TT&HĐ III - 32/b
CHƯƠNG XI (XXXII): ANH HÙNG
Đọc thêm tại: http://www.tudiendanhngon.vn/tabid/87/strcats/111/sw/a/charmode/true/default.aspx © TuDienDanhNgon.vn
Đọc thêm tại: http://www.tudiendanhngon.vn/tabid/87/strcats/111/sw/a/charmode/true/default.aspx © TuDienDanhNgon.vn
-Albert Einstein
"Lòng yêu nước và sự đoàn kết của nhân dân là một lực lượng vô cùng to lớn, không ai thắng nổi. Nhờ lực lượng ấy mà tổ tiên ta đã đánh thắng quân Nguyên, quân Minh, đã giữ vững quyền tự do, tự chủ. Nhờ lực lượng ấy mà chúng ta làm cách mạng thành công giành được độc lập. Nhờ lực lượng ấy mà sức kháng chiến của ta càng ngày càng mạnh. Nhờ lực lượng ấy mà quân và dân ta quyết chịu đựng muôn nỗi khó khăn, thiếu thốn, đói khổ, tang tóc, quyết một lòng đánh tan quân giặc cướp nước."
Hồ Chí Minh
"Thà làm dân một nước độc lập còn hơn làm vua một nước nô lệ"
Phạm Khắc Hòe
(Tiếp theo)
Chính phủ Trần Trọng Kim thực tế vẫn nằm dưới sự bảo hộ của quân đội
Nhật chiếm đóng Đông Dương. Nhật Bản đưa ra chính sách Đại Đông Á,
tuyên bố "giúp các dân tộc da vàng đánh đổ ách thống trị của thực dân
da trắng để lập nên khu vực thịnh vượng chung", nhưng thực ra đó chỉ là
một tên gọi cho ách chiếm đóng mới của quân phiệt Nhật. Vai trò của
Nhật, theo kế hoạch của người Nhật, không chỉ giới hạn trong lĩnh vực
kinh tế, mà còn bảo vệ quân sự và dẫn dắt chính sách nội bộ của các nước
trong khối, miền Nam Châu Á sẽ trở thành thị trường và nơi cung cấp
nguyên liệu.
Vì vậy nhiều người cho rằng đây chỉ là một chính phủ
bù nhìn thân Nhật, không có thực quyền và không có được sự ủng hộ của
dân chúng. Nó được xếp chung với các chính phủ bù nhìn do Nhật thành lập
tại các nước bị họ chiếm đóng trong thế chiến thứ 2 như Mãn Châu quốc,
Chính phủ Uông Tinh Vệ, Mông Cương, Đệ nhị Cộng hòa Philipine...
Cùng với sự bại trận của Nhật Bản trong thế chiến, tất cả các chính phủ
này đều tự sụp đổ hoặc bị Đồng Minh giải thể trong năm 1945, dù cho
Cách mạng tháng Tám không nổ ra thì chính phủ này cũng sẽ bị giải thể
khi quân Đồng Minh (Anh và Pháp) tới Việt Nam vào tháng 9/1945.
Việc Nhật chiếm đóng vào thời điểm 1945 đã gây ra những hậu quả tai hại cho Việt Nam như nạn đói năm Ất Dậu. Vấn đề cấp thiết nhất khi đó là việc cứu đói, nhưng chính phủ Trần Trọng Kim đã không làm được điều mình hứa hẹn, chính phủ này không có phương tiện, nhân lực đều do quân Nhật nắm, giao thông đường bộ, đường sắt, đường biển từ Nam ra Bắc thì bị quân Đồng minh cắt đứt nên không thể làm làm tình hình được cải thiện. Nạn đói năm Ất Dậu đã khiến gần 2 triệu người dân Việt Nam (chủ yếu ở miền Bắc) chết đói. Báo Ngày Nay xuất bản tháng 6/1945 nhận xét về sự bất lực hoàn toàn của chính phủ này, viết:
- “Chúng tôi nhận thấy ai ai cũng thất vọng và chán nản, vì sau hai tháng hô hào và tốn bao giấy mực, dân đói miền Bắc cũng chưa thấy một bao gạo nào ở Nam đưa ra. Lời tuyên bố của thủ tướng còn vang vọng bên tai ta: “Cần nhất là phải tiếp tế cho dân đói miền Bắc” mà tới nay việc làm vẫn chưa đi theo lời nói; tuy rằng gạo miền Nam vẫn chất đầy trong các kho, các nhà máy, tuy rằng giấy bạc vẫn nằm từng xấp dày trong các két sắt của nhà tư sản Việt Nam, tuy rằng nội các vẫn có một bộ tiếp tế và một bộ tài chính"
“ | Lẽ dĩ nhiên, nguyên nhân trận chết đói năm 1945 chủ yếu không phải là do chính phủ Trần Trọng Kim mà là do chế độ thực dân, là chính sách tàn bạo của Pháp – Nhật. Sự bất lực của chính phủ Trần Trọng Kim phần lớn là do tính chất bù nhìn của nó. Nó không thể bớt chỗ nào thừa cho chỗ không có. Nó không thể chống nạn đầu cơ ở miền Bắc lúc ấy vẫn còn gạo trong các kho của quân phiệt Nhật. Nhật tích trữ lương thực để nuôi quân. Từ 9-3 đến giữa tháng 6, việc thu thóc tạ vẫn được thi hành trong lúc hàng chục vạn đồng bào ta chết rũ dọc đường xó chợ. Chính phủ Trần Trọng Kim đâu dám đụng đến việc thu thóc tạ, càng không dám đụng đến kho thóc. Chính phủ đã cam đoan với Nhật là tiếp tế cho Nhật bằng hoặc hơn Pháp, để xứng đáng với cái "độc lập" mà Nhật ban cho! Cả chính phủ Trần Trọng Kim và Nhật đều bắt buộc mọi sự vận chuyển thóc gạo từ Nam ra Bắc đều phải qua “Ủy ban thóc gạo” ở Sài Gòn mà ủy ban này do công ty Nhật nắm. Khi tải ra đến Bắc thì phải gom gạo cho công ty thóc gạo Bắc kỳ 75% số lượng, công ty này lo bảo đảm trước hết lương thực cho quân Nhật, còn lại mới bán cho dân | ” |
Hiệu kỳ của Quốc trưởng Bảo Đại.
Trong
khi Bộ Tiếp tế chỉ làm được vài việc vặt, thì Bộ Tài chính của Đế quốc
Việt Nam
chỉ chuyên làm một việc là gom tiền thuế của dân giao cho Nhật. Chỉ
riêng trong 5 tháng tồn tại, Chính phủ Trần Trọng Kim đã nộp cho Nhật
Bản khoản tiền 720 triệu đồng Đông Dương (Piastre), ngang với số tiền
726 triệu do chính quyền thực dân Pháp nộp cho Nhật Bản trong 5 năm
trước đó (từ 1940 tới 9/3/1945). Tổng cộng trong thời gian Thế chiến thứ
hai, người Việt Nam đã phải nộp cho Nhật khoản tiền là 1 tỷ 446 triệu
Piastre, tương đương 14 tỷ 460 triệu Franc lúc đó.
Khi quân Nhật
thất trận sắp đầu hàng Đồng Minh, chính phủ Trần Trọng Kim cũng chỉ tồn
tại được đến ngày 23 tháng 8 năm 1945 thì sụp đổ.
Con người, bất kể tốt xấu, khi tự do hành động đều vì mục đích danh lợi, và điều đó có tính nguyên tắc. Ngày nay nhìn lại, thật là kỳ quặc khi thấy một nước phát xít đi xâm lược lại nhủ lòng thương, trao trả độc lập thật sự cho nhân dân nước bị xâm lược. Chỉ có thể đó là hành động mỵ dân. Như vậy, chính phủ Trần Trọng Kim, không thể khác, phải là chính phủ bù nhìn và Trần Trọng Kim là một con người ngây thơ hoặc thiển cận về chính trị!
Chính phủ Trần
Trọng Kim không có quân đội để tránh phải tham gia chiến tranh thế giới
thứ II với tư cách đồng minh của Nhật Bản. Bộ trưởng Bộ thanh niên Phan
Anh đã thành lập đoàn Thanh niên Tiền tuyến, Thanh niên Xã hội để thực
hiện công tác trị an, bảo vệ. Tuy nhiên khi Cách mạng Tháng Tám nổ ra,
lực lượng Thanh niên Tiền tuyến đã rời bỏ hàng ngũ Đế quốc Việt Nam để
quay sang ủng hộ lực lượng Việt Minh. Trường Thanh niên tiền tuyến đã
đào tạo ra nhiều tướng lĩnh, sĩ quan của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa sau
này.
Mới ra mắt được 4 tháng, ngày 5/8/1945, hàng loạt thành viên nội các
Trần Trọng Kim xin từ chức: 3 bộ trưởng xin từ nhiệm, Bộ trưởng Vũ Ngọc Anh
qua đời vì trúng bom máy bay Mỹ. Các bộ trưởng khác tuyên bố bản thân
họ cũng bất lực, bởi không thể làm được việc gì nếu không được cố vấn
tối cao Nhật đồng ý, trong khi vua Bảo Đại chỉ lo ăn chơi, săn bắn mà
không quan tâm đến chính trị. Trần Trọng Kim cố gắng liên hệ nhưng các
nhân vật cấp tiến đều khước từ cộng tác, đến đầu tháng 8 thì chính Trần
Trọng Kim cũng nản lòng. Ông nói mình bị "tăng huyết áp" và không ra
khỏi nhà.
Trong hồi ký của mình, Trần Trọng Kim viết về giai đoạn làm chính trị dưới sự khống chế của Nhật Bản:
“ | "Nhật Bản trước vốn là một nước đồng văn đồng hóa ở Á Đông, nhưng về sau đã theo Âu hóa, dùng những phương pháp quỷ quyệt để mở rộng chủ nghĩa đế quốc của họ, trước đã thôn tính Cao Ly và Mãn Châu, sau lại muốn xâm lược nước Tàu và các nước khác ở Á Đông đã bị người Âu châu chiếm giữ. Người Nhật tuy dùng khẩu hiệu "đồng minh cộng nhục" và lấy danh nghĩa "giải phóng các dân tộc bị hà hiếp" nhưng thâm ý là muốn thu hết quyền lợi về mình". |
Tháng 6-1946, khi quân Quốc dân đảng Trung Quốc phải rút về nước, ông sang Trung Quốc tìm gặp cựu hoàng Bảo Đại đang ở Hồng Kông. Ông cùng Bảo Đại bàn mưu tính kế khôi phục lại ngôi báu nhà Nguyễn, có cả Cousseau, chỉ huy mật thám Pháp tham dự.
Sau nhiều năm tháng ở Quảng Châu và Hồng Kông, ngày 6 tháng 2 năm 1947, ông trở về Sài Gòn và sống tại nhà luật sư Trịnh Đình Thảo.
Ngày nay vẫn nhiều người còn mơ hồ, bị hiểu xuyên tạc về giai đoạn lịch sử giành độc lập đầy tự hào và cũng có phần may mắn của dân tộc Việt, nên cần nói thêm cho rõ về âm mưu thâm độc phát xít Nhật và chính phủ danh nghĩa, bù nhìn Trấn Trọng Kim.
Việt Nam chờ lời xin lỗi từ Nhật Bản vì 2 triệu người chết đói
Yếu tồ bất ngờ được Nhật khai thác đến triệt để trong sự kiện ngày 9/3/1945. Cuộc chính biến xảy ra trên toàn cõi Đông Dương vào cùng một ngày, một giờ gần như thống nhất. Quan lính Pháp qua 5 năm sống yên phận chờ thời, dù thấy sự nghi ngờ cũng dễ bỏ qua, giờ vỡ ra thì không kịp trở tay. Mở đầu vào đêm 9/3 bằng những “bữa tiệc máu” và kết thúc lúc sáng hôm sau bằng những cuộc chém giết như thời trung cổ. Khi tiếng súng lệnh nổ thì những tên lính cải trang mà dân chúng ở các thành phố Hải Phòng, Hà Nội, Đà Nẵng, Huế, Sài gòn... đã quen mặt, hàng ngày tỏ ra lịch thiệp, dễ dãi, bỗng khoác quân phục vào và trở thành những con quỷ dữ khát máu, giết người không gớm tay. Riêng đối với các binh sỹ người Việt Nam thì được đối xử tử tế vì là đồng thanh, đồng chủng, cùng trong Khối thịnh vượng chung. Chỉ trong một đêm, trên toàn cõi Đông dương đã có 2.650 binh sỹ và sỹ quan da trắng bị giết. Trong đó phải kể đến: 1 tướng, 9 đại tá, 20 thiếu tá, 60 đại úy, 91 trung úy, 9 bác sỹ và một thú y bác sỹ. (BS Ngô Văn Quỹ - sđd).
Các binh sĩ Lục quân Đế quốc Nhật Bản tiến tới Lạng Sơn, vào tháng 9 năm 1940 tại Đông Dương thuộc Pháp.
----------------------------------------------------------
Nhận xét
Đăng nhận xét