TT&HĐ V - 47/o
Top 10 Hiện Tượng Kỳ Lạ Trên Bầu Trời Được Camera ghi lại - Không ai lý giải nổi
"Khoa học là một sức mạnh trí tuệ lớn nhất, nó dốc hết sức vào việc phá vỡ xiềng xích thần bí đang cầm cố chúng ta."
Gorky
Gorky
"Cái khó hiểu nhất chính là hiểu được thế giới"
"Có hai cách để sống trên đời: một là xem như không có phép lạ nào cả, hai là xem tất cả đều là phép lạ".
Albert Einstein
“Chính qua cuộc đấu tranh nhằm thống nhất một cách hợp lý cái đa dạng
mà đã đạt được những thành công lớn nhất, dù rằng chính ý đồ đó có thể
gây ra những nguy cơ lớn nhất để trở thành con mồi của ảo vọng”.
Albert Einstein
“Người nhìn thấy cái đa dạng mà không thấy cái đồng nhất thì cứ trôi lăn trong cõi chết”.
CHƯƠNG VIII (XXXXVII): NÓNG – LẠNH
“Nhiệt thể hiện ở chuyển động của các hạt vật chất.”
M.V. Lômônôxốp
“Tính
chất kỳ lạ nhất của năng lượng là khả năng biến đổi của nó. Một trong
những dạng phổ biến nhất của năng lượng trong tự nhiên là năng lượng
chuyển động hay động năng. Năng lượng nhiệt là nguồn dự trữ động năng
của các phân tử hoặc nguyên tử chuyển động hỗn loạn và liên tục.”
K.A Gladkov
"Tôi thích sự ngu dốt nhiệt tình hơn là sự thông thái thờ ơ".
Anatole France
"Trong sâu thẳm mùa đông, cuối cùng tôi cũng hiểu được trong tôi có mùa hè bất diệt".
Albert Camus
" Phần lớn con người sống cuộc đời tuyệt vọng trong im lặng, và rồi xuống mồ khi trong mình vẫn còn vang điệu nhạc".
Henry David Thoreau
"Không
có đam mê, bạn không có năng lượng; không có năng lượng, bạn không có
cái gì. Không có gì tuyệt vời trên thế giới được làm xong mà không có
đam mê trong đó".
Donald Trump
"Hãy
nuôi dưỡng hy vọng vì không có hy vọng sẽ không có nhiệt huyết. Nhiều
khi chỉ cần một tia hy vọng cũng làm rực sáng cả bầu nhiệt huyết trong
lòng người, soi rọi những thành quả lớn lao".
NTT
"Không
thể tưởng tượng ra một Vũ Trụ vô tỉ! Chỉ khi nào vật lý học thừa nhận
rằng các hằng số Vũ Trụ phải là những con số xác định (không vô tỉ), thì
lúc đó nó mới có khả năng nhận thức được chân xác Vũ Trụ".
NTT
(Còn tiếp)
Cân bằng nhiệt
động là sự thể hiện ra trong thế giới vĩ mô của tình thế hay trạng thái cân
bằng động của vận động tổng hợp hình thành nên từ số đông bức xạ điện từ vận
động và tương tác lẫn nhau. Do đó cân bằng nhiệt động không thể không tuân thủ
những qui luật, nguyên lý thao túng, chi phối đến quá trình vận động cân bằng.
Cụ thể, chẳng hạn khi nung nóng một hệ nhiệt động (chứa toàn bức xạ ) thì cũng có nghĩa là đã “nạp” cho hệ đó một lượng bức xạ từ
môi trường ngoài. Lượng bức xạ đó làm cho mật độ năng lượng bức xạ trong hệ
tăng lên, kéo theo mức độ nhiễu loạn bức xạ tăng lên. Thể hiện sự tăng mức độ
nhiễu loạn chính là sự tăng nhiệt độ và áp suất.
Giả sử nung
nóng hệ nhiệt động bức xạ Ho từ nhiệt độ T1 lên nhiệt độ T2 rồi ngưng không nung
nóng nữa và cô lập nó, không cho xảy ra sự trao đổi bức xạ giữa nó với môi
trường ngoài. Có thể thấy do bị nung nóng (kích thích) mà trạng thái cân bằng
nhiệt động của Ho đang ở mức độ tĩnh tại
cao (T1) biến chuyển lên mức độ tĩnh tại thấp hơn (T2). Khi không còn bị kích thích nữa (điều kiện môi trường
ngoài trở về như trước khi có sự nung nóng), vận động nội tại của hệ Ho có xu hướng trở về với
trạng thái cân bằng nhiệt động ban đầu. Tuy nhiên, do mật độ bức xạ trong hệ Ho đã tăng lên so với
trước khi nung nóng nên hệ Ho không thể trở về trạng
thái cân bằng nhiệt động ban đầu (có nhiệt độ T1) được nữa, mà chỉ đạt đến trạng thái cân bằng nhiệt động T'1 (với T1<T'1<T2), có mức độ tĩnh lặng thấp hơn của trạng thái T1 nhưng cao hơn của
trạng thái T2.
Cái mà các nhà
nhiệt học thời trung cổ và cận đại gọi là chất nhiệt hay các nhà nhiệt học thời
hiện đại gọi là nhiệt lượng thực ra chính là năng lượng bức xạ điện từ chứ
không có gì huyền bí cả. Giá trị mật độ năng lượng bức xạ của một hệ nhiệt động
cũng là một chỉ thị về sự hàm chứa nhiệt lượng của hệ đó. Vậy thì nguyên nhân
trực tiếp nào làm xảy ra hiện tượng giảm nhiệt độ dẫn đến áp suất giảm trong
khi giá trị mật độ năng lượng bức xạ (nghĩa là nhiệt lượng) của hệ không đổi?
Nhiều khả năng có như thế là vì khi nung nóng hệ, nhiều bức xạ có tần số thấp
hơn tần số của phần lớn bức xạ trong hệ trước khi bị nung nóng, thâm nhập vào
hệ và đồng thời cũng xảy ra sự hợp thành các bức xạ có tần số thấp hơn từ một
số bức xạ có tần số cao hơn của bản thân hệ. Khi không còn sự nung nóng nữa (sự
kích thích bị triệt tiêu) thì các bức xạ có tần số thấp ấy phân rã đến mức nhất
định thành các bức xạ có tần số cao hơn cho phù hợp với điều kiện mới. Quá
trình này đồng thời cũng làm cho mức độ nhiễu loạn trong lan truyền bức xạ -
nguyên nhân của hiện tượng nóng – lạnh và sự tăng giảm nhiệt độ xuất hiện trong
thế giới vĩ mô - giảm xuống. Khi mức độ nhiễu loạn trong vận động nội tại của
hệ cô lập Ho giảm xuống đến nhiệt
độ T1 như đã nói thì quá
trình giảm đó dừng lại. Lúc đó, vận động nội tại của Ho cũng đạt được trạng
thái cân bằng nhiệt động tĩnh lặng nhất, bình ổn nhất trong điều kiện mới và vì
vậy mà trạng thái ấy cũng có tính duy trì lâu dài.
Sự biến chuyển vận
động nội tại của hệ cô lập Ho từ tình thế cân bằng
nhiệt động có mức tĩnh lặng thấp nhất về tình thế cân bằng nhiệt động có mức
tĩnh lặng cao nhất và tồn tại ổn định lâu dài một cách tự nhiên ở tình thế ấy
đã làm nảy ra suy lý dẫn chúng ta đến nhận định: vận động nội tại của một hệ cô
lập ở trạng thái cân bằng nhiệt động, nếu xét trên bình diện một tổng thể, một
hợp thành từ vận động và tương tác lẫn nhau của số đông bức xạ, thì phải có
tính điều hòa, tính chu kỳ, tính trật tự, nghĩa là vận động ấy phải có tính qui
luật hay phải chịu sự chi phối chủ yếu của những yếu tố mang tính tất định, còn
nếu xét trên bình diện là một “hỗn tạp” của đông đúc các bức xạ cụ thể vận động
và tương tác lẫn nhau, thì ít nhiều gì cũng đồng thời có tính ngẫu nhiên, xác
suất. Như vậy, trong số các trạng thái cân bằng nhiệt động có thể có trong một
điều kiện nhất định của một hệ cô lập, trạng thái cân bằng nhiệt động có mức độ
tĩnh tại cao nhất cũng là trạng thái có mức độ vận động nhiễu loạn thấp nhất.
Để hiểu được vì
sao sau khi không còn bị kích thích (bị nung nóng) và lập tức bị cô lập thì hệ Ho, dù trong tình trạng đã có sự phân bố đồng đều trong hệ về
mặt năng lượng bức xạ cũng như giá trị mật độ năng lượng bức xạ của nó không
đổi theo thời gian (nghĩa là có sự bảo toàn về mặt nhiệt lượng mà hệ hàm chứa),
vẫn tự điều chỉnh được vận động nội tại từ trạng thái cân bằng nhiệt động có
mức nhiễu loạn cao hơn xuống trạng thái cân bằng nhiệt động có mức nhiễu loạn
thấp nhất trong điều kiện mới và hơn nữa, duy trì được vận động tự nhiên một
cách bình ổn, lâu dài trong trạng thái tĩnh lặng tương đối ấy, chúng ta cần
phải thừa nhận rằng có hai loại nhiễu loạn bức xạ: một loại có tính tất yếu,
mặc định, vốn dĩ, là kết quả của sự phải lan truyền đáp ứng yêu cầu nghiêm ngặt
về chuyển hóa KG trong phạm vi môi trường kg đã bị hạn định của hệ cô lập, loại
thứ hai có tính ngẫu nhiên, tạm thời, là kết quả của sự đột biến vận động của
hệ cô lập. Mặt khác, cũng cần phải thừa nhận rằng, hệ cô lập Ho vận động nội tại được
ngay cả khi ở trạng thái cân bằng nhiệt động có mức tĩnh lặng cao nhất, là do
về mặt năng lượng bức xạ nói chung thì có sự phân bố đều đặn, đồng nhất trong
toàn hệ, nhưng về mặt động năng tịnh tiến (hay là về mặt động năng xoáy) lại
phân bố có sự chênh lệch tương đối theo phân vùng và sự phân vùng đó theo hoạch
định sao cho khi bức xạ lan truyền theo một hướng ưu tiên nào đó lần lượt qua
các phân vùng kế tiếp theo đó, thì động năng tịnh tiến (hay động năng xoáy) của
bức xạ chuyển hóa tăng hay giảm một cách đều đặn, và đặc biệt quan trọng là nhờ
có sự hiện diện và tác dụng của vách ngăn của môi trường ngoài mà tổng động
năng tịnh tiến (hay là tổng động năng xoáy) của hệ Ho luôn được bảo toàn và
bằng một nửa năng lượng bức xạ toàn phần của nó.
Từ quan niệm
đó, chúng ta đi đến hình dung: khi số đông bức xạ điện từ lan truyền tự nhiên
trong môi trường chân không, nghĩa là sự lan truyền của từng bức xạ không ảnh
hưởng đến nhau cũng như luồng lan truyền của tập hợp các bức xạ không bị cản
trở, ngăn chặn bởi ngoại vật, thì sự vận động ấy coi như hoàn toàn không bị
nhiễu loạn, nghĩa là không thể hiện nhiệt độ (T = 0 oK). Điều tế nhị là bằng thực nghiệm, không thể xác nhận được
nhận định đó, bởi vì không thể dùng bất cứ thứ gì “thò” vào luồng bức xạ đang
lan truyền ấy để đo nhiệt độ mà không gây ra sự nhiễu loạn cho sự lan truyền
ấy. Rõ ràng là không thể đo được nhiệt độ 0 tuyệt đối (0 oK), và quan trọng hơn: không thể triệt tiêu được nhiệt độ (hay
sự nhiễu loạn vận động) nội tại của bất cứ hệ nhiệt động nào, của bất cứ thực
thể nào tồn tại trong Vũ Trụ.
Như vậy, khi hệ
cô lập Ho bị kích thích (bị nung
nóng) đến nhiệt độ T2, nghĩa là nó đã nhận thêm một lượng bức xạ nhất định từ môi
trường ngoài, làm mật độ năng lượng bức xạ của nó tăng lên do đó mà mức độ
nhiễu loạn vận động ở cả hai dạng tất yếu và ngẫu nhiên tăng lên. Khi triệt
tiêu kích thích của môi trường ngoài thì lập tức mức độ nhiễu loạn dưới dạng
ngẫu nhiên cũng nhanh chóng giảm xuống, kéo theo sự giảm mức độ nhiễu xạ nói
chung và thể hiện ra chủ yếu dưới dạng nhiễu loạn tất yếu, có tính bình ổn lâu
dài. Khi mức nhiễu loạn đã đạt đến tối thiểu trong điều kiện mới thì cũng là
lúc vận động nội tại của hệ Ho đạt đến trạng thái cân
bằng nhiệt động có mức tĩnh lặng cao nhất, nghĩa là “êm đềm” nhất, hài hòa nhất
và do đó mà cũng có tính “bền” nhất.
Rõ ràng là nếu
không có vách ngăn cách ly của môi trường ngoài thì hệ cô lập Ho không thể duy trì được
sự vận động điều hòa trong trạng thái tĩnh lặng nhất của nó. Nhờ có vách ngăn
đó (xét trong trường hợp lý tưởng), không những năng lượng bức xạ toàn phần của
hệ Ho được bảo toàn mà tổng
động năng tịnh tiến cũng như tổng động năng xoáy cũng được bảo toàn. Có thể
tưởng tượng mặt ngăn cách (nhờ có nguyên lý tác dụng tương hỗ) đóng vai trò như
một mặt thu phát cân bằng bức xạ của môi trường ngoài đối với hệ Ho, nghĩa là nó thu bao nhiêu bức xạ của hệ Ho thì cũng phát ra bấy
nhiêu bức xạ “trả lại” cho hệ Ho. Nếu hình dung ở góc độ ngược lại, cũng có thể cho rằng hệ Ho là một nguồn thu phát
cân bằng bức xạ đối với môi trường ngoài, nghĩa là tại mặt tiếp xúc của Ho với mặt ngăn cách So, hệ Ho thu được bao nhiêu bức
xạ từ môi trường ngoài thì cũng phát “trả lại” đúng bằng ngần ấy bức xạ cho môi
trường ngoài.
Nếu chỉ chú ý tới
sự phát bức xạ của hệ Ho thôi thì hệ Ho đã gây ra áp suất Po lên mặt cầu ngăn cách So và về mặt định lượng
thì:
với là mật độ năng lượng
bức xạ trong Ho
Bây giờ, giả sử
rằng có một mặt cầu ảo (không thực sự tồn tại mà chỉ hiện hữu trong tư duy
thôi!) đi qua điểm A và đồng tâm với mặt So, gọi là SA. Có thể hình dung được mặt SA làm hình thành nên một
hệ cô lập ảo dạng cầu có tâm là điểm O, gọi là HA. Quá trình phát bức xạ của hệ HA cũng phải gây ra một
áp suất ảo (tiềm áp suất) là PA. Về mặt giá trị:
Kết quả đó xác
nhận nguyên lý Pascal và ám chỉ về sự tồn tại của trạng thái cân bằng tĩnh tại
tuyệt đối. Nhưng “rất may”, đó là một kết quả ảo, không thực, vì PA chỉ là khả năng chứ
không phải hiện thực. Muốn cho pA là một hiện thực thì
thực nghiệm phải “nhúng mũi” vào đó. Nhưng đã “nhúng mũi” vào đó thì hệ Ho không thoát khỏi bị
lũng đoạn vận động nội tại và lúc đó, kết quả sẽ phải là:
Nếu sự lũng
đoạn ấy là nhỏ, không đáng kể, thì:
Nghĩa là nguyên
lý Pascal, nếu có đúng thì chỉ đúng trong thế giới vĩ mô và mang tính tương đối
nên cũng chỉ có khả năng ám chỉ về một trạng thái cân bằng tĩnh tại tương đối
mà thôi.
Như chúng ta đã
quan niệm, tiềm xung lực là một tồn tại ảo “ẩn chứa” trong động năng của một
vật chuyển động. Khi động năng của vật đó chuyển biến thì xung lực tương tác
mới xuất hiện. Đó chính là quá trình từ khả năng biến thành hiện thực. Tương tự
như vậy, trong hệ Ho, tiềm áp lực của bức xạ ẩn tàng trong động năng
tịnh tiến của nó. Xét trên một đơn vị diện tích thì tiềm áp lực ấy cũng chính
là tiềm áp suất.
Quan niệm trên
đã được “toán học hóa” bằng biểu diễn:
với
và n là số Avôgadrô
Nếu V là thể tích của hệ
thực thì p là áp suất thực, nếu V là thể tích của hệ ảo
thì p là áp suất ảo (tiềm áp
suất).
Đại lượng m1c2 chính là năng lượng
toàn phần của bức xạ và nó còn được viết:
với d1 là đường kính của giả
hạt (khi bức xạ định xứ)
t1 là chu kỳ xoáy của giả
hạt
Vận tốc c là một cực đại bất
biến nên khi bức xạ lan truyền trên đường
tròn tâm O với đường kính D thuộc mặt cầu của hệ
thực (hoặc ảo) có thể tích V thì thời gian lan
truyền hết chu vi đường tròn đó phải là T sao cho:
Trong khi đó,
thể tích V của hệ đang xét được
tính ra:
với S là diện tích mặt cầu
ngăn cách của hệ
Như vậy, có thể
viết:
với aht là gia tốc hướng tâm
(hoặc ly tâm) của bức xạ và có thể cho rằng m1a chính là xung lực
(hoặc tiềm xung lực) tạo nên áp lực (hay tiềm áp lực) lên bề mặt phân cách của
hệ thực (hoặc hệ ảo) đó. Nhưng có lẽ biểu diễn sau đây mới xác đáng hơn chăng:
với a là gia tốc tịnh tiến
có phương xuyên tâm hệ của hạt .
Áp dụng biểu
diễn đó cho trường hợp hệ thực Ho và hệ ảo HA thì:
Và:
Với quan niệm
số lượng bức xạ phân bố đều trong hệ cô lập và cân bằng nhiệt động, đồng thời
thấy rằng ao = aA thì rõ ràng Po = pA.
Nếu chỉ chú ý
về mặt phát bức xạ theo hướng kính từ
trong ra thì lượng bức xạ phát ra từ mặt cầu SA của hệ HA trong một đơn vị thời
gian phải bằng lượng bức xạ gây ra áp suất Po trên bề mặt So của hệ Ho trong đơn vị thời gian
đó. Điều này mâu thuẫn với quan niệm mật độ bức xạ phân bố đồng đều, nghĩa là
mâu thuẫn với kết quả Po = pA.
Điều cần giải
quyết ở đây là phải dung hòa cho được mâu thuẫn chứ không phải tìm cách loại bỏ
kết quả nào trong hai kết quả và .
Để làm được
điều đó, trước hết chúng ta viết lại phương trình trạng thái khí lý tưởng trong
trường hợp tổng quát:
với T* là nhiệt độ được xác
định theo phương trình đó và T là nhiệt độ được tính
theo biểu diễn ngoại suy của chúng ta. Dễ thấy:
Biết m là tổng khối lượng của
lực lượng bức xạ có trong hệ Ho, là khối lượng của một
mol bức xạ , có thể viết:
và trong trường
hợp đang xét ở đây:
m = N’.m1
Vậy:
Hay:
Từ đó sẽ có:
Và:
Quan sát ở góc
độ pA = Po, có thể viết:
Và từ đó có thể
trở về với phương trình cơ bản của thuyết động học phân tử viết cho một mol
hạt.
Muốn cho biểu
diễn trên cũng đúng trong trường hợp thì phải biện luận
rằng mật độ bức xạ (cũng có nghĩa là mật
độ năng lượng toàn phần của lực lượng bức xạ ) đúng là được phân bố đều đặn trong hệ cân bằng nhiệt động
cô lập, nhưng xét riêng về mặt động năng tịnh tiến của chúng thì có sự phân bố
tăng (hoặc giảm) đều theo một hướng xác định, tuân theo một qui luật nhất định.
Trên cơ sở suy
đoán đó, đồng thời trên cơ sở suy đoán về hướng ưu tiên thu - phát bức xạ trong
hệ cầu cô lập và cân bằng nhiệt động Ho, chúng ta cho rằng có sự phân bố tăng dần về mặt động năng
tịnh tiến từ tâm hệ ra ngoài theo hướng kính, nghĩa là động năng tịnh tiến của
bức xạ tại mặt cầu ảo SA phải nhỏ hơn của bức
xạ tại mặt cầu So. Muốn thế, chỉ còn một khả năng duy nhất là tốc độ lan
truyền theo hướng kính và từ tâm ra của một bức xạ tại mặt cầu ảo SA (có DA<Do) phải nhỏ hơn tốc độ lan truyền theo hướng ấy khi nó đạt tới So. Gọi tốc độ lan truyền của bức xạ đang xét tại So là Co và tại SA là CA thì có thể biểu diễn:
Co>CA
Cần thấy rằng
khi môi trường không gian của một hệ cô lập có mức năng lượng lớn hơn môi
trường kg chân không (được qui ước bằng 0) thì bao giờ tốc độ lan truyền bức xạ
trong đó cũng phải nhỏ hơn tốc độ lan truyền trong chân không, nghĩa là trong
trường hợp ở đây:
C>Co>CA
với: C là tốc độ lan truyền
cực đại tuyệt đối trong Vũ Trụ thực tại.
Mặt khác, theo
như chúng ta đã dẫn dắt bằng lập luận, rõ ràng phải có:
Nghĩa là, nếu
“qui đổi” Do, DA và To, TA về thang đo khoảng
cách và thời gian của hệ quan sát trong chân không (ngoài hệ Ho) thì hai đường kính đó cũng như hai thời gian đó bằng nhau.
Tuy nhiên, nếu
xét kỹ quá trình qui đổi về thang đo khoảng cách và thời gian của hệ quan sát
trong môi trường kg chân không, sẽ phát hiện ra một “tế nhị” tuyệt vời. Đó là Do và DA đều được xác định hay
cho trước bởi hệ quan sát trong môi trường kg chân không (ngoài hệ Ho) theo thang đo khoảng cách của hệ ấy chứ không phải là các
giá trị được xác định bởi hệ quan sát ở trong hệ Ho. Do đó, trong quá trình chuyển đổi các giá trị khoảng cách
và thời gian đang xét, chỉ cần chuyển đổi To và TA sang theo thang đo
thời gian của hệ quan sát trong chân không, và như vậy, sau khi chuyển đổi
chúng ta có:
Do, DA, T
với: T là giá trị thời gian
đã qui đổi của To và của cả TA.
Đến đây, dù vẫn
còn một “đống tổ chảng” hoài nghi thì chúng ta cũng cứ viết:
Và:
Biểu diễn cho
thấy và qua đó còn có thể
rút ra được: là giá trị cực đại trong
hệ Ho; mọi giá trị tiềm áp suất trong đó đều nhỏ hơn nó, hơn nữa,
bắt đầu từ , giá trị tiềm áp suất giảm dần theo hướng kính từ mặt So đến tâm O của hệ, và
tại tâm O, tiềm áp suất bằng cực tiểu. Có thể thiết lập được biểu diễn toán học
nêu ra qui luật giảm ấy. Trước hết, chúng ta hãy xác định sự chênh lệch giá trị
giữa và PA:
Giả sử rằng mức
chênh lệch ấy vô cùng nhỏ, nghĩa là , lúc đó có thể viết:
với dR là khoảng cách giữa
hai mặt cầu So và SA.
Có thể tưởng
tượng trong hệ Ho, mặt cầu So như là “mặt đất”, mặt
có “mức thế năng” (động năng xoáy của bức xạ ) thấp nhất và điểm O là điểm “cao nhất” có thể lan truyền
tới của một bức xạ . Để diễn tả ý niệm ấy chúng ta đổi ký hiệu dR thành dh với h=Ro là độ cao cực đại tính
từ “mặt đất” So.
Nhớ rằng tiềm
áp suất giảm tỉ lệ nghịch với sự tăng độ cao thì từ biểu diễn và thay ký hiệu Po bằng P, chúng ta sẽ có biểu diễn dưới dạng tích phân:
Sau khi lấy
tích phân và biến đổi về dạng hàm mũ sẽ được:
(***)
(Hết chương XXXXVII)
---------------------------------------------------------------
Nhận xét
Đăng nhận xét