Dai Chung la su suy ngam cua toi ve cuoc doi, xa hoi, nhan sinh
TT & HĐ II - 20/b
Nhận đường liên kết
Facebook
X
Pinterest
Email
Ứng dụng khác
-
Con tàu Noah và trận đại hồng thủy trong lịch sử loài người
PHẦN II: Nền tảng
" Triết học bắt đầu từ sự ngạc nhiên"
Arixtốt
“Chúng
ta có thể mường tượng thế giới của thực tại như là một dòng nước ngầm;
thế giới hiện tượng thì ở bề mặt; bên dưới nó chúng ta không nhìn thấy
được. Các sự kiện ở tận đáy của dòng nước gây ra bọt và những xoáy nước ở
bề mặt. Đó là những chuyển động bức xạ và năng lượng của cuộc sống
chung của chúng ta, nó tác động tới các giác quan và do đó, kích thích
trí óc chúng ta; ở bên dưới, dòng nước ngầm vẫn chảy”
(Sir James Jeans.)
“Triết
học chân chính chỉ là triết học truyền đạt chính xác nhất tiếng nói của
bản thân thế giới và được viết dưới những sự chỉ dẫn của thế giới”
(Ph.Bêcơn)
“Tất cả mọi khoa học cần thiết hơn triết học, nhưng không một khoa học nào tốt hơn nó”
"Lịch sử chỉ có thể được viết tốt ở một đất nước tự do".
Voltaire
"Lịch sử là gì? Đó là tiếng vọng của quá khứ trong tương lai và là ánh phản chiếu của tương lai trên quá khứ".
Victor Hugo
"Trong
lịch sử lâu dài của loài người (và cả loài vật nữa), những ai học được
cách cộng tác và ứng biến tài tình nhất sẽ sinh tồn."
Charles Darwin
"Lịch
sử hoài thai chân lý, nó có thể kháng cự với thời gian, có thể dìm đi
những việc cũ, nó là dấu tích của thời xa xưa, là gương soi của đương
đại, là lời giáo huấn cho thế hệ sau"
Cervantes (Tây Ban Nha)
"Lịch
sử là bằng chứng của thời đại, là ngọn lửa của chân lý, là sinh mệnh
của kí ức, là thầy giáo của cuộc sống và là sứ giả của cổ nhân"
Cicero (La Mã)
"Lịch sử không là gì hơn ngoài màn kịch của tội lỗi và bất hạnh".
Voltaire
"Mấy vạn năm nay vẫn hãy còn
Cớ sao khi khuyết lại khi tròn?
Hỏi con Ngọc Thỏ đà bao tuổi?
Chớ chị Hằng Nga đã mấy con?
Đêm vắng cớ chi phô tuyết trắng?
Ngày xanh sao nỡ thẹn vầng son?
Năm canh lơ lửng chờ ai đó?
Hay có tình riêng với nước non"
(Hồ Xuân Hương - Bài thơ “Hỏi Trăng”)
"Dân ta phải biết sử ta, cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam. Sử ta
dạy cho ta những chuyện vẻ vang của tổ tiên ta. Dân ta là con Rồng cháu
Tiên, có nhiều người tài giỏi đánh Bắc dẹp Nam, yên dân trị nước, tiếng
để muôn đời. Sử ta dạy cho ta bài học này: Lúc nào dân ta đoàn kết muôn
người như một thì nước ta độc lập, tự do. Trái lại lúc nào dân ta không
đoàn kết thì bị nước ngoài xâm lấn".
Hồ Chí Minh
(Tiếp theo)
***
Ở
phương Tây ngày nay, chim bồ câu và cành ôliu được coi như là những
biểu tượng của hòa bình. Hiện tượng này bắt nguồn từ một điển cố.
Theo
truyền thuyết, thời xa xưa, trên trái đất đã xảy ra một cơn Đại Hồng Thủy kinh hoàng. Trong “Tân ước - Sáng thế ký” có ghi chép lại câu
chuyện của người Do Thái cổ. Chuyện kể rằng: Thượng đế thấy loài người
đã trở nên bại hoại, mới làm ra trận đại lũ lụt, đủ sức dìm hết các ngọn
núi cao để “hết thảy những sinh vật sống có máu thịt, có hơi thở, phải
chết”. Duy chỉ có Nôyê vâng lời Thượng Đế, làm một chiếc thuyền hình
vuông, chở cả nhà và một số loài vật để làm giống cho sau này, đã thoát
được tai ương. Cuối cùng chiếc thuyền mắc cạn trên núi Ararat. Nôyê thả
bồ câu để thăm dò mực nước. Bồ câu ngậm lá cây ôliu tươi, báo hiệu rằng
nước đã rút cạn. Thế là Nôyê bước ra khỏi thuyền, trở thành thủy tổ mới
của loài người.
Câu
chuyện con thuyền cứu nạn Nôyê nổi tiếng đến nỗi có lẽ ai cũng biết. Nó
đã là nguồn cảm hứng sáng tạo không ngừng trong thi, ca, nhạc, họa suốt
từ thời trung cổ tới nay. Tuy nhiên, nếu rũ bỏ cái bộ cánh thần thánh
đi thì câu chuyện đó có thực sự là đã từng xảy ra trong lịch sử không?
Hay hỏi cách khác: thời cổ đại đã từng có một trận đại lũ lụt với qui mô
không phải toàn cầu thì cũng ở tầm một khu vực rất rộng lớn như thế
không?
Điều
đáng chú ý là ngoài ghi chép của đạo Thiên chúa ra, hầu hết các dân tộc
ở những khu vực ít nhiều văn minh (không phải không văn minh là không
có văn hóa!) trên khắp thế giới mà tiêu biểu là vùng Lưỡng Hà cổ, Ấn Độ
cổ và Trung Hoa cổ, đều cũng có những truyền thuyết, tuy có những thêu
dệt khác nhau về hình thức, nhưng nhìn chung thì đều ám chỉ một thiên
tai cực lớn với lũ lụt nước dâng, với núi non đất đá lún chìm, với lửa
ngún trào mạnh mẽ xảy ra đồng thời. Chuyện ông Đùng của Việt Nam và
chuyện Bàn Cổ - Nữ Oa của Trung Quốc là những điển hình?
Những
truyền thuyết ấy có phải là những hoài niệm về cùng một biến cố vĩ đại
hay không? Đành rằng ở đâu, vào thời nào mà không có bão tố, sóng thần,
núi lửa, lũ lụt, hạn hán… và có thể những truyền thuyết ấy nói về những
thiên tai giống nhau về tính chất nhưng khác nhau về thời gian và khu
vực địa lý xảy ra. Tuy nhiên, nếu khác nhau về thời gian thì có vẻ như
không nhiều (đối với việc lưu nhớ qua truyền khẩu một sự kiện xảy ra
trước đó đến hai, ba ngàn năm và thậm chí là năm, bảy ngàn năm!). Ngay
chúng ta đây thôi, nếu không nhớ lại được những con số (tạm gọi là biểu
tượng về ký hiệu), không liên tưởng để so sánh được những con số đó với
nhau thì chắc gì đã xác định đúng được “thời đại” mà lần đầu tiên chúng
ta bị ngã một cái sưng u đầu khi mới biết đi lững chững? Vả lại, nếu
truyền thuyết nào đó là nói về một sự kiện có thực, đã từng xảy ra thì
không phải đùng một cái là thành… truyền thuyết được. Lúc đầu phải là
câu chuyện kể tả thực, dần dần, qua tháng năm, sự thực đó chỉ còn lại
cái cốt lõi và được thêm “mắm muối” vào tùy người kể mà thăng hoa lên
thành truyền thuyết. Vào thời kỳ mà người ta kể cho nhau bắt đầu bằng
đại loại như: cách đây hai mùa nắng; từ đó đến nay đã năm mùa đông;
hoặc: lúc cụ tổ còn sống, hoặc mờ mịt hơn nữa: ngày xửa ngày xưa…, thì
làm sao mà xác định được thời điểm xảy ra của biến cố? Cái mốc của thời
điểm hiện tại đã không được xác định thì thời điểm nào đó của quá khứ
được xác định bằng cách nào?
Nhưng
đối với người xưa có quan trọng lắm không đối với việc xác định chính
xác thời điểm xảy ra biến cố ở quá khứ? Có thể là rất quan trọng mà cũng
có khi chẳng quan trọng gì, tùy loại biến cố. Những biến cố xảy ra theo
chu kỳ (ngắn hạn), ảnh hưởng thấy rõ đối với đời sống thì phải “nhớ như
in”, còn đối với những biến cố lâu lâu “từ trên trời rơi xuống” hoặc
“ngàn năm một thuở”, “chẳng biết đâu mà lần” thì cũng nhớ nhưng có mức
độ, nhớ như tưởng niệm về “một sự cố đau thương không ngờ” hoặc như một
điều kỳ lạ, “không thể tin” được!
Nên nhớ, truyền thuyết là đứa con của truyền khẩu, được hoài thai từ sự thực lịch sử và tư duy trừu tượng của con người.
Truyền
thuyết tồn tại được trong thời gian là nhờ sự phi thường hóa, linh thiêng hóa của nó và
xét cho cùng thì cũng tuân theo nguyên lý kế thừa và biến đổi của tự
nhiên. Chuyện hoang đường cũng vậy vì nó là bộ phận của truyền thuyết.
Hoang đường cũng như truyền thuyết, đều là sự phản ánh của một thời đã
qua, đều là con đẻ, đều thuộc về hiện thực của quá khứ, nhưng trong khi
truyền thuyết mang cốt lõi của một sự thực bị che đậy bởi tính hoang
đường thì hoang đường lại là truyền thuyết về một phi thực, được chủ
quan lắp ghép từ những mảnh sự thực và được thăng hoa nhờ tư duy trừu tượng. Có thể cho rằng truyền thuyết, cũng
như những bộ phận của nó như chuyện hoang đường, cổ tích thần thoại…
một khi còn tồn tại, đều hiện hữu trong tiến trình dạy - học - sáng tạo…
và luôn là đề tài của những cuộc thi vấn – đáp, vì luôn có những “đứa
hết hơi” trợn mắt hỏi hoài: “Có nhẽ đâu thế?!”
Nói
vậy thì câu chuyện của Kinh thánh về sáng thế là ở thể loại nào của
truyền thuyết? Chẳng ở thể loại nào cả vì không phải là truyền thuyết mà
là sự thực - sự thực của đức tin, của tín ngưỡng!
Trong
khoảng thời gian dài của một dân tộc, một đất nước, một khu vực, thiếu
gì những sự kiện lụt lội, núi lửa, tạo sơn… nhưng tại sao chỉ có Đại Hồng Thủy là được lưu truyền và trở thành truyền thuyết? Rõ ràng đó phải
là một biến cố nổi bật nhất, phi thường nhất trong số những biến cố
thuộc loại này.
Nếu
những truyền thuyết là nói về những biến cố vĩ đại khác nhau, có tính
toàn cầu, trong xấp xỉ cùng một thời điểm (khoảng thời gian rất ngắn so
với lịch sử) thì sao không phải là nói về cùng một biến cố vĩ đại? Còn
nếu đúng là từ một biến cố vĩ đại duy nhất nảy sinh ra nhiều truyền
thuyết ở nhiều khu vực, dân tộc rải rác trên thế giới thì phải chăng
những truyền thuyết ấy là những “phiên bản” đã biến hóa cho phù hợp với sự hồi ức, với
hoàn cảnh địa lý khu vực, với văn hóa, với tâm tư nguyện vọng của một dân tộc? Hay
tất cả chỉ là hoang đường, xuất phát từ một hoang tưởng (“ghê gớm” hơn
chúng ta nhiều!) chứ không hề có một Đại Hồng Thủy, một cuộc nước - lửa
vĩ đại nào đã từng xảy ra cả? Thật là hoang mang!
Không lẽ loài người đi bịa chuyện? Theo ý kiến chúng ta, thì vì lịch sử "truyền khẩu" là lịch sử đã được chủ quan hóa, truyền thuyết hóa có ẩn chứa cốt lõi sự thật, và vì hầu như mỗi dân tộc đều có riêng một truyền thuyết tương tự về Đại Hồng Thủy, nên chúng ta tin Đại Hồng Thủy đã từng xảy ra và là một sự thực vĩ đại. Vậy, chắc
chắn cái khối tình “Nước - Lửa” cuồng si mê đắm nhưng cũng đầy ghen
tuông hờn giận của Trái Đất đã không ít lần xô xát, xâu xé nhau, biểu
hiện ra như những cơn Đại Hồng Thủy. Và cơn Đại Hồng Thủy lần gần đây
nhất đã được cả loài người chứng kiến?
Chúng
ta là những kẻ cũng chúa hay phán vô tội vô vạ! Nhưng lần này, nhận
định như trên không phải là hoàn toàn thiếu cơ sở. Đại Hồng Thủy là một
trong những biểu hiện của vận động nội tại Trái Đất, vận động ấy cũng
phải mang tính lưỡng nghi, vừa tuân theo những nguyên lý vận động chung
nhất của các hành tinh trong Thái Dương Hệ, đồng thời cũng mang tính
riêng, tính đặc thù của một hành tinh có nhiều nước ở dạng lỏng. Địa
kiến tạo học và khảo cổ học đã gợi ý cho chúng ta đi đến nhận định như
vậy và biết đâu chừng mai kia sẽ đứng ra chứng giám cho chúng ta nữa ấy chứ!
Vậy
thì chúng ta cứ tạm cho rằng trong tiền sử loài người, đã từng xảy ra
một nạn Đại Hồng Thủy có tính toàn cầu và cho đến ngày nay, nó là duy
nhất.
Thế
còn con thuyền cứu nạn của Nôyê, với ý nghĩa cứu hộ lớn lao như thế
trong cơn Đại Hồng Thủy, sao chỉ được lưu lại trong Kinh thánh mà không
thấy bóng dáng ở các truyền thuyết khác? Có thể con thuyền vuông Nôyê
thực sự là đã xuất hiện trong Đại Hồng Thủy, nhưng chỉ được quan sát
thấy trong một khu vực nào đó và chỉ khu vực đó biết thôi. Theo như ý
kiến hiện nay thì khu vực đó chính là Địa Trung Hải. Nhưng cho dù sự
kiện con thuyền Nôyê là có thực đi chăng nữa thì theo ý kiến riêng của
chúng ta, nó đóng vai trò như biểu tượng về một đoàn thuyền di tản, tìm
nơi lánh nạn, mà thủ lĩnh chính là Nôyê.
Đã
là cơn bão lụt vĩ đại thì sự di tản để trốn lánh nó cũng phải vĩ đại,
nghĩa là đoàn thuyền Nôyê phải hết sức đông đảo hoặc phải có nhiều đoàn
thuyền Nôyê. Nhưng tại sao lại trốn lánh lũ lụt bằng thuyền để vượt biển
mà không bằng cách chạy thoát lên những vùng đất cao hơn? Chắc là cuộc
di tản vĩ đại đã gồm cả hai cách trên bộ và trên biển.
Tuy
nhiên, dù Đại Hồng Thủy là một thiên tai có tính toàn cầu thì vì có
nguyên nhân sâu xa từ vận động nội tại Trái Đất và được thể hiện ra
thông qua bề mặt Trái Đất như một chuyển hóa lưỡng nghi mang tính đột
biến, nên phải có khu vực nào đó trên Trái Đất đóng vai trò là trung
tâm, là điểm xuất phát ban đầu, là nơi khởi nguồn của nó. Địa Trung Hải
có phải là khu vực đó không? Nếu thế thì tại sao lại không di tản thuần
túy bằng đường bộ mà phải dùng thuyền đi từ bờ lũ lụt này đến bờ lũ lụt
khác? Việc xuất hiện đoàn thuyền Nôyê ở Địa Trung Hải nếu đó là trung
tâm của Đại Hồng Thủy, thì chỉ có nghĩa là tìm cách thoát ra Đại Tây
Dương để đi vào truyền thuyết của vùng đất khác, chứ không phải của
người Do Thái cổ và được lưu lại như một câu chuyện sáng thế trong Kinh Thánh.
Có
thể Địa Trung Hải cũng đã bị “hành hạ” bởi nạn Đại Hồng Thủy nhưng chỉ
là vùng lân cận, chịu ảnh hưởng của khu vực trung tâm. Chưa biết khu vực
trung tâm của Đại Hồng Thủy ở đâu, nhưng việc di tản một cách rầm rộ,
có qui mô lớn bằng thuyền bè ra khỏi trung tâm đó như chỉ ra rằng không
còn cách nào khác hoặc cách đó cũng hữu hiệu không kém, hoặc thậm chí là
hơn cách “chạy bộ”, nghĩa là lánh ra xa có mức độ an toàn hơn leo lên
cao hoặc vì không còn chỗ nào là “cao” nữa cả.
Như
vậy con thuyền Nôyê xuất hiện ở Địa Trung Hải là con thuyền lánh nạn,
từ đâu đó phía Đại Tây Dương đi vào. Giả định được như thế thì cũng có
thể giả định con thuyền Nôyê không phải xuất hiện ở Địa Trung Hải mà
xuất hiện ở Biển Đỏ, cũng gần với lãnh thổ của người Do Thái cổ đại,
hoặc đã cùng xuất hiện ở cả hai nơi.
Thế
thì trung tâm của Đại Hồng Thủy ở đâu? Nếu con thuyền Nôyê chỉ xuất
hiện ở Địa Trung Hải thì trung tâm ấy phải ở đâu đó trên Đại Tây Dương;
nếu con thuyền đó chỉ xuất hiện ở Biển Đỏ thì trung tâm phải ở đâu đó
trên Ấn Độ Dương. Khả năng để con thuyền Nôyê xuất hiện đồng thời ở Địa
Trung Hải và Biển Đỏ (Hồng Hải) là rất khó xảy ra vì như thế trung tâm
của Đại Hồng Thủy phải ở vùng giáp nhau của Đại Tây Dương và Ấn Độ Dương, mà ở đó thì như chúng ta thấy trên bản đồ, không có một “miếng
đất cắm dùi” nào cả do đó cũng chẳng có người để mà di tản từ đó. Hay là
đã có một lục địa hoặc một đảo rất lớn ở đó và đã bị Đại Hồng Thủy nhấn
chìm? Không hề! Theo thuyết “lục địa trôi dạt” thì không thể có. Còn
nếu có thì cũng không có người ở vì điều kiện khí hậu chẳng “hay ho” gì.
Và nếu cố ép con người có mặt ở đó thì thiếu gì chỗ di tản gần hơn mà
phải “chạy” đến tận hai biển đó, chẳng hạn là ghé vào nam Châu Phi hoặc
tấp vào Nam Mỹ?
Phải
cho rằng tại khu vực trung tâm của Đại Hồng Thủy, trước khi nạn đó xảy
ra; có một bộ phận là đất đai; có một điều kiện thời tiết, khí hậu thuận
lợi cho sự phát triển sinh vật và vì thế đã từng có đông người sống với
một nền văn hóa nổi trội, hay nói khác đi: có một nền văn minh rực rỡ
nhất vào thời bấy giờ. Nhưng chính xác thì cái trung tâm “bất hạnh” đó ở
đâu?
Chúng ta tạm bỏ lửng câu hỏi đó để nói về chuyện khác.
Câu
chuyện về Atlantis là một trong những câu chuyện huyền bí nhất về lịch
sử văn minh nhân loại. Đó là truyền thuyết về một nền văn minh rực rỡ,
phát triển sớm nhất; sâu trong xa xưa mà ngay thời cổ đại đã trở thành
một hoài niệm mịt mờ. Atlantis là tên gọi một hòn đảo nằm đâu đó trên
đại dương mênh mông, nhưng vì nó chứa cả một nền văn minh vĩ đại nên
cũng được mường tượng như một lục địa (chúng ta tưởng tượng nó như Châu Úc ngày nay, hay có thể là nhỏ hơn!?).
Nền văn minh Atlantis được xem là đã đạt đến đỉnh cao vinh quang từ hơn
11500 năm trước và câu chuyện về nó đã được lưu trong thư tịch cách đây
khoảng 2350 năm. Có lẽ nhà hiền triết Platon là người đầu tiên thực hiện
công việc này, vào khoảng năm 359 - 347 TCN. Ông đã kể câu chuyện này
thông qua Critias (là một nhân vật trong tác phẩm của ông). Critias nói
rằng ông nội của anh ta đã kể cho anh ta nghe câu chuyện, còn ông nội
lại nghe người cha là Dropides kể lại. Dropides biết được câu chuyện là
qua nhà hiền triết Hi Lạp tên là Solon. Solon cho biết, khi ông ở Ai Cập
(vào khoảng 600 năm TCN), đã nghe được câu chuyện từ các thầy tế Ai
Cập. (Hình như Ai Cập thời đó đã là một sự lôi cuốn không cưỡng nổ đối
với các nhà thông thái Hi Lạp, vì không riêng gì Solon mà còn nhiều
triết gia khác cũng đã từng “lang thang” ở đó, chẳng hạn như
Hippocrates, Galen, Thales, Pythagoras và cả chính Platon nữa).
Solon (638-559 TCN) là một trong bảy nhà hiền triết thời Cổ đại,
nhà thơ, người làm luật xuất thân từ Athena. Sinh ra trong một dòng họ
rất quý phái, nhưng sống như người công dân có mức sống vừa phải. Được
người dân Athena bầu làm Quan chấp chính và giao cho những thẩm quyền rất lớn để thiết lập một chế độ nhà nước mới. Chúng ta có thể biết được
các luật pháp khi đó được thông qua nhờ những bài thơ của bản thân ông.
Theo
Platon (qua lời kể của Critias) thì các thầy tế Ai Cập đã kể cho Solon
nghe câu chuyện về chiến công oanh liệt của một thành phố cổ mang tên Aten (tồn tại trước Platon khoảng 9300 năm (???)). Trong quá khứ xa xưa,
có một lực lượng hùng mạnh có ý định bành trướng, chinh phục cả Châu Á
và Châu Âu; đã tràn qua xâm chiếm nhiều đất nước ở Địa Trung Hải nhưng
đã bại trận trước Aten. Lực lượng hùng mạnh đó xuất phát từ một đảo quốc
rất xa giữa Đại Tây Dương (Atlantic) nên được gọi là Atlantis. Về sau,
Atlantis bị các vị thần phá hủy hoàn toàn. Sau những cơn động đất và một
Đại Hồng Thủy khủng khiếp, Atlantis sụp đổ và bị chôn vùi dưới biển
sâu.
Atlantis
mà Platon mô tả là từ những bằng chứng lịch sử hay hoàn toàn chỉ là hư
cấu? Có lẽ là cả hai! Platon đã dựa trên một truyền thuyết lịch sử, kết
hợp với những điều quan sát được về những thảm họa thiên nhiên như sự
tàn phá của núi lửa, sóng thần… vào lúc đương thời (còn để lại dấu ấn rõ
ràng, lưu giữ được trong ghi chép sử một cách khá rành mạch), để hư cấu
nên một câu chuyện phục vụ cho tư tưởng triết học của ông.
Trước
khi các tộc người Hi Lạp chinh phục và làm chủ bán đảo Bancăng, cư dân ở
vùng này và trên các đảo lớn, nhỏ đã xây dựng được một nền văn minh rực
rỡ - nền văn minh Crét - Myxen (thiên kỷ III - thiên kỷ II TCN). Cret
là tên một đảo lớn ở phía nam biển Êgiê, Myxen là một địa danh thuộc
vùng đồng bằng Pelôpône. Thực ra đó là gồm hai nền văn minh có nét tương
đồng nhau, liên quan khăng khít nhau, gọi là văn minh Cret và văn minh
Myxen; tuy vậy, văn minh Cret xuất hiện sớm hơn. Đảo Cret đã từng bị hủy
hoại một phần bởi thiên tai.
Trước
thời Platon cũng từng xảy ra một vụ núi lửa phun mạnh mẽ tại Thera, hòn
đảo nằm ở phía đông Hi Lạp, phía bắc đảo Cret trong biển Êgiê. Vụ phun
trào nham thạch đó chắc là rất mãnh liệt, rất khủng khiếp và gây ra
nhiều thảm khốc vì như sử còn lưu lại thì ở tận Ai Cập, là nơi chỉ chịu
ảnh hưởng gián tiếp và cách khá xa, vẫn có thể nhận biết được.
Rất
có thể là Platon đã dùng sử liệu của hai sự kiện đó, nền văn minh của
đảo lớn Cret và vụ núi lửa phun trào ở Thera để nhào nặn ra một Atlantis
có thực nhưng đã mờ nhạt trong truyền thuyết. Tuy nhiên, sự nhào nặn
ấy, như sau này thấy, đã bộc lộ ra những bất hợp lý. Đảo Cret chưa bao
giờ gây chiến với Aten và cũng chẳng bị “nhấn chìm”. Vì theo chính sử
thì Aten chỉ xuất hiện từ thế kỷ VII TCN và theo chứng cứ của khảo cổ
học thì mặc dù bị sóng thần tàn phá nặng nề sau vụ phun trào Thera, nền
văn minh Cret vẫn phát triển rực rỡ tiếp tục trong khoảng 200 năm nữa…
Từ
đó đến nay, truyền thuyết về Atlantis vẫn luôn ám ảnh loài người. Đã có
không biết bao nhiêu là những suy luận, những phán đoán vô căn cứ cũng
như có căn cứ về Atlantis, đã có không biết bao nhiêu những con người bỏ
không ít công sức ra để thám hiểm, đi tìm nơi nó đã từng hiện hữu. Cuối
cùng thì Atlantis vẫn cứ ẩn hiện như hồn ma: vừa hư, vừa thực, người
tin “như bắp”, người “xổ toẹt”, và cũng có người “mơ mơ hồ hồ”. Còn
chúng ta? Chúng ta tin rằng mọi truyền thuyết đều mang cái cốt lõi về
một sự thực đã từng hiện hữu. Truyền thuyết chính là lịch sử - một lịch
sử đã được chủ quan hóa, thiêng liêng hóa, thần thánh hóa. Câu chuyện về hai tập sử thi Iliát và Ôđixê
là một thí dụ điển hình. Iliát là bản anh hùng ca chiến trận gồm khoảng
15000 câu thơ, chia làm 24 khúc ca, kể lại cuộc chiến tranh giữa người Hi Lạp và người Tơroa (thành Tơroa còn có tên gọi là Iliông vì thế tập
thơ mang tên Iliát) ở vùng Tiểu Á. Ôđixê gồm hơn 12000 câu thơ, cũng
được chia thành 24 khúc ca, mô tả cuộc hành trình đầy gian truân của một
người anh hùng Hi Lạp: Uylixơ hay còn gọi là Ôđixê. Mặc dù đã xảy ra
nhiều cuộc tranh luận từ lâu nhưng cho đến nay những vấn đề như nguồn
gốc, tác giả, thời gian và địa điểm ra đời của bộ sử thi đó vẫn chưa
được giải quyết dứt khoát. Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng tác giả của hai
tập thơ đó là Hôme, nhà thơ mù thiên tài sinh ở Tiểu Á. Không ít người
lại cho rằng Iliát - Ôđixêchỉ
là những tập hợp, có chỉnh lý của những sáng tác dân gian truyền miệng,
còn Hôme chỉ là một từ chung chỉ người mù. Chúng ta nghĩ rằng khi chưa
có chữ viết hoặc chữ viết còn sơ khai, thì một trong những biện pháp để
ghi nhớ, mà lưu truyền được những miêu tả về đời sống (vật chất cũng như
tinh thần), những kinh nghiệm trong sinh hoạt và lao động, những sự
kiện quan trọng (có tính lịch sử), là tạo vần điệu trong ngôn ngữ. Đó
chính là khởi đầu của thi ca. Bộ sử thi Iliát - Ôđixê dù ban đầu chỉ là
những tom góp, sưu tầm, nhưng nếu không có sự chọn lọc, hệ thống hóa
lại, chỉnh sửa cho nhất quán về vần điệu, cho phù hợp với tiến trình của
lịch sử thì làm sao có thể “hay” được để mà gọi là tác phẩm. Hai tập
thơ dài “ngoẵng” đó trở nên bất hủ bởi vì chúng là những tác phẩm chân
chính, được kết nên từ sự kế thừa những tinh hoa của quá khứ và qua sáng
tạo có tính cá nhân, đã trở thành một tinh hoa mới, phản ánh được hơi
thở của thời đại cũng như hình ảnh và nỗi niềm của con người. Đã là một
tác phẩm thì phải có tác giả. Tác giả đó dù là ai, dù là một người hay
nhiều người thì trước hết vẫn cứ là Hôme thiên tài.
Chính
bộ sử thi Iliát - Ôđixê đã mách bảo cho người đời sau biết về trạng
thái sinh hoạt vật chất và tinh thần của người Hy Lạp trong giai đoạn
lịch sử Hy Lạp từ thế kỷ XI đến thế kỷ IX TCN (còn gọi là thời kỳ Hôme).
Cũng qua bộ sử thi đó mà còn biết được rằng xã hội Hy Lạp thời đó không
phải là sự tiếp nối xã hội của thời kỳ Crét - Myxen mà là một xã hội
thị tộc, bộ lạc ở giai đoạn mạt kỳ. Kết quả về khảo cổ đã chứng thực
nhiều điều thể hiện trong bộ sử thi và đặc biệt là vào năm 1900, Actua
Ivan, nhà khảo cổ học người Anh (1851-1941) đã phát hiện ra di tích của
thành Tơroa (ở Tiểu Á).
Câu
chuyện về Atlantis chưa hết, chúng ta sẽ tiếp tục kể về nó một cách tóm
lược từ những điều đã sưu tầm được ở các sách mà may mắn chúng ta có.
Theo,
Donnelly, nhà sử học nghiệp dư người Mỹ, tác giả cuốn sách “Atlantis:
một thế giới trước thời hồng thủy” xuất bản vào năm 1881, thì Atlantis
là ngọn nguồn của mọi thành tựu văn hóa và mọi nền văn minh tại Ai Cập,
Tây Á, Ấn Độ… Lập luận của Donnelly không dựa vào khảo cổ cũng như chẳng
có bằng chứng nào về nguồn gốc chung của mọi nền văn hóa. Tuy nhiên
phải thấy rằng đó là một suy tư nghiêm túc và có phần táo bạo.
Theo
Bécratu (chả biết là ai, sách chỉ viết vỏn vẹn thế) lập luận thì ước
khoảng 9000-11000 năm TCN có một đảo lớn nằm ở khoảng giữa Châu Âu và
Châu Mỹ, trên đảo có một nền văn minh cực kỳ huy hoàng. Về sau, đảo này
đột ngột biến mất. Một người khác, tên là Mêcơ (cũng chẳng biết là ai
nốt) thì cho rằng: Kim Tự Tháp Ai Cập và Kim Tự Tháp Nam Mỹ sở dĩ giống
nhau là nhờ đảo này nằm ở vị trí đóng vai trò cầu nối giao lưu văn hóa.
Ông còn cho rằng loài cá Man châu Âu luôn giữ tập quán di chuyển kỳ quặc
và nguy hiểm là vì lúc đó đảo này cách rất gần biển MinVexao. Dòng sông
nước ngọt trên đảo là vùng an toàn tự nhiên giúp cho loài cá Man này
tránh được các thú biển khác ăn thịt chúng. Đảo này về sau được gọi là
Atlantis.
Mêcơ,
trong tác phẩm nổi tiếng “Bí mật Atlantis” của mình, đã nêu giả thiết:
đảo Atlantis có vị trí chính xác là ở tại eo biển Chipurốt, phía dưới
Quần đảo Axôrét. Thông qua việc khảo sát, đo đạc bằng máy bay đối với
ven bờ Đại Tây Dương Bắc Mỹ, người ta phát hiện bờ biển ở gần thành phố
Sáclơxtôn thuộc phía Nam bang Carôlina dày đặc, khoảng 3000 vết lõm hình
phễu hoặc hình bầu dục tựa như là hậu quả của hàng loạt khối đá cỡ lớn
trên không, được ném tới từ hướng tây bắc. Ngoài ra, ở đáy biển, gần đảo
Bôrôticơ còn có hai dải đất lõm sâu xuống khoảng 3000 thước Anh (trong
địa kiến tạo gọi là vùng lõm). Mêcơ đã đem những ghi chép của Bécratu
lắp ghép với kết quả khảo sát đó để đề xuất một giả thiết mới về sự mất
tích của Atlantis: Ước chừng 11000 năm về trước có một tiểu hành tinh
rơi xuống vùng Đại Tây Dương có đảo Atlantis từ phía tây bắc. Sau khi
vào bầu khí quyển, nó vỡ thành nhiều mảnh nhỏ có lớn có. Có hai mảnh vỡ
cực lớn rơi trúng vào vị trí mẫn cảm của Đại Tây Dương gây nên động đất
mạnh mẽ, phun trào dung nham mãnh liệt, gây tai họa đột ngột cho
Atlantis. Chỉ sau 24 tiếng đồng hồ cái đảo huyền thoại đó vĩnh viễn biến
mất khỏi bề mặt đại dương, chìm xuống đáy sâu, đem theo tất cả mọi dấu
tích văn hóa của một nền văn minh huy hoàng.
Theo
một hướng khác nữa, nhà nghiên cứu người Mỹ tên là Robert Sarmast khẳng
định đã tìm được bằng chứng cho thấy thành phố (?) trong truyền thuyết
Atlantis thực sự đã từng tồn tại và hiện đang nằm dưới đáy biển Địa
Trung Hải, giữa đảo Síp và Xyri. Sarmast cho biết lòng chảo Địa Trung
Hải bị nhấn chìm trong một trận đại hồng thủy khoảng 9000 năm trước, kéo
theo một vùng đất hình chữ nhật lớn mà ông tin là Atlantis. Vùng đó
hiện ở dưới độ sâu 1,5 km, cách bờ đông nam đảp Síp 80 km. “Chúng tôi
chắc chắn đã tìm thấy nó”, trong vai trò trưởng nhóm thám hiểm, Sarmast
đã tuyên bố như vậy. Ông còn cho biết việc chụp định vị qua nước sâu đã
tiết lộ những cấu trúc nhân tạo, trong đó có một bức tường dài 3 km, một
đỉnh đồi có tường bao quanh và các rãnh sâu trên ngọn đồi đó. Sarmast
nói thêm: “Chúng tôi chưa thể cung cấp bằng chứng hiển nhiên dưới dạng
các viên gạch hay vữa hồ, vì các vật tạo tác này đang bị chôn vùi dưới
vài mét trầm tích, những bối cảnh ở đây và các bằng chứng khác là không
thể phủ nhận”. Cũng là một nhận định của Sarmast: Đảo Síp thuộc về lục
địa đã mất và là đỉnh cao nhất của nó, hơn nữa, sự phát hiện của ông phù
hợp hầu như tuyệt đối với những mô tả của Platon. (Đến nay, trong khi
chúng ta đang viết những dòng này, không biết công việc của Sarmast tiến
triển tới đâu rồi? Theo chúng ta, nếu đã giống tuyệt đối với mô tả của
Platon thì có thể lại là sai!)
Gần đây thôi, một nghiên cứu nữa lại cho rằng Atlantis nằm ở phía nam Tây Ban Nha.
Vào
những năm thập niên 70 của thế kỷ XX, các nhà nghiên cứu phát hiện được
một quần thể kiến trúc cổ khổng lồ ở đáy biển Đại Tây Dương. Năm 1979,
phát hiện của hai nước Pháp, Mỹ khi khảo sát khu vực “Tam giác quỷ” Bermuda đã cho thấy dưới đáy biển khu vực này có một Kim Tự Tháp khổng
lồ, mỗi bề dài 3000 m, cao 200m, xuất hiện sớm hơn Kim Tự Tháp Ai Cập.
Nhân viên nghiên cứu còn lấy được mẫu đá dưới đáy biển sâu 800 m ngầm
gần đảo Sumerius của Đại Tây Dương và xác định cách đây 12000 năm, vùng
này là một lục địa. (Còn tiếp) -------------------------------------------------------------------
MIỀN TÂY HOANG DẠI Ước gì một lần về thuở ấy miến Tây Sống lầy lội những tháng ngày hoang dại Súng cặp kè hông, nhong nhong lưng ngựa Phóng khoáng thảo nguyên, đạn nổ ì đùng Ta sẽ về, rủ em gái theo cùng Đem tình yêu vào vòng đấu súng Và ngã xuống trong một lần anh dũng Để mai này định nghĩa lại...thằng khùng! Đã khùng rồi thì xá chi anh hùng Của một thời tìm vàng sôi động Người người xô bồ tìm giàu sang cuộc sống Để lại điêu tàn, bắn giết mênh mông! Ta ước thế nghe có rùng rợn không? Trần Hạnh Thu NHẠC HUYỀN THOẠI CAO BỒI VIỄN TÂY
(ĐC sưu tầm trên NET) Bản tin 113 online cập nhật ngày 2/5: Truy tố 254 bị can bị trong đại án sai phạm lĩnh vực đăng kiểm 🔴 TRỰC TIẾP: Thời sự quốc tế 3/5 | Nga tuyên bố khai hỏa Iskander, hủy diệt hai pháo HIMARS Ukraine Tin tức thời sự mới nhất hôm nay | Bản tin sáng ngày 5-3-2024 MỘT CÕI ĐI VỀ (Sáng Tác: Trịnh Công Sơn) - KHÁNH LY OFFICIAL Miễn nhiệm chức vụ Chủ tịch Quốc hội đối với ông Vương Đình Huệ 9 giờ trước Khoảnh khắc tên lửa Nga công kích pháo HIMARS Ukraine 12 giờ trước Mong muốn Campuchia chia sẻ thông tin về Dự án kênh đào Funan Techo 10 giờ trước Gần 50 người chết trong vụ sập đường cao tốc ở Trung Quốc 10 giờ trước Lý do xuất khẩu của Trung Quốc sang Nga bất ngờ sụt giảm 8 giờ trước Ukraine nói Nga sản xuất tên lửa Zircon 'nhanh bất thường' 6 giờ trước Hàng chục nghìn người Gruzia tiến hành biểu tình lớn nhất từ trước tới nay 16 giờ trước Video 'rừng người' xem phương tiện chiến đấu bị Nga tịch thu ở chiến trường Ukraine 16 giờ trước U23 In...
I Only Want to Be with You - Dusty Springfield (Cover by Emily Linge) VẪN THẾ MÀ! Anh vẫn thế, trước sau vẫn thế mà Nhìn anh này, đừng nhìn phía trời xa Vẫn ngày ngày ra ngóng chờ trước của Đợi Nàng Thơ về tác hợp thi ca Tâm hồn anh có cửa đâu mà khóa Mà phải cùng em mở cánh cửa tâm hồn Anh tìm mãi nào thấy đâu ô cửa Toang hoác tứ bề, thông thống càn khôn* Còn trái tim anh vẫn êm đềm, yên ả Vẫn yêu quê hương, tổ quốc, con người Miền nhiệt đới khi thấy tim băng giá Chắc chắn là anh đã ngoẻo tự lâu rồi! Trần Hạnh Thu CT: * Trời đất
Nhận xét
Đăng nhận xét