Thứ Năm, 7 tháng 1, 2021

TT&HĐIII - 26/a

                                                            Thái tổ Mạc Đăng Dung

                                                     Kỳ bí thanh đao của Mạc Thái Tổ

PHẦN III:     NGUỒN CỘI 

" Đi đi con!
Trong khinh khi may nhớ nước non
Mà ôn lại cho đừng quên lịch sử
Bốn ngàn năm rồi, Việt Nam bất tử
Dằng dặc đoạn trường chống giặc ngoại xâm
Biết mấy đau thương, biết mấy anh hùng
Ghi tạc địa cầu bao chiến công hiển hách
..."

                                                                                Trần Hạnh Thu

"Lịch sử hoài thai chân lý, nó có thể kháng cự với thời gian, có thể dìm đi những việc cũ, nó là dấu tích của thời xa xưa, là gương soi của đương đại, là lời giáo huấn cho thế hệ sau."
                                                                 
Cervantes (Tây Ban Nha)

"Lịch sử là bằng chứng của thời đại, là ngọn lửa của chân lý, là sinh mệnh của kí ức, là thầy giáo của cuộc sống và là sứ giả của cổ nhân."
                                                                                                      Cicero (La Mã)
 
“Đừng chê cõi trần nhơ
Đừng khen cõi trần đẹp
Cõi trần là thản nhiên
Chỉ có đời nhơ, đẹp.” 
.

CHƯƠNG V: XUÂN LỬA ĐỐNG ĐA

“Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quí báu của ta. Từ xưa đên nay, mỗi khi Tổ Quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn; nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước.”
(Hồ Chí Minh)
"...Những ngả đường bát ngát
Những dòng sông đỏ nặng phù sa
Nước chúng ta
Nước những người chưa bao giờ khuất
Đêm đêm rì rầm trong tiếng đất
Những buổi ngày xưa vọng nói về!..."
(Trích bài thơ "Đất nước" - Nguyễn Đình Thi )
 
"Đất Nước là nơi dân mình đoàn tụ
Đất là nơi Chim về
Nước là nơi Rồng ở
Lạc Long Quân và Âu Cơ
Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng
Những ai đã khuất
Những ai bây giờ
Yêu nhau và sinh con đẻ cái
Gánh vác phần người đi trước để lại
Dặn dò con cháu chuyện mai sau
Hàng năm ăn đâu làm đâu
Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ"

(Trích bài thơ "Đất nước" - Nguyễn Khoa Điềm

 

Triều đại nhà Lê do Lê Lợi khai nghiệp (1428 - 1527) thường được gọi là Triều Lê Sơ để phân biệt với triều Tiền Lê (mà Lê Hoàn là đời vua thứ nhất) và với triều Lê Trung Hưng (được dựng lên sau triều Mạc).
Đại Việt
Nhà Mạc
Mạc triều
(莫朝)
Đế quốc
1527–1677
Lãnh thổ nằm trong tầm kiểm soát của nhà Mạc (lục) và nhà Lê trung hưng (lam, khoảng năm 1590)
Thủ đô Đông Kinh
Ngôn ngữ Tiếng Việt
Tiếng Hán
Tôn giáo Tam giáo quy nguyên
Chính quyền Quân chủ
Hoàng Đế
 •  1527-1529 Thái Tổ
 •  1562-1592 Thuần Phúc Đế
 •  1592-1625 Đôn Hậu Vương
 •  1638-1677 Thuận Đức Đế
Lịch sử
 •  Thành lập 1527
 •  Mạc Thái Tổ soán ngôi nhà Lê sơ 1527
 •  Nhà Lê trung hưng tái lập ở Ai Lao 1533
 •  Đông Kinh thất thủ, Mạc Mục Tông bị bắt giết 1592
 •  Tàn dư họ Mạc chấm dứt 1677
 •  Bãi bỏ 1677
Dân số
 •  1540 (ước tính) 2,000,000 
Tiền tệ Tiền xu
Kinh đô Đại Việt, thành Đông Kinh thời Lê (Sơ), trên cơ sở thành Thăng Long - Đông Đô thời Lý, Trần, được tu bổ và xây dựng thêm theo qui cách đế đô của một quốc gia quân chủ chuyên chế phương Đông. Vòng thành ngoài vẫn mang tên là “thành Đại La”, vào năm 1477 được Lê Thánh Tông cho xây dựng lại vòng thành thứ hai được chính thức gọi là Hoàng Thành. Năm 1474 và năm 1500, nhà Lê cho sửa chữa và tôn tạo lại tường thành phía tây và phía đông của Hoàng Thành. Năm 1516, Hoàng Thành được mở rộng thêm về phía đông:  “Đắp thành to rộng mấy nghìn trượng, bao vây cả điện Tường Quang, quán Trấn Vũ, chùa Thiên Hoa ở phường Kim Cổ, từ phía đông đến phía bắc, chắn ngang sông Tô Lịch, phía trên đắp tường Hoàng thành, phía dưới làm cửa cống, lấy ngói vỡ và đất đá nện xuống, lấy đá phiến gạch vuông xây lên, lấy sắt xây ngang” (Đại Việt sử ký toàn thư, tập IV, tr. 81). thành trong cùng gọi là Cung Thành hay Phượng Thành. Năm 1490, vòng thành này được “đắp rộng thêm ra ngoài trường đấu võ, dài rộng 8 dặm” (Sđd).
Khi Lê Thái Tông cho tiến hành vẽ thành tập bản đồ cả nước gọi là “Hồng Đức bản đồ” thì trong đó cũng có cả bản đồ thành Đông Kinh (theo lối họa đồ mang tính chất ước lệ, chưa có tỉ lệ). Theo bản đồ này thì Hoàng Thành được xây bằng gạch đá, trên có ụ bắn. Thành mở ba cửa: cửa Đông hay cửa Đông Hoa (nhìn ra Hàng Cân, Hàng Đường) và cửa Bảo Khánh (phía nam hồ Bảo Khánh, khu Giảng Võ, phía trước đình Giảng Võ trước đây có cổng đề là Bảo Khánh môn). Cung Thành hình chữ nhật, xây bằng gạch. Cửa chính của Cung Thành mở về phía nam gọi là Đoàn Môn, hai bên có hai cửa phụ là Đông Tràng An và Tây Tràng An.
Trong Cung Thành, nhà Lê Sơ cho xây dựng và bố trí lại nhiều cung điện, lầu gác. Kiến trúc trung tâm vẫn là điện Kính Thiên, được xây dựng lại từ năm 1428, đến năm 1467 có làm thêm hai lan can bằng đá chạm rồng ở thềm điện. Trước điện Kính Thiên có điện Thị Triều, làm nơi các quan vào chầu vua, bên phải là điện Chí Kính, bên trái là điện Vạn Thọ. Ngoài ra còn có các điện Cần Thánh, Cẩn Đức, Thúy Ngọc, Giảng Võ, Thạch Thất, Thượng Dương…, các cung Cảnh Linh, Vĩnh Ninh… Phía đông Cung Thành có Đông Cung giành cho Hoàng tử, điện Phụng Tiên thờ tổ tiên nhà vua… Trong Hoàng Thành còn nhiều lầu gác, đền miếu cùng các ao cảnh, núi giả, vườn Thượng uyển… làm nơi giải trí, thưởng ngoạn cho thành viên hoàng tộc..
Ngoài Hoàng Thành, nhiều kiến trúc mới cũng được dựng lên. Phía nam cửa Đại Hưng có đình Quảng Văn là niêm yết các pháp lệnh, cáo thị của nhà nước. Viện Đãi Lận là nơi quan chờ để vào chầu, trước dựng ở ngoài cửa Tây, đến đời Thánh Tông thì dời về ngoài cửa Đại Hưng. Cùng với đó, hàng loạt các phủ đệ, dinh thự quan lại, công đường sáu bộ và các cơ quan triều đình, doanh trại quân đội… được xây dựng.
Thời Hồ Quí Ly Nho Giáo đã được đề cao. Dưới triều Lê, tư tưởng Nho Giáo thịnh hành lấn át Phật Giáo và trở nên chính thống, do đó khu Văn Miếu Quốc Tử Giám được xây dựng lại và mở mang nhiều. Văn Miếu gồm điện Đại Thánh thờ Khổng Tử, hai dãy giải vũ đông và tây thờ các Tiên hiền, Tiên nho, điện Cảnh Phục, nhà bếp, kho tế khí. Quốc Tử Giám hay nhà Thái Học ở phía sau Văn Miếu, được xây dựng thành một trường học cao cấp, có qui mô rộng lớn. Khu học xá này gồm nhà Minh Luân 3 gian, các giảng đường đông và tây mỗi dãy 14 gian làm chỗ giảng dạy, kho chứa ván in sách 4 gian và hai ký túc xá của học sinh, mỗi khu 3 dãy, mỗi dãy 25 gian.Quốc Tử Giám hay nhà Thái Học ở phía sau Văn Miếu được xây dựng, trở thành trường học cao cấp, có quy mô rộng lớn nhất trong thời trung đại.
 
Lê Thánh Tông qui định 3 năm mở một kỳ thi hội và những người trúng tuyển gọi là tiến sĩ, dân gian gọi là Ông Nghè, được truyền loa xướng danh, được yết tên lên bảng vàng treo ở cửa Đông Hoa và được khắc tên vào bia đá dựng trước Quốc Tử Giám.
Từ khoa thi hội đầu tiên năm 1442 đến khoa thi hội cuối cùng năm 1526, gần 26 kỳ thi, triều Lê đã đào tạo được 984 tiến sĩ. Hiện nay ở Văn Miếu còn giữ được 13 bia tiến sĩ dựng từ đời Lê.
Dưới triều Lê, hàng loạt phủ đệ của quí tộc, dinh thự của quan lại, công đường của 6 bộ và các cơ quan trung ương, doanh trại quân đội… đua nhau mọc lên, lan ra cả ngoài Hoàng Thành.
Nhà Lê đưa Nho giáo lên địa vị chính thống và hết sức đề cao chế độ khoa cử, lấy đó là phương thức chủ yếu đào tạo và tuyển dụng đội ngũ quan lại. Do ảnh hưởng chi phối của Nho giáo nên tinh thần thượng võ của tầng lớp thống trị thời Lê không còn như thời Lý, Trần. Tuy nhiên, do nhu cầu bảo vệ vương triều và củng cố quốc phòng, nhà Lê vẫn coi trọng việc đào tạo võ quan và tích cực huấn luyện quân sĩ, khu Giảng Võ ở phía tây kinh thành được mở rộng và kiến thiết thêm làm nơi tập luyện võ nghệ và thao diễn quân đội.
Quá sùng bái tư tưởng Nho Giáo, nhà Lê đã làm hình thành nên một thứ văn hóa tạm gọi là “văn hóa lễ - nhạc cung đình”, mang tính câu nệ và nặng hình thức, dành riêng cho vua quan, tương đối phân biệt và tách rời nền văn hóa dân gian của Đại Chúng; càng ngày càng có thái độ khinh thường vốn văn hóa cổ truyền. Nhà Lê cấm trình diễn chèo hát, múa rối trong cung đình, phân biệt đối xử với các nghệ sĩ dân gian, coi họ là “xướng ca vô loài” và cấm con trai đi thi, cấm con gái lấy chồng nhà quyền quí. Điều trớ trêu là vương triều Lê đã mở đường cho việc bắt chước máy móc, thiếu cân nhắc lựa chọn nhiều thứ từ văn hóa nhà Minh.
Nhưng bên cạnh một Đông Kinh của vua quan, vẫn có một Đông Kinh của dân chúng. Khu phố phường dân cư ngoài Hoàng Thành tiếp tục phát triển. Năm 1466, vùng Kinh sư đặt thành phủ Trung Đô gồm hai huyện Quảng Đức và Vĩnh Xương. Năm 1469, phủ Trung Đô đổi tên thành phủ Phụng Tiên. Khu dân cư của hai huyện Quảng Đức và Vĩnh Xương chia làm 36 phường. Phường vừa là một đơn vị hành chính cơ sở, tương tự như "xã" ở nông thôn, vừa là tập hợp những người cùng nghề. Qui hoạch 36 phố phường của Thăng Long - Hà Nội bắt đầu từ đó.
Cư dân 36 phường của Đông Kinh bao gồm cả nông dân, thợ thủ công và thương nhân, trong đó có những phố - chợ buôn bán tấp nập và những phường thủ công nổi tiếng…
Những năm cuối triều Lê, Đông Kinh là nơi diễn ra những cuộc ăn chơi trác táng của “vua quỉ” Lê Uy Mục (1505 - 1509), “vua lợn” Lê Tương Dực (1509 - 1516), là chiến trường xung đột giữa các phe phái triều đình và cũng là mục tiêu tiến công của khởi nghĩa nông dân. 

Lê Uy Mục (5 tháng 5, 1488 – 1 tháng 12, 1509), đôi khi còn gọi là Mẫn Lệ công (là vị hoàng đế thứ tám của nhà Lê Sơ trong lịch sử Việt Nam. Ông được xem là một vị hoàng đế tàn bạo và hoang dâm, nổi tiếng là một bạo chúa, người đời gọi là Quỷ vương.

Lê Uy Mục không chăm lo chính sự, hằng đêm đều cùng các cung nhân uống rượu, khi say thì giết chết tất cả bọn họ. Triều chính thời ông trị vì rơi vào tay ngoại thích và bọn hoạn quan, khiến cung đình bị nhơ nhuốc. Ông một tay dần giết hại các đại thần như Đàm Văn Lễ, Nguyễn Quang Bật, chèn ép Nguyễn Văn Lang khiến ông này phải chạy đi, vì tất cả đều không thuận lập Uy Mục sau khi Lê Hiến Tông qua đời. Đã vậy, ông còn nghi kị tông thất, giết cả anh em cha chú của mình, từ quần thần đến thân thuộc đều lo sợ, càng quyết tâm phản loạn.

Năm 1509, em họ Lê Uy Mục là Giản Tu công Lê Oanh liên kết với đại thần Nghĩa quận công Nguyễn Văn Lang phất cờ nổi dậy ở Tây Đô (Thanh Hóa), dẫn binh tới Đông Kinh, đánh bại tất cả các đạo quân do Lê Uy Mục gửi đến. Lê Oanh vào kinh thành, phế truất và bắt giam Uy Mục. Cuối cùng, Uy Mục phải uống thuốc độc tự sát, xác ông bị đem đi nhét vào súng thần công để bắn tan nát.

Lê Tương Dực tên húy là Lê Oanh, còn có tên là Lê Trừu, là cháu nội của Lê Thánh Tông, con trai thứ hai của Kiến vương Lê Tân và bà Trịnh Thị Tuyên, người làng Thủy Chú, huyện Lôi Dương (tức Thọ Xuân, Thanh Hóa).
Lê Uy Mục giết hại tông thất, bắt giam Giản Tu công Lê Oanh. Lê Oanh muốn chạy thoát ra ngoài, mới đem của cải đút lót với người cai ngục. Người cai ngục được tiền, liền thả cho ông chạy thoát. Lê Oanh một mình chạy trốn vào thành Tây Đô mà không kịp báo tin cho mẹ, anh em mình. Đến khi chạy đến được cửa biển Thần Phù, Lê Oanh được đại thần thất sủng là Nguyễn Văn Lang ra đón rước, rồi được tôn lên làm minh chủ. Ông cùng Nguyễn Văn Lang và những người khác như Nguyễn Diễn, Ngô Khế, Nguyễn Bá Cao, Lê Trạm, Nguyễn Bá Tuấn, Lê Tung, Nguyễn Thì Ung dấy binh khởi nghĩa chống lại Uy Mục. 
Ngày 8 tháng 11 năm 1509, Giản Tu công Lê Oanh khởi binh tiến quân thủy bộ từ thành Tây Đô. Ngày 26 năm ấy, các dinh quân của Lê Oanh đều tiến đến các xứ Bảo Đà, Nhân Mục, Hồng Mia, Thiêu Thân ở sát Kinh thành. Uy Mục đế vì cần thêm quân để chống giữ mới lấy vàng bạc tiền của ban cho bọn tội nhân bị giam ở ty Ngũ hình mỗi người 3 quan, rồi sai đi đánh quân Lê Oanh. Tù nhân nhận được tiền, không những không đi đánh mà người nào người nấy đều bỏ về nhà. Uy Mục Đế sợ hãi lại vội vã chọn người đi gọi quân các xứ. Những người này đi chưa đến nơi, thì đại quân của Lê Oanh đã áp sát vào thành, nhiều người bỏ chạy thoát thân. 
Ngày 28 năm ấy, Uy Mục chạy tới phường Nhật Chiêu thì bị một vệ sĩ cũ bắt được, nộp cho Giản Tu công. Ông đem giam Uy Mục ở cửa Lệ Cảnh. Ngày 1 tháng 12, Uy Mục thấy đường cùng nên đã uống thuốc độc tự tử. Giản Tu công Lê Oanh vì căm hận việc Uy Mục sát hại gia quyến mình rất thảm khốc, nên sai người để xác Uy Mục vào miệng súng thần công, rồi bắn cho nổ tan xác. Ngày 4 tháng 12 cùng năm ấy, Giản Tu công Lê Oanh tự lập làm Hoàng đế, tức Lê Tương Dực, lấy niên hiệu là Hồng Thuận.
Trong những năm đầu cầm quyền, Tương Dực cũng có vài đóng góp thể hiện sự cố gắng vực dậy đất nước đã suy tàn, nhất là trong lĩnh vực khoa cử. Năm 1511, ông tổ chức kỳ thi Hội, đến kỳ thi Đình thì ông đích thân ra đề văn hỏi về đạo trị quốc. Đến năm 1514, các kỳ thi này tiếp tục được tổ chức, và vua đã thân hành ngự điện ra đầu bài văn sách hỏi về nhân tài. Tương Dực cũng cho trùng tu Quốc Tử Giám, dựng lại bia tiến sĩ tỏ rõ sự khuyến khích hiền tài. Đông các Đại học sĩ Đỗ Nhạc đã soạn bài ký ở Quốc Tử giám ca ngợi công đức của Tương Dực Đế.
Năm 1513, hoàng đế Đại Minh là Vũ Tông sai chánh sứ Trần Nhược Thủy và phó sứ Phan Huy Tăng sang Đại Việt để sắc phong Tương Dực làm An Nam Quốc vương. Đến khi trông thấy ông, Huy Tăng nói với người đồng hành Nhược Thủy rằng: "Quốc vương An Nam mặt thì đẹp mà người lại lệch, tính háo dâm, là vua lợn, loạn vong sẽ không lâu đâu". Lời nói của sứ thần Đại Minh như báo hiệu cho nghiệp trị nước của Tương Dực sẽ sớm lụi tàn. 
Những năm về sau, ông chỉ lo xây cất nhà cửa, lâu đài, chơi bời xa xỉ trụy lạc. Tháng 5 năm 1514, nghe lời gièm pha của Hiệu úy Hữu Vĩnh, Tương Dực giết chết 15 vương công họ tông thất, cho gọi các cung nhân cũ của Lê Uy Mục vào cung để thông dâm. Cùng tháng đó, vua sai đắp thành bao sông Tô Lịch để làm điện Tường Quang. Mô tả về sự sa đọa của Tương Dực, sách "Đại Việt sử ký toàn thư" đã chép: "Trước đây, vua thích làm nhiều công trình thổ mộc, đắp thành rộng lớn mấy ngàn trượng, bao quanh điện Tường Quang, quán Chân Vũ, chùa Thiên Hoa ở phường Kim Cổ, từ phía đông đến phía tây bắc, chắn ngang sông Tô Lịch, trên đắp hoàng thành, dưới làm cửa cống, dùng ngói vỡ và đất đá nện xuống, lấy đá phiến và gạch vuông xây lên, lấy sắt xuyên ngang. Lại sai làm thuyền chiến, sai thợ vẽ kiểu, sai bọn sử nữ trần truồng chèo thuyền chơi trên Hồ Tây, vua cùng chơi, lấy làm vui thích lắm. Dân chúng đau khổ, binh lính mệt nhọc. Quân năm phủ đắp thành chưa xong được, đến đây lại có lệnh bắt các nha môn ở trong ngoài kinh thành phải làm, tập hợp nhau lấy hồ, khiêng đất. Vua hàng ngày bất thần ngự chơi các nơi, chỗ nào vừa ý thì thưởng cho bài vàng, bài bạc. Có chỗ đã làm xong lại phải làm lại, sửa đổi xây đắp lại, hết năm này qua năm khác, liên miên không dứt. Quân lính đắp thành mắc chứng dịch lệ đến một phần mười". 
Việc Lê Tương Dực bỏ mặc việc triều chính khiến nhà Lê càng lún sâu vào con đường suy vong; kinh tế, nông nghiệp của đất nước trở nên tiêu điều. Vào tháng 5 năm 1512, nhiều nơi ở Đại Việt liên tiếp xảy ra nạn đói nghiêm trọng do hạn hán và mất mùa. Do đó, những năm dưới thời Hồng Thuận thường xuyên xảy ra bạo loạn, khiến triều đình phải đánh dẹp vô cùng vất vả.
Tháng 4 năm Hồng Thuận thứ 8 (1516), xảy ra một cuộc nổi loạn lớn đánh dấu sự sụp đổ của triều đại Lê Tương Dực. Ở huyện Thủy Đường (Hải Phòng), một người là Trần Cảo (hay còn gọi là Trần Cao), thấy sấm nói rằng ở phương đông có thiên tử khí, bèn tụ tập được nhiều người chiếm lấy đất Hải Dương, Thủy Đường, Đông Triều, rồi tự xưng là vua Đế Thích giáng sinh. Trần Cảo thành lập quân đội, người đi theo đến hàng vạn. 
Nghĩa quân nông dân do Trần Cảo lãnh đạo, đã ba lần tiến đánh Đông Kinh, trong đó có một lần chiếm được Kinh thành. Trần Cảo là thủ lĩnh quân khởi nghĩa ở Đại Việt cuối thời Lê Sơ. Ông lãnh đạo dân chúng nổi dậy chống các triều vua Lê Tương Dực, Lê Chiêu Tông, 3 lần đem quân uy hiếp Đông Kinh, ở lần 2 ông chiếm được Đông Kinh một thời gian. Cuộc nổi dậy của ông tuy thất bại nhưng đã gây quân triều đình thiệt hại lớn, và là một tác nhân đưa nhà Lê suy yếu và đi đến sụp đổ. 

Nguyên quận công là Trịnh Duy Sản, trước có công đi đánh dẹp Trần Tuân, do nhiều lần can gián trái ý Tương Dực, từng bị vua sai đem đánh bằng roi, nên sinh lòng thù hận. Duy Sản bất mãn mưu với Thái sư Lê Quảng Độ và Trình Trí Sâm để lập người khác, sửa sang binh giới ở bến Thái Cực, nói dối là đi đánh giặc. Đêm ngày 6 tháng 4, hồi canh hai, Duy Sản đem hơn 3000 người ở các vệ Kim ngô và Hộ vệ tiến vào cửa Bắc Thần. Tương Dực nghe tin ấy, ngờ là có giặc đến, bèn lên ngựa chạy ra ngoài cửa Bảo Khánh.

Ngày mồng 7, mờ mờ sáng, có Thừa chỉ Nguyễn Vũ theo hoàng đế đi tắt qua cửa nhà Thái Học. Đến hồ Chu Tước, phường Bích Câu, hoàng đế gặp Duy Sản, vẫn không hay biết gì, liền hỏi: "Giặc ở phương nào?". Duy Sản không trả lời, quay đi nhìn chỗ khác rồi cười ầm lên. Hoàng đế ngờ ngợ, quất ngựa chạy về phía tây. Duy Sản sai võ sĩ là tên Hạnh cầm giáo đuổi theo, đâm ông ngã ngựa rồi giết chết. Nguyễn Vũ cũng bị giết theo. Duy Sản sai người đem xác Tương Dực về quán Bắc Sứ, khâm liệm rồi đem thiêu. Khâm Đức Hoàng hậu cũng nhảy vào lửa tự thiêu. Quân sĩ đem hai quan tài về chôn ở huyện Ngự Thiên (nay là xã Phú Sơn thị trấn Nhân Hưng huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình), giáng hoàng đế xuống làm Linh Ẩn Vương.

Mạc Đăng Dung sinh giờ Ngọ, ngày 23 tháng 11 năm Quý Mão (tức ngày 22 tháng 12 năm 1483) thời vua Lê Thánh Tông, người làng Cổ Trai, huyện Nghi Dương (nay là huyện Kiến Thụy, thành phố Hải Phòng). Theo sách "Công Dư tiệp ký", Mạc Đĩnh Chi lại là cháu 5 đời của Trạng nguyên Mạc Hiển Tích thời Lý Nhân Tông (1086), tức là Mạc Đăng Dung là cháu 11 đời của Mạc Hiển Tích. Gốc gác họ Mạc từ Cơ Chất Khiết - hậu huệ nhà Chu bên Trung Quốc. Sau khi nhà Chu mất, Cơ Chất Khiết làm quan cho nhà Hán, được ban họ Mạc và phong ở Trịnh ấp. Sau này con cháu di cư xuống phía nam rồi tới Đại Việt. Theo "Đại Việt sử ký toàn thư", "Đại Việt thông sử", cụ tổ 7 đời của Mạc Đăng Dung là Mạc Đĩnh Chi, Lưỡng quốc Trạng nguyên thời Trần, quê ở huyện Chí Linh, Hải Dương, làm quan đến chức Nhập nội Hành khiển Thượng thư môn hạ tả Bộc xạ kiêm Trung thư lệnh, Tri quân dân trọng sự, làm quan thanh liêm, tiếng tăm lừng lẫy cả nước. Mạc Đĩnh Chi sinh ra Mạc Dao làm quan Tư hình đại phu, Mạc Dao sinh bốn con là Mạc Địch, Mạc Thoan, Mạc Thúy, Mạc Viễn, người nào cũng có tài năng, sức lực. Một tích khác, theo sử gia Việt Nam Trần Quốc Vượng, người làm trong Viện Sử học Việt Nam, theo sách đã dẫn, Mạc Đăng Dung là dòng dõi người tộc Đãn ở ven biển từ Phúc Kiến (Trung Quốc) trở xuống, đã Việt hóa ở phương Nam. Nhà Minh xâm lược Đại Ngu, họ Mạc tất cả đều theo nhà Minh, đem quân hàng giặc, dâng địa đồ cho giặc, lại dẫn đường cho giặc, bắt được Hồ Hán Thương ở núi Cao Vọng, Nhà Minh đều cho làm quan, phong tước. 

Sau đó Mạc Thúy gặp quân Minh dâng sớ xin nhập Đại Ngu thành quận huyện của Trung Quốc. Mạc Thúy sinh ra Mạc Tung, dời đến huyện Thanh Hà, lúc ấy Lê Lợi đã đánh thắng quân Minh, nghiêm trị ngụy quan, Mạc Tung không dám ra làm quan, ẩn náu nơi thôn xóm. Mạc Tung sinh ra Mạc Bình, dời đến Nghi Dương, Mạc Bình sinh ra Mạc Hịch, ba đời này đều không hiển đạt. Mạc Hịch lấy người con gái họ Đặng trong làng, sinh ra con trưởng là Mạc Đăng Dung, hai con thứ tên Đốc và Quyết.

Năm 1504 vua triều Lê Sơ Lê Hiến Tông chết, nhà vua được sử gia Vũ Quỳnh cho là bậc vua hiền, giữ vững cơ đồ, chẳng may chết sớm. Người con thứ lên thay, tức vua Lê Túc Tông cũng mất một năm sau đó, thọ 17 tuổi. Túc Tông mất, người anh lên thay, tức vua Lê Uy Mục. Vua Uy Mục nghiện rượu, hoang dâm, thích ra oai, để cho họ ngoại hoành hành, người bấy giờ gọi là Quỷ vương, cơ đồ Nhà Lê đi xuống từ đây.

Mạc Đăng Dung là người có sức khỏe. Thời trẻ, ông nhà nghèo làm nghề đánh cá. Thời Lê Uy Mục tổ chức thi tuyển dũng sĩ, Mạc Đăng Dung đã trúng Đô lực sĩ xuất thân (còn được gọi là Võ trạng nguyên), được sung vào đội quân Túc vệ cầm dù theo vua. Trong hàng ngũ võ quan Nhà Lê, theo sử gia Lê Quý Đôn, Mạc Đăng Dung tỏ ra là người thật thà ngay thẳng. Năm 1508 Mạc Đăng Dung được phong làm Đô Chỉ huy sứ vệ Thần Vũ.

Thời ấy có Cù Khắc Xương, Trần Khắc Xương mượn đạo Thiên vũ, Thiên bồng mê hoặc dân, Mạc Đăng Dung dâng sớ xin trị tội, lại hạch một số viên quan mê tín tà thuyết. Nhà vua nghe theo, giết những người ấy. Thiệu quốc công Lê Quảng Độ hàng phe nổi dậy Trần Cảo, Mạc Đăng Dung cũng dâng sớ khuyên nhà vua đem chém vì tội bất trung, vua cũng nghe theo. Từ đấy, nhà vua tin Mạc Đăng Dung là người trung trực, càng thêm ân sủng.

Năm 1518, Mạc Đăng Dung được thăng làm Vũ Xuyên hầu, ra trấn thủ Hải Dương. Tại đây Đăng Dung thu thập hương binh, chỉnh đốn quân ngũ, quân số ngày càng đông.

Theo sách "Đại Việt thông sử", lúc này Đăng Dung thấy triều đình rối loạn, nên nảy ý đồ khác. Ông mượn thế của quân địch để giết hết đại thần, chặt vây cánh của vua Lê Chiêu Tông. Bèn lập ra kế đi dụ quân địch, rồi mạo lời họ, ép triều đình giết chết Đoan quận công Ngô Bính, Thọ quận công Trịnh Hựu và Chử Khải.

Lúc này, Trịnh Tuy và các tướng ở Sơn Tây mưu lập người con của Tĩnh Tu công Lộc lên làm vua, sau nửa năm phế, lại lập Lê Do lên. Vua Chiêu Tông lại mời Nguyễn Hoằng Dụ ra đánh Trịnh Tuy, Nguyễn Áng, Nguyễn Kính ở Sơn Tây, Hoằng Dụ đem quân ra cùng với Đăng Dung đi đánh, quân Hoằng Dụ thua to, chết rất nhiều, Hoằng Dụ lại lui quân về Thanh Hóa. Từ đây Mạc Đăng Dung thống lĩnh quân thủy bộ.

Tháng 7 năm 1519, Mạc Đăng Dung thống lĩnh các quân thủy bộ vây Lê Do ở Từ Liêm, rồi phá đê cho nước vỡ vào quân Lê Do. Do và Nguyễn Sư chạy đến Ninh Sơn, bị Đăng Dung bắt được, giải về giết chết. Trịnh Tuy bỏ chạy về Thanh Hóa. Các tướng Sơn Tây là Nguyễn Kính, Nguyễn Áng, Hoàng Duy Nhạc đều xin hàng Mạc Đăng Dung. Chiêu Tông phong Mạc Đăng Dung làm Minh quận công. Ông một mình nhân cầm quân dẹp loạn mà từ đó nắm hết quyền bính, vua hồi Kinh sư, việc thiên hạ tạm yên.

Năm 1520, Đăng Dung được vua sai làm Tiết chế các xứ thủy bộ chư dinh, lấy Phạm Gia Mô làm Tán lý quân vụ. Năm sau, lại được phong làm Nhân quốc công, tiết chế các doanh quân thủy bộ 13 đạo, tháng 7 lại gia phong Đăng Dung làm Thái phó. Năm 1521, sau khi đánh lui được Trịnh Tuy vào Thanh Hóa, Mạc Đăng Dung nắm quyền điều hành triều chính Nhà Lê. Đăng Dung mang quân đánh lực lượng của Trần Cung ở Lạng Nguyên. Trần Cung bại trận, bỏ chạy vào châu Thất Nguyên. Mạc Đăng Dung điều quân tuần tiễu truy nã và bắt được Trần Cung, bị giải về kinh thành giết chết.

Lúc này quyền thế của Mạc Đăng Dung rất lớn, kiểm soát toàn bộ triều đình. Ông gây dựng phe cánh gồm thông gia Phạm Gia Mô làm Thượng thư Bộ Lễ, em rể là Quỳnh khê hầu Vũ Hộ làm Hữu đô đốc trấn thủ Sơn Tây; ngoài ra còn có các Thượng thư Trình Chí Sâm và Nguyễn Thì Ung ngả theo ông. Mạc Đăng Dung lại tiến vua một mỹ nhân, giả danh là con gái, vào làm cung tần để dò la tin tức, lại sai em là Mạc Quyết giữ đạo binh Túc vệ, con trai Đăng Doanh giữ điện Kim Quang.

Năm 1522, Lê Bá Hiếu nổi dậy chống triều đình ở vùng Đông Ngàn, Gia Lâm. Mạc Đăng Dung lại mang quân đi đánh dẹp được. Mạc Đăng Dung lập nhiều công lớn, dẹp được nhiều lực lượng chống đối triều đình nên quyền lực của ông càng lớn. Sử gia Lê Quý Đôn viết rằng: "công danh ngày càng thịnh, triều đình ai cũng phục".

Khi đó Mạc Đăng Dung đi bộ thì lọng phượng giát vàng, đi thủy thì thuyền rồng dây kéo, ra vào cung cấm không kiêng sợ gì. Ông giết thị vệ Nguyễn Cấu, Đô lực sĩ Minh Sơn bá Nguyễn Thọ và Đàm Cử vốn là những người trung thành với Lê Chiêu Tông.

Trước sự lớn mạnh của thế lực Mạc Đăng Dung, vua và các cựu thần Nhà Lê không bằng lòng, nhưng bất lực. Nghe theo lời một số cận thần trung thành, đêm 27 tháng 7 năm 1522, Chiêu Tông rời kinh thành chạy sang Sơn Tây hiệu triệu bốn phương hỏi tội Mạc Đăng Dung. Ngay ngày hôm sau, Mạc Đăng Dung sai Hoàng Duy Nhạc đem quân đuổi theo, trận chiến xảy ra, Hoàng Duy Nhạc tử trận. Trong tình huống kinh thành trống vắng, vua không còn ở Kinh sư, Mạc Đăng Dung đã bàn với các đại thần tạm thời lập Hoàng đệ Xuân (Lê Cung Hoàng) làm vua. Ngày 1 tháng 8 năm 1522, Đăng Dung và một số triều thần Nhà Lê cùng tôn Hoàng đệ Xuân lên ngôi Hoàng đế, đổi niên hiệu là Thống Nguyên năm thứ 1.

Bấy giờ, trong một nước có hai vua, vua Lê Chiêu Tông ở Thanh Hóa đại diện cho lực lượng cựu thần Nhà Lê do Trịnh Tuy cầm đầu và Lê Cung Hoàng ngự tại dinh Bồ Đề, mọi việc do Mạc Đăng Dung sắp xếp và đối phó. Sau khi đàn áp một số lực lượng nổi dậy, thế lực Mạc Đăng Dung vô cùng mạnh mẽ, kiểm soát và làm chủ vùng Kinh Bắc, quan lại và quân dân đến quy phục ngày một đông.

Năm 1523, Mạc Đăng Dung sai em là Mạc Quyết cùng Vũ Hộ và Vũ Như Quế mang quân đánh Lê Chiêu Tông và Trịnh Tuy ở Thanh Hóa. Cùng lúc, ông nhân danh vua mới Lê Cung Hoàng tuyên bố phế truất Chiêu Tông làm Đà Dương vương. Năm 1524, Mạc Đăng Dung nắm chức Bình Chương quân quốc trọng sự, Thái phó, tước Nhân quốc công. Tháng 10 năm 1525, Mạc Đăng Dung tiến đánh Trịnh Tuy ở đầu nguồn Thanh Hóa. Trịnh Tuy thất thế rồi qua đời, Chiêu Tông bị bắt giải về Kinh sư. Sau đó Mạc Đăng Dung tiếp tục đánh dẹp các lực lượng trung thành với Lê Chiêu Tông do các tướng Giang Văn Dụ, Hà Phi Chuẩn đứng đầu. Ông tiêu diệt các tướng chống đối.

Các lực lượng chống đối đều bị dẹp, mọi quyền lực đều thuộc về Mạc Đăng Dung. Mạc Đăng Dung lui về Cổ Trai nhưng vẫn chế ngự triều chính. Ngày 18 tháng 12 năm 1526, Mạc Đăng Dung sai Phạm Kim Bảng bí mật giết Chiêu Tông ở chỗ bị giam lỏng là phường Đông Hà.

Tháng 4 năm 1527, Lê Cung Hoàng sai đình thần cầm cờ tiết đem kim sách, áo mão thêu rồng đen, đai dát ngọc, kiệu tía, quạt vẽ, lọng tía đến Cổ Trai, tấn phong Mạc Đăng Dung làm An Hưng vương, gia thêm cửu tích. Tháng 6 năm 1527, Mạc Đăng Dung từ Cổ Trai trở lại kinh đô ép Lê Cung Hoàng nhường ngôi. Sử gia Lê Quý Đôn chép: “lúc này thần dân phần nhiều xu hướng về Đăng Dung, đều ra đón về kinh đô”.

Mạc Đăng Dung, sau khi dẹp được các bè phái trong cung đình, đã ép vua Lê Cung Hoàng nhà Hậu Lê nhường ngôi. Tháng 6 năm 1527, Mạc Đăng Dung lên ngôi, tức là vua Mạc Thái Tổ, chính thức lập ra Nhà Mạc. Nhà Lê truyền được 100 năm đến đây kết thúc, nhưng công đức vua Lê Thái Tổ và vua Lê Thánh Tông làm cho nhiều người vẫn không quên nhà Lê, cho nên dù Mạc Đăng Dung có cướp được ngôi cũng không được lâu bền. Chẳng bao lâu, khắp nơi nổi lên những đội quân "phù Lê diệt Mạc" muốn diệt trừ Mạc Đăng Dung để khôi phục nhà Lê. Và Nhà Mạc chấm dứt khi vua Mạc Mậu Hợp bị quân đội Lê-Trịnh do Trịnh Tùng chỉ huy đánh bại vào cuối năm 1592– tổng cộng thời gian tồn tại chính thức của triều đại là gần 66 năm. Chính sách cai trị của Triều Mạc nói chung có nới hơn so với triều Lê, song về cơ bản vẫn không đề ra được những cải cách mới, mở đường cho sự phát triển bình ổn lâu dài của xã hội. Trong khi đó, các thế lực gồm đông đảo các cựu thần nặng tư tưởng Nho giáo, trung quân mù quáng, nổi lên chống đối khắp nơi.
Năm 1529, một võ tướng cũ của nhà Lê là Nguyễn Kim không thần phục nhà Mạc, bỏ chạy vào miền núi Thanh Hoá và sang Ai Lao (Lào), tập hợp lực lượng chống nhà Mạc. Năm 1533, các lực lượng này tập hợp lại ở Thanh Hóa, dựng nên một triều Lê bù nhìn (triều Lê trung hưng hay Hậu Lê) để chống lại nhà Mạc. Năm 1533, Nguyễn Kim tìm một người tên là Lê Duy Ninh là con của vua Lê Chiêu Tông đưa lên ngôi trên đất Sầm Châu (Ai Lao), tức là vua Lê Trang Tông. Tuy nhiên các nhà sử học nghi ngờ Duy Ninh không phải là con của vua Chiêu Tông vì tuổi của Duy Ninh và Lê Chiêu Tông chênh nhau quá ít. 
Từ khi Trang Tông lên ngôi, nhiều sĩ phu, tướng lĩnh bắt đầu tập hợp bên Nguyễn Kim để chống nhà Mạc. Năm 1540, Mạc Thái Tông chết. Thượng hoàng Mạc Đăng Dung lập cháu nội là Mạc Phúc Hải lên ngôi, tức là Mạc Hiến Tông. Năm sau, thượng hoàng Đăng Dung chết.
Năm 1543, quân nhà Lê về nước đánh chiếm Tây đô (Thanh Hoá). Hoạn quan nhà Mạc là Dương Chấp Nhất đầu hàng. Năm 1545, Chấp Nhất dâng dưa độc cho Nguyễn Kim, Kim ăn vào chết. Chấp Nhất bỏ trốn về nhà Mạc. Con rể Nguyễn Kim là Trịnh Kiểm lên thay cầm quyền chỉ huy quân đội.
Ở phía tây bắc, vùng Hưng Hoá (Tuyên Quang), anh em Vũ Văn Mật, Vũ Văn Uyên (Chúa Bầu) là thủ lĩnh trong vùng cát cứ không thần phục nhà Mạc. Nhà Mạc vài lần mang quân đánh nhưng không diệt được họ Vũ, sau lại phải đối phó với nhiều biến cố khác nên buộc phải để họ Vũ cát cứ. Họ Vũ sai người liên lạc theo về nhà Lê trung hưng.
Từ năm 1545, quyền bính của triều Lê này thực chất nằm trong tay họ Trịnh. Đây là khởi đầu của cái chính quyền gọi là “vua Lê - chúa Trịnh” (về hình thức, giống như chính quyền quân chủ lập hiến ngày nay), kéo dài đến tận 1786. Cuộc xung đột Lê - Mạc và tiếp đó là Trịnh - Nguyễn phân tranh thực chất là cuộc tranh dành quyền lực, danh lợi đầy mù quáng và vị kỷ của tầng lớp vua quan Đại Việt. Nó đã làm cho nhân dân cực khổ trăm bề, đất nước bị tàn phá tan hoang và bị chia cắt trong một thời gian rất dài.
Năm 1546, Mạc Hiến Tông chết, con là Mạc Phúc Nguyên còn nhỏ lên thay, tức là Mạc Tuyên Tông, chú là Khiêm vương Mạc Kính Điển làm phụ chính. Trong triều xảy ra biến loạn. Tướng Phạm Tử Nghi muốn lập con Mạc Thái Tổ là Hoằng vương Mạc Chính Trung đã trưởng thành nhưng không được nên cùng Chính Trung khởi binh nổi loạn. Phạm Tử Nghi nhiều lần muốn đánh chiếm Đông Kinh không thành, bèn đem Chính Trung ra chiếm cứ Yên Quảng (Quảng Ninh), cướp phá Hải Dương và đánh phá sang Trung Quốc khiến nhà Minh lo ngại. Đến năm 1551 Mạc Kính Điển dẹp được Phạm Tử Nghi. Tử Nghi bị chém, Chính Trung bỏ chạy và bị giết. Có thuyết nói Tử Nghi chết về tay người Minh.
Năm 1550, Thái tể Lê Bá Ly quyền thế quá lớn, có phần hống hách, hai sủng thần là Phạm Quỳnh, Phạm Dao cậy thế vua Mạc vây đánh. Bá Ly cùng thông gia là Nguyễn Thiến mang gia quyến gồm các tướng Nguyễn Quyện, Nguyễn Khải Khang, Lê Khắc Thận chạy vào Thanh Hóa hàng theo nhà Lê. Tuy nhiên sau vài năm, khi Nguyễn Thiến và Lê Bá Ly chết, các con là Nguyễn Quyện, Lê Khắc Thận lại về theo nhà Mạc và Nguyễn Quyện trở thành danh tướng nhà Mạc.
Năm 1562, Mạc Tuyên tông mất, con là Mạc Mậu Hợp mới 2 tuổi lên nối ngôi. Việc chính sự đều do Khiêm vương Kính Điển điều hành.
Bấy giờ nhà Lê chiếm lại được Thanh Hóa và Nghệ An. Năm 1558, con thứ Nguyễn Kim là Nguyễn Hoàng sợ bị anh rể Trịnh Kiểm hại như anh cả Nguyễn Uông nên xin vào trấn thủ Thuận Hoá. Năm 1570, Trịnh Kiểm lại giao cho Hoàng trấn thủ nốt Quảng Nam. Năm 1572, Hoàng dùng kế giết được tướng Mạc là Mạc Lập Bạo vào đánh. Nhà Mạc mất hẳn phía nam và chỉ còn kiểm soát Bắc Bộ.
Năm 1570, Trịnh Kiểm chết, hai con Trịnh Cối, Trịnh Tùng tranh ngôi. Trịnh Cối thua phải sang đầu hàng nhà Mạc. Tuy nhiên Trịnh Tùng là người thay thế xứng đáng của Trịnh Kiểm nên vẫn duy trì được thế cân bằng với nhà Mạc.
Trong suốt những năm 1545-1580 là giai đoạn hai bên giằng co, khi thì Trịnh Kiểm và sau này là Trịnh Tùng dẫn quân ra đánh Sơn Nam, Ninh Bình, Sơn Tây, Thăng Long, khi thì Mạc Kính Điển cho quân tấn công Thanh Hóa - Nghệ An. Mạc Kính Điển nhiều lần phải mang vua Mạc qua sông tránh sang Kim Thành (Hải Dương) nhưng quân Lê vẫn không vào được Thăng Long. Hai bên khi được khi thua. Cuộc chiến giằng co nổi lên tên tuổi các tướng Hoàng Đình Ái, Nguyễn Hữu Liêu bên Lê, Nguyễn Quyện bên Mạc.
Tháng 10 năm 1580, Mạc Kính Điển mất, em là Mạc Đôn Nhượng lên thay làm phụ chính. Lực lượng quân đội nhà Mạc suy yếu đi nhiều vì thiếu đi người chỉ huy có tầm cỡ và uy tín.
Năm 1591, Trịnh Tùng đem quân bắc tiến áp sát thành Thăng Long. Đầu năm 1592, Mạc Mậu Hợp chạy sang Gia Lâm, thống suất thủy quân để làm thanh thế trên sông Nhị Hà cho các tướng giữ thành Thăng Long. Trịnh Tùng thúc quân tổng tiến công. Các tướng Mạc Ngọc Liễn, Bùi Văn Khuê, Trần Bách Niên tan vỡ bỏ chạy. Phục binh của Nguyễn Quyện ở cầu Dền không kịp nổi dậy đã bị giết. Nguyễn Quyện bị bắt, hai con tử trận. Quân Mạc chết rất nhiều.
Trịnh Tùng rút quân chủ lực về. Mạc Mậu Hợp thu tàn quân án ngữ sông Nhị Hà, lại ham sắc đẹp của vợ tướng Bùi Văn Khuê là Nguyễn thị Niên nên muốn giết Khuê. Tháng 8 năm 1592, Khuê biết chuyện bèn đem quân hàng Lê, hợp binh với Trịnh Tùng đại phá quân Mạc.
Tháng 11 năm 1592, Trịnh Tùng lại tiến đánh Thăng Long. Mậu Hợp thua chạy về Kim Thành (Hải Dương). Thấy thế nguy cấp, Mậu Hợp lập con là Toàn lên ngôi, tự mình làm tướng thống suất quân đội. Sau các cuộc chiến đẫm máu tại khu vực các phủ Nam Sách, Hạ Hồng, Kinh Môn trong tháng 11 và 12 thì quân đội nhà Mạc chịu tổn thất cực kỳ nặng nề. Mạc Mậu Hợp phải bỏ trốn đến huyện Phượng Nhãn, bị bắt sống sau đó ít ngày và bị hành hình.
Dù Mạc Mậu Hợp và sau đó là Mạc Toàn bị bắt và bị giết thì thế lực của nhà Mạc chưa bị tiêu diệt hết. Theo "Đại Việt Sử ký toàn thư", cho đến đầu thế kỷ 17 thì các vùng như Thái Nguyên, Lạng Sơn, Cao Bằng vẫn thuộc quyền quản lý của nhiều người như Mạc Kính Chỉ, Mạc Kính Cung, Mạc Kính Khoan là thân thuộc của nhà Mạc (thuộc chi Mạc Kính Điển). Tại các khu vực này chiến trận vẫn tiếp diễn trong nhiều năm và nhân dân vẫn tiếp tục chịu cảnh lầm than, đồng ruộng bị bỏ hoang.
Nhà Minh, vì muốn duy trì thế Nam Bắc triều ở Việt Nam có lợi cho họ nên can thiệp để họ Mạc được cát cứ ở Cao Bằng. Khi nhà Minh mất (1644), các vua Nam Minh - tàn dư nhà Minh - vẫn ủng hộ họ Mạc. Họ Mạc nối nhau trấn giữ ở đây trong nhiều năm, đến con Kính Khoan là Kính Vũ. Mãi đến khi nhà Minh mất hẳn (1662) về tay nhà Thanh, họ Trịnh mới ra tay dẹp họ Mạc. Tới năm 1677, việc trấn giữ Cao Bằng của họ Mạc mới chấm dứt.
Những người họ Mạc bị đổi sang họ khác. Về sau, nhân khi chính sự Đàng Ngoài dưới thời Trịnh Giang rối ren, năm 1739, hậu duệ của họ Mạc là Nguyễn Cừ, Nguyễn Tuyển lại nổi dậy khởi nghĩa chống Trịnh trong vài năm.
Đông Kinh thời nhà Mạc, rồi thời vua Lê - chúa Trịnh thường được gọi trở lại bằng tên Thăng Long…
Để đề phòng những cuộc tân cống của quân Lê - Trịnh, năm 1588, nhà Mạc cho đắp thêm ba lần lũy ngoài thành Đại La, đưa toàn bộ khu hồ Tây vào trong phạm vi thành Thăng Long. Năm 1592, sau khi đánh bại quân Mạc, chiếm được Thăng Long, quân Trịnh đã phá hủy hoàn toàn hệ thống thành lũy phòng vệ này, làm cho Thăng Long lại không có vòng thành ngoài.
Về trường hợp Mạc Đăng Dung lập nên triều đình Nhà Mạc, các sử gia có rất nhiều ý kiến khác nhau, đồng tình có phản bác có.
Theo chúng ta, Mạc Đăng Dung làm việc thay đổi vương triều là tương đối hợp lý. Trong thời đoạn tồn tại chế độ phong kiến, tiến trình vận động xã hội hết thịnh đến suy, suy rồi lại thịnh, là hiện tượng phổ biến, gần như qui luật. Nguyên nhân của hiện tượng ấy có nhiều, không khó hiểu, nhưng chung qui lại có nguồn gốc từ nỗ lực lao động để duy trì đời sống xã hội và sự tham muốn được thỏa mãn cuộc sống theo ý thích, được hưởng lạc vô độ đầy ích kỷ của con người. Ông bà ta đã đúc kết thành kinh nghiệm quan sát quí báu, vừa có tính riêng cá nhân, vừa mang tính chung xã hội: "Không ai giàu ba họ, không ai khó ba đời".
Khi một triều đình đã suy tàn đến mức không còn cứu vãn nổi. Khi thay hết vua này đến vua khác mà triều đình vẫn rệu rã, như cuối đường hầm không lối thoát, nhân dân ngày càng ngột ngạt lầm than, thì lúc đó sẽ có những con người tuấn kiệt, thức thời đứng ra xóa bỏ sự suy tàn ấy, tìm cách phục hưng đất nước. Mạc Đăng Dung là người như thế.

Nhà Hậu Lê suy thoái, triều chính rối ren đánh giết lẫn nhau, các vua quỷ Uy Mục đế, vua lợn Tương Dực đế và Chiêu Tông đều không đủ năng lực cầm quyền, các quyền thần họ Trịnh, họ Nguyễn đều chứa chấp mưu đồ riêng, nông dân nổi dậy khởi nghĩa. Mạc Đăng Dung đã xuất hiện trong bối cảnh đó và chỉ trong chưa đầy 10 năm ông đã dẹp yên tình hình nước Đại Việt. Việc nhà Mạc thay thế một nhà Hậu Lê không còn đủ năng lực và bị thiên hạ chán ghét là tất yếu của lịch sử. Nếu dòng họ Mạc không nổi dậy thì các dòng họ thế tộc khác cũng làm điều tương tự trong bối cảnh lúc đó. Giáo sư Trần Quốc Vượng cho rằng sự thay thế nhà Lê của Mạc Đăng Dung là "hợp với đời và đạo".

Có ý kiến rằng Mạc Đăng Dung đã giúp Vua Lê bình định dẹp yên các thế lực, được phong tước cao nhất "chỉ dưới một người trên vạn người". Thế nhưng không dùng tài đó để phò tá nhà Lê mà lại nảy sinh chuyên quyền giết vua cướp ngôi, làm quan thần nhà Lê không phục dẫn đến bạo loạn triều đình, đẩy đất nước sang trang nội chiến Nam Bắc Triều. Nếu Mạc Đăng Dung không cướp ngôi mà hết lòng phò tá nhà Lê thì thật xứng ghi danh muôn thuở chứ không phải tai tiếng là "ngụy triều".

Thật hiếm triều đại nào có chính sách dùng người cởi mở, bao dung trong thời kỳ loạn lạc như nhà Mạc, nếu so sánh những sự kiện trên với các triều đại khác. Sự bao dung của nhà Lý, nhà Trần với vài thủ lĩnh nổi dậy chỉ là cách đối phó để giữ miền biên xa xôi, không dùng với tướng sĩ "người miền xuôi" đã phản. Vua Hậu Trần Giản Định Đế nghi ngờ Đặng Tất và Nguyễn Cảnh Chân từng phục vụ nhà Hồ và hàng quân Minh nên giết 2 tướng giỏi; Lê Thánh Tông giết đại thần Lê Lăng vì từng ủng hộ Lê Khắc Xương lên ngôi,... Có lẽ nhà Mạc đã học được tấm gương của Tề Hoàn Công thời Xuân Thu dám dùng Quản Trọng, dù từng có cái thù bắn tên vào đai áo.

Chính sách dùng người của nhà Mạc còn được đời sau ca ngợi. Sách "Vũ trung tùy bút" của Phạm Đình Hổ cuối thời Lê trung hưng ghi: "cái đức chính của thời Minh Đức (niên hiệu của Mạc Thái Tổ) và Đại Chính (niên hiệu của Mạc Thái Tông) nhà Mạc vẫn còn cố kết ở lòng người chưa quên. Vậy nên thời vận đã về nhà Lê mà lòng người hướng theo nhà Mạc vẫn chưa hết..."
Thời kỳ Mạc Thái Tông trị vì có thể coi là thời kỳ đỉnh cao của nhà Mạc. Lúc đó nhà Lê chưa trung hưng, toàn cõi do nhà Mạc cai quản, cảnh thịnh trị được các sử gia nhà Lê - triều đại đối địch với nhà Mạc - soạn "Đại Việt sử ký toàn thư", phải ghi nhận: "đêm ngủ không đóng cửa, ngoài đường không ai nhặt của rơi"
Thời kỳ thịnh trị của Mạc Thái Tông cho thấy năng lực trị nước của nhà Mạc không kém nhà Lê. Đời sống nhân dân no đủ, xã hội ổn định, không gây những xáo trộn như khi nhà Hồ thay nhà Trần. Những lực lượng chống đối nhà Mạc chính là những thế lực cũ thân nhà Lê. Theo sử sách, thời Mạc không có một cuộc khởi nghĩa nông dân nào. Điều đó cho thấy nhà Mạc được lòng dân. Sách "Đại Việt Thông sử" của Lê Quý Đôn phải thừa nhận Thái Tổ Mạc Đăng Dung "được lòng người hướng về". Sau khi Hiến Tông qua đời, các vua Mạc lên thay đều là ấu chúa, biến loạn trong ngoài rất nhiều nhưng nhà Mạc vẫn đứng vững. Ngoài năng lực của người phụ chính, hẳn phải có nền tảng là sự ủng hộ của nhân dân Bắc Bộ lúc đó. Việc họ Mạc tiếp tục cát cứ tại Cao Bằng, ngoài sự can thiệp của nhà Minh, nếu không được lòng người thì không thể tồn tại tới 80 năm
 Nhìn tổng thể, nhà Mạc có tư duy kinh tế cởi mở, sớm nhìn thấy xu thế tiến bộ của thủ công nghiệp, thương mại và kinh tế hàng hóa; điều đó khác hẳn với chính sách bảo thủ của nhà Lê. Nhà Mạc cai trị trong 65 năm đã đưa vùng đông bắc giàu mạnh lên, về ngoại thương đã vươn tới thị trường các nước châu Á. 
Tuy nhiên, kinh tế vẫn chủ yếu dựa vào nông nghiệp theo phương thức tiểu nông, tàn dư của phương thức sản xuất Á Đông cùng chế độ gia trưởng với nền kinh tế manh mún, khiến sự phát triển của nền sản xuất hàng hóa bị cản trở, mầm mống tư bản chủ nghĩa chớm nảy sinh đã bị thủ tiêu.
Có thể quốc sách Nhà Mạc vẫn còn những khiếm khuyết và chưa triệt để, nhất là về chính trị và trị an, thêm nữa, những vị vua đời sau còn non yếu, lại sa đà hưởng lạc, không còn tận tâm với việc triều chính, nên từ khi Nguyễn Kim nổi dậy, chiến tranh nổ ra, đất nước bị tàn phá, kinh tế bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Chiến tranh liên miên đã làm cho đời sống của người dân trở nên đói nghèo hơn. Ví dụ năm 1572, sau khi nhiều phen bị nạn binh đao thì tại Nghệ An lại phát dịch. "Khâm định Việt sử Thông giám Cương mục" có viết rằng: "Các huyện, đồng ruộng bỏ hoang nhân dân đói khổ. Dịch lệ lại phát sinh, người chết đến quá nửa. Nhân dân xiêu giạt, hoặc tan tác vào Nam, ra Bắc. Trong cõi Nghệ An đìu hiu vắng tanh".

Nạn lục đục triều chính cũng góp phần làm Nhà Mạc suy yếu, cuối cùng bị tiêu vong khi nhà Lê hồi phục nhờ sức quyền thần nên các sử gia của triều đại thắng trận ra sức hạ thấp nhà Mạc trong sử sách. Do sự chi phối quan điểm của nhà Lê và nhà Nguyễn, Nhà Mạc bị gọi là "ngụy triều". Tuy nhiên, nếu căn cứ vào những gì nhà Mạc đã làm, đây thực sự là một vương triều tuy thời gian tồn tại ngắn, nhưng có vai trò tích cực nhất định trong lịch sử Việt Nam. Nhà Lê dù thắng trận nhưng về thực chất thì không còn, cơ nghiệp nhà Lê trung hưng thực ra là cơ nghiệp họ Trịnh.

Giáo sư sử học Văn Tạo trong bài viết "Nhà Mạc và vấn đề ngụy triều" đã vạch rõ: Họ Trịnh và họ Nguyễn lấy tiếng là giúp nhà Lê nhưng thực ra là lo làm lợi cho mình. Họ Trịnh phù Lê nhưng lại phế truất và giết các vua Lê. Họ Nguyễn phù Lê nhưng chỉ lo phát triển cơ đồ riêng và cái cớ chống họ Trịnh. Giáo sư Tạo nhấn mạnh: "Mạc là ngụy công khai, Trịnh Nguyễn là ngụy giấu mặt".

Cách nói "ngụy" cũng chỉ là theo quan điểm của các sử gia thời phong kiến. Các nhà sử học ngày nay đã thay đổi quan điểm này và nhà Mạc đã được nhìn nhận như một triều đại bình đẳng với các triều đại "chính thống" khác. 

Cũng theo giáo sư Văn Tạo, về chính trị và kinh tế, tuy nhà Mạc đã khiến đất nước giàu mạnh lên trong thời kỳ đầu, nhưng địa bàn hoạt động của nhà Mạc bị bó hẹp, kẹp giữa một bên là nước lớn Trung Quốc, một bên là Nam triều trỗi dậy cùng tư tưởng "hoài Lê", không có điều kiện mở rộng như các chúa Nguyễn ở phía Nam sau này. Bản thân các tập đoàn chống Mạc đã có những chính sách phù hợp và lực lượng nhân sự đủ tài năng để đối phó với nhà Mạc nên trong một thời gian dài Nam triều đứng vững trước các cuộc tấn công của nhà Mạc. Thời hậu kỳ (sau khi Mạc Kính Điển chết), nhà Mạc không còn lực lượng nhân sự đủ mạnh, nhất là vua Mạc Mậu Hợp không đủ năng lực và phạm phải sai lầm nên đã thất bại về quân sự. Trong cuộc chiến trường kỳ đó, khi đã thất bại về quân sự thì chính trị của nhà Mạc cũng trở nên yếu thế trước khẩu hiệu "phù Lê" và nhà Mạc thành kẻ bại trận cuối cùng.

(Còn tiếp)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét