hợp với đánh vận động để tiêu hao, tiêu diệt sinh lực và cơ giới địch.
Lực lượng tham gia chiến dịch gồm: tiểu đoàn chủ lực 3093, một đại đội độc lập 944, ba đội biệt động, hai trung đội của đại đội 1072 và hai trung đội dân quân của thị trấn Cai Lậy và Châu Thành.
Chỉ huy chiến dịch: Bộ tư lệnh Khu giao cho Ban chỉ huy liên trung đoàn 105-120 do đồng chí Lê Quốc Sản, trung đoàn trưởng làm Chỉ huy trưởng chiến dịch, đồng chí Phan Vân làm chính ủy.
Bộ đội và dân quân du kích đã được thử thách qua nhiều trận chống càn và đánh phục kích. Vũ khí trang bị chủ yếu là súng trường, mã tấu, lựu đạn thu được của địch và tự tạo, trung liên chỉ có đến trung, đại đội. Đại đội công đồn được tăng cường một đại liên và một cối 60mm. Đại đội đánh cơ giới được tăng cường một Badôca và nhiều địa lôi, lựu đạn gài. Ngoài ra anh em còn tự tạo loại ná bắn tên có ống đựng xăng dầu có kẹp một mảnh “lắc đề sạt” (thuốc mồi) để bắn vào đồn hoặc bắn xuống tàu thuỷ của địch. Bộ đội không có vũ khí mạnh để đánh công đồn và đánh cơ giới, kinh nghiệm đánh công đồn cũng chưa có.
Trước ngày nổ súng một tháng, Bộ chỉ huy liên trung đoàn đã sử dụng quân báo, trinh sát và cán bộ tham mưu đi điều tra nắm lực lượng và quy luật hoạt động của địch, nghiên cứu địa hình và cùng cán bộ chỉ huy các đơn vị xây dựng kế hoạch tác chiến. Việc liên lạc, tiếp tế, tải thương, v.v... Chuẩn bị rất đơn giản, phần lớn giao cho các đơn vị đảm trách mà chủ yếu là dựa vào lực lượng dân quân du kích và quần chúng nhân dân địa phương.
Ngày 1 tháng 12, thực hiện kế hoạch, du kích Châu Thành và nhân dân xã Bàng Long làm vật cản ngăn tàu trên sông Mỹ Long để dụ địch. 21 giờ 30 phút, đại đội 939 tiến công đồn Bình Trưng nhưng chần chừ trước khó khăn nên không thực hiện được. Đêm 2 tháng 12, đại đội 941 vào thay đại đội 939. 22 giờ 55 phút, ta nổ súng, sau 10 phút chiến đấu, đơn vị xung phong được vào đồn, giết 27 lính Pháp và tề điệp, đoạt chín súng trường. Địch co vào bốt chính cố thủ chống cự lại. Gần sáng ta rút lui về vị trí xuất phát. Đại đội hy sinh ba, bị thương ba đồng chí.
Khi đồn Bình Trưng bị tiến công, ba phút sau, địch ở Vĩnh Kim cho hai xe thiết giáp và một GMC lên tiếp viện, chúng đi lọt vào ổ phục kích của đại đội 944. Địa lôi nổ, chiếc GMC đi đầu hỏng, bốn tên giặc chết; hai chiếc thiết giáp dừng lại bắn rất mạnh làm ta không xung phong được, ta dùng Badôka tiêu diệt chiếc GMC. Pháo ở cứ điểm Vĩnh Kim chi viện cho Bình Trưng. Ta nã Trom-blom vào, đại bác địch ngừng hoạt động, chúng dùng súng bộ binh bắn dữ dội ra xung quanh, hai thiết giáp rút vào cứ điểm, ta lui quân an toàn.
Sau ba ngày, địch biết chủ lực ta đã về hoạt động, Bộ chỉ huy chiến dịch biết địch sẽ chờ lực lượng lớn đến mới tiến công đánh ta nên đã tổ chức bố trí lại trận địa và lực lượng để đón đánh địch.
6 giờ ngày 4 tháng 12, địch cho 10 xe tải chở 200 quân từ thị xã Mỹ Tho vào ngã ba Nhị Quý theo lộ đất đổ bộ vào. Đại đội 939 không bố trí quân trong vườn như quy định nên bị lộ, địch bao vây; sau 10 phút chiến đấu, hoả lực địch quá mạnh, đại đội phải rút quân về Mỹ Long. Pháo địch bắn mạnh vào trận địa đại đội 941, ta hy sinh bốn người, bị thương tám người, đại đội lui về Mỹ Hoa, cùng đại đội 939 bố trí thành trận địa thứ hai. Địch không tiến nữa.
12 giờ 30, cánh quân thứ hai của địch khoảng 100 tên từ Cai Lậy xuống lộ Ba Dừa, theo rạch Long Tiên dè dặt tiến vào trận địa đại đội 940. Sáu tên đi đầu băng vào vườn, ta bị lộ nên nổ súng diệt luôn toán này. Địch lợi dụng đoạn sông có lợi, cho một bộ phận đánh tạt sườn nhưng bị ta đánh lui, diệt thêm bảy tên, từ đó địch không dám tiến, đại đội 940 giữ vững trận địa.
15 giờ, cánh quân địch thứ ba từ phía Tam Bình tiến vào. Đại đội 940 rút về rạch Cà Mit, bố trí chặn địch; nhưng chúng chỉ dùng đại liên và cối bố trí cách 100 m bắn yểm hộ cho cánh thứ hai theo ven sông Long Tiên tiến xuống. Nhờ địa thế thuận lợi, đại đội 940 đẩy lui nhiều đợt tiến công của cánh này và diệt trên 40 tên. Ta hy sinh hai người, bị thương hai người.
Tối, địch tập trung cách trận địa đại đội 940 khoảng 700m, ta cho một trung đội, một trung liên và phóng lựu đạn bắn vào, gây cho chúng bất ổn và thiệt hại. Ta hy sinh một trinh sát.
Phía ngã ba Bà Nhang cách trận địa của đại đội 1027 và trung đội du kích thị trấn Châu Thành 600m có 30 lính địch nhưng chúng không dám tiến vào. Ba máy bay đến bay thấp ném bom, bị ta bắn rơi một chiếc. Tối ta lui quân an toàn.
Tối 4 tháng 12, hầu hết quân địch rút về hai hướng Cai Lậy và Vĩnh Kim, còn lại một đại đội bố trí trên rạch Trà Tân cách trận địa đại đội 940 khoảng 700 m. Trên lộ 16 địch rải quân phục từ đầu Giồng Dừa đến ngã ba Bình Phú và cho thiết giáp tuần tiễu trên lộ, tàu chiến tuần tiễu trên sông từ Cửu Long vào Vĩnh Kim.
Bộ chỉ huy nhận định: Địch tiến công nhiều, nhưng bị tổn thất mà chưa nắm rõ lực lượng ta; chúng sẽ tăng quân để bao vây hòng diệt chủ lực ta. Bộ chỉ huy chủ trương bố trí lại trận địa, cho dân quân du kích rầm rộ rút về hướng Ba Dừa, Cẩm Sơn để nghi binh; bí mật bố trí lực lượng về Phú Mỹ Hoà sát thị trấn Cai Lậy 250m, cách lộ Ba Dừa 250m, chủ trương đón đánh địch rút về sau khi đã càn quét.
Sáng 5 tháng 12, địch điều thêm quân ở Mỹ Tho, Vĩnh Long ồ ạt tiến công theo đường cũ. Riêng một bộ phận 300 tên, có ô tô chở đến đổ bộ tại lô cốt Phú Luông trên lộ Ba Dừa tiến vào trận địa ta lúc 7 giờ 30 phút. Đại đội 309 cố tránh (theo chỉ đạo của Bộ chỉ huy chiến dịch) để đợi đánh địch lúc chúng về. Nhưng 8 giờ 15 phút, địch lại đi đúng vào trận địa ta nên bắt buộc phải nổ súng. Sau 10 phút nổ súng, địch bỏ chạy, ta xung phong lên. Địch chiếm các bờ đất cao chống trả, giằng co với ta. 11 giờ 15, thấy không có lợi, ta đã rút về phía sau 1.000m bố trí trận địa thứ hai sau khi đã diệt 60 tên và làm bị thương một số tên khác, ta thu một trung liên, bảy súng trường, hai chiến sĩ và một du kích hy sinh, bốn người bị thương nhẹ. Từ đó địch không tiến lên nữa mà chỉ dùng phi pháo bắn phá nhưng không gây thiệt hại cho ta. Tối 5 tháng 12, toàn bộ quân ta lui quân về vùng tự do, kết thúc chiến dịch.
Kết quả: Địch chết 241 tên (có tám sĩ quan), bị thương hàng trăm tên.
Ta: hy sinh 13 người (có ba đồng chí tiểu đội trưởng, một dân quân), bị thương 18 người.
Ta thu: một FM, 16 súng trường và nhiều quân dụng, bắn cháy một GMC, một máy bay, bắn bị thương nặng một tàu đổ bộ.
Sau năm ngày chiến đấu, quân địch phải hủy bỏ cuộc càn lớn, hàng ngũ địch hoang mang, một số lính lê dương ở Mỹ Tho và Cai Lậy vác súng ra hàng, nhiều lính ngụy viết thư xin trở về nhập hội Liên Việt của ta. Nhân dân trong vùng phấn khởi, tin tưởng, gửi nhiều lương thực và thuốc men cho bộ đội.
Điểm rõ nhất của nghệ thuật chiến dịch là Bộ chỉ huy chiến dịch đã thực hiện được vừa nghi binh nhử địch trên sông, vừa công đồn nhử địch trên bộ để kéo viện binh địch ra, rồi bố trí trận địa và lực lượng tiêu diệt. Phát huy được sở trường đánh phục kích của bộ đội chủ lực và dân quân du kích. Nhất là sau đợt 1 đã thực hiện được “tập trung lực lượng”, bố trí sát địch để bất ngờ tiêu diệt, đạt hiệu suất chiến đấu cao. Chính nhờ có lực lượng tập trung mà mặc dù bị lộ ta vẫn tiêu hao được khá lớn quân địch, giành thắng lợi lớn, địch không dám coi thường, phải rút lui; ta đạt được mục đích chính trị của chiến dịch là “phá âm mưu thành lập khu quốc gia” của thực dân Pháp.
Ta cũng còn bộc lộ rõ một số mặt yếu: Bố trí lực lượng còn phân tán nên khi địch tập trung đông, ta không đủ sức tiến công tiêu diệt, không hình thành được các mũi phối hợp, hạn chế đến hiệu suất chiến đấu nhất là giai đoạn đầu. Chấp hành kỷ luật mệnh lệnh chưa nghiêm (khi mở màn, đại đội 309 vì nghi ngờ kế hoạch, do dự nên không đánh được đồn Bình Trưng mở màn khơi ngòi như dự kiến). Công tác chính trị chưa triệt để tận dụng thời cơ khi trong hàng ngũ địch đã hoang mang, dao động để tiến hành công tác địch vận, làm hạn chế đến thắng lợi chung.
_____________________________________
1.Ngày 8 tháng 1 năm 1949, địch huy động ba tiểu đoàn bộ binh, năm tiểu đoàn lính lê dương và hai ngàn tù binh chiến tranh dưới sự yểm trợ của máy bay và pháo binh mở nhiều cuộc càn quét vào Gò Công; xã nào cũng bị đánh phá, chúng đốt hơn 200 nhà dân và hàng ngàn tấn lúa, đánh đập tra tấn và bắn chết hàng chục người.
2.Ngày 25 tháng 2 năm 1949, theo chỉ thị của Trung ương, Quân khu 8 có kế hoạch tích cực cầm cự, chuẩn bị tổng phản công, thành lập liên trung đoàn 105-120. Bộ chỉ huy liên trung đoàn giữ tiểu đoàn 309 làm tiểu đoàn chủ lực tập trung; đưa các tiểu đoàn 314 và 358 phân tán hoạt động ở hai tỉnh Mỹ Tho và Long An - một đại đội độc lập hoạt động ở Chợ Gạo và một phần Châu Thành (Long An), một đại đội độc lập ở Cái Bè và Cai Lậy, một trung đội làm du kích ở thị trấn Cái Bè, một đại đội độc lập ở Thủ Thừa, Mộc Hoá. Đại đội dân quân Mỹ Tho cũng phân tán đi các huyện. Mỗi xã có một tiểu đội du kích thoát ly, trang bị vài khẩu súng. Ngoài ra có một đến hai đại đội dân quân làm nhiệm vụ tải thương, canh gác, vận tải, phá hoại...
3.Cuối 1948, tiểu đoàn 309 thành lập (nòng cốt từ đại đội 915) đồng chí Lê Văn Xay làm tiểu đoàn trưởng, đồng chí Nguyễn Văn Tiên làm chính trị viên.
Còn hai đại đội cùng đồng chí Nguyễn Văn Sỹ (tiểu đoàn trưởng 305 cũ) về thành lập tiểu đoàn 307 chủ lực khu, đồng chí Sỹ làm tiểu đoàn trưởng.
CHIẾN DỊCH MỸ THO
(Tiến công, từ ngày 1 đến ngày 5 tháng 12 năm 1949)
Phạm vi hoạt động của chiến dịch gồm tám xã thuộc hai huyện Châu Thành và Cai Lậy, tỉnh Mỹ Tho với chiều dài 14 ki-lô-mét, chiều rộng tám ki-lô-mét. Là vùng thuộc đồng bằng sông Cửu Long phì nhiêu, trù phú, không gian chiến dịch nằm giữa đường 16 ở phía bắc với lộ Phú Phong và sông Cửu Long ở phía nam, giữa lộ đá Vĩnh Kim ở phía đông và lộ Ba Dừa ở phía tây. Trong vùng còn có nhiều con lộ bằng đất chạy ngang dọc nối liền các làng mạc và các thị trấn Cái Bè, Cai Lậy, thị xã Mỹ Tho và hai cứ điểm lớn của địch: Vĩnh Kim, Tân Hiệp. Đường thuỷ có sông Cửu Long và nhiều kênh rạch lớn nối thông với nhau như Thông Lưu, Mỹ Long, Trà Tận, Bà Rài. Nhưng chiến dịch diễn ra trong mùa khô nên các cánh đồng khô cạn, bộ binh vận động thuận lợi. Các con sông khi nước ròng chỉ dùng được ghe, thuyền nhỏ, hàng ngày phải đợi thuỷ triều lên tàu lớn mới đi được. Ở đây cây cối tươi tốt thuận lợi cho bộ đội vận động kín đáo, nhưng tầm nhìn bị hạn chế.
Vùng Mỹ Tho - Gò Công tuy quân Pháp tái chiếm đóng sớm, nhưng chúng chưa kiểm soát được hết; hoạt động của bộ đội và dân quân du kích địa phương khá mạnh nên địch không dám càn quét lẻ tẻ mà thường dựa vào các cứ điểm Vĩnh Kim, Chợ Giữa, Tân Hiệp để tổ chức những cuộc càn quét lớn phối hợp quân thuỷ, bộ; lực lượng từ một tiểu đoàn trở lên, cao nhất là một trung đoàn1 nhằm đốt phá, cướp bóc, lùng bắt cán bộ kháng chiến, tiêu diệt du kích để mở rộng dần phạm vi kiểm soát, thành lập “khu quốc gia” phản động. Nhân dân trong vùng phần lớn đều hướng theo cách mạng, có tinh thần kháng chiến, căm thù giặc, mong muốn bộ đội về hoạt động; chỉ có một số ít gia đình theo đạo Hoà Hảo (ở ấp Mỹ Chánh) và Cao Đài (ở xóm Rạch Ông Ban) đã đầu hàng giặc. Đầu năm 1949, chúng tổ chức 600 dân vệ từ hai lực lượng này.
Đầu tháng 11 năm 1949, chấp hành chỉ thị của Bộ tư lệnh Quân khu 8, Ban chỉ huy liên trung đoàn 105-1202 quyết định mở chiến dịch hoạt động tiến công ở vùng khu 3 huyện Châu Thành, khu 2 huyện Cai Lậy (Mỹ Tho) để tạo một hướng phối hợp với chiến dịch Cầu Kè của Khu; nhằm mục đích phá âm mưu càn quét và mở rộng khu tạm chiếm của địch ở Vĩnh Kim, Chợ Giữa, bảo vệ nhân lực, vật lực cho kháng chiến. Tiêu hao, tiêu diệt sinh lực địch, thu được một số vũ khí trang bị, nâng cao sức chiến đấu cho bộ đội.
Phương châm tác chiến: Công đồn, đánh viện (diệt đồn bằng tập kích; dùng địa lôi để diệt cơ giới và tàu tuần dương; phục kích để chặn đánh viện). Lợi dụng quy luật càn quét của địch, dùng nghi binh để đánh phục kích, kết hợp với đánh vận động để tiêu hao, tiêu diệt sinh lực và cơ giới địch.
Lực lượng tham gia chiến dịch gồm: tiểu đoàn chủ lực 3093, một đại đội độc lập 944, ba đội biệt động, hai trung đội của đại đội 1072 và hai trung đội dân quân của thị trấn Cai Lậy và Châu Thành.
Chỉ huy chiến dịch: Bộ tư lệnh Khu giao cho Ban chỉ huy liên trung đoàn 105-120 do đồng chí Lê Quốc Sản, trung đoàn trưởng làm Chỉ huy trưởng chiến dịch, đồng chí Phan Vân làm chính ủy.
Bộ đội và dân quân du kích đã được thử thách qua nhiều trận chống càn và đánh phục kích. Vũ khí trang bị chủ yếu là súng trường, mã tấu, lựu đạn thu được của địch và tự tạo, trung liên chỉ có đến trung, đại đội. Đại đội công đồn được tăng cường một đại liên và một cối 60mm. Đại đội đánh cơ giới được tăng cường một Badôca và nhiều địa lôi, lựu đạn gài. Ngoài ra anh em còn tự tạo loại ná bắn tên có ống đựng xăng dầu có kẹp một mảnh “lắc đề sạt” (thuốc mồi) để bắn vào đồn hoặc bắn xuống tàu thuỷ của địch. Bộ đội không có vũ khí mạnh để đánh công đồn và đánh cơ giới, kinh nghiệm đánh công đồn cũng chưa có.
Trước ngày nổ súng một tháng, Bộ chỉ huy liên trung đoàn đã sử dụng quân báo, trinh sát và cán bộ tham mưu đi điều tra nắm lực lượng và quy luật hoạt động của địch, nghiên cứu địa hình và cùng cán bộ chỉ huy các đơn vị xây dựng kế hoạch tác chiến. Việc liên lạc, tiếp tế, tải thương, v.v... Chuẩn bị rất đơn giản, phần lớn giao cho các đơn vị đảm trách mà chủ yếu là dựa vào lực lượng dân quân du kích và quần chúng nhân dân địa phương.
Ngày 1 tháng 12, thực hiện kế hoạch, du kích Châu Thành và nhân dân xã Bàng Long làm vật cản ngăn tàu trên sông Mỹ Long để dụ địch. 21 giờ 30 phút, đại đội 939 tiến công đồn Bình Trưng nhưng chần chừ trước khó khăn nên không thực hiện được. Đêm 2 tháng 12, đại đội 941 vào thay đại đội 939. 22 giờ 55 phút, ta nổ súng, sau 10 phút chiến đấu, đơn vị xung phong được vào đồn, giết 27 lính Pháp và tề điệp, đoạt chín súng trường. Địch co vào bốt chính cố thủ chống cự lại. Gần sáng ta rút lui về vị trí xuất phát. Đại đội hy sinh ba, bị thương ba đồng chí.
Khi đồn Bình Trưng bị tiến công, ba phút sau, địch ở Vĩnh Kim cho hai xe thiết giáp và một GMC lên tiếp viện, chúng đi lọt vào ổ phục kích của đại đội 944. Địa lôi nổ, chiếc GMC đi đầu hỏng, bốn tên giặc chết; hai chiếc thiết giáp dừng lại bắn rất mạnh làm ta không xung phong được, ta dùng Badôka tiêu diệt chiếc GMC. Pháo ở cứ điểm Vĩnh Kim chi viện cho Bình Trưng. Ta nã Trom-blom vào, đại bác địch ngừng hoạt động, chúng dùng súng bộ binh bắn dữ dội ra xung quanh, hai thiết giáp rút vào cứ điểm, ta lui quân an toàn.
Sau ba ngày, địch biết chủ lực ta đã về hoạt động, Bộ chỉ huy chiến dịch biết địch sẽ chờ lực lượng lớn đến mới tiến công đánh ta nên đã tổ chức bố trí lại trận địa và lực lượng để đón đánh địch.
6 giờ ngày 4 tháng 12, địch cho 10 xe tải chở 200 quân từ thị xã Mỹ Tho vào ngã ba Nhị Quý theo lộ đất đổ bộ vào. Đại đội 939 không bố trí quân trong vườn như quy định nên bị lộ, địch bao vây; sau 10 phút chiến đấu, hoả lực địch quá mạnh, đại đội phải rút quân về Mỹ Long. Pháo địch bắn mạnh vào trận địa đại đội 941, ta hy sinh bốn người, bị thương tám người, đại đội lui về Mỹ Hoa, cùng đại đội 939 bố trí thành trận địa thứ hai. Địch không tiến nữa.
12 giờ 30, cánh quân thứ hai của địch khoảng 100 tên từ Cai Lậy xuống lộ Ba Dừa, theo rạch Long Tiên dè dặt tiến vào trận địa đại đội 940. Sáu tên đi đầu băng vào vườn, ta bị lộ nên nổ súng diệt luôn toán này. Địch lợi dụng đoạn sông có lợi, cho một bộ phận đánh tạt sườn nhưng bị ta đánh lui, diệt thêm bảy tên, từ đó địch không dám tiến, đại đội 940 giữ vững trận địa.
15 giờ, cánh quân địch thứ ba từ phía Tam Bình tiến vào. Đại đội 940 rút về rạch Cà Mit, bố trí chặn địch; nhưng chúng chỉ dùng đại liên và cối bố trí cách 100 m bắn yểm hộ cho cánh thứ hai theo ven sông Long Tiên tiến xuống. Nhờ địa thế thuận lợi, đại đội 940 đẩy lui nhiều đợt tiến công của cánh này và diệt trên 40 tên. Ta hy sinh hai người, bị thương hai người.
Tối, địch tập trung cách trận địa đại đội 940 khoảng 700m, ta cho một trung đội, một trung liên và phóng lựu đạn bắn vào, gây cho chúng bất ổn và thiệt hại. Ta hy sinh một trinh sát.
Phía ngã ba Bà Nhang cách trận địa của đại đội 1027 và trung đội du kích thị trấn Châu Thành 600m có 30 lính địch nhưng chúng không dám tiến vào. Ba máy bay đến bay thấp ném bom, bị ta bắn rơi một chiếc. Tối ta lui quân an toàn.
Tối 4 tháng 12, hầu hết quân địch rút về hai hướng Cai Lậy và Vĩnh Kim, còn lại một đại đội bố trí trên rạch Trà Tân cách trận địa đại đội 940 khoảng 700 m. Trên lộ 16 địch rải quân phục từ đầu Giồng Dừa đến ngã ba Bình Phú và cho thiết giáp tuần tiễu trên lộ, tàu chiến tuần tiễu trên sông từ Cửu Long vào Vĩnh Kim.
Bộ chỉ huy nhận định: Địch tiến công nhiều, nhưng bị tổn thất mà chưa nắm rõ lực lượng ta; chúng sẽ tăng quân để bao vây hòng diệt chủ lực ta. Bộ chỉ huy chủ trương bố trí lại trận địa, cho dân quân du kích rầm rộ rút về hướng Ba Dừa, Cẩm Sơn để nghi binh; bí mật bố trí lực lượng về Phú Mỹ Hoà sát thị trấn Cai Lậy 250m, cách lộ Ba Dừa 250m, chủ trương đón đánh địch rút về sau khi đã càn quét.
Sáng 5 tháng 12, địch điều thêm quân ở Mỹ Tho, Vĩnh Long ồ ạt tiến công theo đường cũ. Riêng một bộ phận 300 tên, có ô tô chở đến đổ bộ tại lô cốt Phú Luông trên lộ Ba Dừa tiến vào trận địa ta lúc 7 giờ 30 phút. Đại đội 309 cố tránh (theo chỉ đạo của Bộ chỉ huy chiến dịch) để đợi đánh địch lúc chúng về. Nhưng 8 giờ 15 phút, địch lại đi đúng vào trận địa ta nên bắt buộc phải nổ súng. Sau 10 phút nổ súng, địch bỏ chạy, ta xung phong lên. Địch chiếm các bờ đất cao chống trả, giằng co với ta. 11 giờ 15, thấy không có lợi, ta đã rút về phía sau 1.000m bố trí trận địa thứ hai sau khi đã diệt 60 tên và làm bị thương một số tên khác, ta thu một trung liên, bảy súng trường, hai chiến sĩ và một du kích hy sinh, bốn người bị thương nhẹ. Từ đó địch không tiến lên nữa mà chỉ dùng phi pháo bắn phá nhưng không gây thiệt hại cho ta. Tối 5 tháng 12, toàn bộ quân ta lui quân về vùng tự do, kết thúc chiến dịch.
Kết quả: Địch chết 241 tên (có tám sĩ quan), bị thương hàng trăm tên.
Ta: hy sinh 13 người (có ba đồng chí tiểu đội trưởng, một dân quân), bị thương 18 người.
Ta thu: một FM, 16 súng trường và nhiều quân dụng, bắn cháy một GMC, một máy bay, bắn bị thương nặng một tàu đổ bộ.
Sau năm ngày chiến đấu, quân địch phải hủy bỏ cuộc càn lớn, hàng ngũ địch hoang mang, một số lính lê dương ở Mỹ Tho và Cai Lậy vác súng ra hàng, nhiều lính ngụy viết thư xin trở về nhập hội Liên Việt của ta. Nhân dân trong vùng phấn khởi, tin tưởng, gửi nhiều lương thực và thuốc men cho bộ đội.
Điểm rõ nhất của nghệ thuật chiến dịch là Bộ chỉ huy chiến dịch đã thực hiện được vừa nghi binh nhử địch trên sông, vừa công đồn nhử địch trên bộ để kéo viện binh địch ra, rồi bố trí trận địa và lực lượng tiêu diệt. Phát huy được sở trường đánh phục kích của bộ đội chủ lực và dân quân du kích. Nhất là sau đợt 1 đã thực hiện được “tập trung lực lượng”, bố trí sát địch để bất ngờ tiêu diệt, đạt hiệu suất chiến đấu cao. Chính nhờ có lực lượng tập trung mà mặc dù bị lộ ta vẫn tiêu hao được khá lớn quân địch, giành thắng lợi lớn, địch không dám coi thường, phải rút lui; ta đạt được mục đích chính trị của chiến dịch là “phá âm mưu thành lập khu quốc gia” của thực dân Pháp.
Ta cũng còn bộc lộ rõ một số mặt yếu: Bố trí lực lượng còn phân tán nên khi địch tập trung đông, ta không đủ sức tiến công tiêu diệt, không hình thành được các mũi phối hợp, hạn chế đến hiệu suất chiến đấu nhất là giai đoạn đầu. Chấp hành kỷ luật mệnh lệnh chưa nghiêm (khi mở màn, đại đội 309 vì nghi ngờ kế hoạch, do dự nên không đánh được đồn Bình Trưng mở màn khơi ngòi như dự kiến). Công tác chính trị chưa triệt để tận dụng thời cơ khi trong hàng ngũ địch đã hoang mang, dao động để tiến hành công tác địch vận, làm hạn chế đến thắng lợi chung.
_____________________________________
1.Ngày 8 tháng 1 năm 1949, địch huy động ba tiểu đoàn bộ binh, năm tiểu đoàn lính lê dương và hai ngàn tù binh chiến tranh dưới sự yểm trợ của máy bay và pháo binh mở nhiều cuộc càn quét vào Gò Công; xã nào cũng bị đánh phá, chúng đốt hơn 200 nhà dân và hàng ngàn tấn lúa, đánh đập tra tấn và bắn chết hàng chục người.
2.Ngày 25 tháng 2 năm 1949, theo chỉ thị của Trung ương, Quân khu 8 có kế hoạch tích cực cầm cự, chuẩn bị tổng phản công, thành lập liên trung đoàn 105-120. Bộ chỉ huy liên trung đoàn giữ tiểu đoàn 309 làm tiểu đoàn chủ lực tập trung; đưa các tiểu đoàn 314 và 358 phân tán hoạt động ở hai tỉnh Mỹ Tho và Long An - một đại đội độc lập hoạt động ở Chợ Gạo và một phần Châu Thành (Long An), một đại đội độc lập ở Cái Bè và Cai Lậy, một trung đội làm du kích ở thị trấn Cái Bè, một đại đội độc lập ở Thủ Thừa, Mộc Hoá. Đại đội dân quân Mỹ Tho cũng phân tán đi các huyện. Mỗi xã có một tiểu đội du kích thoát ly, trang bị vài khẩu súng. Ngoài ra có một đến hai đại đội dân quân làm nhiệm vụ tải thương, canh gác, vận tải, phá hoại...
3.Cuối 1948, tiểu đoàn 309 thành lập (nòng cốt từ đại đội 915) đồng chí Lê Văn Xay làm tiểu đoàn trưởng, đồng chí Nguyễn Văn Tiên làm chính trị viên.
Còn hai đại đội cùng đồng chí Nguyễn Văn Sỹ (tiểu đoàn trưởng 305 cũ) về thành lập tiểu đoàn 307 chủ lực khu, đồng chí Sỹ làm tiểu đoàn trưởng.
Nhận xét
Đăng nhận xét