Thứ Tư, 13 tháng 1, 2021

TT&HĐIII - 26/f

                       

Phan Văn Lân | Nhân vật lịch sử Việt Nam

PHẦN III:     NGUỒN CỘI 

" Đi đi con!
Trong khinh khi may nhớ nước non
Mà ôn lại cho đừng quên lịch sử
Bốn ngàn năm rồi, Việt Nam bất tử
Dằng dặc đoạn trường chống giặc ngoại xâm
Biết mấy đau thương, biết mấy anh hùng
Ghi tạc địa cầu bao chiến công hiển hách
..."

                                                                                Trần Hạnh Thu

"Lịch sử hoài thai chân lý, nó có thể kháng cự với thời gian, có thể dìm đi những việc cũ, nó là dấu tích của thời xa xưa, là gương soi của đương đại, là lời giáo huấn cho thế hệ sau."
                                                                 
Cervantes (Tây Ban Nha)

"Lịch sử là bằng chứng của thời đại, là ngọn lửa của chân lý, là sinh mệnh của kí ức, là thầy giáo của cuộc sống và là sứ giả của cổ nhân."
                                                                                                      Cicero (La Mã)
 
“Đừng chê cõi trần nhơ
Đừng khen cõi trần đẹp
Cõi trần là thản nhiên
Chỉ có đời nhơ, đẹp.” 
.

CHƯƠNG V: XUÂN LỬA ĐỐNG ĐA

“Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quí báu của ta. Từ xưa đên nay, mỗi khi Tổ Quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn; nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước.”
(Hồ Chí Minh)
"Những ngả đường bát ngát
Những dòng sông đỏ nặng phù sa
Nước chúng ta
Nước những người chưa bao giờ khuất
Đêm đêm rì rầm trong tiếng đất
Những buổi ngày xưa vọng nói về!"
(Trích bài thơ "Đất nước" - Nguyễn Đình Thi)
"Đất Nước là nơi dân mình đoàn tụ
Đất là nơi Chim về
Nước là nơi Rồng ở
Lạc Long Quân và Âu Cơ
Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng
Những ai đã khuất
Những ai bây giờ
Yêu nhau và sinh con đẻ cái
Gánh vác phần người đi trước để lại
Dặn dò con cháu chuyện mai sau
Hàng năm ăn đâu làm đâu
Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ"

(Trích bài thơ "Đất nước" - Nguyễn Khoa Điềm


 

 

(Tiếp theo)

 

Nguyễn Huệ định cho quân tu sửa trường lũy Động Hải, vẫn giữ địa giới cũ với Bắc Hà ở La Hà. Lúc đó Nguyễn Hữu Chỉnh đưa ra đề nghị :

"Tướng công đánh một trận được đại thắng, uy danh chấn động cả thiên hạ. Đường lối dụng binh, một là thời, hai là thế, ba là cơ hội, nếu có thể dựa vào ba điều ấy, thì đánh đâu mà không được. Nay ở Bắc Hà, quân lính thì kiêu ngạo, tướng súy thì lười biếng, triều đình lại không có kỷ cương gì. Tướng công mang uy thanh ấy, nhân lúc bên kia đã đỗ nát, nếu thực biết dùng danh nghĩa "phò Lê, diệt Trịnh" thì thiên hạ ai mà không hưởng ứng? Đấy là cơ hội và thời, thế đều không thể để nhỡ được". Nguyễn Huệ cho là phải, bèn quyết định không dừng binh mà phát động cuộc tấn công mới ra Thăng Long.
Ngoài bắc, ngày 19 tháng 6 chúa Trịnh đã nhận được tin quân Tây Sơn tiến ra đánh tới sông Gianh. Sau khi bàn định với các tướng, Trịnh Khải quyết định cử các tướng đi tăng cường phòng thủ miền duyên hải, nhưng các tướng được lệnh không ai chịu đi vì sợ quân Tây Sơn.
 
Theo kế của Nguyễn Hữu Chỉnh, Nguyễn Huệ nói thác là mệnh lệnh của Nguyễn Nhạc, rồi chia quân tiến ra bắc. Hữu Chỉnh làm tiền phong thủy quân, kéo quân ra cửa biển Việt Hải, vào cửa biển Đại An, kéo thẳng đến Vị Hoàng chiếm lấy kho lương.Nguyễn Huệ tự thống suất đại binh, theo đường thủy, đường bộ tiếp tục xuất phát.
Ngày 28 tháng 6, ngoài Thăng Long nghe tin báo quân Tây Sơn đã đánh chiếm được Phú Xuân. Trịnh Tông họp các tướng lại bàn cách chống. Các tướng Trịnh cho rằng: "Thuận Hóa vốn không phải đất đai của triều đình, trước kia tốn bao nhiêu công của mới lấy được, chung quy cũng chẳng ích lợi gì? Bây giờ chỉ nên bàn luận tìm cách đóng quân ở Nghệ An theo như việc cũ mà thôi". Vì thế, Trịnh Khải hạ lệnh cho Trịnh Tự Quyền làm thống tướng, đem quân lính 27 cơ tiến vào giữ lấy đầu địa giới Nghệ An để chống cự.
 
Dọc đường từ sông Gianh trở ra, Nguyễn Huệ chia làm nhiều toán quân du binh đánh chiếm các đồn trại quân Trịnh. Quân Trịnh sợ quân Tây Sơn, nhiều đồn trông thấy là bỏ chạy. Sau khi đồn Dinh Cầu ở Nam Hà Tĩnh mất, tướng giữ trấn Nghệ An và Thanh Hóa của Bắc Hà là Bùi Thế Toại và Tạ Danh Thùy nghe tin đều bỏ thành trốn. Nguyễn Huệ kéo quân đến chiếm cứ lấy Thanh-Nghệ. Trịnh Tự Quyền nhận được mệnh lệnh đã hơn 10 ngày vẫn chưa thu xếp hành trang xong, còn quân sĩ thì chần chừ không có ý muốn đi, lại muốn thay đổi thống tướng khác . Khi Tự Quyền đem quân dời khỏi thành mới được 30 dặm, thì cánh quân Tây Sơn của Nguyễn Hữu Chỉnh đã đến Vị Hoàng.
 
Nguyễn Hữu Chỉnh tiến ra đến Vị Hoàng không gặp cản trở nào của quân Trịnh. Sáng sớm ngày 11 tháng 7 năm 1786 tức ngày 16 tháng 6 âm lịch 400 chiến thuyền của Hữu Chỉnh đến đánh chiếm Vị Hoàng. Quân Trịnh bị bất ngờ vì quân Tây Sơn tiến quá nhanh, đều tan vỡ bỏ chạy. Quân Tây Sơn chiếm được hết thóc lúa và tiền bạc trong kho có hàng trăm vạn và trưng tập thêm lương của các thuyền buôn của người Hoa đậu ở bến Vị Hoàng.
 
Chiếm xong Vị Hoàng, Nguyễn Hữu Chỉnh cho quân đốt lửa hiệu tại các chòi ven biển báo cho quân chủ lực của Nguyễn Huệ ở Thanh - Nghệ biết, mặt khác sai một tỳ tướng mang một toán quân tiến về Thăng Long, đóng ở Phố Hiến .
 
Trịnh Khải nghe tin mất Vị Hoàng, lại lệnh cho Tự Quyền vẫn đem các quân bản bộ tiến đến chống cự ở Kim Động, một mặt lệnh cho Đỗ Thế Dận đang trấn thủ Sơn Nam đem quân bộ tiến đến đóng ở bờ sông Phù Sa, rồi sai Đinh Tích Nhưỡng đốc lãnh các quân thủy đạo tiến thẳng đến giữ ở cửa Luộc. Các tướng Trịnh hội hợp binh lính đón đánh.
 
Ngày 17 tháng 7 năm 1786 (tức ngày 22 tháng 6 âm lịch), Nguyễn Huệ tiến đại quân đến Vị Hoàng. Ông dùng kế lừa quân Trịnh, cho làm hình nộm để lên thuyền để dụ quân Trịnh bắn tên đạn ra trước cho hết tên đạn rồi sau đó mới tấn công. Nhân lúc trời tối không trông rõ, Nguyễn Huệ tận dụng chiều gió, từ hạ lưu sông Luộc cho thuyền chở người nộm tiến đến trước quân Trịnh. Đinh Tích Nhưỡng liền sai các quân bày "trận chữ nhất" chắn ngang sông, đạn súng và tên nỏ cùng một lúc bắn ra.
 
Một chiếc thuyền quân Tây Sơn bị trúng đạn rồi bị đắm, còn các thuyền khác vẫn cứ nối nhau tiến lên không ngừng, mà trong thuyền vẫn im lặng không có tiếng người. Quân Trịnh không hiểu ra sao. Trong lúc hoảng hốt sợ hãi thì trời đã sáng rõ, quân Trịnh mới biết những người chân sào đều người bù nhìn. Lúc ấy, thuốc súng và đạn của quân Trịnh đều hết, đại đội thuyền lớn của Nguyễn Huệ vừa đánh trống vừa reo hò tiến lên, thanh thế rất lớn.
 
Quân Trịnh mất khí thế. Quân Tây Sơn dùng cánh tinh binh xông thẳng vào hàng ngũ quân Đỗ Thế Dận, đem ống phun lửa loạn xạ, quân của Thế Dận kinh sợ tan vỡ. Toán quân của Đinh Tích Nhưỡng bỏ thuyền chạy. Toán quân của Trịnh Tự Quyền nghe tin, cũng sợ hãi rối loạn rồi tự tan vỡ. Quân Tây Sơn đánh phá chiếm được trấn Sơn Nam.
Nguyễn Huệ tranh thủ sự ủng hộ của người dân Bắc Hà, bèn phát tờ hịch đi các lộ, bày tỏ danh nghĩa "diệt Trịnh, phò Lê". Sáng ngày 19 tháng 7, Nguyễn Huệ thúc đại quân từ Sơn Nam đánh ra Thăng Long.
Sau khi trấn Sơn Nam đã bị quân Tây Sơn chiếm được, kinh thành Thăng Long rúng động, quan và quân họ Trịnh đều lo toan việc chạy trốn và giấu của cải, không có chí chiến đấu.
Nguyễn Khản từ Nghệ An về kinh, bàn với Trịnh Khải nên sai tướng giữ kinh thành, và rước vua Lê Hiển Tông chạy lên Sơn Tây, không nên giao chiến vì kiêu binh không thể dùng được. Trịnh Khải đồng tình định làm theo thì quân kiêu binh hợp nhau lại phản đối dữ dội, cho rằng là Nguyễn Khản dẫn quân Tây Sơn vào kinh thành, toan giết ông. Nguyễn Khản phải bỏ chạy lên Sơn Tây.
 
Trịnh Khải không ưa tham tụng Bùi Huy Bích vì không có mưu lược chống quân Tây Sơn, bèn cách chức và sai ra đốc chiến; mặt khác Trịnh Tông triệu Trần Công Xán vào phủ, bí mật bàn định mưu kế đối phó. Trần Công Xán cho rằng phải tử chiến tại kinh thành.
Trịnh Khải nghe theo, bèn triệu Hoàng Phùng Cơ ở Sơn Tây về, sai làm tiền bộ. Phùng Cơ chỉ có 500 quân, cùng 8 người con dẫn quân lính bản bộ đến. Trịnh Tông giúp cho Hoàng Phùng Cơ 5000 lạng bạc mộ được hơn 1000 quân lính cũ.
 
Trịnh Tông bố trí phòng thủ Thăng Long như sau:
Cho đội thủy quân tứ thị là đội thủy quân duy nhất còn lại ở kinh thành tới dàn thuyền chiến ở bến sông Thúy Ái
Hoàng Phùng Cơ dàn quân đóng ở hồ Vạn Xuân;
Trịnh Tông tự mình đem hết quân trong thành, bày trận ở bến Tây Long, có 100 voi chiến. Quân Trịnh Tông chia làm 5 đạo:
Tả đạo giữ Đông Long
Hữu bộ giữ Tây Hồ
Tiền bộ giữ cửa Tiền lâu
Hậu bộ giữ Hậu lâu
Trung quân và tượng binh đóng ở lầu Ngũ Long bảo vệ chúa Trịnh
Trong tình thế nguy cấp, quân Trịnh vẫn không cảnh giác, cho rằng quân Tây Sơn chưa thể tiến đến Thăng Long nhanh chóng.
 
Nhân lúc gió đông nam thổi mạnh, Nguyễn Huệ cho quân thủy giương buồm tiến đến kinh thành Thăng Long. Sáng ngày 21 tháng 7, thuyền quân Tây Sơn xuôi chiều gió, kéo ập đến bến Nam Dư. Về phía chúa Trịnh, thì quân thủy tan vỡ trước. Hai viên thiên tướng là Nguyễn Trọng Yên, quản lãnh đội Tiền Ưu và Ngô Cảnh Hoàn, quản lãnh đội Tiền Trạch, cầm ngang siêu đao, đứng ở mũi thuyền, chống cự, bị quân Tây Sơn giết chết.
 
Cánh quân Thúy Ái bị tiêu diệt. Quân Tây Sơn kéo lên bộ, tiến tới hồ Vạn Xuân. Toán quân của Phùng Cơ không kịp dàn thành hàng ngũ, bỏ chạy tan vỡ tứ tung. Thuộc tướng là Mai Thế Pháp phi ngựa lên đón đánh, giết được hơn 10 lính Tây Sơn. Bị quân Tây Sơn vây sát. Thế Pháp tự nhảy xuống sông; chỉ còn một mình Phùng Cơ cùng 8 người con dẫn vài chục thủ hạ cố sức chiến đấu. Thủ hạ và 6 người con đều bị tử trận, Phùng Cơ cùng 2 người con bỏ chạy.
 
Quân Tây Sơn tiến đến bến Tây Long. Trịnh Tông mặc nhung phục, ngồi trên bành voi, cầm cờ lệnh chỉ huy, nhưng quân sĩ nhìn nhau, không ai chịu tiến lên. Quân Tây Sơn đổ đến chém giết, quân Trịnh tan vỡ lung tung. Trịnh Tông quay voi trở về thành, đến cửa Tuyên Vũ, trông thấy ngoài phủ đã cắm hàng loạt cờ Tây Sơn, bèn dẫn tượng binh hướng theo đường Sơn Tây chạy trốn. Các quan lại dưới quyền chúa Trịnh người thì bỏ trốn, người thì tan chạy, cũng không một người nào biết đến chúa.
 
Ngày 21 tháng 7 năm 1786 tức ngày 26 tháng 6 âm lịch, Nguyễn Huệ dẫn đại quân tiến vào Thăng Long, đóng quân ở phủ chúa Trịnh. Trịnh Tông mang 400 tàn quân bỏ chạy, khi chạy đến xã Hạ Lôi, huyện Yên Lãng, quân sĩ tan tác hết. Trịnh Khải gặp Lý Trần Quán là người trước đây vâng lệnh đem tờ hịch đi chiêu mộ nghĩa binh. Lý Trần Quán nhờ người học trò của mình là Nguyễn Trang hộ vệ Trịnh Tông, nói dối là Tham tụng Bùi Huy Bích.
 
Nguyễn Trang biết đấy là chúa Trịnh, bèn cùng thủ hạ là Nguyễn Ba bắt Trịnh Tông giải nộp doanh trại quân Tây Sơn. Trên đường đi, Trịnh Tông dùng dao cắt cổ tự tử. Nguyễn Trang đem thi thể chúa Trịnh nộp cho quân Tây Sơn. Nguyễn Huệ sai sắm đủ áo quan khâm liệm mai táng cho Trịnh Tông theo nghi lễ một vị chúa.
Thế là, ra đất Bắc Hà, chỉ một trận đánh, quân Tây Sơn đã chiếm được căn cứ Vị Hoàng (Nam Định), làm chấn động Thăng Long, rồi cũng sau một trận đánh, ngày 21-7-1786, Nguyễn Huệ kéo đại quân vào Thăng Long, lật đổ chính quyền từng tồn tại gần 2,5 thế kỷ của họ Trịnh (1545-1786).
 
Tiến vào Thăng Long, Nguyễn Huệ yết kiến vua Lê Hiển Tông ở điện Vạn Thọ, xin ngày cử hành nghi lễ đại triều, dâng sổ sách binh và dân để tỏ rõ ý nghĩa nhà vua nhất thống và Nguyễn Huệ tôn phò.
Giữ đúng sách lược “Phù Lê diệt Trịnh”, Nguyễn Huệ quyết định trao trả quyền hành Đàng Ngoài cho vua Lê. 
 
Vua Lê Cảnh Hưng phong cho Nguyễn Huệ tước Quốc Công, nhưng trong thực tế, ông nắm toàn bộ quyền chính ở Bắc Hà. Do sự sắp xếp của Nguyễn Hữu Chỉnh, vua Lê Hiển Tông gả công chúa Ngọc Hân cho Nguyễn Huệ,  và cắt đất Nghệ An cho Tây Sơn làm lễ khao quân.
 
Ngày 4-8-1786, Thăng Long được chứng kiến đám cưới tưng bừng gây nhiều hiếu kỳ của một anh hùng áo vải lấy một cô công chúa cành vàng lá ngọc trẻ măng. Mấy ngày sau, vua cha Hiển Tông qua đời, thọ 70 tuổi. Lê Ngọc Hân nghĩ anh thân hơn cháu nên ủng hộ anh là Lê Duy Cận lên ngôi, nhưng bị tông tộc nhà Lê phản đối vì muốn lập hoàng thái tôn Lê Duy Kỳ - con của thái tử Duy Vĩ bị chúa Trịnh Sâm giết hại - lên ngôi. Do áp lực của tông tộc, Ngọc Hân phải nghe theo. Lê Duy Kỳ được lập, tức là vua Lê Chiêu Thống.
 
Ít lâu sau bà theo Nguyễn Huệ về Thuận Hóa.

Sau khi quân Tây Sơn rút đi, các thế lực của chúa Trịnh từng bỏ trốn khi Tây Sơn kéo ra như Đinh Tích Nhưỡng, Hoàng Phùng Cơ trỗi dậy, lập Trịnh Bồng lên ngôi vương, tức là Án Đô vương, tái lập chính quyền chúa Trịnh.

Vua Lê Chiêu Thống đang muốn chấn hưng nhà Lê bèn mời Nguyễn Hữu Chỉnh đang trấn ở Nghệ An ra dẹp Trịnh Bồng. Chỉnh nhanh chóng đánh tan quân Trịnh, đốt phủ chúa, Trịnh Bồng bỏ đi mất tích. Họ Trịnh mất hẳn, nhưng Nguyễn Hữu Chỉnh lại lộng hành như chúa Trịnh trước kia.

Có một sự kiện kỳ quặc, phơi bày cái tâm địa thiển cận, hèn mọn của Nguyễn Nhạc mà lịch sử đã không quên. Sau nhiều chiến thắng lẫy lừng, uy danh của Nguyễn Huệ ngày càng vang dội. Tất cả các tên tuổi khác làm nên cuộc khởi nghĩa Tây Sơn lu mờ hẳn. Nghe tin Nguyễn Huệ đã chinh phục được Bắc Hà, lấy được thành Thăng Long, Nguyễn Nhạc vội vội vàng vàng dẫn 500 thân binh ra Phú Xuân chọn thêm quân tinh nhuệ đi gấp ra Thăng Long với cương vị một Hoàng đế.
Nguyễn Nhạc ra với mục đích thực chất là gì? Chắc chắn là không phải vì quyền lợi của vua Lê rồi! Mà chắc chắn cũng không phải vì quyền lợi của dân tộc Việt, vì sự thống nhất của đất nước Đại Việt. Có lẽ, Nguyễn Nhạc ra chỉ vì mục đích ôm lấy phần công lao diệt Trịnh của em mình trước vua Lê, sợ Nguyễn Huệ không tuân theo mình nữa, sợ Nguyễn Huệ hùng cứ một phương, xưng đế, ngang hàng với mình, thậm chí là hơn mình trong thiên hạ. Một mái đầu thấp tè, chứa một bộ não mù quáng trước danh lợi thường vẫn nghi kỵ như thế! Nghi kỵ như thế rõ ràng là người tầm thường. Nguyễn Nhạc có tầm thường không? Hoàn toàn tầm thường!
 
Nguyễn Nhạc, khi cùng hai em nổi dậy ở Tây Sơn, chắc rằng chỉ có cái mộng không ra ngoài mộng được làm đế vương. Chính vì thế mà trong khi cuộc khởi nghĩa Tây Sơn vẫn đang ở thời kỳ “gian lao” của nó, trong khi Nguyễn Huệ (và Nguyễn Lữ) lặn lội để duy trì cuộc kháng chiến, chinh nam, chinh bắc vì sự tồn vong của cuộc kháng chiến thì Nguyễn Nhạc chỉ lo “chí thú” xây dựng triều chính cho cá nhân mình.
 
Ngay từ tháng 3-1776, Nguyễn Nhạc đã tự xưng là Tây Sơn Vương, xây lại thành Đồ Bàn, làm nơi đóng đô, đúc ấn vàng, phong cho Nguyễn Huệ làm phụ chính, Nguyễn Lữ làm thiếu phó, tổ chức ban thưởng cho người có công…
 
Năm 1777, Nhạc lại sai người ra Bắc xin Trịnh Sâm cho mình cai trị đất Quảng Nam. Bấy giờ họ Trịnh đã suy yếu lắm rồi, đành phong cho Nhạc làm Quảng Nam trấn thủ tuyên úy Đại sứ cung Quốc công.
Năm 1778, sau khi Nguyễn Huệ và Nguyễn Lữ vào Gia Định lần thứ hai, đánh tan quân Nguyễn và giết chết chúa Nguyễn Phúc Thuần và Đông cung Phúc Dương, Nguyễn Nhạc lên ngôi Hoàng Đế, thành lập vương triều mới, đặt niên hiệu là Thái Đức, đổi tên thành Đồ Bàn là Hoàng Đế thành, phong cho Nguyễn Huệ làm Long Nhượng tướng quân, Nguyễn Lữ làm tiết chế.
 
Đến đây, đối với Nhạc, mộng ước đế vương đã thành, danh lợi tột bậc đã đạt được. Và cũng từ đây Nhạc bắt đầu tự thấy mình được quyền ung dung hưởng lạc trên giàu sang phú quí, không thèm bận lòng với thời cuộc, không dại gì xông pha trước mũi tên hòn đạn nữa, vì mọi việc “ngoài biên ải” đã có người em tài năng lỗi lạc, đầy nhiệt huyết, rong ruổi gánh vác.
 
Việc tiến ra đánh chiếm Thăng Long, giải phóng Bắc Hà khỏi chế độ chúa Trịnh là bước đi sáng suốt, là kết quả tất yếu trong quá trình phát huy thành quả của chiến dịch Phú Xuân, tranh thủ và tận dụng triệt để thời cơ của Nguyễn Huệ, vượt ra ngoài sức tưởng tượng của Nguyễn Nhạc. Chính vì vậy mà khi nghe tin Nguyễn Huệ đã giải phóng Bắc Hà, Nguyễn Nhạc, với tầm nhìn thiển cận, đầy vụ lợi cá nhân đã vội vã đem tấm thân “thiên tử” ra Thăng Long với mục tiêu danh lợi của riêng mình như đã nói. Lúc đó, Nguyễn Huệ đã đem giao hết binh phù cho Nhạc và như vậy, Nhạc đã nắm lại trọn binh quyền, tướng sĩ chỉ tuân theo mệnh lệnh của nhà vua.
 
Ngày 26-8-1786, Nguyễn Nhạc ra Thăng Long thì 10 ngày sau, quân Tây Sơn lặng lẽ rút về Nam (bỏ lại Nguyễn Hữu Chỉnh, kẻ “lá mặt là trái”, tự biết mình không thể ở lại Bắc Hà, Chỉnh vội đáp thuyền đuổi theo, bắt kịp quân Tây Sơn ở Nghệ An. Nguyễn Huệ đành lòng cho Chỉnh ở lại Nghệ An giúp trấn thủ Nguyễn Văn Duệ.
 
Hành động buộc Nguyễn Huệ rút quân quá sớm về Nam của Nguyễn Nhạc, giữa lúc tình hình Bắc Hà đang diễn biến phức tạp: vua Lê Hiển Tông vừa mất, vua Lê Chiêu Thống mới lên, thế lực chống đối họ Trịnh còn mạnh, lòng người đang nghiêng ngả, đã là một hành động vô trách nhiệm, có lỗi lớn với nhân dân Đàng Ngoài.
 
Sau khi từ Thăng Long trở về, tháng 4 năm Đinh Mùi (1787) Nguyễn Nhạc phong cho Nguyễn Huệ làm Bắc Bình Vương, cai quản phần đất từ Hải Vân trở ra; Nguyễn Lữ làm Đông Định Vương cai quản đất Gia Định, còn bản thân Nguyễn Nhạc đóng ở Qui Nhơn, tự xưng là Trung ương Hoàng Đế. Hành động này cùng với việc hạn chế binh quyền đối với Nguyễn Huệ đã gây ra mâu thuẫn sâu sắc giữa hai anh em nhà Tây Sơn. Cuộc khởi nghĩa Tây Sơn với danh nghĩa lãnh tụ là Nguyễn Nhạc đến đây coi như kết thúc vì nó đã mất đi tính chính nghĩa và có nguy cơ trở thành phản động, đi ngược lại ý nguyện thống nhất nước nhà của toàn dân tộc. Tham vọng vị kỷ đến mù quáng của Nguyễn Nhạc đã cản trở nghiêm trọng tới việc phát huy những thành quả quân sự của Nguyễn Huệ nhằm đưa đất nước mau chóng đến ổn định, thái bình, hơn nữa còn tạo ra khả năng dẫn đến tình trạng chia cắt, cát cứ mới. Nếu nói Nguyễn Nhạc có lỗi với nhân dân Đàng Ngoài khi lệnh cho Nguyễn Huệ rút về Nam quá sớm, thì với việc phân ba đất nước, và tự xưng là Trung ương Hoàng Đế, ông ta đã mang tội đối với nhân dân cả nước. Nguyễn Nhạc tưởng rằng việc tự xưng là Trung ương Hoàng Đế với hai vương ruột rà ở bên cạnh sẽ làm cho triều đại của ông vững chãi hơn bao giờ hết, nhưng thực ra làm như thế cũng chính là đào mồ chôn cuộc khởi nghĩa Tây Sơn cũng như chính triều đại Tây Sơn. Trận giông tố điềm báo ở vùng biển Phú Quốc năm nào đã bắt đầu ứng nghiệm!
 
Tuy nhiên cái triều đình tồn tại không còn một mục đích cao thượng nào ấy đã không dung nạp được tâm hồn lồng lộng của người anh hùng áo vải Nguyễn Huệ, một tâm hồn biết đặt quyền lợi dân tộc lên trên hết, lấy việc qui giang sơn về một mối và phát triển đến phồn thịnh làm mục đích cuộc đời và đang đau đáu trước vận nước.
Ngay từ lúc trao binh phù cho Nguyễn Nhạc và theo Nguyễn Nhạc rút về Nam, chắc chắn rằng trong Nguyễn Huệ đã có sự dằn vặt lớn lao trước một câu hỏi lớn, trước sự lựa chọn giữa sự ràng buộc trung nghĩa theo lệ thường Nho giáo và khát vọng đấu tranh vì nước vì dân đang cháy bỏng. Có một sự kiện thể hiện điều này rất rõ. Trên đường về Phú Xuân, khi dừng chân ở đất Nghệ An, nghe tiếng La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiếp ở núi Thiên Nhẫn là bậc hiền tài, am hiểu việc đời, Nguyễn Huệ đã cho vời đến và hỏi:
- Nay thiên hạ bị chia cắt, đến bao giờ thì bình định được?
Nguyễn Thiếp trả lời:
- Trong nước có loạn lớn vì thiếu một bậc anh hùng. Người có thể bình định được thiên hạ, phi tướng quân thì còn ai nữa?
Nguyễn Huệ nghe xong, im lặng không hỏi gì thêm và sai người tiễn La Sơn Phu Tử trở về núi. Có thể câu nói ấy của Nguyễn Thiếp đã nhắm trúng câu hỏi lớn trong tâm can Nguyễn Huệ.
Sau này, khi lên ngôi Hoàng Đế (cuối năm 1788), trước khi lên đường đánh quân xâm lược nhà Thanh, trong chiếu tức vị của Nguyễn Huệ có đoạn nói về Nguyễn Nhạc: “Anh (tức Nhạc) thì lãng nghĩa, chỉ mong giữ lấy một phủ Qui Nhơn, tự giáng mình làm Tây chúa”. Hoặc trước khi lâm chung, Nguyễn Huệ trăn trối, dặn trấn thủ Nghệ An là Trần Quang Diệu và các quần thần, có đoạn: “... Ngoài thì có quốc thù là quân Gia Định (chỉ Nguyễn Ánh), mà Thái Đức (chỉ Nhạc) thì tuổi già, ham dật lạc, cầu yên tạm bợ, không toan tính cái lo về sau…”
 
Những điều nói trên chính là nguyên nhân sâu xa dẫn đến sự nổi loạn của Bắc Bình Vương chống lại Trung ương Hoàng Đế.
Nhưng sử sách không ghi chép thật rõ ràng về sự kiện mâu thuẫn giữa anh em Tây Sơn. Có tài liệu nói rằng Nguyễn Nhạc yêu cầu Nguyễn Huệ nộp vàng bạc lấy từ kho của họ Trịnh ở Bắc Hà mang về Nam nhưng Nguyễn Huệ không chịu; hơn thế Nguyễn Huệ lại xin Nguyễn Nhạc cho cai quản thêm Quảng Nam và Nguyễn Nhạc không chấp thuận, do đó khoảng đầu năm 1787, Nguyễn Huệ mang 60.000 quân Nam tiến vây thành Quy Nhơn. Theo thư của một số linh mục Pháp, để có đủ 6 vạn quân vây bọc thành Quy Nhơn, Nguyễn Huệ bắt thêm toàn bộ đàn ông ở Thuận-Quảng làm lính, khiến nhiều vùng không còn đàn ông nữa. Hai anh em Huệ, Nhạc đem binh giàn trận uy hiếp lẫn nhau. Nhạc kém cỏi hơn, phải rút vào thành Qui Nhơn cố thủ, Huệ kéo quân bao vây chặt hàng tháng trời. Nguyễn Nhạc bị vây ngặt bèn gọi Đặng Văn Trấn, đang trấn thủ Gia Định, ra cứu. Trấn vâng lệnh mang quân ra, nhưng đến Phú Yên đã bị Nguyễn Huệ bắt sống. Nguyễn Huệ cho nã pháo tới tấp vào thành Quy Nhơn.  Núng thế quá, Nhạc xin được gặp Huệ. Nhạc bảo:
- Nồi da nấu thịt, sao em lại nỡ hại anh?
Hai anh em đứng trên mặt thành nhìn nhau khóc, giảng hòa, lấy Bến Ván làm giới hạn: từ Quảng Ngãi trở vào Nam do Nguyễn Nhạc làm chủ, từ phủ Thăng, phủ Điện trở ra Bắc do Nguyễn Huệ làm chủ. 

Tuy nhiên, theo một giáo sĩ phương Tây tại Việt Nam lúc đó, anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ tuy mâu thuẫn nhưng cho đến khi Nguyễn Huệ bắt được Đặng Văn Trân, quân đội hai bên vẫn chưa thực sự đánh nhau thì Nguyễn Lữ đứng ra điều đình và hai bên vì tình cảm trong nhà đã đồng ý giảng hòa.

Nguyễn Nhạc phong vương cho hai em, mỗi người chia nhau giữ một khu vực từ tháng 4 năm 1787:

  • Nguyễn Nhạc xưng là Trung ương Hoàng đế, đóng đô ở Quy Nhơn.
  • Phong Nguyễn Lữ làm Đông Định vương, cai quản vùng đất Gia Định.
  • Phong Nguyễn Huệ làm Bắc Bình vương, cai quản vùng đất từ đèo Hải Vân trở ra Bắc.

Theo "Tây Sơn bi hùng truyện" của Lê Đình Danh:

Năm 1786, khi Nguyễn Huệ đem quân ra đánh Thuận Hóa thì sáu người trong Tây Sơn thập hổ tướng và Bùi Thị Xuân tháp tùng, vì đánh nhau với nhà Trịnh thì phải đem lực lượng lớn như vậy. Bảy tướng này ở lại với Nguyễn Huệ, không về thành Qui Nhơn nữa. Nhưng gia quyến của họ đều ở trong thành Qui Nhơn.

Nguyễn Huệ đòi vua Thái Đức Nguyễn Nhạc phải trả lại gia quyến cho các tướng rồi động binh. Trước hết, Nguyễn Huệ truyền hịch cho các tướng Tây Sơn đóng quân ở phía Nam Thuận Hóa, rằng Nguyễn Huệ chỉ đem quân về làm áp lực chớ hoàn toàn không có ý chống lại anh mình.

Đầu năm 1787, Nguyễn Huệ tổng động viên chừng 6 vạn tới 10 vạn quân Nam tiến. Tướng Tây Sơn vốn tin phục Nguyễn Huệ, đều không có ý chống lại.

Lê Trung, một hổ tướng nhà Tây Sơn và chủ soái của các ải thuộc Quảng Trị, Quảng Bình, lại ra lệnh để cho quân Nguyễn Huệ ‘mượn đường’, rồi đem quân bản bộ về yết kiến vua Thái Đức. Lê Trung tâu với vua Thái Đức rằng nếu vua trả lại gia quyến cho các tướng thì Nguyễn Huệ sẽ lui binh và nếu Nguyễn Huệ không lui binh thì ông sẽ tự tử để đền tội. Thái Đức giam Lê Trung lại rồi tự mình làm tướng lo việc phòng thủ.

Đến giữa năm 1787, thành Qui Nhơn bị vây được mấy tháng thì Nguyễn Lữ và Đặng Văn Trân về đến. Nguyễn Huệ bảo Nguyễn Lữ vào thành tìm cách gặp mẹ, để Thái hậu bảo vua trả lại gia quyến cho các tướng. Khi Nguyễn Lữ vào thành, thì bị vua Thái Đức giam lại, vì vua Thái Đức đoán được ý này.

Cuối cùng Đặng Văn Trân bắn súng đại bác vào mặt thành của Hoàng Đế Thành (đạn súng đại bác ngày xưa không nổ tung ra, nên chỉ như cục sắt, bắn chính xác thì không chết ai). Thái hậu lúc ấy mới biết là thành có biến loạn, đến gặp vua Thái Đức, và cùng vua Thái Đức lên thành nói chuyện với Nguyễn Huệ.

Nguyễn Huệ trình bày lý do động binh, lạy mẹ và anh, rồi ra lệnh giải vây. Vua Thái Đức cũng tuân lời mẹ, trả lại gia quyến cho các tướng. Nguyễn Huệ dẫn quân về Thuận hóa, đem theo Đặng Văn Trân vì Đặng Văn Trân sợ bị vua Thái Đức trừng phạt.

Sau khi giảng hòa, Nguyễn Huệ coi như đã thoát được sự kiềm chế của Nguyễn Nhạc và trên thực tế đã hầu như có đủ quyền năng để thực hiện sứ mạng lớn lao đối với cả nước mà mục tiêu hướng tới đầu tiên của ông là dẹp yên Bắc Hà. Tiếc rằng cùng thời gian ấy phần đất nước dưới sự quản lý của một Nguyễn Nhạc vô trách nhiệm và một Nguyễn Lữ bất tài vô dụng đã không được quan tâm, đã không có những chuyển biến, phát triển nào đáng kể gọi là tích cực, để cho Nguyễn Ánh có đủ thời gian và điều kiện phát triển lực lượng chiếm giữ lại Gia Định và cả vùng đất đầy tiềm năng, đe dọa ngày một nghiêm trọng đến tiền đồ tốt đẹp của đất nước mà Nguyễn Huệ hằng mong ước và đang cố công theo đuổi, tạo dựng.
Cuộc nổi dậy chống anh mình của Nguyễn Huệ như sự bức bối của con thuyền lớn bị kìm hãm chốn ao tù nước đọng muốn vượt thoát ra đại dương, xét ra là phù hợp với yêu cầu lớn của đất nước lúc bấy giờ, vì vậy nó mang tính chính nghĩa và có thể nói rằng đó là một cuộc khởi nghĩa của những tư tưởng yêu nước, hợp lòng dân nổi dậy chống lại tư tưởng hẹp hòi, ích kỷ, thủ thường, thiếu khát vọng qui giang sơn về một mối của Tây Sơn mà người đứng đầu là Nguyễn Nhạc. 
Cuộc khởi nghĩa ấy chưa có tên gọi nên chúng ta tạm gọi nó là cuộc khởi nghĩa Cờ Đào và lãnh tụ của nó là anh hùng áo vải Nguyễn Huệ. Khởi nghĩa Cờ Đào đã không giành được thắng lợi triệt để vì chưa triệt tiêu được triều đình Nguyễn Nhạc. Đó cũng là một điều đáng tiếc; nhưng có thể cảm thông được đối với con người nghĩa nhân của Nguyễn Huệ khi không nỡ ra tay trước người anh ruột thịt hoàn toàn suy sụp và cầu xin tha mạng. Âu đó cũng là sự đời thường thấy trong lịch sử và ở đây còn mang tính định mệnh nữa. Phải chăng lịch sử bao giờ cũng bi tráng vì nó cũng chính là kho tàng chứa đầy những chuyện trớ trêu?!

Tuy nhiên việc bất hòa và kèn cựa giằng co trong thời gian tương đối lâu giữa anh em Tây Sơn đã để lại hậu quả nghiêm trọng và lập tức bị kẻ địch từ hai phía tận dụng.

Ở phía Nam, sau trận Rạch Gầm – Xoài Mút, Nguyễn Huệ đã chủ động giao hảo với vua Xiêm để cởi bỏ thù hằn, do đó vua Xiêm không có ý giúp Nguyễn Ánh trở về lần nữa. Tuy nhiên sau 3 năm lưu vong ở Xiêm, Nguyễn Ánh nhận ra cơ hội này để về nước và đã tập hợp lực lượng, trở về vào tháng 8 năm 1787.

Nguyễn Lữ nghe tin Nguyễn Ánh trở về vội vã tránh đi nơi khác để Gia Định cho Phạm Văn Tham giữ. Sau đó thế quân Nguyễn Ánh ngày càng mạnh khiến Nguyễn Lữ sợ hãi mang quân bản bộ rút chạy về Quy Nhơn. Quân Tây Sơn đã mỏng lại càng mỏng. Mặc dù sau đó Phạm Văn Tham đã nỗ lực chống trả nhưng vì không được viện binh trợ lực nên tháng 8 năm 1788, Nguyễn Ánh chiếm lại được Gia Định. Phạm Văn Tham rút chạy ra ngoài vẫn cố đơn độc chiến đấu để chờ viện binh, nhưng lúc đó Nguyễn Nhạc chỉ lo phòng bị Nguyễn Huệ Bắc Bình vương ở phía Bắc mà không đoái hoài đến việc cứu phía Nam nữa. Thế cùng sức kiệt, đầu năm 1789, Phạm Văn Tham bị Nguyễn Ánh vây chặt, lại bịt đường ra biển về Quy Nhơn nên buộc phải đầu hàng. Tây Sơn lại mất Nam Bộ.

Sau một thời gian để mất Gia Định và trở về Quy Nhơn, Đông Định vương Nguyễn Lữ lâm bệnh qua đời.

Lại kể, Nguyễn Hữu Chỉnh ở Nghệ An ra sức xây dựng thế lực riêng, mưu phản, chờ thời. Trong khi đó ở Thăng Long, Lê Chiêu Thống nhu nhược, hoàn toàn bất lực không kham nổi việc nước. Tình hình Bắc Hà ngày càng hỗn loạn do phần lớn quan lại thuộc phe cánh họ Trịnh nổi lên chống đối và sự tự đấu đá lẫn nhau. Đám Trịnh Bồng dần thắng thế, kéo về uy hiếp vua Lê, đòi lập lại phủ chúa. Lê Chiêu Thống cầu cứu Nguyễn Hữu Chỉnh. Chỉnh kéo quân ra dẹp yên nhưng chớp cơ hội ấy đóng luôn ở phủ chúa cũ, không những thế Chỉnh còn định tranh thủ tình hình anh em Tây Sơn đang xung đột nhau, chiếm lấy Nghệ An; cử Trần Công Sán là thầy dạy cũ vào Phú Xuân, mượn lời Lê Chiêu Thống đòi lại đất Nghệ An. Được Võ Văn Nhậm, con rể Nguyễn Nhạc báo về, Nguyễn Huệ cử luôn Võ Văn Nhậm ra Bắc trị tội Chỉnh. Chỉnh chống cự quyết liệt, rồi cũng bị quân Tây Sơn bắt, giải về Thăng Long xé xác.
Khi Võ Văn Nhậm ra chiếm Thăng Long, Lê Chiêu Thống cùng ít trung thần trốn sang Kinh Bắc, sau đó chạy vào Sơn Nam, Thanh Hóa, rồi lại trở ra Kinh Bắc. Bước cùng, Chiêu Thống sai người sang cầu cứu nhà Thanh hòng giành lại quyền lợi của một vương triều suốt mấy trăm năm tồn tại vật vờ, phi nghĩa và đang mục ruỗng đến tột độ.
Giết Chỉnh xong, Võ Văn Nhậm lại dở trò phản nghịch, tự ý lập Lê Duy Cẩn (người mà trước đây suýt nối ngôi Cảnh Hưng theo ý của công chúa Ngọc Hân nhưng bị các triều thần nhà Lê phản đối gay gắt) làm Giám quốc (bù nhìn), mưu đồ gầy dựng một giang sơn riêng. Nhận được tin báo của Ngô Văn Sở, Nguyễn Huệ vội đem quân đi gấp ngày đêm ra Thăng Long (tháng 5-1788), giữa canh tư vào thẳng dinh của Nhậm, sai vũ sĩ giết chết ngay tại chỗ.
Trong khoảng một tháng lưu lại ở Thăng Long, Nguyễn Huệ tổ chức lại bộ máy chính quyền, vẫn để Sùng Nhượng Công Lê Duy Cẩn làm Giám quốc, trọng dụng các sĩ phu Bắc Hà tên tuổi như Ngô Thì Nhậm, Phan Huy Ích, Nguyễn Thế Lịch, Võ Huy Tấn… Trước khi trở về Nam, Nguyễn Huệ đã căn dặn cẩn thận rằng:
- Đại Tư mã Ngô Văn Sở, Nội hầu Phan Văn Lân là nanh vuốt của ta; Chưởng phủ Nguyễn Văn Dụng, Hộ bộ thị lang Trần Thuận Ngôn là tâm phúc của ta. Lại bộ thị lang Ngô Thì Nhậm tuy là người mới, nhưng là bậc tân thần, ta coi như khách. Nay ta giao cho các khanh hết thảy mọi việc quân quốc, coi quản 11 trấn trong toàn hạt. Hễ có điều chi, ta cho cứ được tiện nghi làm việc. Song các khanh cần phải họp bàn với nhau, chứ đừng phân bì kẻ mới người cũ, miễn sao làm cho được việc, ta mới yên lòng…
Tình hình Bắc Hà nói chung và Thăng Long nói riêng trở lại trật tự. Sau khi đã lập Sùng Nhượng công Lê Duy Cận làm Giám quốc, Nguyễn Huệ lại rút quân về Phú Xuân.
 
Nhưng chỉ được khoảng 6 tháng thì quân xâm lược nhà Thanh xâm lăng.

(Còn tiếp)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét