TT&HĐIII - 25/s
Nguyễn Trãi
PHẦN III: NGUỒN CỘI
" Đi đi con!
Trong khinh khi may nhớ nước non
Mà ôn lại cho đừng quên lịch sử
Bốn ngàn năm rồi, Việt Nam bất tử
Dằng dặc đoạn trường chống giặc ngoại xâm
Biết mấy đau thương, biết mấy anh hùng
Ghi tạc địa cầu bao chiến công hiển hách..."
Trần Hạnh Thu
"Lịch sử hoài
thai chân lý, nó có thể kháng cự với thời gian, có thể dìm đi những việc
cũ, nó là dấu tích của thời xa xưa, là gương soi của đương đại, là lời
giáo huấn cho thế hệ sau."
Cervantes (Tây Ban Nha)
Cervantes (Tây Ban Nha)
"Lịch sử là bằng
chứng của thời đại, là ngọn lửa của chân lý, là sinh mệnh của kí ức, là
thầy giáo của cuộc sống và là sứ giả của cổ nhân."
Cicero (La Mã)
Cicero (La Mã)
“Đừng chê cõi trần nhơ
Đừng khen cõi trần đẹp
Cõi trần là thản nhiên
Chỉ có đời nhơ, đẹp.”
Đừng khen cõi trần đẹp
Cõi trần là thản nhiên
Chỉ có đời nhơ, đẹp.”
CHƯƠNG IV: ĐỊA LINH NHÂN KIỆT
“Thủ
đô là cái đại tập thành của cả đất nước từ khí non sông tụ lại. Không
bàn tán về những thành phố khác, mà nói về Hà Nội thì không ai không nhớ
đến bài ca chính khí của nó…
Hà Nội không phải là một đất thánh, theo cái nghĩa tín đồ hành hương, nhưng Hà Nội là một đất thiêng, kẻ ngoài nào mà xúc phạm vào nó là phải đền tội”
Hà Nội không phải là một đất thánh, theo cái nghĩa tín đồ hành hương, nhưng Hà Nội là một đất thiêng, kẻ ngoài nào mà xúc phạm vào nó là phải đền tội”
“Khi
một giống nòi bị dồn đến chỗ chỉ có thể lựa chọn cái chết và nô lệ thì
xông vào cái chết là dũng cảm hơn. Nơi nào mà nó không phải là thiết yếu
thì bạo lực mới bị lên án. Có những trường hợp phải công nhận bạo lực
bởi vì không còn cách nào khác”
"Rủ nhau xem cảnh Kiếm Hồ
Xem cầu Thê Húc, xem chùa Ngọc Sơn
Đài Nghiên, Tháp Bút chưa mòn
Hỏi ai gây dựng nên non nước này?"
(Khuyết danh)
(Tiếp theo)
Nhưng
cuối cùng, cái nguyên nhân duy nhất, nguyên nhân của mọi nguyên nhân là
gì, là ngẫu nhiên hay tất yếu? Chúng ta nói thế này: đốm lửa nhỏ ở Lam
Sơn, về hình thức thì cũng giống như những đốm lửa kháng chiến chống
quân Minh khác, nhưng đồng thời về thực chất lại rất khác: dù cũng do
con người nhóm lên nhưng được nuôi dưỡng nhờ khí thiêng sông núi tích tụ
lại. Nó là đốm lửa linh được đúng người nhen nhúm, đúng vị trí và đúng
lúc. Nhìn ở góc độ cụ thể về tên người, tên đất, tên tháng năm thì sự
xuất hiện đốm lửa ấy là ngẫu nhiên, nhưng ở góc độ diễn tiến thời cuộc,
quá trình lịch sử của một đất nước, truyền thống của một dân tộc, theo
nguyên lý nhân quả, thì lại là tất yếu. Giản dị hơn, có thể nói đốm lửa
Lam Sơn là hiện tượng tâm linh, vì thế nó thiêng liêng, mang nhiều yếu
tố vượt ra ngoài khuôn khổ lý luận.
Để
khỏi ngộ nhận, chúng ta nói thêm: Lê Lợi không phải là không tài giỏi,
nhưng là cái tài giỏi của người nhạy cảm, biết được lưỡi gươm và chuôi
gươm nhặt được là trời cho đến tay mình để lắp lại thành ra gươm báu, là
cái tài biết dựa vào hội thề Lũng Nhai (nhưng khi đã nên nghiệp đế thì vội ít nhiều quên ngay lời thề ấy?!) để dấy nghĩa cứu nước và đồng thời có được nghiệp đế.
Không
thể nào so sánh thời Tam Quốc bên Tàu với thời nước ta bị nhà Minh đô
hộ được, vì hoàn cảnh điều kiện cũng như thời đại và bản chất xã hội là
khác nhau xa. Do đó, cuộc dấy nghĩa của Lưu Bị cũng hoàn toàn khác về
bản chất so với cuộc dấy nghĩa của Lê Lợi. Tuy nhiên, một cách hình thức
nhất, thô nhám nhất, chúng ta có thể lấy trường hợp Lưu Bị và sự hình
thành nước Thục để làm rõ hơn điều chúng ta muốn bày tỏ.
Trước
khi dựng cờ dấy nghĩa, Lưu Bị đã cùng hai danh tướng Quan Công và Trương Phi hội thề “kết nghĩa vườn đào”. Lưu Bị, nếu là kẻ bất tài thì
làm sao chiêu dụ được hai danh tướng ấy và sau này thêm Triệu Tử Long,
cũng là một danh tướng, qui phục và xả thân phò tá? Nhưng dù là có tài
năng và có cả hai, ba danh tướng hết lòng với võ công nổi danh thiên hạ thì phỏng
làm nên được tích sự gì nếu không xuất hiện một Khổng Minh - Gia Cát Lượng mà phải ba lần đến lều cỏ, Lưu Bị mới cầu có được? Không có Gia
Cát Lượng, sẽ không thể có trận Xích Bích lừng danh kim cổ, và như thế
cũng sẽ không có một nước Thục trong cái thế tam phân chân vạc: Ngụy -
Ngô - Thục
Có
thể thấy ở Lê Lợi có những nét phảng phất của hình bóng Lưu Bị và ở
Nguyễn Trãi có những nét phảng phất hình bóng Khổng Minh?!
Chúng
ta thấy rằng: lịch sử nước nhà từ trước đến nay đều đặt tài năng Nguyễn
Trãi ở tầm mức không đủ lời ca ngợi. Như lời nhận xét của Nguyễn Mộng Tuân, bạn Nguyễn Trãi: “Gió thanh hây hẩy gác vàng, người như một ông tiên ở trong tòa ngọc. Cái tài làm hay, làm đẹp cho nước, từ xưa chưa có bao giờ”; của Lê Quí Đôn: “Viết thư, thảo hịch tài giỏi hơn hết mọi thời”; hay của Phạn Huy Chú: “Văn chương mưu lược gắn liền với sự nghiệp kinh bang tế thế”. Trong “Kiến văn tiểu lục” (của Lê Quí Đôn, Quyển V - Tài phẩm), có đoạn:
“Nguyễn Vĩ, một người cháu ba đời của Nguyễn Trãi, xuất trình chế văn truy tặng cho ông tước Tế Văn Hầu, trong ấy có câu rằng “Long hổ phong vân chi hội, do tưởng tiền duyên, văn chương sự nghiệp chi truyền, vĩnh cùng hậu thế” (Rồng hổ gió mây tụ hội, còn ghi duyên tiền định, truyền tụng văn chương sự nghiệp, để mãi đời sau). Câu ấy đã tỏ ra ông là người có công lao đứng đầu về việc giúp rập vua, thì ngàn năm không thể mai một được”
Chính vua Lê là Nhân Tông, khi cùng các quan văn xem các di bản của Nguyễn Trãi, đã xúc động đánh giá: “Nguyễn
Trãi là người trung thành giúp đức Thái Tổ dẹp giặc, giúp đức Thái Tổ
sửa sang thái bình. Văn chương và đức nghiệp của Nguyễn Trãi, các danh
thần của bản triều không ai sánh bằng”
Tóm
lại, nói cho công bằng thì: Nguyễn Trãi đã đóng vai trò như linh hồn
của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, là nhà tư tưởng và đồng thời là nhà chiến
lược vạch đường mở lối cho cuộc khởi nghĩa đó đi đến toàn thắng. Không
những thế, trên nền tảng tư tưởng nhân đạo, đứng về phía Đại Chúng đó,
Nguyễn Trãi cũng có công lao to lớn, không trực tiếp thì cũng gián tiếp (thông qua Lê Lợi, được Lê Lợi tiếp thu, nắm bắt lấy để thực thi)
đối với việc đề ra những quyết sách thích ứng trong thời kỳ đầu nhà Lê
của công cuộc hàn gắn và xây dựng đất nước sau khi đập tan ách đô hộ của
nhà Minh.
Ngay
từ thời kỳ “vây thành diệt viện”, Lê Lợi - Nguyễn Trãi đã bắt tay vào
việc khôi phục và xây dựng lại đất nước trên qui mô lớn, qui định các
khu vực hành chính, tổ chức chính quyền từ cơ sở đến trung ương, kêu gọi
nhân tài, tổ chức thi cử… Có thể rằng trên lĩnh vực này, đã xuất hiện
những quan niệm khác nhau trong việc thực hiện các tư tưởng đại nhân đại
nghĩa mà Nguyễn Trãi đã nêu ra trong thời kháng chiến gian khổ, làm cho
mối quan hệ “long hổ phong vân chi hội” xơ tước dần và chờ dịp tắt hẳn,
không thể nối kết lại được nữa.
Nguyễn Trãi đã ấp ủ một hoài bão quá lớn, tin tưởng một cách trong sáng (và ngây thơ?)
rằng có thể thông qua Lê Lợi, “nhờ” Lê Lợi để thực hiện bước thứ hai
của hoài bão đó, là xây dựng một nước yên vui thanh bình theo kiểu xã
hội thời Nghiêu, Thuấn, trong khi Lê Lợi về cơ bản, đã đạt được hoài bão
có từ thời nổi dậy dựng cờ của mình.
Tồn
tại ngai vàng để làm cho dân giàu nước mạnh và làm cho dân giàu nước
mạnh để ngai vàng tồn tại là hai vế không thể tách rời của một quá trình
hợp tình hợp lý. Nhận thức được như thế là biện chứng. Nếu nhận thức
thiên lệch về một vế nào thì đều làm cho quá trình đó phát triển sai
lạc, dẫn đến bế tắc, khủng hoảng và thậm chí là đổ vỡ. Trình độ kinh tế -
xã hội thời Nguyễn Trãi không cho phép trở về với xã hội Nghiêu - Thuấn
và cũng chưa đủ để đến với xã hội kiểu xã hội Nghiêu - Thuấn (đối với
thời đại ngày nay thì kiểu xã hội đó chính là xã hội XHCN và vẫn còn là một viễn cảnh quá xa
vời!).
Nguyễn Trãi đã từng tâu với vua Lê Thái Tông: “Thần chuyên đọc điển phần, chỉ những muốn việc cổ nhân đã muốn. Để tâm dân chúng, mình trước lo điều thiên hạ phải lo”.
Hình như đây cũng là lời trần tình đượm buồn của một người đã thất cơ,
không còn cơ hội để thực hiện điều mình mơ ước cho dân cho nước. Hai con
người đã gặp nhau vì cùng muốn cứu nước, cùng muốn xây dựng đất nước
đẹp giàu, nhưng đã phải chia ly vì mục đích xây dựng đất nước đẹp giàu
đã phân kỳ, người hướng về Đại Chúng, kẻ hướng tới ngai vàng.
Đền thờ Nguyễn Trãi
Nguyễn Trãi | |
---|---|
![]() |
|
Bút danh | Ức Trai |
Sinh: 1380, Hà Nội, Việt Nam
Mất: 19 tháng 9, 1442
|
Công việc | Nhà chính trị, Nhà thơ, Nhà địa lý học, Nhà ngoại giao |
---|---|
Quốc gia | Việt Nam |
Dân tộc | Kinh |
Quốc tịch | Việt Nam |
Giai đoạn sáng tác | Văn học trung đại Việt Nam |
Thể loại | Thơ, Cáo, Chiếu, Biểu, Tấu |
Tác phẩm nổi bật | Bình Ngô đại cáo, Quốc âm thi tập, Quân trung từ mệnh tập, Dư địa chí |
Đền thờ Nguyễn Trãi
Mơ
ước về một xã hội đại đồng đã từng có ở thời tiền sử xa xưa, thời Nghiêu - Thuấn, là một giấc mơ đẹp của một tâm hồn đẹp. Không phải chỉ
có Nguyễn Trãi mà không ít người và ngay từ thời cổ đại, nhiều nhà hiền
triết “gạo cội” đã từng mơ giấc mơ đó. Họ không những mơ mà còn trăn trở
đến bạc đầu để vạch ra cách thực hiện giấc mơ. Nhưng than ôi, đó là
điều không tưởng, không hợp thời!
Quá
thiết tha với lý tưởng, cố tìm cơ hội để thực hiện hoài bão, sống theo
quan niệm nhập thế của Nho Gia, cột trụ kiên cường, biết không làm được
vẫn làm, đã tạo nên cái bi kịch trong tâm hồn thấm đẫm Nho Giáo của Nguyễn Trãi, đã là nguyên
nhân sâu xa nhất trong những nguyên nhân gây ra thảm kịch lớn nhất trong
triều đại nhà Lê và cũng có thể là lớn nhất, đau thương nhất trong xã
hội quân chủ chuyên chế Việt Nam. Thảm kịch đó mang tên: Vụ án Lệ Chi
Viên (Vụ án vườn Lệ Chi).
Sau
khi giành được độc lập cho đất nước, để “dĩ hòa” và cũng nằm trong sách
lược ngoại giao mềm dẻo với nhà Minh, dù chỉ là danh nghĩa, Lê Lợi vẫn chấp nhận cầu phong cho con cháu họ Trần là Trần Cảo làm vua. Trần Cảo biết
phận mình, chẳng có chút công lênh gì mà ngồi ngai vua, lòng áy náy
không yên, bèn cưỡi thuyền ra biển, chạy về châu Ngọc Ma (Thanh Hóa).
Quân của Lê Lợi đuổi kịp, dẫn về, bắt uống thuốc độc chết rồi làm tang
lễ rất hậu theo nghi lễ một ông vua (thật khôi hài!).
Ngày
15 tháng 4 năm Mậu Thân (1428), Lê Lợi từ dinh Bồ Đề chuyển vào thành
Đông Đô. Ngày 29 tháng đó, Lê Lợi chính thức lên ngôi hoàng đế tại điện
Kính Thiên, khôi phục quốc hiệu Đại Việt, vẫn định đô ở Thăng Long -
Đông Đô, tự xưng: “Thuận thiên thừa vận Duệ Vân Anh vũ đại vương”. (Năm
1430, Đông Đô được nhà Lê đổi tên gọi thành Đông Kinh).
Tại
sao Lê Lợi không xưng đế mà chỉ xưng vương thôi? Người này thì cho rằng
đó là do thực hiện sách lược ngoại giao mềm dẻo vì nhà Minh luôn đòi
tìm lập con cháu nhà Trần và chỉ cho nhà Lê làm “quyền thủ An Nam quốc
sự” mà thôi. Người khác cho rằng Lê Lợi là người có tính khiêm tốn.
Chúng ta không đồng thuận với cả hai nhận định đó!
Nếu
là vì ngoại giao thì ở trường hợp đưa Trần Cảo lên ngôi vua (hờ) còn
tin được. Nhưng tại sao lại phải giết Trần Cảo, khi chẳng được ích lợi
gì mà không chừng chỉ có hại? Trần Cảo chết thì thiếu gì con cháu họ
Trần khác, có thể tìm ra trong “tích tắc” để tiếp tục đưa lên làm vua
“hờ”? “An Nam” hay “Giao Chỉ” là do phong kiến phương Bắc gọi nước ta,
nhưng các triều vua nước ta chưa bao giờ nhận, ngay Lê Lợi cũng dùng lại
quốc hiệu là Đại Việt, thì “sợ” gì mà không xưng đế? Ngoại giao mềm dẻo
không có nghĩa là nhu nhược, nhẫn nhục, khuất phục! Nhưng nếu không phải là do
ngoại giao thì có phải là do Lê Lợi có đức tính khiêm nhường không? Đã ở
cái vị thế “con trời” rồi thì khoảng cách giữa đế với vương là bao xa,
hay nếu có chỉ là hình thức? Trong số 18 con người ở hội thề Lũng Nhai
và những người tâm phúc theo Lê Lợi từ thuở còn hàn vi, còn thuộc tầng
lớp địa chủ nhỏ ở vùng thượng du, học hành tiếp thu kiến thức cũng tại
đó, có bao nhiêu con người tài năng xuất chúng và trong số đó bao nhiêu
người còn sống khi đất nước thanh bình, chứng kiến Lê Lợi lên ngôi? Đây
là lời phân trần của chính Lê Lợi: “Những vị vua có công đức lớn như
các vua Vũ, Thang, Văn… Thời tam đại, mà cũng chỉ xưng vương thôi, huống
chi trẫm tài đức mỏng manh, đâu dám nói đến hiệu hoàng đế. Nay chỉ xưng
tước vương cũng đã làm quá rồi”. Chúng ta nhớ lại, ngay từ lúc mới
dựng cờ khởi nghĩa ở Lam Sơn, Lê Lợi lúc đó “tệ” hơn nhiều, vẫn “dám”
xưng vương (Bình Định Vương) mà? Vậy thì thế nào mới gọi là khiêm
nhượng? Trong nhiều trường hợp, quá khiêm tốn chỉ là một sự đóng kịch,
cố che dấu cái hành vi biểu lộ sự thèm khát danh lợi trong sâu thẳm cõi
lòng mình, trước những người mà mình đã từng cùng “nằm gai nếm mật”. Lê
Lợi có thuộc hạng người này không? Chúng ta không dám chắc, nhưng chắc
rằng Lê Lợi tuy không phải là người có bản chất bất nghĩa, vô nhân nhưng
cũng không đến độ là người đã thấu tỏ được ngọn ngành ý nghĩa của “đại
nhân, đại nghĩa” như Nguyễn Trãi đã thấu tỏ. Có lẽ Lê Lợi đã học thuộc
tư tưởng của Nguyễn Trãi, tưởng biết hết mà thực ra chưa biết hết (vì chưa đủ mức uyên thâm về học vấn) nghĩa sâu của khái niệm ấy. Biết nói thế nào nhỉ?!...
Dù
sao thì Lê Lợi cũng đã giải quyết được những công việc bề bộn của một
đất nước vừa mới trải qua chiến tranh giành độc lập. Công lao to lớn của Lê Lợi
đối với đất nước là có thật và đáng được tôn vinh.
(Còn tiếp)
------------------------------------------------------------
------------------------------------------------------------
Nhận xét
Đăng nhận xét