Thứ Ba, 23 tháng 4, 2019

TỔ TIÊN THIÊN CỔ 06/c(Thành Cổ Loa)

(ĐC sưu tầm trên NET)
 
Cổ Loa - Di tích lịch sử quốc gia đặc biệt

Thành Cổ Loa

Thành Cổ Loa là kinh đô của nhà nước Âu Lạc do An Dương Vương thành lập. Thành Cổ Loa được thành lập vào thế kỷ thứ 3 TCN. Hiện nay, thành Cổ Loa nằm ở xã Cổ Loa, Đông Anh, Hà Nội. Vào năm 1962 thành Cổ Loa được đưa vào danh sách di sản văn hóa quốc gia của Việt Nam. Thành gắn liền với nhiều truyền thuyết xưa, mà điển hình là truyền thuyết Trọng Thủy – Mị Châu. Ngoài ra, xét về mặt lịch sử, thành Cổ Loa mang ý nghĩa to lớn. Nơi này đánh dấu cột mốc dân tộc ta bắt đầu chuyển sang định cư và đóng đô từ vùng núi sang vùng đồng bằng. Hãy cùng Huynh Hieu Travel tìm hiểu về thành Cổ Loa nhé!
Mục Lục [hide]

Thành Cổ Loa

Dời đô từ vùng núi đến đây và xây dựng nên một thành trì to lớn. An Dương Vương đã tìm hiểu những thuận lợi về mặt địa lý để kiến tạo nên một ngôi thành lịch sử.
Thành Cổ Loa
Thành Cổ Loa

Vị trí địa lý

Thời xưa, Cổ Loa nằm ở vị trí đỉnh tam giác châu thổ sông Hồng. Nơi đây giao thương dễ dàng khi giao tiếp cả đường thủy và đường bộ. Khi nắm giữ nơi đây, người Âu Lạc sẽ bao quát cả vùng đồng bằng và kiểm soát cả vùng núi.
Thành Cổ Loa nằm bên con sông Hoành. Nơi giao thoa nối liền sông Hồng và sông Cầu (Con sông lớn nhất trong hệ thống sông rạch chằng chịt Thái Bình). Việc nắm giữ đường thủy cả hai con sông Hồng và sông Thái Bình mang đến lợi thế thông thương to lớn cho thành Cổ Loa. Hai con sông này gần như chiếm toàn bộ hệ thống đường thủy Bắc bộ thời bấy giờ. Nếu muốn ra biển lớn chỉ cần xuôi theo con sông Hồng. Nếu muốn đi ngược lại vùng đồng bằng Tây Bắc thì xuôi theo con sông Thái Bình.
Thành Cổ Loa
Thành Cổ Loa
Mặt còn lại của thành Cổ Loa là vùng đồng bằng rộng lớn. Nơi đây bắt đầu xuất hiện nhiều xóm làng, dân chúng sống đông đúc. Kinh tế phát triển vượt bậc với đủ các loại nghề: Trồng lúa, thủ công nghiệp, đánh bắt cá,… Tuy giai đoạn trị vì của An Dương Vương chỉ khoảng 30-50 năm. Nhưng đây là giai đoạn đánh dấu sự chuyển mình của dân tộc Việt cổ. Địa lý từ vùng núi sang vùng đất đồng bằng trù phú. Không những là kinh tế tăng trưởng vượt bậc mà nền văn hóa Đông Sơn cũng rực rỡ nhất vào giai đoạn này.

Giai đoạn xây dựng thành Cổ Loa

Thành Cổ Loa xưa và nay có sự khác biệt. Thời gian trôi qua, với sự tác động của thiên nhiên và con người đã làm thành Cổ Loa thay đổi.

Thành Cổ Loa xưa

Theo sử sách xưa, thành được xây quanh co chín lớp, chu vi chín dặm, sâu nghìn trượng, xoáy tròn như hình ốc. Nên được gọi là Loa Thành (“loa” có nghĩa là con ốc). Thành còn có tên nôm là Chạ Chủ và nhiều tên khác như Khả Lũ (“Lũ” có nghĩa là quanh co nhiều lớp), Côn Lôn thành (ý nói thành cao như núi Côn Lôn bên Trung Quốc) hoặc Việt Vương thành (thành của vua xứ Việt), dân địa phương gọi bằng tên tiếng nôm là thành Chủ.
Để có đất xây thành, An Dương Vương phải cho dời dân tại chỗ đi nơi khác. Theo truyền thuyết thì làng Quậy hiện nay nguyên vốn ở tại Cổ Loa đã phải dời xuống vùng đất trũng cuối dòng sông Hoàng để An Dương Vương xây thành.
Thành Cổ Loa
Thành Cổ Loa
Thành Cổ Loa được các nhà khảo cổ học đánh giá là “tòa thành cổ nhất, quy mô lớn vào bậc nhất, cấu trúc cũng thuộc loại độc đáo nhất trong lịch sử xây dựng thành lũy của nước ta”
Vào thời Âu Lạc, con người chỉ mới làm quen với một ít kỹ thuật sơ khai, công cụ lao động còn rất thô thiển, ít hiệu quả, tất cả công việc đều do bàn tay người mà ra. Muốn xây được công trình với “quy mô lớn vào bậc nhất” này, phải có một số lượng khổng lồ đất đào đắp, đá kè và gốm rải. Nhà nước Âu Lạc hẳn đã phải điều động một số nhân công rất lớn để lao động trong một thời gian rất dài mới có thể hoàn thành được. Các nhà khảo cổ học cho rằng đã phải có đến hàng vạn người làm việc hàng năm cho công trình này.
Khi xây thành, người xưa đã biết lợi dụng tối đa và khéo léo các địa hình tự nhiên. Họ tận dụng chiều cao của các đồi, gò, đắp thêm đất cho cao hơn để xây nên hai bức tường thành phía ngoài, vì thế hai bức tường thành này có đường nét uốn lượn theo địa hình chứ không băng theo đường thẳng như bức tường thành trung tâm. Người xưa lại xây thành bên cạnh con sông Hoàng để dùng sông này vừa làm hào bảo vệ thành vừa là nguồn cung cấp nước cho toàn bộ hệ thống hào vừa là đường thủy quan trọng. Chiếc Đầm Cả rộng lớn nằm ở phía Đông cũng được tận dụng biến thành bến cảng làm nơi tụ họp cho đến cả hàng trăm thuyền bè.
Chất liệu chủ yếu dùng để xây thành là đất, sau đó là đá và gốm vỡ. Đá được dùng để kè cho chân thành được vững chắc. Các đoạn thành ven sông, ven đầm được kè nhiều đá hơn các đoạn khác. Đá kè là loại đá tảng lớn và đá cuội được chở tới từ các miền núi. Xen giữa đám đất đá là những lớp gốm được rải dày mỏng khác nhau, nhiều nhất là ở chân thành và rìa thành để chống sụt lở. Các cuộc khai quật khảo cổ học đã tìm thấy một số lượng gốm khổng lồ gồm ngói ống, ngói bản, đầu ngói, đinh ngói. Ngói có nhiều loại với độ nung khác nhau. Có cái được nung ở nhiệt độ thấp, có cái được nung rất cao gần như sành. Ngói được trang trí nhiều loại hoa văn ở một mặt hay hai mặt.
Tường thành phía ngoài được xây dựng đứng để gây khó khăn cho đối phương, còn mặt trong thì được xây thoai thoải để dễ dàng lên xuống.

Thành Cổ Loa từ đời Ngô Quyền đến hiện nay.

Ngô Quyền cho đóng đô ở thành Cổ Loa. Ngô Quyền đã tiến hành nhiều cải cánh khác nhau. Mà điển hình là việc tu sửa lại thành Cổ Loa thành nơi trung tâm về quân sự, kinh tế và văn hóa của cả nước. Tuy vậy Ngô Quyền chỉ tại vị được 6 năm, một tòa thành Cổ Loa hoàn toàn mới của triều đại nhà Ngô như ý kiến của một số nhà nghiên cứu, thật khó có điều kiện khả thi. Thành Cổ Loa trong thời gian ngắn này có lẽ chỉ được đắp thêm từng phần trên cơ sở tòa thành cũ của An Dương Vương đã được gia cố nhiều lần trong thời kỳ Bắc thuộc.
Thành Cổ Loa
Thành Cổ Loa
Từ thời của Ngô Quyền đến nay, thành Cổ Loa đã được tu sửa và xây dựng thêm. Thành lúc ấy có 3 vòng chính, chia thành: Thành nội, thành trung và thành ngoại.
Chu vi vòng ngoài 8 km, vòng giữa 6,5 km, vòng trong 1,6 km, diện tích trung tâm lên tới 2 km². Thành được xây theo phương pháp đào đất đến đâu, khoét hào đến đó, thành đắp đến đâu, lũy xây đến đó. Mặt ngoài lũy, dốc thẳng đứng, mặt trong xoải để đánh vào thì khó, trong đánh ra thì dễ. Lũy cao trung bình từ 4 m-5 m, có chỗ cao đến 8 m-12 m. Chân lũy rộng 20 m-30 m, mặt lũy rộng 6 m-12 m. Khối lượng đất đào đắp ước tính 2,2 triệu mét khối.
Thành nội hình chữ nhật, cao trung bình 5 m so với mặt đất, mặt thành rộng từ 6 m-12 m, chân rộng từ 20 m-30 m, chu vi 1.650 m và có một cửa nhìn vào tòa kiến trúc Ngự triều di quy.
Thành trung là một vòng thành không có khuôn hình cân xứng, dài 6.500 m, nơi cao nhất là 10 m, mặt thành rộng trung bình 10 m, có bốn cửa ở các hướng cống song, bắc, tây bắc và tây nam, trong đó cửa đông ăn thông với sông Hồng.
Thành ngoại cũng không có hình dáng rõ ràng, dài hơn 8.000m, cao trung bình 3 m-4 m (có chỗ tới hơn 8 m).
Mỗi vòng thành đều có hào nước bao quanh bên ngoài, hào rộng trung bình từ 10m đến 30m, có chỗ còn rộng hơn. Các vòng hào đều thông với nhau và thông với sông Hoàng. Sự kết hợp của sông, hào và tường thành không có hình dạng nhất định, khiến thành như một mê cung, là một khu quân sự vừa thuận lợi cho tấn công vừa tốt cho phòng thủ.
Sông Hoàng được dùng làm hào thiên nhiên cho thành Ngoại ở về phía Tây Nam và Nam. Phần hào còn lại được đào sát chân tường thành từ gò Cột Cờ đến Đầm Cả. Con hào này nối với hào của thành Trung ở Đầm Cả và Xóm Mít, chảy qua cửa Cống Song nối với năm con lạch có hình dáng như bàn tay xòe, và với một nhánh của con lạch này, nước chảy thông vào vòng hào của thành Nội.
Thuyền bè đi lại dễ dàng trên ba vòng hào để đến trú đậu ở Đầm Cả hoặc ra sông Hoàng và từ đó có thể tỏa đi khắp nơi. Theo truyền thuyết,Thục Phán An Dương Vương thường dùng thuyền đi khắp các hào rồi ra sông Hồng.

Những giá trị thành Cổ Loa mang lại

Trong cấu trúc thành Cổ Loa khi xây dưng, thành Cổ Loa tận dụng lợi thế thiên nhiên khá nhiều. Vì vậy, trên những gò đất cao và dài là những ụ, lũy được xây dựng để canh gác. Một số lũy như vậy được dân đặt tên như Đống Dân, Đống Chuông, Đống Bắn…
Về mặt quân sự, thành Cổ Loa thể hiện sự sáng tạo độc đáo của người Việt cổ trong công cuộc giữ nước và chống ngoại xâm. Với các bức thành kiên cố, với hào sâu rộng cùng các ụ, lũy, Cổ Loa là một căn cứ phòng thủ vững chắc để bảo vệ nhà vua, triều đình và kinh đô. Đồng thời là một căn cứ kết hợp hài hòa thủy binh cùng bộ binh. Nhờ ba vòng hào thông nhau dễ dàng, thủy binh có thể phối hợp cùng bộ binh để vận động trên bộ cũng như trên nước khi tác chiến.
Thành Cổ Loa
Thành Cổ Loa
Về mặt xã hội, với sự phân bố từng khu cư trú cho vua, quan, binh lính, thành Cổ Loa là một chứng cứ về sự phân hóa của xã hội thời ấy. Thời kỳ này, vua quan không những đã tách khỏi dân chúng mà còn phải được bảo vệ chặt chẽ, sống gần như cô lập hẳn với cuộc sống bình thường. Xã hội đã có giai cấp rõ ràng và xã hội có sự phân hóa giàu nghèo rõ ràng hơn thời Vua Hùng.
Về mặt văn hóa, là một tòa thành cổ nhất còn để lại dấu tích, Cổ Loa trở thành một di sản văn hóa, một bằng chứng về sự sáng tạo, về trình độ kỹ thuật cũng như văn hóa của người Việt Cổ. Đá kè chân thành, gốm rải rìa thành, hào nước quanh co, ụ lũy phức tạp, hỏa hồi chắc chắn và nhất là địa hình hiểm trở ngoằn ngoèo, tất cả những điều làm chứng nghệ thuật và văn hóa thời An Dương Vương. Hàng năm, vào ngày 6 tháng giêng âm lịch, cư dân Cổ Loa tổ chức một lễ trang trọng để tưởng nhớ đến những người xưa đã có công xây thành, và nhất là để ghi ơn An Dương Vương.
Hiện nay Cổ Loa là một trong 21 khu du lịch quốc gia Việt Nam, và vào ngày 27/9/2012 di tích lịch sử kiến trúc nghệ thuật và khảo cổ Cổ Loa được Thủ tướng Chính phủ quyết định xếp hạng di tích quốc gia đặc biệt.

Thành Cổ Loa hiện nay và quy hoạch tương lai

Trong những năm gần đây thành Cổ Loa bắt đầu khoác lên mình một diện mạo mới hơn. Các dự án quy hoạch và tu sửa thành Cổ Loa đang được phát triển thêm nhiều hơn. Một số dự án tu bổ tôn tạo trong khu vực Cổ Loa như: Am Mỵ Châu, đình Ngự triều di quy, đền An Dương Vương, đình-chùa Mạch Tràng, Giếng Ngọc, khảo cổ học Mắt Rồng, Bãi Mèn, Đồng Vông… cùng một số công trình giao thông đã hoàn thành như đường vào cửa Tây, cầu qua sông Hoàng, bãi để xe và một số hạng mục phụ trợ.
Xã Cổ Loa hiện có 14 thôn, xóm trong đó 11 xóm ở trên, trong hoặc giữa các vòng thành. Điều này đã tạo nên sự khác biệt của Cổ Loa so với các khu di tích khác. Khu di tích này vẫn cộng động cho người dân sống xen kẻ bên trong. Cũng từ đây nảy sinh những khó khăn trong công tác bảo tồn. Theo thống kê năm 1997, số hộ dân trên mặt thành và hào là 330 hộ. Theo thống kê năm 2005 của Văn phòng Tư vấn và Chuyển giao công nghệ xây dựng – trường Đại học Kiến trúc Hà Nội(đơn vị lập báo cáo đầu tư tu bổ tôn tạo khu di tích Cổ Loa) thì tổng số dân trên đất thành là 394 hộ, trong đó khu thành Nội có 119 hộ. Sự tăng hộ này là do dân số tăng tự nhiên trong các xóm, làng (tỉ lệ tăng tự nhiên ở Cổ Loa là 1,33%/năm). Số nhà mới xây dựng vì thế cũng tăng lên, hầu hết là xây dựng trên đất thổ cư đã được cấp giấy phép quyền sử dụng đất.
Những việc đó tạo nên nhiều tổn hại cho di tích Thành Cổ Loa. Nhưng hiện đang được khắc phục dần. Những kế hoạch bảo tồn chi tiết đã được thông qua. Hy vọng thành Cổ Loa sẽ giữ lại những nét cổ xưa độc đáo làm nên một di tích cấp quốc gia.

Những chuyện kỳ thú bên Thành Cổ Loa

Với một chút tò mò xen lẫn khao khát được quay trở lại với nguồn cội lịch sử đã tồn tại hàng ngàn năm, tôi tìm đến Cổ Loa vào một ngày nắng đẹp. Thực may mắn, khi đang lang thang trên vùng đất cổ thành tôi tình cờ được nghe hồi kết về nàng Mỵ Châu trong câu chuyện tình chung thủy cùng cuộc phân tranh đất làng kỳ lạ.
Am Mỵ Châu trong quần thể di tích Thành Cổ Loa.© Kiến Thức Am Mỵ Châu trong quần thể di tích Thành Cổ Loa. Truyền thuyết trên vùng đất thiêng
Dù chỉ cách trung tâm Thủ đô không xa, vòn vẹn khoảng 20km nhưng tôi vẫn loay hoay mãi với những cung đường vòng vèo trên bản đồ. Như thấy được nỗi ngẩn ngơ vì hành trình đang đi lạc của tôi, cô bạn đồng nghiệp thân thuộc địa bàn đành rỉ rả dong xe theo dẫn đường. Kỳ thực, đến Cổ Loa cũng không khó như tôi vẫn tưởng, chỉ cần men cầu Chương Dương, theo quốc lộ 1A cũ đến cây số 10 là cầu Đuống. Đi tiếp qua cầu là thị trấn Yên Viên, rẽ trái vào quốc lộ 3, đi 5km đến ngã ba rẽ phải, đi tiếp 2km nữa là vào khu di tích Cổ Loa.
Đặt chân lên mảnh đất cố đô trong tôi vẫn có cảm giác thật sự khác lạ, dễ thấy nhất là không gian thoáng đãng, không khí trong lành. Cổ Loa trước mắt như hiện thân cho hình ảnh của một làng quê Bắc bộ xưa cũ với những bến nước sân đình, cây đa cổ thụ. Hơi thở của cuộc sống hiện đại với những nét văn hóa “lai căng” dường như chưa xâm lấn vào cuộc sống nơi đây.
Nghe các cao niên trong vùng kể, trước kia vào khoảng thế kỷ thứ 3 trước Công nguyên Cổ Loa là kinh đô của nhà nước phong kiến Âu Lạc. Mãi đến thế kỷ 10 sau Công nguyên, dưới thời Ngô Quyền nơi đây một lần nữa trở thành kinh đô của nhà nước Vạn Xuân. Nói cách khác, nơi đây được biết đến như thủ đô thứ hai của Việt Nam sau Phong Châu (tỉnh Phú Thọ hiện nay), là thủ đô thời các vua Hùng.
Ngày nay, khu di tích Cổ Loa nằm trải rộng trên địa phận 3 xã Cổ Loa, Dục Tú và Việt Hùng thuộc huyện Đông Anh (Hà Nội). Sẽ thực thiếu nếu như ghé Cổ Loa mà không qua Am thờ công chúa Mỵ Châu. Am nằm u tịch nằm dưới gốc đa cổ thụ với 3 gian thờ. Dẫn chúng tôi thăm Am thờ, ông Quan Đám Nguyễn Đặng Huấn (SN 1953) bảo, chức danh này của ông nằm trong lệ làng đã vài trăm năm.
Nôm na theo lời ông Huấn, gọi là Quan Đám – không phải bởi yếu tố chức quyền như người đời vẫn thường hiểu. Ở Cổ Loa, chức danh này nhằm ám chỉ người được phép hương nhang, bày biện chăm sóc Am thờ. Trang phục của ông Quan Đám thường là quần áo vàng, đội mũ vàng nhằm phân biệt với các ông Từ trông giữ Đình.
Được biết, trong quần thể di tích này, gian cuối Am là phòng bà Mỵ Châu ngự, có cửa khóa, chấn song con tiện bằng gỗ chỉ chừa khoảng đủ để nhìn thấy thấp thoáng hình người to lớn khoác xiêm y màu đỏ ngồi trong tư thế uy nghiêm, tỳ tay lên hai đầu gối. Trên đầu treo mũ công chúa lơ lửng, có đính ngọc trai buông xuống. Trước mặt nơi “bà” ngự là một pho tượng nữ vương công chúa với tư thế tương tự uy nghiêm trên ban thờ.
Nhắc đến truyền thuyết về bà, về câu chuyện tượng đá có khả năng tự lớn… đến nay không ít dị bản vẫn còn lưu truyền trong người dân Cổ Loa. Một cao niên bảo, bức tượng đá mang hình thù bà Mỵ Châu biết tự lớn. Nói cách khác, trước đây, tượng nhỏ hơn bây giờ rất nhiều. Trải qua thời gian, tượng đá đó cứ lớn dần lên. Về chuyện này, người dân Cổ Loa cho rằng đó là điềm may mắn, là điềm lành bởi công chúa đã được về hầu bên vua cha đúng với ý nguyện nên ngày thêm lớn.
Nhấp chén trà, ông Nguyễn Đặng Huấn bảo, khách thập phương cũng như dân bản địa thường ghé đến nơi đây vì bà thường linh ứng sau những lời khấn nguyện. Nhiều khách thập phương còn quả quyết, bởi Mỵ Châu đã có một cuộc tình ngang trái nên rất thiêng cho những lời cầu khấn chuyện tình duyên. Rất nhiều đôi trai gái gặp trắc trở đã đến cầu xin bà và được toại nguyện. Có những chàng trai, cô gái không kiếm được người yêu cũng tìm đến xin bà phù hộ. Không những thế, mỗi khi người dân bị ốm đau bệnh tật, họ cũng xin bà chữa bệnh.
Nhắc đến một dị bản về huyền tích Am Mỵ Châu, ông Huấn kể, nhiều năm sau khi bà Mỵ Châu mất, trên vùng bến trù phú có tên “vườn thuyền, ao mắm” bên dòng sông Hoàng Giang tấp nập tàu thuyền bỗng xuất hiện một phiến đá lạ. Trẻ con chăn trâu thấy một tảng đá trôi dạt ngược dòng sông, tựa chiếc thuyền có người chèo lái bèn trèo lên tảng đá nô đùa. Khi về nhà, chúng bỗng nhiên trở bệnh khiến người dân vô cùng hoảng sợ. Các bô lão cho rằng chúng đã phạm phải đá thiêng nên ra bờ sông làm lễ cầu khấn và trẻ con khỏe mạnh trở lại.
Cũng trong khoảng thời gian ấy, nhiều người thấy đá lạ, đẹp, muốn khiêng về thì không thể nào lay chuyển được. Thấy sự lạ cứ nối tiếp nhau như vậy, các bô lão làng Cổ Loa liền cử một đám thanh niên lực lưỡng, tắm gội sạch sẽ, khiêng võng đào ra, làm lễ xin được rước tượng đá về thờ. Khi khiêng về đến đền “Ngự triều Di quy” bỗng nhiên tượng tuột xuống, không thể khiêng đi được nữa. Dân làng thấy vậy liền lập am thờ, ngày đêm hương khói và cho rằng tượng đá là hóa thân của công chúa Mỵ Châu trôi ngược sông về đất Cổ Loa để hầu cha như lời nguyện trước khi nàng chết.
Nguồn gốc câu nói “Đất Cổ Loa, cây đa Dục Tú”
Lan man chuyện làng, chuyện xã, tôi hỏi ông Huấn về chuyện “ngăn sông cấm chợ” kiểu thanh niên Dục Tú sẽ không bao giờ lấy thanh niên Cổ Loa như không ít báo đài ít năm nay đề cập. Nhắc chuyện này, ông Quan Đám Nguyễn Đặng Huấn quả quyết, chuyện “ngăn sông cấm chợ” ấy là không có thực và cũng chẳng hề có cảnh nam nữ 2 làng không được phép đến với nhau. “Bản thân tôi cũng lấy vợ là người Dục Tú, nên tôi có thể chắc chắn chuyện này chỉ là truyền miệng và không có thực. Truyền thuyết bảo không lấy nhau là hoàn toàn không có” – ông Huấn Khẳng định.
Dù vậy, theo ông Huấn, ở Cổ Loa đến nay vẫn truyền câu nói “Đất Cổ Loa, cây đa Dục Tú” hết sức độc đáo. Theo đó, phát tích câu nói trên nhằm ám chỉ một thời tranh đấu giữa 2 vùng đất giáp ranh. Mọi sự manh nha vào năm 938, sau khi đánh tan quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng, Ngô Quyền một lần đi qua bến Hoàng Giang, ngắm địa thế Cổ Loa thành, thì chợt nghe tiếng hát thánh thót, mượt mà vọng lại từ bên sông. Thấy lạ, vua tìm đến tận nơi, thì thấy một cô gái cắt cỏ. Hỏi ra mới hay, cô gái ấy quê ở làng Dục Tú.
Thấy cô gái đẹp người, lại hát hay vua bèn hỏi ý và cưới nàng làm vợ. Vì có nhiều công lao nên cô gái Dục Tú ấy được vua ban thưởng và tự chọn phần thưởng bằng cách thả quả bưởi trôi theo sông Hoàng Giang. Bưởi trôi đến đâu, nhà vua sẽ cắt đất cho bà đến đó. Quả bưởi thả từ cửa đền Cổ Loa trôi đến cầu Cung (nay bị phá dỡ) thì gặp dòng xoáy quay lại. Vua bèn chuẩn y cấp đất.
Từ đó, bà đưa người dân làng Dục Tú xuống làm ăn định cư, dân chúng dần ổn định.“Thời điểm đó, trải qua nhiều năm chung sống, dân hai làng Dục Tú và Cổ Loa thường xảy ra xích mích, do dân Cổ Loa cho rằng Dục Tú đã lấn đất của mình. Dĩ nhiên, cho đến nay, việc tranh chấp ấy chẳng còn và người dân 2 xã chỉ nhắc đến như một quãng thời gian ghi nhiều dấu ấn về nhau trong dòng chảy lịch sử” – ông Nguyễn Đặng Huấn chia sẻ.
Khu di tích Cổ Loa có diện tích gần 46ha, gồm ba vòng thành (thành Nội, thành Trung, thành Ngoại) khép kín. Chu vi vòng ngoài thành là 8km, vòng giữa là 6,5km, vòng trong là 1,6km. Lũy cao trung bình từ 4-5m, mặt lũy rộng 6-12m. Khu di tích Cổ Loa được xếp hạng là Di tích quốc gia đặc biệt theo Quyết định số 1419/QĐ-TTg (ngày 27/9/2012) của Thủ tướng Chính phủ.
Theo các chuyên gia thuộc Viện Khảo cổ học, thành Cổ Loa là tòa thành đất sớm nhất, có quy mô lớn nhất Đông Nam Á, do vua An Dương Vương đắp vào thế kỷ thứ III-II (TCN). Thành Cổ Loa thể hiện sáng tạo độc đáo của người Việt cổ trong công cuộc giữ nước, chống giặc ngoại xâm. Dưới góc độ văn hóa, thành Cổ Loa là bằng chứng về trình độ kỹ thuật của người Việt cổ.

Thành Cổ Loa – Nhớ lại lịch sử Kinh đô của nhà nước Âu Lạc xưa

Thành Cổ Loa thuộc xã Cổ Loa, huyện Đông Anh, Hà Nội, là kinh đô của nhà nước Âu Lạc (tên nước Việt Nam thời đó), dưới thời An Dương Vương vào khoảng thế kỷ thứ III trước Công nguyên và của nhà nước Vạn Xuân (tên nước Việt Nam thời đó) dưới thời Ngô Quyền thế kỷ X sau Công nguyên.

image047

Năm 1962, thành Cổ Loa được Nhà nước xếp hạng di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia.

Vị trí địa lý

image048

Nếu Văn hoá Phùng Nguyên gắn với sự ra đời của Nhà nước Văn Lang định đô ở Phong Châu (ra đời vào khoảng thế kỷ VII đến V TCN), thì với cuộc kháng chiến chống nhà Tần thắng lợi vào năm 208TCN, theo truyền thuyết thì Hùng Vương trao ngôi báu cho Thục Phán lấy hiệu là An Dương Vương, lập ra Nhà nước Âu Lạc và định đô về phía hạ lưu tại vùng đất Đông Anh (Hà Nội) ngày nay.

Cấu trúc Thành Cổ Loa

Thành Cổ Loa được các nhà khảo cổ học đánh giá là "tòa thành cổ nhất, quy mô lớn vào bậc nhất, cấu trúc cũng thuộc loại độc đáo nhất trong lịch sử xây dựng thành lũy của người Việt cổ".
image049
Một số hình ảnh xưa:

image050
Dấu tích một đoạn thành Cổ Loa

image051
Đền Cổ Loa

image052
Đền thờ An Dương Vương

image046
Nhà bia thành Cổ Loa

Hãy du lịch khu vực thành Cổ Loa,

Ai từng đọc lịch sử nước nhà thì không thể không biết đến thành Cổ Loa, Thục Phán An Dương Vương. Và ai đã từng đọc các câu chuyện cổ tích, truyền thuyết Việt Nam thì không thể không biết đến truyền thuyết Mỵ Châu - Trọng Thủy. Tôi đến Cổ Loa vào một ngày nắng đẹp, với một chút tò mò lẫn khao khát được quay trở lại với nguồn cội lịch sử đã tồn tại hàng ngàn năm.

Bao quanh giếng Ngọc là một hồ nước khá lớn, đây cũng là nơi diễn ra nhiều hoạt động văn nghệ phong phú vào những dịp lễ hội

Qua cầu Chương Dương, theo quốc lộ 1A cũ đến cây số 10 là cầu Đuống. Qua cầu là thị trấn Yên Viên, rẽ trái vào quốc lộ 3, đi 5km đến ngã ba rẽ phải, đi tiếp 2km nữa là vào khu di tích Cổ Loa.

Dù chỉ cách trung tâm thủ đô không xa, nhưng khi đặt chân lên mảnh đất cố đô trong tôi vẫn có cảm giác thật sự khác lạ. Không gian thoáng đãng, không khí trong lành. Cổ Loa trước mắt như hiện thân cho hình ảnh của một làng quê Bắc bộ, với những bến nước sân đình, cây đa cổ thụ bởi hơi thở của cuộc sống hiện đại với những nét văn hóa “lai căng” dường như chưa xâm lấn vào cuộc sống nơi đây.

Cổ Loa là kinh đô của nhà nước phong kiến Âu Lạc, dưới thời An Dương Vương vào khoảng thế kỷ thứ 3 trước Công nguyên và của nhà nước Vạn Xuân dưới thời Ngô Quyền thế kỷ 10 sau Công nguyên. Đây là thủ đô thứ hai của Việt Nam sau Phong Châu (tỉnh Phú Thọ hiện nay), là thủ đô thời các vua Hùng.

Theo các tài liệu khảo cổ học, xa xưa nơi đây là rừng rậm, do biến đổi của thiên nhiên nên tất cả đã chìm vào lòng đất, hiện chỉ còn dấu tích những dải than bùn lớn, những cây cổ thụ... kéo dài qua nhiều địa phương từ Đài Bi qua Cầu Cả, Đại Đà, Hội Phụ đến Lỗi Khê.

Khu di tích Cổ Loa nằm trên địa phận 3 xã Cổ Loa, Dục Tú và Việt Hùng thuộc huyện Đông Anh (Hà Nội), cách trung tâm thủ đô Hà Nội khoảng 17km về phía bắc.

image053
Cổng tam quan vào đình Cổ Loa

Khác với các di tích lịch sử khác, Cổ Loa là một quần thể di tích có diện tích trải rộng trên một địa bản rộng lớn. Thành Cổ Loa theo tương truyền gồm chín vòng xoáy trôn ốc, nhưng căn cứ trên dấu tích hiện còn, các nhà khoa học thấy thành có ba vòng, trong đó vòng thành nội rất có thể được làm về sau, dưới thời Ngô Quyền.

Chu vi vòng ngoài thành là 8km, vòng giữa 6,5km, vòng trong 1,6km, diện tích trung tâm lên tới 2km². Thành được xây theo phương pháp đào đất đến đâu khoét hào đến đó, thành đắp đến đâu, lũy xây đến đó. Mặt ngoài lũy, dốc thẳng đứng, mặt trong xoải để đánh vào thì khó, trong đánh ra thì dễ. Lũy cao  từ 4 m-5m, có chỗ cao 8 m-12 m. Chân lũy rộng 20m-30m, mặt lũy rộng 6m-12m. Khối lượng đất đào đắp ước tính 2,2 triệu m3.

Từ vòng trong - trung tâm của khu di tích Cổ Loa - tôi men theo các con đường làng để “xoáy” trở ra đến vòng ngoài. Trải qua hàng ngàn năm với những thắng trầm của lịch sử, với những sự thay đổi của thiên nhiên tạo hóa, những bờ tường kiên cố ngày xưa, nay chỉ còn những gò đất cao trung bình khoảng 2m, tuy nhiên theo lời các cụ bô lão trong làng thì muốn đi được hết được cả ba vòng tường thành phải mất gần nửa ngày trời.

Cụm di tích Cổ Loa hiện nay thuộc vòng trong, bao gồm chủ yếu các đình, đền thờ, tiêu biểu như đền thờ Thục Phán An Dương Vương (đền Thượng), giếng Ngọc, am Bà Chúa và dinh Ngự triều di quy.

Qua cổng làng, cũng là cổng thành trong, là tới đình làng Cổ Loa. Theo truyền thuyết thì đó là nền cũ của điện ngự triều, nơi bá quan triều hội ngày xưa nên trong đình còn tấm hoành phi "Ngự triều di quy”.

image054
Tiền sảnh “Ngự triều di quy”, nơi thờ các quan văn võ nước Âu Lạc

image055
Ban thờ bá quan văn võ

Bên trong “Ngự triều di quy" còn có rất nhiều di tích khảo cổ niên đại hàng nghìn năm, đặc biệt là những mũi tên bằng đồng từ thời An Dương Vương.

Những mũi tên này được khai quật tại di chỉ Cầu Vực, Cổ Loa có niên đại 2.000-2.500 năm

Cạnh đình là am Bà Chúa - miếu thờ công chúa Mỵ Châu, nằm nép dưới gốc đa già cổ thụ. Miếu am bé bỏng như cuộc đời ngắn ngủi của nàng công chúa đáng thương với "trái tim lầm chỗ để lên đầu". Trong am có một tảng đá hình người cụt đầu, ai cũng bảo đó là tượng Mỵ Châu.

Tượng bà chúa Mỵ Châu là một hòn đá tự nhiên có hình dáng người cụt đầu. Huyền thoại kể rằng: sau khi Mỵ Châu hóa thành hòn đá to trôi dạt về bãi Đường Cấm, ở phía đông thành Cổ Loa, dân trong thành đem võng ra cáng về đến gốc đa thì đứt võng, hòn đá rơi xuống, bèn lập am thờ ngay tại chỗ.

Qua am Mỵ Châu tới đền Thượng, tức đền An Dương Vương, tương truyền dựng trên nền nội cung ngày trước. Đền này mới được làm lại hồi đầu thế kỷ 20, có đôi rồng đá ở bậc tam cấp cửa đền là di vật đời Trần hoặc Lê Sơ. Trong đền có tượng An Dương Vương bằng đồng mới đúc cùng dịp làm lại đền. Trước đền là giếng Ngọc, tương truyền là nơi Trọng Thủy tự tử vì hối hận. Nước giếng này mà đem rửa ngọc trai thì ngọc sáng bội phần! 

Trong quần thể khu di tích lịch sử Cổ Loa, đền Thượng (đền Thục Phán An Dương Vương) là điểm tham quan đáng chú ý nhất. Đền được xây dựng năm 1687 đời vua Lê Hi Tông, đứng trên một quả đồi xưa có cung thất của vua.

image056
Cổng tam quan hiện lên một cách oai nghiêm sừng sững
image057
Dù đã có niên đại hàng trăm năm, song trên mình rồng không có một chút rêu phong

Trước cửa đền có đôi rồng đá uốn khúc, tay vuốt râu, được chạm trổ tinh xảo, tiêu biểu cho nghệ thuật điêu khắc thời Lê.

Qua cửa tam quan, bước vào trong đền những hàng cây xanh hai bên đền là một không gian thoáng đãng, trong lành khiến ai cũng cảm thấy tâm hồn sảng khoái, thanh thản.

image058
Những cây đa cổ thụ xanh rờn bao quanh khu đền

Bước vào bên trong ngôi đền là một không gian khá rộng với lần lượt những ban thờ của các vị bá quan văn võ, tứ trụ triều đình, thần Kim Quy và bàn thờ của Thục Phán An Dương Vương.

image059
Sự tĩnh mịch của ngôi đền, khác xa với sự ồn ào náo nhiệt ở bên ngoài

Ban thờ thần Kim Quy, trên bàn thờ là chiếc nỏ thần, thứ vũ khí bí mật làm khiếp sợ kẻ thù.

Đá kè chân thành, gốm rải rìa thành, hào nước quanh co, ụ lũy phức tạp, hỏa hồi chắc chắn và nhất là địa hình hiểm trở ngoằn ngoèo. Cổ Loa ngày nay không chỉ đã trở thành một di sản văn hóa, một bằng chứng về sự sáng tạo, về trình độ kỹ thuật cũng như văn hóa của người Việt cổ trong công cuộc giữ nước và chống ngoại xâm,mà nó còn là một điểm đến lý tưởng cho các du khách thập phương muốn khám phá những giá trị văn hóa,những hình ảnh quen thuộc của một làng quê Bắc Bộ thanh bình.

image060image061

Hằng năm vào ngày 6 tháng giêng âm lịch, cư dân Cổ Loa tổ chức một lễ hội trang trọng để tưởng nhớ những người đã có công xây thành, nhất là để ghi ơn An Dương Vương, người khai sinh ra nhà nước phong kiến Âu Lạc.

ngochinh.violet.vn
Thành Cổ Loa nguyên thủy có mấy vòng?
Thế giới mới
 
Hiện tại, nhìn vào di tích Cổ Loa, ta thấy có ba vòng thành khép kín, thành nội (Kiển thành), thành trung và thành ngoài. Thế nhưng đâu là thành Cổ Loa nguyên thủy do An Dương Vương xây dựng? Các nhà sử học vẫn chưa thống nhất ý kiến. Giáo sư Đỗ Văn Ninh cho rằng Kiển thành là do tướng Mã Viện của nhà Hán xây sau khi đánh thắng Hai bà Trưng.

Thành Cổ Loa đã được xây như thế nào?
Năm 257 trước Công nguyên, nước Âu Lạc được thành lập. An Dương Vương vừa định đô ở Cổ Loa đã bắt tay ngay vào việc xây đắp kinh thành. Theo cấu trúc còn lại hiện nay, Loa thành gồm có:
Thành nội hình chữ nhật, cao trung bình 5m so với mặt đất, mặt thành rộng từ 6-12m, chân rộng từ 20-30m, chu vi 1.650m và có một cửa nhìn vào tòa kiến trúc Ngự triều di quy. Thành trung là một vòng thành không có khuôn hình cân xứng, dài 6.500m, nơi cao nhất 10m, mặt thành rộng trung bình 10m, có năm cửa ở các hướng đông, nam, bắc, tây bắc và tây nam, trong đó cửa đông ăn thông với sông Hoàng. Thành ngoài cũng không có hình dáng rõ ràng, dài hơn 8.000m, cao trung bình 3-4m (có chỗ tới hơn 8m). Phía ngoài thành này có hào bao bọc bốn phía. Riêng phía nam không có hào vì con sông Hoàng chảy qua đây. Sở dĩ tường thành cổ quái như vậy là vì người xưa đã biết tận dụng triệt để những gò đất tự nhiên, đắp nối chúng lại để làm tường thành.
Tương tự như tường ngoài, tường giữa cũng được xây dựng theo cách đắp nối các gò đống tự nhiên thành một vòng tường không có hình dạng cụ thể, do vậy khoảng cách giữa hai vòng thành không đều nhau. Càng về phía nam hai vòng càng gần nhau, cuối cùng được nối liền, chừa một khoảng trống làm cửa thành (cửa Trấn Nam) - lối vào chính.
Như vậy, gần 15.000m tường thành Cổ Loa có cùng một đặc điểm xây dựng là triệt để lợi dụng địa thế tự nhiên, đắp vòng nối với nhau nơi Trấn Nam môn, tạo thành một hình xoáy trôn ốc nên được gọi là Loa thành. Cách đắp này cổ kim, Đông Tây chưa hề có.
Chính nhờ phương pháp đắp nối nên trong một thời gian rất ngắn, với nhân lực không đông, sử dụng công cụ bằng đồng, An Dương Vương Thục Phán đã xây dựng được một công trình đồ sộ hiếm thấy. Phương pháp đào hào của dân Âu Lạc cũng có tính sáng tạo đáng kể. Đất hào đắp lên tường vừa giải quyết vấn đề vật liệu, vừa tăng thêm một vòng chướng ngại. Người xưa đã đạt được thành công kép, giảm được phân nửa công sức và nhân đôi mức độ hiểm trở của tòa thành.

Vòng thành nào không do An Dương Vương xây?
Theo giáo sư Đỗ Văn Ninh, vòng thành trong cùng (Kiển thành) lâu nay vẫn bị nhiều người lầm tưởng là vòng thứ ba của kinh thành Cổ Loa được An Dương Vương xây vào khoảng năm 257 TCN. Sự thực, Kiển thành là do tướng Mã Viện của nhà Hán xây sau khi đánh thắng Hai bà Trưng. Cổ Loa thời An Dương Vương chỉ có hai chứ không phải ba vòng thành.
Về mặt kiến trúc, Kiển thành được đắp thành hình chữ nhật, chu vi 1.600m, mặt thành cao 10m. Thành chỉ mở một cửa ở chính giữa mặt tường phía nam và cũng có hào bao quanh. Đáng chú ý là thành có đắp 12 hồi (ụ đất) nhô ra ngoài rất cân xứng, mỗi mặt có bốn hồi.
Cả bình đồ kiến trúc, kỹ thuật xây dựng và những phát hiện khảo cổ học trong thành đều chứng minh rằng vòng thành này không phải là sản phẩm của thời An Dương Vương. Hoả hồi của Kiển thành được dựng theo lối thành Hán có rất nhiều ở phía bắc Trung Quốc. Hỏa hồi được đắp để ngăn chặn đối phương tiếp cận chân thành. Đây cũng là di tích hỏa hồi đầu tiên ở Việt Nam.
Giáo sư Đỗ Văn Ninh nhận định, cách xây dựng theo kiểu tạo một bình địa, gặp gò đống thì san bằng, gặp ao hồ thì san lấp rồi mới đắp tường để có tòa thành sắc cạnh là của người Trung Hoa. Kiển thành cũng đã được làm như thế bởi đất Cổ Loa xưa không ít ao đầm. Các nhà khảo cổ học đã từng khai quật và phát hiện những hòn đá và cây chống lầy để đắp tường thành. "Chúng tôi cũng đã tìm được một loại di chỉ có rất nhiều trong khu vực Kiển thành, mà một thời giới nghiên cứu gọi một cách không thỏa đáng là "gốm Cổ Loa". Di chỉ này là những mảnh ngói ống, ngói bản, đinh ngói và đầu ngói ống. Thực ra, những vật liệu lợp nhà này là sản phẩm của người Hán. Người Việt không lợp nhà bằng loại ngói này", giáo sư Ninh nói.
Bên trong Kiển thành, các nhà khoa học còn tìm thấy những khuôn giếng bằng đất nung. Đây cũng là những khuôn giếng quen thuộc của người Hán. Trong tiến trình lịch sử văn hóa, người Việt đã tiếp thụ khá nhiều yếu tố văn hóa của Trung Hoa nhưng ngói ống lợp nhà, khuôn giếng đất nung vừa kể là những yếu tố người Việt đã từ chối tiếp nhận.
Khi tiến hành khai quật ở Kiển thành, nhóm nghiên cứu của giáo sư Ninh đã đào được những ngôi mộ Hán xếp bằng gạch in chữ, có niên đại rất xa xưa như: Vĩnh Nguyên thập nhất niên trị (năm thứ 11, niên hiệu Vĩnh Nguyên - đời vua Hán Hòa Đế - năm 99); Vĩnh Nguyên thập thất niên trung tự (năm thứ 17, niên hiệu Vĩnh Nguyên - đời vua Hán Hòa Đế - năm 105) và Vĩnh Sơ ngũ niên trung trị đại hình chuyên (năm thứ 5, niên hiệu Vĩnh Sơ - đời vua Hán An Đế - năm 111). Như vậy, những viên gạch này cho chúng ta biết thời gian người Hán sống, cai trị, xây nhà và được an táng ở đây.
Trong Đại Việt sử ký toàn thư, Ngô Sĩ Liên đã chép: "Mã Viện sau khi đánh bại Hai Bà Trưng đã chia huyện Tây Vu làm hai huyện là Phong Khê và Vọng Hải. ở Phong Khê đắp Kiển thành làm trị sở".
Kiển thành là thành hình con kén. Nhà sử học Đào Duy Anh cho rằng Kiển thành là nhân địa điểm cũ mà xây lên. Những phát hiện khảo cổ học cũng chứng minh điều đó. Vì địa thế vùng Phong Khê rất thuận lợi nên Mã Viện đã chọn Cổ Loa (nơi mà 300 năm trước đó, An Dương Vương đã định đô để đắp Loa Thành) làm trị sở, sửa sang hai bên vòng thành cũ của An Dương Vương làm "vỏ kén", đồng thời đắp Kiển thành làm "con nhộng" của mình.
Như vậy, trên đất nước Âu Lạc, đã có một kinh thành Cổ Loa xây dựng vào thế kỷ thứ 3 trước công nguyên và một Kiển thành, trị sở huyện Phong Khê, xây vào thế kỷ thứ nhất trước công nguyên. Vì vậy, việc phân biệt rạch ròi tòa thành xây dựng từ thời An Dương Vương với những công trình bổ sung của giai đoạn lịch sử về sau là điều cần thiết, nhất là khi dự án bảo tồn, tôn tạo di tích Cổ Loa với nhiều hạng mục lớn đã được Ban Quản lý di tích - danh thắng Hà Nội trình thành phố phê duyệt.
Thế giới mới

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét