Thứ Ba, 13 tháng 10, 2020

TT & HĐ II - 19/h

                                           Thành Phố Atlantis Và Những Bí Ẩn Thú Vị

PHẦN II:     Nền tảng


" Triết học bắt đầu từ sự ngạc nhiên"
Arixtốt

“Chúng ta có thể mường tượng thế giới của thực tại như là một dòng nước ngầm; thế giới hiện tượng thì ở bề mặt; bên dưới nó chúng ta không nhìn thấy được. Các sự kiện ở tận đáy của dòng nước gây ra bọt và những xoáy nước ở bề mặt. Đó là những chuyển động bức xạ và năng lượng của cuộc sống chung của chúng ta, nó tác động tới các giác quan và do đó, kích thích trí óc chúng ta; ở bên dưới, dòng nước ngầm vẫn chảy”
(Sir James Jeans.)
 
“Triết học chân chính chỉ là triết học truyền đạt chính xác nhất tiếng nói của bản thân thế giới và được viết dưới những sự chỉ dẫn của thế giới” 
(Ph.Bêcơn)

“Tất cả mọi khoa học cần thiết hơn triết học, nhưng không một khoa học nào tốt hơn nó” 
(Arixtốt)

CHƯƠNG VIII: THẮT NÚT


Tri thức đạt được qua học hỏi; sự tin tưởng đạt được qua nghi ngờ; kỹ năng đạt được qua rèn luyện; tình yêu thương đạt được qua yêu thương.
Thomas Szasz
 
Thơ ca là tri thức đầu tiên và cuối cùng – nó bất diệt như trái tim con người.
William Wordsworth
 
Giữa sự sai lầm và sự thực vô dụng không có nhiều khác biệt. Cũng giống như vàng không thể dùng sẽ chẳng khiến ai giàu có, kiến thức không thể áp dụng sẽ chẳng khiến ai thông thái hơn.
Samuel Johnson
 
Khoa học cho chúng ta tri thức, nhưng chỉ triết học mới có thể cho chúng ta sự thông thái.
Will Durant 
 
Danh vọng và tài sản có thể rơi xuống từ bầu trời, và sự giàu sang có thể tự tìm đến chúng ta, nhưng ta phải tự đi tìm sự hiểu biết.
Edward Young
 
Dấu hiệu thật sự của trí tuệ không phải là kiến thức mà là trí tưởng tượng.
Albert Einstein 
 
Sự ngu dốt là lời nguyền rủa của Chúa trời; tri thức là đôi cánh đưa ta bay tới thiên đường.
William Shakespeare 
 
Tôi là người thông thái nhất trên đời, vì tôi biết một điều, rằng tôi chẳng biết gì cả.
Plato 
 
Đức hạnh là thiên thần, nhưng cũng là một thiên thần mù lòa, và phải nhờ tri thức dẫn đường tới mục tiêu của mình.
Horace Mann 
 
Ngày nào mà bạn không bổ sung cho vốn hiểu biết của bạn dù chỉ một mẩu kiến thức nhỏ nhưng mới mẻ đối với bạn… thì bạn hãy coi đó là một ngày mất đi vô ích, không thể lấy lại được nữa.
Khuyết danh 
 
“Nhìn thế giới trong một hạt cát
Và bầu trời trong cánh hoa rơi
Giữ vô thường trong lòng bàn tay
Và vĩnh cửu trong một giờ ngắn ngủi”.
William. Blake
 

 

(Tiếp theo)

***
Thế là chúng ta, trong hoang tưởng, đã tạo dựng nên được một câu chuyện hoang đường về gốc tích của Hà Đồ - Lạc Thư cũng như đã giải mã được nguyên cớ sắp xếp của các chấm tròn đen và trắng. Bắt đầu từ sự hợp lý của “toán học bàn tay”, người xưa đã quan sát thấy cả một nguyên lý thành tạo và biến hóa của Vũ Trụ thể hiện trong đó. Nguyên lý ấy đã được họ trình diễn ra một cách xuất sắc trên quan niệm ban đầu là lưỡng phân - lưỡng hợp, rồi tiếp theo sau là âm - dương, lưỡng nghi, tứ tượng bát quái và ngũ hành. Hệ thống quan niệm ấy, nếu phủi đi những diễn giải có phần thô ráp hoặc huyền bí, một phần do trình độ nhận thức của thời hồng hoang gây ra, một phần có thể do cố tình làm hấp dẫn hóa của người xưa để lưu nhớ lâu dài trong "lịch sử truyền khẩu" (thời chưa có chữ viết), thì theo thiển ý của chúng ta, một cách khái lược, là hoàn toàn đúng đắn về Tự Nhiên (dù có thể là chưa đầy đủ).
Ngoài ra, chúng ta còn đoán rằng trên con đường của phát triển tư duy nhận thức, người xưa sẽ phải ngước lên bầu trời và cho rằng về mặt phương vị, không phải chỉ có bốn phương chiều đông, tây, nam, bắc mà còn hai phương chiều nữa là trên, dưới. Vậy thì nếu dưới đất có bát quái thì trên trời cũng có bát quái và khi trời, đất kết hợp với nhau xoay vần biến hóa như bàn tay sẽ làm xuất hiện 64 trạng thái lưỡng nghi của hệ thống đất - trời, hay còn gọi là 64 trùng quái. Hơn nữa, từ cảm giác không gian của người xưa đã đạt đến quan niệm trong trời đất có cả thảy 6 phương chiều cơ bản và từ quan niệm ngũ hành, người xưa đã (rất có thể thôi!) sáng tạo ra “thập can” và “thập nhị can” (hai bàn tay năm ngón hợp lại thành 10 ngón thì hai cái 6 phương chiều tại sao không hợp lại để thành 12 phương chiều? Phải chăng từ quan niệm 6 phương chiều mà người Babilon đã sáng tạo ra hệ đếm cơ số 60: 6 (phương chiều) x 10 (ngón tay) = 60? Sự kết hợp “thiên can”, “địa chi” cho đến khi trở về với trạng thái kết hợp ban đầu là một chu kỳ có 60 trạng thái kết hợp, gọi là “60 giáp tý” kể ra cũng hay đáo để!). Sự bói toán dựa trên thiên can, địa chi hoặc trên lục thập tứ trùng quái hoặc theo chiêm tinh học đã mang trong lòng nó tính xoay vần nhịp nhàng theo chu kỳ của trời đất cho nên có ẩn chứa một phần sự thực khách quan trong đó và như vậy, không hẳn là hoàn toàn vô lý (nhưng cũng không thể là hoàn toàn hợp lý được!).
Không đến nỗi quá kỳ lạ khi Hà Đồ phản ánh ra được nhiều mặt của Tự Nhiên Tồn Tại, nếu nhớ lại đặc tính tương tự trong sự biểu hiện ra các sự vật hiện tượng của Nó.
Chúng ta nói đến cái gọi là nguyên lý theo quan niệm âm dương, lưỡng nghi của sự phân định. Vậy thì nó được diễn giải như thế nào? Đại khái là như thế này:
Thực thể là sự thống nhất của hai thực thể nhỏ hơn nó đóng vai trò đơn vị của nó. Hai thực thể đơn vị đó có tính tương phản nhau (trái nghịch nhau như nước với lửa, đông với tây, trên với dưới, nhiều với ít…). Vì tương phản nhau nên chúng có tính phân ly nhau, nhưng cũng vì tương phản nhau nên chúng không đầy đủ, thiếu cái mà “đối tác” có, do đó đồng thời cũng tìm cách kết hợp nhau để dung hòa. Sự phân ly đồng thời là kết hợp ấy của hai tương phản được gọi là lưỡng phân, lưỡng hợp. Sự lưỡng phân lưỡng hợp của hai thực thể tương phản thể hiện ra như một hệ thống chuyển hóa làm nên vận động nội tại của thực thể lớn hơn. Hai thể tương phản còn được gọi là thể âm và thể dương, nếu cái này là âm thì cái kia là dương và ngược lại. Hệ thống chuyển hóa âm dương ấy còn được gọi là hệ thống lưỡng nghi gồm hai nghi là âm và dương. Âm dương có mối quan hệ lệ thuộc nhau, có âm vì có dương, dương bộc lộ được là nhờ có âm. Một khi một trong hai thể (hay tính) âm - dương mất đi thì mối quan hệ âm dương cũng đương nhiên mất đi và hệ thống lưỡng nghi đó chấm dứt tồn tại. Một cách tượng trưng và theo quan niệm âm dương, lưỡng nghi thì một thực thể (hay hệ thống) luôn có thể biểu diễn là sự kết hợp của hai vạch liền và đứt:
Nếu chú ý đến cả sự phân định lưỡng nghi của nội tại đơn vị nữa hoặc giả hai thực thể lưỡng nghi lập nên một hệ thống hay thực thể lưỡng nghi mới thì ta sẽ “quan sát thấy” hiện tượng lưỡng nghi của lưỡng nghi, nghĩa là ta sẽ “thấy” tứ tượng:
Tương tự, sẽ có lưỡng nghi của tứ tượng, lưỡng nghi của bát quái… Và cứ thế đến cuối cùng chúng ta sẽ có một Vũ Trụ với vô thiên vô ủng quái. Vũ Trụ vô thiên vô ủng quái ấy, trong một đơn vị tuyệt đối của thời gian cũng chỉ là một lưỡng nghi và không chú ý đến tính lưỡng nghi nữa thì nó lại là một thực thể thống nhất: cái Một vốn dĩ thế.
Tương tự, đi về phía vô cùng nhỏ, loại bỏ dần “gông xiềng” của lưỡng nghi đi, chúng ta sẽ tiếp cận đến một thực thể chỉ còn có một lưỡng nghi và không chú ý đến tính lưỡng nghi nữa thì đó là một cái vốn dĩ thế: một thực thể giống Vũ Trụ, vừa có nội tại vừa không có nội tại vì không thể phân chia được, là đơn vị tuyệt đối làm nên Vũ Trụ tuyệt đối. Nếu Vũ Trụ thể hiện như là một tuyệt cùng vĩ đại của không gian thì đơn vị đó thể hiện như một tuyệt cùng vi tiểu của không gian và sự tồn tại của nó cũng là phản ánh ngắn nhất của thời gian.
Nếu chúng ta thay âm - dương bằng có và không thì lưỡng nghi của lưỡng nghi sẽ làm xuất hiện ra một vấn đề khá “vui vẻ”,thế này:
                    
Có trên nền tảng là có thì kết quả chắc chắn là có; hay có - có có thể được hiểu như hiện hữu. Không trên nền tảng là có, hay không - có có nghĩa là không nhưng vẫn có, hay hiểu như là tồn tại mà không hiện hữu. Có trên nền tảng là không hay có - không là có, nhưng có cái gọi là không nên cũng là không có, hay có thể gọi là có ảo. Cuối cùng, không trên nền tảng của không là không hiện hữu mà cũng không tồn tại và chính là hư vô tuyệt đối hay gọi là Hư Vô; nhưng Hư Vô chỉ là tên gọi khác của Tồn Tại nên lại là có, là tồn tại; Không - không là hư vô của hư vô cho nên phải là có. Phải chăng phủ định của phủ định là trường hợp riêng của hiện tượng lưỡng nghi của lưỡng nghi đối với cặp khái niệm tương phản có và không? Và phải chăng đó cũng là một minh chứng cho tính vốn dĩ thế của Tự Nhiên Tồn Tại và như vậy là cho tính “tiên thiên” của “Có”: có “Có” rồi mới có “Không”?
Pho sách Lạc Thư nếu thực sự đã từng hiện hữu thì phải được coi là một cuốn “kinh điển” về cả toán học lẫn triết học với chỉ hai “trang sách” đá và giữa hai trang sách đó (trong lòng con rùa đá) “kẹp” một viên ngọc mang tính biểu tượng của hình 29/a. Có thể trên hòn ngọc đó được chạm khắc tinh vi năm hình gì đó như là biểu tượng của năm ngón tay, và nó đóng vai trò là cơ sở để tính toán số lượng (theo cách gọi ngày nay là hệ cơ số 5), là nền tảng của sự đếm (theo quan niệm của người xưa), là cái ở giữa quyết định phân lập lưỡng nghi, là tinh huyết, linh hồn của hai trang sách quí được lưu lại từ xưa của người Việt Thường, được chạm khắc, đẽo tạc thành con rùa đá, như một bảo vật mà sau này người Trung Hoa (nhà Hạ?) gọi đó là "Qui dịch"!
Người Việt Thường đã nói gì về nội dung pho sách đó cho vua Nghiêu? Trong truyền sử thì là sự giảng giải quá trình khai thiên lập địa được “ghi chép” trong pho sách đá đó. Thế thì con rùa đá quan niệm như thế nào về thuở khai thiên lập địa? Chung qui lại, có thể là thế này:
Ban đầu chỉ là một bản thể. Bản thể đó cựa quậy mà sinh ra năm cái “một” liên kết với nhau, mà hợp thành và phân ra đực - cái, đêm - ngày… Những cái đó, từng cặp một lại nương tựa vào nhau, biến đổi nhau tạo nên hiện tượng lưỡng phân lưỡng hợp và nhờ vào lưỡng phân - lưỡng hợp mà sinh ra vạn vật.
Vạn vật thuở mới hình thành là vô cùng hỗn độn, lưỡng phân lưỡng hợp hòa lẫn đan xen vào nhau một cách lộn xộn, rối rắm, mù mịt. Lúc đó gọi là lúc đất trời chưa phân và được mô tả ở trang đầu tiên của quyển sách đá (hình Hà Đồ). Trong khối hỗn mang, lẫn lộn, không đầu không cuối ấy xuất hiện một năng lực vĩ đại gọi là “Ông Đùng” (chuyện “Thần Trụ Trời”). Ông Đùng đứng dậy, đầu đội trời, lấy đất đá đắp thành cái trụ chống trời. Từ đó trời đất được phân định thành trời tròn bao lấy đất vuông (được mô tả ở trang hai của cuốn sách đá: hình Lạc Thư). Trời đất phân đôi (lưỡng phân) nhưng không phân ly mà vẫn cần đến nhau nên lại kết hợp với nhau (lưỡng hợp) mà sinh ra vạn vật như: cây cối, muông thú, con người…
Trong thần thoại Trung Quốc có một câu chuyện về khai thiên lập địa rất giống với truyện “Thần Trụ Trời”. Ngoài ra còn có truyện “Nữ Oa vá trời” cũng hay, làm chúng ta mường tượng đến một thời biển dâng ở vùng Đông Nam Á. Có thể coi những chuyện đó là những khảo dị của chuyện "Thần Trụ Trời" (?). Dưới đây là tóm lược hai câu chuyện đó:
Ngày xửa ngày xưa, trời đất chưa phân, Vũ Trụ là một khối hỗn độn. Ông Bàn Cổ được thai nghén, lớn lên trong khối hỗn độn đó. Vì chưa có ánh sáng làm chói mắt, âm thanh làm kinh động nên ông Bàn Cổ ngủ mê man trong đó suốt 16 ngàn năm. Rồi ông thức giấc, mở mắt mà chẳng thấy gì, quờ quạng thì va chạm vào đủ thứ trong đó. Thế rồi, trong tối tăm mù mịt, ông vớ được cái rìu, liền vung lên bổ mấy nhát và nghe một tiếng “đùng” vang dội. Cái khối hỗn độn như một quả trứng khổng lồ đó rạn vỡ ra.
Bàn Cổ bỏ chiếc rìu ra, dùng hai tay của mình đẩy mạnh vỏ trứng khổng lồ lên, kèm theo tiếng thét kinh thiên động địa của ông. Tiếp theo tiếng thét ấy là dồn dập vang lên những tiếng “đùng đùng”, “đoàng đoàng” của sự nứt vỡ. Những gì nhẹ nhàng trong trẻo từ từ bay lên, dần biến thành trời xanh, những gì ngầu đục, nặng nề từ từ đọng xuống biến thành đất đai.
Bàn Cổ dùng hai tay nâng đỡ trời xanh suốt 18 ngàn năm liền, dần dần kiệt sức, ngã quỵ xuống. May mà đến lúc ấy, trời và đất đã trở nên rắn chắc, đã tượng hình ổn định và không thể hợp lại như trước được nữa.
Tuy vậy Bàn Cổ không chết. Đôi mắt to rực sáng của ông biến thành mặt trời và mặt trăng. Tay chân vạm vỡ của ông biến thành bốn cực đông, tây, nam, bắc. Thân ông biến thành núi non hùng vĩ. Máu huyết của ông biến thành đầm, hồ, sông, suối… Da lông của ông biến thành cỏ hoa cây cối. Gân mạch ông biến thành đường xá đan xen khắp muôn nơi. Răng xương của ông biến thành vàng bạc châu báu. Hơi thở của ông biến thành mây, gió. Tiếng nói của ông biến thành sấm sét ầm vang…
Mấy vạn năm sau khi ông Bàn Cổ ngã quỵ, có một nữ thần xinh đẹp tên là Nữ Oa, từ trời bay xuống. Bà phỏng theo hình dáng của mình, dùng bùn đất màu vàng nặn ra những con người bé tý. Những hình nhân bằng đất này sau khi được hít thở linh khí thì biến thành người thật. Rồi bà Nữ Oa lại dạy cho con người hôn phối để sinh sôi nảy nở. Chính vào lúc loài người đang sinh sống một cách an lạc, sung sướng và vui vẻ thì nổ ra cuộc đại chiến giữa thần Nước và thần Lửa. Trong khi đánh nhau, thần Nước làm sạt gãy núi Bất Chu, là trụ chống trời ở mé tây bắc, làm cho bầu trời ở đó bị sập xuống. Trong phút chốc, sông trời ở đó nghiêng đổ nước ầm ầm, làm nên một Đại hồng thủy. Đại hồng thủy nhấn chìm vạn vật, kể cả núi non. Đất đai rung giật chao đảo, nham thạch sôi sục cuộn trào ra, khói lửa mịt mùng. Loài người và muông thú lớp chết đuối, lớp chết thiêu nhiều vô kể…
Bà Nữ Oa thấy cảnh loài người và muông thú gặp phải đại họa khủng khiếp ấy thì giật mình kinh sợ. Bà phát hiện ra đại họa xảy ra là do trời bị sụt một mảng lớn. Để cứu giúp loài người và muông thú, bà đã quyết ra tay vá trời.
Bà đến núi Bất Chu xem xét rồi quyết định tìm đá ngũ sắc để vá. Không ngại gian lao vất vả, bà Nữ Oa nhổ lau sậy, bó thành từng bó lớn, chất đống cao dần dần đến tận trời, rồi gom nhặt đá cuội từ đáy sông, đáy biển chất đè lên trên lau sậy, bắt đầu nhóm lửa. Lửa cháy rừng rực, sau chín ngày chín đêm, đá nóng chảy ra. Bà bất chấp nóng bỏng, mang nước nham thạch đang sôi sùng sục, tưới lên lỗ thủng trên trời ở phía tây bắc…
Cuối cùng, bà Nữ Oa đã xong việc, đá cuội năm màu biến thành màu ráng chiều và bầu trời ở đó trở nên có phần thơ mộng. Thế nhưng núi đã gãy, không có trụ chống trời. Đương khi bà lo lắng bồn chồn thì có một con rùa biển ngàn năm tuổi cắn đứt chân mình dâng lên. Bà Nữ Oa dùng chúng để kê ở bốn cực của trái đất. Nhưng vì bốn chân khi cắn đứt dài ngắn không bằng nhau cho nên bầu trời hơi nghiêng theo chiều từ đông – nam đến tây - bắc, làm cho mặt trời, mặt trăng và các sao trời đều trượt về phía tây - bắc…
Câu chuyện về Bàn Cổ - Nữ Oa nghe cũng lý thú đấy chứ! Trong đó lại hiện lên con số 5 huyền bí (ngũ sắc) và con rùa thần ngàn tuổi “đội trời đạp đất” làm nên cuốn sách đá của người Lạc Việt và sau này ở lại vĩnh viễn trong linh hồn dân tộc Việt với tên gọi là Thần Kim Quy. Đặc biệt, câu chuyện như là một sự miêu tả của một người đã chứng kiến một cuộc tàn phá và kiến tạo vĩ đại của thiên nhiên: núi lửa phun trào mãnh liệt, động đất rất mạnh trên diện rộng, kèm theo hiện tượng lún sụt của một khu vực lớn và sóng thần, biển dâng gây nên nạn đại hồng thủy. Phải chăng đó cũng chính là nạn Đại Hồng Thủy, thiên tai khủng khiếp đã từng xảy ra với loài người?
Hầu như ở các dân tộc trên khắp thế giới đều lưu truyền câu chuyện thần thoại về một trận đại hồng thủy. Những đại hồng thủy đó có liên quan gì đến truyện chuyện “Thần Trụ Trời”, hay truyện “Nữ Oa vá trời” không?   Có thể đó là những cách kể khác nhau về một đại hồng thủy duy nhất, xảy ra cách nay ngót nghét 8, 9 ngàn năm, thậm chí là 18 ngàn năm hoặc lâu hơn nữa tại vùng Đông Nam Châu Á?
Nói đến Đại Hồng Thủy thì lại nhớ ngay đến con thuyền cứu nạn Nôyê và hơn thế nữa phải nói về lục địa Atlantis và nơi gọi là Đại Lục Mẫu. Theo truyền thuyết thì Đại Lục Mẫu và Atlantis là hai nền văn minh rực rỡ, xuất hiện trước cả các nền văn minh cổ đại như Ai Cập, Lưỡng Hà, Ấn Độ, Trung Quốc…
Chúng ta cho rằng sự ra đời của văn minh (nền văn hóa nổi bật trên nền tảng văn hóa đương thời nói chung của loài người) không thể là cùng một lúc xảy ra ở các khu vực trên trái đất được mà phải có một nền văn minh duy nhất, mang tính tiên phong làm tiền đề.
Một cách cảm tính (ai mà không có tình yêu quê hương xứ sở?), chúng ta tin vào ý kiến của một số nhà khảo cổ, cho rằng Đông Nam Á là cái nôi của nền văn minh nhân loại. Như thế thì truyền thuyết về Đại Lục Mẫu và Atlantis có liên quan gì đến nền văn minh cổ đại đã từng hiện hữu ở khu vực này không? Có thể nào Đại Lục Mẫu cũng là Atlantis và cũng là nền văn minh Đông Nam Á (tưởng như) đã biến mất đột ngột bởi nạn Đại Hồng Thủy? Hay nền văn minh Đông Nam Á được giới khảo cổ phát hiện, chỉ là tàn dư còn “sót” lại của một nền văn minh đích thực ở một vùng nào đó đã từng hiện diện đâu đó trong vùng Đông Nam Á, cụ thể là ở Biển Đông?
Đó là những câu nghi vấn mà nếu không phải là do chính chúng ta đặt ra thì chúng ta sẽ phải đi đến kết luận rằng quá ngông cuồng hoặc hoàn toàn điên rồ. 
(Hết Chương XIX)
----------------------------------------------------

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét