Thứ Năm, 8 tháng 10, 2020

TT & HĐ II - 19/e

                                              HÒA BÌNH - GÓC NHÌN ĐỊA VĂN HÓA

                                                CHUYỆN KỂ BÊN LŨY TRE XANH 

PHẦN II:     Nền tảng


" Triết học bắt đầu từ sự ngạc nhiên"
Arixtốt

“Chúng ta có thể mường tượng thế giới của thực tại như là một dòng nước ngầm; thế giới hiện tượng thì ở bề mặt; bên dưới nó chúng ta không nhìn thấy được. Các sự kiện ở tận đáy của dòng nước gây ra bọt và những xoáy nước ở bề mặt. Đó là những chuyển động bức xạ và năng lượng của cuộc sống chung của chúng ta, nó tác động tới các giác quan và do đó, kích thích trí óc chúng ta; ở bên dưới, dòng nước ngầm vẫn chảy”
(Sir James Jeans.)
 
“Triết học chân chính chỉ là triết học truyền đạt chính xác nhất tiếng nói của bản thân thế giới và được viết dưới những sự chỉ dẫn của thế giới” 
(Ph.Bêcơn)

“Tất cả mọi khoa học cần thiết hơn triết học, nhưng không một khoa học nào tốt hơn nó” 
(Arixtốt)

CHƯƠNG VIII: THẮT NÚT


Tri thức đạt được qua học hỏi; sự tin tưởng đạt được qua nghi ngờ; kỹ năng đạt được qua rèn luyện; tình yêu thương đạt được qua yêu thương.
Thomas Szasz
 
Thơ ca là tri thức đầu tiên và cuối cùng – nó bất diệt như trái tim con người.
William Wordsworth
 
Giữa sự sai lầm và sự thực vô dụng không có nhiều khác biệt. Cũng giống như vàng không thể dùng sẽ chẳng khiến ai giàu có, kiến thức không thể áp dụng sẽ chẳng khiến ai thông thái hơn.
Samuel Johnson
 
Khoa học cho chúng ta tri thức, nhưng chỉ triết học mới có thể cho chúng ta sự thông thái.
Will Durant 
 
Danh vọng và tài sản có thể rơi xuống từ bầu trời, và sự giàu sang có thể tự tìm đến chúng ta, nhưng ta phải tự đi tìm sự hiểu biết.
Edward Young
 
Dấu hiệu thật sự của trí tuệ không phải là kiến thức mà là trí tưởng tượng.
Albert Einstein 
 
Sự ngu dốt là lời nguyền rủa của Chúa trời; tri thức là đôi cánh đưa ta bay tới thiên đường.
William Shakespeare 
 
Tôi là người thông thái nhất trên đời, vì tôi biết một điều, rằng tôi chẳng biết gì cả.
Plato 
 
Đức hạnh là thiên thần, nhưng cũng là một thiên thần mù lòa, và phải nhờ tri thức dẫn đường tới mục tiêu của mình.
Horace Mann 
 
Ngày nào mà bạn không bổ sung cho vốn hiểu biết của bạn dù chỉ một mẩu kiến thức nhỏ nhưng mới mẻ đối với bạn… thì bạn hãy coi đó là một ngày mất đi vô ích, không thể lấy lại được nữa.
Khuyết danh 
 
“Nhìn thế giới trong một hạt cát
Và bầu trời trong cánh hoa rơi
Giữ vô thường trong lòng bàn tay
Và vĩnh cửu trong một giờ ngắn ngủi”.
William. Blake
 
 

 

(Tiếp theo)

***
Câu chuyện mà chúng ta sắp kể là của Quách Vĩnh Kiệt (tác giả). Chúng ta nghe được từ Hà Sơn - Đại An (dịch giả) trong một lần tốn tiền mua cuốn “Bí ẩn về lịch sử nhân loại” (NXB Hà Nội, 2004).
Câu chuyện thế này:
“Năm 1957, khi khám phá ra một vùng đất mà ngày nay là bờ biển phía nam Êcuado, các nhà thám hiểm Tây Ban Nha phát hiện ra đất nước của người Inca (một nước cổ đại ở Pêru), vùng giáp giới phía bắc giữa Êcuado và Côlômbia. Người ở vị trí cao nhất của đất nước này là Thần Mặt Trời. Các nơi đều có đường và hệ thống kênh tưới nước, dân số đông, chia làm nhiều bộ tộc. Trong nước có rất nhiều hoạt động, do một số cơ quan hành chính phụ trách. Thành phố Kuse là thủ đô. Người Tây Ban Nha được chứng kiến những công trình kiến trúc của người Inca không thua kém những công trình đẹp nhất của châu Âu. Nhưng điều khiến cho những người Tây Ban Nha ngạc nhiên là, người Inca không biết đọc, cũng chẳng biết viết. Họ không có chữ viết lại không có sách nào có hệ thống chữ số, thậm chí chữ tượng hình cũng không có.
Sau một thời gian tìm hiểu, những nhà thám hiểm Tây Ban Nha phát hiện ra vị Hoàng đế Inca đã có tất cả mọi tài liệu trong tay. Nếu như nhà vua cần quan tâm đến thân phận và tuổi tác của mỗi thần dân, việc cung cấp lương thực, địa điểm và các hạng mục đóng quân của quân đội, tài sản vàng bạc và các hạng mục khác, hay sự thực lịch sử và pháp luật gần đây như thế nào thì người ta đã có đầy đủ mọi thông tin. Không có chữ viết, hơn thế nữa, trên cả nước từ trước đến nay xảy ra rất nhiều sự việc phức tạp, làm thế nào có thể biên soạn và ghi lại được? Những sự việc này đều dùng phương pháp bện thừng để ghi lại vô cùng chính xác. Có người sau khi hiểu được sự việc kỳ lạ này đã ghi lại như sau: “Thậm chí ngay cả một đôi giày, họ cũng không thể bỏ quên”.
Người Inca hoàn toàn dựa vào chữ viết nút dây thừng. Mỗi dây thừng dài ít nhất 30cm, buộc lại thành đoạn dài ngắn, màu sắc khác nhau. Trên dây thừng lại có liên hệ với các đoạn dây khác. Người Inca sử dụng những sợi dây thừng lớn nhỏ khác nhau, hợp lại thành dây có đủ màu sắc. Như vậy, có thể ghi lại chính xác, tỉ mỉ những sự việc phức tạp đa dạng mà không mắc sai sót.
Người Inca có thể tính được thu hoạch mùa màng cuối năm, thống kê được lượng lông cừu cho đến quân bị sản xuất mỗi năm của các nơi trên cả nước, hoàn toàn dựa vào cách ghi lại bằng số dây thừng.
Nói như vậy, người Inca có thư viện dây thừng. Hơn nữa, họ còn phải bổ nhiệm người chuyên trách quản lý. Vì tính năng đặc biệt của những sợi dây thừng mà cần phải có người bảo quản, và nó được rất nhiều người tôn trọng. Nhà nước quân chủ cũng miễn cho họ nghĩa vụ, không phải nộp thuế và đi quân dịch như những người khác. Những người đàn ông của xã hội thượng lưu Inca được giáo dục làm thế nào để đọc và viết được thứ chữ viết ràng buộc đó. Mỗi thôn xóm có ít nhất ba người được chọn làm nhân viên quản lý việc bện thừng, họ thường ghi lại như vậy để trao đổi kinh nghiệm, bảo đảm chắc chắn những sự việc sẽ được ghi lại theo đúng qui định. Những người này có nhiệm vụ: một người chuyên ghi lại vụ thu hoạch hạt ngũ cốc, một người khác chuyên thống kê số dân, người thứ ba quản lý các thiết bị quân đội. Cách ghi kiểu bện thừng còn ghi được cả những sự việc không liên quan đến con số, số lượng như những việc về quản lý các mặt trong cuộc sống sinh hoạt của người dân. Đối với việc ghi lại những hạng mục khó khăn hơn như lịch sử, truyền thuyết hay pháp luật, cần đến những người có trí nhớ cực tốt mới có thể đảm nhận được. Đề cương khái quát của những việc này hoàn toàn áp dụng phương thức truyền miệng qua các thế hệ, nhưng những tình tiết có liên quan lại phải dựa vào bện thừng để bổ sung thiếu sót. Dùng những cách bện khác nhau, màu sắc và vị trí khác nhau, còn có thể ghi lại chi tiết về thời gian, địa điểm… đã xảy ra sự kiện.
Tháng 5 năm 1532, một đội quân xâm lược Tây Ban Nha đã đổ bộ vào Inca. Quân do thám Inca đã dùng chữ viết nút dây thừng để báo cho vua biết. Hoàng đế vừa nhìn thấy dây thừng đã biết tổng cộng quân xâm lược có bao nhiêu người, mang theo vũ khí gì. Sự thất bại của quân đội Inca không phải vì họ không có tinh thần chiến đấu, mà vì một lý do kỳ lạ. Người Inca chưa bao giờ nhìn thấy ngựa, cho rằng ngựa chỉ là một loài quái vật. Vì vậy quân Tây Ban Nha cưỡi ngựa xông vào đội quân Inca như vào chỗ không người.
Sau khi người Tây Ban Nha chinh phục, đế quốc Inca, đã đưa chữ viết của họ vào. Vì vậy, một phần lớn chữ viết nút dây thừng đã bị chôn vùi. Người chủ mới của mảnh đất này do không muốn tìm hiểu bí mật của những sợi dây thừng nên tất cả những tài liệu có liên quan đến đế quốc Inca và người Inca đã hoàn toàn không còn nữa. Ngày nay, cách ghi chép bằng nút dây thừng mà chúng ta nhìn thấy, phần lớn đều được sưu tầm lại trong viện bảo tàng. Tuy nhiên, khắp nơi trên đất nước Êcuado, Pêru và Bôlivia ngày nay, đây đó vẫn còn có người ghi chép bằng chữ viết dây thừng thắt nút thời cổ. Chẳng hạn, con cháu người Inca cổ đến bây giờ vẫn dùng cách thắt nút và tháo nút sợi thừng để tính số cừu.
Những người dân Inca thời kỳ đầu ở phía đông - tây của dãy núi Andes của nước Pêru ngày nay, chủ yếu là làm nông nghiệp. Lãnh thổ ban đầu của họ chỉ trong phạm vi vùng núi Kusec. Đến thế kỷ XIII và XIV, trải qua chiến tranh lâu dài, người Inca dần dần mở rộng lãnh thổ, nhưng phải đến thế kỷ XV, nhờ tài mưu lược của vua Topa, người Inca mới trở thành dân tộc có thế lực mạnh nhất vùng núi Andes. Từ năm 1439 đến năm 1489, diện tích lãnh thổ Inca đã mở rộng tới 70 vạn km2, bao gồm: núi, cao nguyên, đồng bằng, duyên hải, rừng và hoang mạc. Đất nước Inca có hơn 100 bộ tộc, tổng cộng có 20 loại ngôn ngữ.
Sự tồn tại của đế chế Inca cũng chẳng được bao lâu. Năm 1532, đất nước Inca bị quân xâm lược Tây Ban Nha chiếm đóng. Cuộc sống của những người Inca bị mất tự do, chịu cảnh nô lệ. Họ làm việc cho những ông chủ người Tây Ban Nha ở những đồn điền, trang trại rộng lớn, ở những mỏ vàng. Sự thống trị của người Tây Ban Nha, cùng với sự phát triển của văn hóa ngoại lai đã làm cho văn hóa và nhất là chữ viết buộc nút dây thừng của người Inca lu mờ dần và đi vào quên lãng. Thứ chữ viết kỳ lạ, có một không hai đó đã trở thành một bí ẩn mà các nhà nghiên cứu ngày nay không thể nào giải thích được.”
Qua câu chuyện vừa kể chúng ta có cảm giác gì không?
Trước khi có chữ viết dây thừng thắt nút phải có “chữ cái” là dây thừng thắt nút, trước khi có dây thừng thắt nút phải có dây thừng, trước khi có dây thừng phải có dây được con người làm ra nhưng không phải được bện như dây thừng, trước khi có dây đó phải có dây được “tước” ra từ thiên nhiên, trước khi “tước” dây từ thiên nhiên, con người phải có “ý đồ” thắt nút. Ý đồ thắt nút nảy sinh do đâu nếu không phải là tìm cách biểu thị những vạch vẽ, những viên sỏi đá, những ngón tay hoặc những đốt tay để lưu nhớ sự đếm, những số lượng đã đếm cũng như để “tính toán”, định lượng? Chúng ta đã phỏng đoán rằng, chính người Việt tối cổ là người đầu tiên đã sáng tạo ra dây thắt nút và dây thắt nút đã trở thành "chữ viết" đầu tiên của người Việt tối cổ, thậm chí, của cả nhân loại! Nếu  dây thắt nút làm nên nền văn hóa đầu tiên của nền văn minh nông nghiệp nguyên thủy lúa nước Việt cổ, thì phải chăng người Việt tối cổ không những là thủy tổ của dân tộc Hoa Hạ, mà còn là thủy tổ của người Inca!?
Để có ý đồ đó, con người không phải tự dưng nảy ra biểu tượng từ hư vô mà phải từ sự quan sát thiên nhiên và tìm cách bắt chước hình mẫu có sẵn trong thiên nhiên. Loài người có thể sáng tạo ra bất cứ thứ gì, kể cả hư vô, nhưng buộc phải trên cơ sở của tồn tại, từ tồn tại và luôn thuộc về tồn tại. Dù sau này sự thông tin liên lạc của con người có được sáng tạo ra đạt đến mức tối ưu mấy đi chăng nữa thì cũng đến độ “thần giao cách cảm” là cùng và vẫn không thể nào “thoát” được nguyên lý tác động - phản ứng. Dù con người có thiền tu đến trạng thái cao cả mấy đi chăng nữa thì cũng chỉ đạt đến trạng thái gọi là linh giác (còn muốn có được linh tri thì trước khi tu phải có sẵn một kiến thức thượng thừa!) mà đôi khi, thi thoảng người thường cũng có, nhưng không bao giờ có thể vượt thoát được khái niệm. Muốn vượt thoát khái niệm, con người phải ngất, ngủ say hoặc chết đi, tạm thời hoặc vĩnh viễn không làm người (thức) nữa. Con người khi vượt thoát khỏi khái niệm thì đồng thời chết ngộp ngay trong vô thức, thứ mà ở thế giới loài vật nhiều không kể xiết! Khi đã chết ngộp trong vô thức rồi, thì lấy đâu ra "tỉnh" nữa mà nhận thức thế giới.
Vậy thì cái hình mẫu trong thiên nhiên của sợi dây thắt nút là cái gì, ở đâu? Sự giả định dây thắt nút ra đời tại khu vực Đông Nam Á vào thời tối cổ đã đưa linh hồn chúng ta về nền nông nghiệp thuộc hàng sớm nhất của thế giới, nền nông nghiệp nguyên thủy lúa nước Hòa Bình. Thiên nhiên thời tối cổ ở đó có những gì? Có đất, trời, núi, rừng, sông, biển. Hẳn rồi, nhưng ở đâu mà chả có những thứ ấy. Có chim muông, thú rừng, tôm cá, con người. Cũng thế thôi! Có làng xóm, ruộng đồng… A! Hay là cây lúa nước? Hình dáng cây lúa nước may ra chỉ gợi nên được sự thướt tha, dịu dàng của người… con gái thôi! Hay là con trăn, con rắn? Đuồn đuỗn như thế thì chỉ gợi ra được sợi dây chứ không phải là dây đã thắt nút. Đúng rồi, cây mía chứ gì? Rất có thể là “nó” đấy, nhưng ngờ rằng thời đó chưa ai biết cây mía vì chưa biết “nhai” mía là ngọt… Thôi rồi, “nó” đây rồi! Thật là có mắt như mù! Cái hình mẫu trong thiên nhiên làm xuất hiện ý đồ để tạo ra dây thắt nút đó là cái vô cùng gần gũi, vô cùng tầm thường và hoàn toàn “dân dã”. Ở đồng bằng Bắc Bộ có làng xóm nào mà vắng bóng cây tre không? Vâng, đúng là thân cây tre với những đốt của nó đã là xuất phát điểm cho việc dùng dây thắt nút (mía phải chăng là hậu duệ đã thoái hóa hoặc đúng hơn là đã tiến hóa thích nghi theo hướng khác của tre?) và của cả nền văn hóa thắt nút!
Chỉ cách đây không lâu thôi, thậm chí là ngay lúc này, ở Việt Nam, nói đến nền nông nghiệp, nói đến xóm làng, nói đến đời sống nông thôn mà thiếu mất hình bóng cây tre, lũy tre thì chẳng hiểu sẽ ra “cái giống gì”. Không thể hình dung nổi làng quê Việt Nam mà thiếu cây tre, cây trúc. Nếu có thể lấy chữ S làm biểu tượng của đất nước Việt Nam và hình chữ S ấy chính là đường phân định lưỡng nghi của một thái cực là Đông Dương thì cũng có thể lấy cây tre làm biểu tượng của dân tộc Việt Nam: xuề xòa, dễ dãi, dẻo dai chịu đựng mà cũng đanh chắc thành đồng. Ngày xưa, đời sống nông thôn Việt Nam chủ yếu dựa vào tre nứa. Từ cái rổ cái rá, nong, nia, bồ, sọt… đến giường, chõng, nhà cửa… đều hầu như làm bằng tre nứa. Hỗ trợ đắc lực cho việc săn bắt, hái lượm, chăn nuôi là những thứ như bẫy, lờ, hom, chụp, te, vó… hay cây khoèo, cái thang, phên, liếp, lồng, bu, chuồng… và những thứ đó đa số đều bằng tre nứa. Thời chưa có điện, mùa hè oi bức mà không có cái quạt nan thì “oải” vô cùng. Sản xuất nông nghiệp mới cách đây chừng 50 năm thôi mà thiếu những thuyền thúng, thuyền nan, “cầu tre lắt lẻo” và nhất là những gàu sòng, gàu dai, quang gánh, thúng mủng… thì không biết là ra “hồn vía, ngô khoai, cơm cháo” gì? Tất cả chúng đều từ tre nứa mà ra cả. Thậm chí đến cái dùng để buộc (lạt) cũng được “chẻ” từ đó ra. Chúng ta là thế hệ còn may mắn được có một tuổi thơ mê mẩn với cần câu trúc, cây sáo trúc và cánh diều… Thế hệ mai sau có lẽ cũng đôi khi còn “táy máy” những thứ ấy nhưng không phải giữa đất trời miền quê lồng lộng mà trên… máy vi tính.
Tre gắn liền với đời sống trong hòa bình và khi có giặc ngoại xâm, tre cũng “kề vai sát cánh” với cả dân tộc vùng lên chiến đấu. Nhờ có lũy tre mà mỗi làng mỗi xóm trở thành chiến lũy kiên cố. Phù Đổng Thiên Vương đã dùng tre làm vũ khí để đánh tan giặc Ân. Tầm vông vạt nhọn đã đối đầu với súng ngắn, súng dài, súng to, súng nhỏ của thực dân Pháp trong thời kỳ đầu Nam Bộ kháng chiến. Tre đã thành hầm chông, bẫy lao giết giặc trong đấu tranh chống đế quốc Mỹ.
Cây tre còn đi vào Cổ tích Việt Nam với câu chuyện “Cây tre trăm đốt” có câu thần chú “Khắc nhập, khắc xuất” đến là lạ kỳ.
Người Việt Nam có một tập tục tuyệt vời là thờ cúng ông bà, tổ tiên, tưởng nhớ công lao của quá khứ. Chúng ta một khi còn cầm đôi đũa để ăn cơm thì còn phải biết nhớ về công lao to lớn của cây lúa nước và tre nứa (măng, vầu, trúc, vông…).
Đôi đũa ơi, bạn ra đời từ ý tưởng nào mà cứ khơi gợi về một thời quan niệm lưỡng phân lưỡng hợp để từ đó mà có khái niệm âm dương, lưỡng nghi?
(Còn tiếp)
--------------------------------------------------------------

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét