“Với việc thiết lập bạo lực và giết nhau trong loài của mình, con người tự đặt nó xuống dưới con thú”
André Bourguignon
"Lòng
yêu nước là tình yêu kiên định, tuyệt đối với quốc gia, không phải là
sẵn sàng phụng sự nó mà không phê phán, hay ủng hộ những yêu sách không
chính đáng, mà là thẳng thắn đánh giá những tội lỗi, thói xấu của nó
và sám hối cho chúng."
Aleksandr Solzhenitsyn
"Kẻ phạm vào tội lỗi là con người; đau buồn về nó là thánh nhân; kiêu hãnh về nó là ác quỷ."
"Trong giấc mơ của tao, thế giới đã
phải chịu một thảm họa khủng khiếp. Một đám sương mù đen che lấp ánh
nắng mặt trời, bóng tối nhấn chìm cuộc sống với những tiếng rên la gào
thét của những con người hoảng loạn. Đột nhiên, một tia sáng lóe lên.
Một ngọn nến lung linh thắp sáng hy vọng cho hàng triệu tâm hồn khốn
khổ. Một cây nến nhỏ, tỏa sáng trong bóng tối bao la. Tao mỉm cười và thổi tắt nó…"
"Luôn
nhớ rằng mình sẽ phải chết là cách tốt nhất mà tôi biết để tránh sa vào
suy nghĩ mình có cái gì để mất. Khi bạn chẳng còn gì, không có lý
do nào để bạn không đi theo chính trái tim mình" - SteveJobs
(Tiếp theo)
***
Có
người cắc cớ hỏi rằng: nếu hồi đó phát xít Đức không gây chiến với Liên
Xô thì cuộc chiến tranh thế giới lần thứ hai sẽ xảy ra như thế nào và
thế giới biến đổi ra sao? Khó mà trả lời được. Rất có thế Châu Âu phải
rên xiết dưới gót giày của phát xít lâu hơn nữa; rất có thể Ý - Đức sẽ
giành thắng lợi trên chiến trường Bắc Phi; rất có thể Anh bị bao vây
khốn đốn; rất có thể chiến tranh Thái Bình Dương cầm cự với ưu thế thuộc
về Nhật; rất có thể chiến tranh sẽ lan đến tận nước Mỹ… Rất có thể phe
Trục sẽ chiếm ưu thế trong một thời gian dài và tổn thất của thế giới sẽ
nhiều hơn. Dù rất có thể thế này thế khác nhưng với bản chất thâm thù
Cộng sản của Hítle và sự thèm khát bá chủ thế giới đến ngông cuồng của
hắn làm cho phát xít Đức rồi cũng phải đánh Liên Xô, hoặc giả Liên Xô,
Anh, Mỹ rồi cũng liên minh với nhau làm xuất hiện Đồng Minh với sự ủng
hộ của Đại Chúng thế giới chống phát xít, và thắng lợi cuối cùng chắc
chắn vẫn thuộc về phe Đồng Minh. Như vậy trước sau gì Hồng quân Liên Xô
cũng đóng vai trò xung kích chủ yếu chống lại lực lượng xung kích mạnh
nhất của phe Trục là phát xít Đức. Chiến tranh Xô - Đức là sự biểu hiện
rõ ràng nhất, chói lọi nhất cái chân lý này: mặt phải nhân tính thường
“nhẫn nhịn” trước mặt trái nhân tính nhưng một khi đã bị buộc dùng đến
bạo lực thì nó trở nên vô địch, trước sau gì cũng giành được thắng lợi
cuối cùng.
Cuộc
chiến tranh vệ quốc vĩ đại của quân dân Liên Xô vừa là một cuộc tự vệ
vĩ đại, vừa là một cuộc giải phóng vĩ đại và cũng vừa là một cuộc tiêu
diệt vĩ đại sự cường bạo. Công lao của nhân dân Liên Xô đối với nhân dân
Châu Âu và cả của loài người trong cuộc chiến tranh thế giới lần thứ
hai là bất diệt.
Phù hiệu Ủy ban An ninh Quốc gia Liên Xô, KGB.
Quân
dân Liên Xô, xét về chủ trương chung và bỏ qua những trường hợp do ngộ nhận về đấu tranh giai cấp, dù nhiều lúc đã mở ra những cuộc tấn công to lớn, đánh dữ
dội, quyết liệt nhưng chưa bao giờ tàn sát dân thường một cách có chủ
đích và cũng không trả thù kẻ chiến bại một cách hèn hạ dù đã có lúc nó
tàn sát dân tộc mình, đã nêu một tấm gương cao thượng và nhân đạo. Liên
Xô lúc đó quả thật đã là một dũng sĩ, một trang nam nhi quân tử đích
thực.
Bản
chất vụ lợi kiển con buôn của chính phủ Anh, Mỹ lúc đó làm cho những
chiến thắng mà họ gặt hái được trở nên tầm thường đi. Trong chiến tranh
thế giới lần thứ hai, quân dân Liên Xô đã là người chiến thắng quang
vinh nhất. Chiến thắng của họ là vĩ đại nhưng cũng phải trả cái giá hy
sinh vô cùng to lớn. Trong các sách giáo khoa lịch sử về cuộc chiến
tranh vệ quốc vĩ đại, người ta thường nói đến sự quả cảm tuyệt vời của
quân đội Xô Viết, tài năng quân sự của các tướng lĩnh, lãnh tụ Xô Viết,
sự hy sinh vô bờ bến của quần chúng Xô Viết phục vụ chiến đấu trên khắp
đất nước, tại hậu phương cũng như tại chiến trường Xô - Đức, nhưng hình
như người ta đã “quên” không đề cập đến những chiến công không kém hiển
hách, những hy sinh mất mát không nhỏ của các chiến sĩ tình báo Xô Viết
trên “Mặt trận thầm lặng” ở xa Tổ Quốc, trong lòng địch.
Những 'trùm gián điệp' nổi tiếng thế giới
1. Sidney Reilly (1873 – 1925)
Có biệt hiệu “gián điệp bậc thầy” và hình mẫu cho điệp viên màn bạc
James Bond 007, Sidney được coi là siêu điệp viên đầu tiên của thế kỷ
20.
Là hình mẫu cho điệp viên màn bạc James Bond 007, Sidney được coi là siêu điệp viên đầu tiên của thế kỷ 20.
Mặc dù ông cũng được biết đến với nhiều bí danh như Salomon, Sidney
Rosenblaum và Shlomo, tên khai sinh thực sự của ông là Georgi Rosenblaum
và ông là một điệp viên bí mật người Nga gốc Do Thái làm việc cho
Scotland Yard.
Ông đã nổi tiếng trong những năm 1920 khi bị cáo buộc làm gián điệp
cho nhiều quốc gia ở cả châu Âu và châu Á, mặc dù chi tiết về các phi
vụ của ông chưa bao giờ được tiết lộ đầy đủ. 2. Mata Hari (1876 – 1917)
Mata Hari (nghệ danh của Margaretha Geertruida) là một trong những
điệp viên nổi tiếng nhất trong lịch sử, chuyên quyến rũ các khách hàng
là sĩ quan cấp cao và những quan chức thế lực khác ở nhiều quốc gia để
thu thập thông tin trong Chiến tranh thế giới thứ I.
Năm 1903, Mata Hari đến Paris. Bằng việc trình diễn những vũ điệu
phương đông mà bà đã học ở Java kết hợp với màn thoát y vũ, Mata Hari đã
làm rung động cả châu Âu.
Bà đã nhanh chóng nổi tiếng như một vũ nữ huyền thoại của phương đông.
Mata Hari làm “điệp viên hai mang” cho Pháp và Đức trong Chiến tranh thế giới thứ nhất.
Bà đã nhận lời làm gián điệp cho Cục Tình báo Đức với mật
hiệu H.21.
Nhiệm vụ của H.21 là thu thập tin tức hoạt động quân sự của Pháp thông báo cho cơ quan tình báo Đức.
Tuy nhiên chính Elsa Shragmuyller người phụ trách trực tiếp H.21 cho
rằng toàn bộ những tin tức mà H.21 cung cấp không bao giờ được sử dụng
cả vì chúng không có ý nghĩa gì về mặt kinh tế, chính trị lẫn quân sự.
Ngày 13/2/1917, sau khi trở lại Paris một tháng, Mata Hari bị bắt với
lý do là điệp viên của Đức. Và đổ lỗi vì cô mà 17 tàu chiến của liên quân bị chìm, gần 1 sư đoàn
quân bị thiệt mạng. Ngày 15/10/1917, Mata Hari bị hành quyết.
3. Richard Sorge (1895 – 1944)
Richard Sorge là một người cộng sản Đức và tình báo viên làm việc cho
Liên Xô. Ông hoạt động với biệt danh “Ramsay” trước và trong Chiến
tranh thế giới thứ II, dưới vỏ bọc một phóng viên ở cả Đức lẫn Nhật Bản.
Richard Sorge nổi tiếng khi hoạt động ở Nhật Bản (1940-1941), khi ông
thông báo cho Matxcơva về kế hoạch Đức Quốc xã tấn công Liên Xô năm
1941.
Cuối năm 1941, ông thông báo cho Bộ chỉ huy tối cao Liên Xô rằng Nhật Bản sẽ không mở mặt trận phía đông trong tương lai gần.
Điều này đã khiến cho Liên Xô chuyển 18 sư đoàn, 1.700 xe tăng và
1.500 máy bay từ Viễn Đông về mặt trận phía Tây chống phát xít Đức, tham
gia trận đánh bảo vệ thủ đô Matxcơva.
Richard Sorge là nhà tình báo
vĩ đại nhất mọi thời đại và là một trong số ít người đã làm thay đổi cục
diện Chiến tranh thế giới thứ II.
Ông đã bị bại lộ và bị phản gián Nhật bắt và bị treo cổ ngày
7/11/1944. Mãi đến năm 1964, Richard Sorge mới được truy tặng danh hiệu
Anh hùng Liên Xô.
Nhiều sử gia và chuyên gia tình báo tôn vinh Richard Sorge là một
trong những nhà tình báo vĩ đại nhất mọi thời đại và là một trong số ít
người đã làm thay đổi cục diện Chiến tranh thế giới thứ II. 4. Klaus Fuchs (1911 – 1988)
Ông là một trong những người chịu trách nhiệm chính về việc nghiên
cứu quá trình phân hạch đầu tiên và các mô hình của bom hydro.
Hoạt động gián điệp của Klaus Fuchs tại phòng thí nghiệm Los Alamos.
Tới năm 1943, ông chuyển tới thành phố Los Alamos, Mỹ, và trở thành
một phần không thể thiếu của dự án Manhattan, dự án bom nguyên tử của
Mỹ.
Trong thời gian sống tại Anh, Fuchs đã bắt đầu làm gián điệp cho Liên
Xô. Cho tới khi bị bắt năm 1946 và bị kết án năm 1950, ông đã cung cấp
nhiều thông tin quan trọng cho KGB. 5. Nancy Wake (1912 – 2011)
Nancy Grace Augusta Wake sinh ngày 30/8/1912 ở Wellington, New
Zealand, trong gia đình có 6 người con. Khi bà mới được 2 tuổi, gia đình
đã chuyển tới sống ở Sydney, Australia và định cư tại phía bắc Sydney.
Với lớp vỏ bọc là người vợ xinh đẹp của một doanh nhân giàu có, Nancy
Grace đã bước đầu tham gia vào nhóm du kích của vùng Marseille chống
lại quân Đức quốc xã trong vai trò người đưa tin và chuyển thực phẩm.
Nancy Grace là một nữ điệp viên lừng danh với sắc đẹp mê hồn.
Với sắc đẹp mê hồn, đồng thời là vợ của một doanh nhân máu mặt trong
vùng nên chỉ trong năm đầu tiên tham gia kháng chiến, Nancy Grace đã
giúp hàng ngàn tù binh và phi công quân đồng minh có máy bay bị bắn hạ ở
Pháp trốn sang Tây Ban Nha.
Không những thế, người phụ nữ này còn dám xông vào “hang cọp” khi làm
giả một loạt giấy tờ tùy thân để được vào làm việc tại bộ máy chính
quyền của vùng hợp tác với quân phát xít.
Tại đây, Nancy Grace đã bí mật giúp đỡ nhiều người trong tổ chức trốn thoát khỏi sự truy đuổi của quân phát xít.
Trong đám tang của nữ điệp viên lừng danh này, Thủ tướng Australia
Julia Gillard đã gọi bà Wake là "một cá nhân thực sự xuất sắc. Sự dũng
cảm và ngoan cường của bà sẽ không bao giờ bị lãng quên”. 6. Juan Pujol Garcia (1912 - 1988)
Juan Pujol Garcia đã tự tạo nhân thân giả là một quan chức chính phủ
Tây Ban Nha thân phát xít Đức và sau đó trở thành một điệp viên thượng
hạng của Đức Quốc xã trong Chiến tranh thế giới thứ 2.
Trên thực tế, Juan Pujol Garcia làm việc cho tình báo Anh với biệt
danh Garbo. “Garbo” đã cung cấp cho Đức Quốc xã 300 báo cáo đã được “xào
xáo vô cùng tinh vi” và được phía Đức coi là một nguồn cung cấp thông
tin đáng tin cậy.
Juan Pujol Garcia đánh lừa được Bộ chỉ huy tối cao Đức Quốc xã, dẫn đến việc quân Đức thua liểng xiểng ở mặt trận phía Tây.
“Garbo” đã đánh lừa được các cơ quan tình báo và Bộ chỉ huy tối cao
Đức về địa điểm của Chiến dịch đổ bộ Normandy (D-Day) của quân đồng
minh năm 1944.
Thậm chí, trùm phát xít Adolf Hitler còn cấm 2 sư đoàn xe tăng chủ
lực rời Calais để cứu viện cho Normandy. Đây là quyết định chết người
dẫn đến việc quân Đức Quốc xã thua liểng xiểng ở mặt trận phía Tây. 7. George Koval (1913 - 2006)
Là người Mỹ từ khi sinh ra, ông chuyển đến Nga khi còn nhỏ. Sau đó,
ông được tuyển dụng bởi Tổng cục Tình báo Bộ Tổng tham mưu quân đội Liên
Xô GRU và đánh trở lại Mỹ để thu thập thông tin về dự án bom hạt nhân
với mật danh DELMAR.
Được truy tặng danh hiệu Anh
hùng Liên bang Nga, những đóng góp của Koval đã giúp Liên Xô rút ngắn
thời gian phát triển vũ khí hạt nhân.
Khi ông giành được vị trí một kỹ sư trong Dự án Manhattan sản xuất
bom nguyên tử đầu tiên trong Thế chiến II từ năm 1942-1946, ông đã được
tự do truy cập dữ liệu mà ông đã chuyển về Liên Xô.
Được truy tặng danh hiệu Anh hùng Liên bang Nga, những đóng góp của
Koval đã giúp Liên Xô rút ngắn nhiều thời gian phát triển vũ khí hạt
nhân. 8. Bộ ngũ Cambridge
Bộ ngũ Cambridge (Cambridge Five) là một mạng lưới gián điệp được
tuyển chọn một phần bởi tình báo viên Liên Xô Arnold Deutsch ở Vương
quốc Anh.
Mạng lưới này đã cung cấp nhiều thông tin tình báo vô cùng quý giá
cho Liên Xô trong Chiến tranh thế giới thứ II và ít nhất là đến đầu
những năm 1950.
Danh tính người thứ năm của “Bộ ngũ Cambridge” vẫn chưa được xác định.
Bốn thành viên của “Bộ ngũ Cambridge” đã được xác định, nhưng người thứ 5 chưa từng bị phát hiện. 9. Vợ chồng nhà Rosenberg
Mùa hè năm 1949, Cục Điều tra Liên bang Mỹ (FBI) phát hiện ra các bí
mật của việc xây dựng bom nguyên tử đã bị đánh cắp và tuồn ra bên ngoài.
Cơ quan này bắt đầu điều tra và xác định được "kẻ đáng ghét" này là vợ
chồng nhà Rosenberg.
Tờ Los Angeles Times ngày 29/6/1953 đăng tin sự kiện vợ chồng nhà Rosenberg qua đời.
Ethel và Julius Rosenberg, cùng là con của những người nhập cư, kết
hôn vào ngày 18/6/1939 tại thành phố New York. Họ có hai con trai là
Micahel Allen, sinh năm 1943, và Robert Harry, sinh năm 1947.
Tháng 6/1953, Los Angeles Times đưa tin Ethel và Julius Rosenberg bị hành quyết trên ghế điện tại nhà tù Sing Sing. 10. Oleg Penkovsky (1919 - 1963)
Được biết đến với mật danh “Điệp viên anh hùng”, Oleg Penkovsky - một
đại tá trong cơ quan tình báo quân sự GRU của Liên Xô - đã cung cấp tin
tình báo cho chính phủ Mỹ trong thập niên 1950 và 1960.
Đại tá tình báo Oleg Penkovsky đã bị Liên Xô xét xử và kết án tử hình vì tội phản quốc vào năm 1963.
Oleg Penkovsky chịu trách nhiệm về “cuộc khủng hoảng tên lửa Cuba” vì
ông ta đã báo cho Anh và Mỹ về việc Liên Xô triển khai tên lửa ở Cuba.
Thông tin của Penkovsky đã giúp các nhà phân tích khám phá ra những
hầm phóng và xe chở tên lửa bằng cách sử dụng không ảnh độ phân giải
thấp chụp từ máy bay do thám.
Người ta cho rằng Oleg Penkovsky đã bị Liên Xô xét xử và kết án tử hình vì tội phản quốc vào năm 1963. 11. Eli Cohen (1924 – 1965)
Eliahu (Eli) ben Shaoul Cohen là một điệp viên thượng thặng của tình
báo Israel. Ông cực kỳ nổi tiếng qua quá trình hoạt động gián điệp ở
Syria trong giai đoạn 1961-1965.
Thậm chí, Eli Cohen đã leo lên chức Cố vấn trưởng của Bộ trưởng Quốc
phòng Syria. Những thông tin mà Eli Cohen thu thập được đã góp phần quan
trọng vào chiến thắng vang dội của Israel trong “Cuộc chiến tranh 6
ngày” chống lại liên quân Arập.
Năm 2005, Eli Cohen được bầu chọn vào danh sách 26 nhân vật vĩ đại nhất trong lịch sử dựng nước và giữ nước của Israel.
Cuối cùng, cơ quan phản gián Syria cũng đã phát hiện Eli Cohen là một
trùm gián điệp của Israel và đã hành quyết ông năm 1965, bất chấp mọi
sự đổi chác của phía Israel.
Năm 2005, Eli Cohen được bầu chọn vào danh sách 26 nhân vật vĩ đại nhất trong lịch sử lập quốc và giữ nước của Israel. 12. Aldrich Ames (1941)
Aldrich Hazen Ames là nhà phân tích phản gián của Cơ quan tình báo
trung ương Mỹ (CIA), đã bị kết tội làm gián điệp cho Liên Xô và Nga. Cho
đến khi bị phát hiện, Ames đã gây thiệt hại cho CIA nhiều thứ hai, chỉ
sau vụ phản bội của Robert Hanssen.
Aldrich Ames đã gây thiệt hại cho CIA nhiều thứ hai, chỉ sau vụ phản bội của Robert Hanssen.
Trong 9 năm làm việc cho CIA, Ames đã khai báo thu nhập hàng năm là
60.000 USD nhưng số chi trong tài khoản thẻ tín dụng của ông lên đến
30.000 USD/tháng.
Số tiền này cho phép ông có một cuộc sống dư dả với một chiếc xe
Jaguar mới và một ngôi nhà 540.000 USD (tương đương 810.000 USD, thời
giá năm 2012) được mua bằng tiền mặt.
Là điệp viên hai mang của Liên Xô, cựu sĩ quan phản gián CIA Ames đã
thông báo cho KGB ít nhất 100 điệp viên CIA và khiến ít nhất 10 điệp
viên xử tử.
Aldrich Ames hiện đang chịu án chung thân ở nhà tù Allenwood, Pennsylvania. 13. Robert Philip Hanssen (1944)
Là nhân viên FBI và làm gián điệp cho Liên Xô trong 22 năm kể từ năm
1979, Robert PhilipHanssen bị buộc tội bán tin để lấy hơn 1,4 triêu USD.
Hai trong số ba sĩ quan KGB bị Hanssen tiết lộ đã được Chính quyền Mỹ
tuyển dụng làm điệp viên trực sẵn trong Đại sứ quán Liên Xô ở
Washington.
Khi trở về Mátxcơva, hai người này đã bị kết án và xử tử. Điệp viên thứ ba bị lộ phải lãnh án tù nhưng cuối cùng cũng được thả.
Được coi là “thảm họa tình báo tồi tệ nhất trong lịch sử nước Mỹ”, Hanssen đã bị phán quyết phạm 13 tội danh gián điệp.
Được coi là “thảm họa tình báo tồi tệ nhất trong lịch sử nước Mỹ”,
Hanssen đã bị phán quyết phạm 13 tội danh gián điệp và hiện đang chịu án
chung thân tại nhà tù ở Florence, bang Colorado, Mỹ.
Trong
một cuộc chiến tranh, muốn chiến thắng đối phương thì tự nhiên là phải
mạnh hơn đối phương, Muốn mạnh hơn đối phương thì phải làm thế nào? Rõ
ràng nhất là phải huy động sao cho có vũ khí vượt trội, số lượng quân
vượt trội và tinh nhuệ trong chiến đấu. Nhưng trong nhiều trường hợp, đã
không thể có đủ khả năng, đủ thời gian để huy động được một đội quân
như vậy và tình thế buộc phải tham chiến. Lúc đó phải làm thế nào để có
cơ may thắng lợi bằng một lực lượng thiếu hụt? Chúng ta đã trả lời câu
hỏi này rồi! Chỉ xin nói thêm rằng trong lịch sử chiến tranh thế giới,
những cuộc kháng chiến chống ngoại xâm thắng lợi của dân tộc Việt Nam đã
là những điển hình của lối đánh lấy yếu chống mạnh, lấy ít địch nhiều.
Nhưng phải nhấn mạnh là không nên hiểu câu nói đó một cách “ngây thơ”
máy móc vì thuận lẽ tự nhiên thì tuyệt đối không bao giờ xảy ra hiện
tượng yếu “bỗng dưng” thắng mạnh, ít “bỗng dưng” thắng nhiều. Các thánh
thần khi “choảng” nhau cũng vậy, ông nào mạnh hơn thì ông ấy thắng, thế
thôi!
Trong
một cuộc chiến tranh, một lực lượng tương đối yếu hơn, muốn tranh thắng
với một lực lượng tương đối mạnh hơn, thì chỉ có một cách duy nhất là
làm sao với lực lượng yếu hơn ấy bỗng trở nên… mạnh hơn; nghĩa là phải
biết tạo ra từng lúc, từng nơi, từng trận đánh bộ phận có thế và lực
mạnh hơn đối phương, áp chế được đối phương bằng cách lợi dụng thiên
nhiên (địa thế, thời tiết…), nắm vững địch tình (ý đồ hành động, sự điều
binh bố trận… của đối phương) và biết phân tán cũng như tập trung binh
lực kịp thời, hợp lý. Cuộc tranh đấu nào (kể cả thi đấu thể thao) và
nhất là chiến tranh, muốn có cơ hội giành thắng lợi thì phải có quyền
mưu. Một trong những yêu cầu cơ bản để xây dựng và thực hiện quyền mưu
có hiệu quả và thậm chí là có ý nghĩa quyết định đến thắng - thua trong
chiến tranh là nắm được “động - tĩnh” của đối phương, không những phải
hiểu rõ địch tình mà trong điều kiện cho phép còn phải cố gắng làm rối
loạn nội tình của đối phương, đánh lạc hướng đối phương. Đó chính là
công tác tình báo, gián điệp.
Cục tình báo trung ương Mỹ (CIA) lần đầu công bố những công cụ được họ sử dụng trong nghiệp vụ.
Các chuyên gia phân tích ảnh sử dụng cặp kính nổi này trong Thế chiến thứ hai để xem hình ảnh về lãnh thổ của địch dưới dạng 3D.
Máy phát hiện thâm nhập tích hợp ăng-ten này có thể dò chuyển động của con người, động vật và vật thể trong phạm vi 300 mét.
Những thiết bị như thế này giúp các điệp viên rút thư từ lỗ hổng ở nếp gấp ra khỏi phong bì mà không cần xé bao.
Máy khoan Belly
Buster được sử dụng ở thập niên 50 và 60 của thế kỷ trước với nhiệm vụ
tạo lỗ trên nền gạch, tường... để điệp viên CIA cấy các thiết bị âm
thanh.
Vệ tinh trinh sát có khả năng chụp ảnh thành công đầu tiên của Mỹ Corona được CIA sử dụng rộng rãi vào thập niên 60.
Camera gián điệp Minox nằm gọn trong lòng bàn tay nhưng có thể chụp ảnh chất lượng cao.
Mọi người đã nghe nói
đến bồ câu đưa thư, còn bồ câu chụp ảnh thì sao? CIA phát minh ra một
camera đủ nhẹ để buộc vào những con chim này để chụp ảnh căn cứ của
địch.
Máy ảnh chụp phim được đặt trong bao thuốc lá.
Tình báo là một trong những nghề cổ xưa nhất trong lịch sử
loài người. Hoạt động tình báo xuất hiện cùng với sự ra đời của nhà
nước, quyền mưu chiến tranh. Từ xa xưa, hoạt động tình báo đã có mục đích thu thập những bí mật
về quân sự, kinh tế, chính trị, vấn đề nội bộ và các bí quyết trong sản
xuất kinh doanh của các đối thủ. Hoạt động tìm kiếm, thu thập các tin
tức về kinh tế, chính trị, nội bộ một cách bí mật nhờ bí quyết công nghệ
chính là khởi thủy của hoạt động tình báo. Hoạt động tình báo là sự thu thập bí mật các thông tin hay các tin
tình báo, mà nguồn thông tin như thế lại được bảo vệ không cho tiết lộ.
Cơ quan tình báo dựa vào đây để đánh giá và xử lý thông tin cần thiết để
đưa ra những quyết định. Thông tin thì có liên quan đến việc thương
mại, quân đội, kinh tế hoặc các quyết định có tính chính trị nhưng
thường là liên quan đến chính sách đối ngoại và quốc phòng. Nói chung
tin tình báo có tính an ninh quốc gia và vì thế luôn được giữ bí mật. Hoạt động tình báo hay gián điệp
theo luật pháp quốc gia là bất hợp pháp. Hoạt động gián điệp cũng phản
ánh những cố gắng của cơ quan phản gián trong việc bảo vệ bí mật của
thông tin. Tình báo sớm được thừa nhận như là một công cụ không thể thiếu trong
thuật lãnh đạo đất nước, trong ngoại giao hay chiến tranh. Trong tác
phẩm được viết cách đây 2000 năm, nhà lý luận quân sự người Trung Hoa Tôn Tử đã nhấn mạnh tầm quan trọng của công tác tình báo. Quyển sách của ông mang tên Binh pháp Tôn Tử
(khoảng năm 500 TCN) đã đưa ra chi tiết về việc tổ chức một hệ thống
gián điệp bao gồm cả những điệp viên hai mang và những kẻ đào ngũ. Tuy
nhiên, trước khi chủ nghĩa dân tộc phát triển và sự phát triển của quân
đội thường trực cũng như các thiết lập ngoại giao thì cơ quan tình báo
không được các nhà cầm quyền và các tướng lĩnh quân sự tổ chức một cách
thống nhất.
10 món đồ điệp viên cực độc đáo từng được CIA sử dụng
Chúng ta đã từng được thấy trên phim ảnh, những điệp
viên như Jame Bond sử dụng rất nhiều những món đồ đặc biệt trong từng
nhiệm vụ của mình. Mặc dù ngoài đời chúng ta không được thấy các điệp
viên sử dụng đồng hồ laser hay siêu xe trang bị tên lửa, tuy nhiên vẫn
có những món đồ nghề vô cùng độc đáo mà các lực lượng tình báo như CIA
đã từng sử dụng.
Tại bảo tàng CIA ở Washington hiện đang trưng bày những món đồ vô
cùng độc đáo mà đã từng được các điệp viên của CIA sử dụng trong lịch
sử. Theo giám đốc bảo tàng, ông Toni Hiley cho biết thì tổng cộng các
thiết bị điệp viện mà CIA đã từng tạo ra có thể lên đến con số 20.000,
do đó những món đồ đang trưng bày tại đây chỉ là một con số rất nhỏ.
Tẩu thuốc kèm máy radio
Chiếc tẩu đặc biệt này đã từng được CIA chế tạo và sử
dụng trong những năm 1960, được thiết kế bên trong là một máy phát radio
siêu nhỏ do đó nó có khả năng thu và truyền tín hiệu liên lạc bằng vô
tuyến. Và đặc biệt là khi ngậm tẩu thuốc trong mồm, người điệp viên vẫn
có thể nghe thấy các thông tin được tuyền tới, do âm thanh sẽ truyền qua
các xương hàm để tới được ống tai. Do đó nó cũng giống như một chiếc
tai nghe được giấu một cách bí mật và không thể bị phát hiện.
Chiếc máy ảnh bỏ vừa bao thuốc
Đó là chiếc máy ảnh phim Tessina siêu nhỏ, với kích
thước chỉ 35mm nó có thể dễ dàng bỏ vừa một bao thuốc để ngụy trang.
Không chỉ vậy, nó cũng được thiết kế để chụp ảnh mà không phát ra bất kỳ
tiếng động nào của màn trập. Chính vì vậy đây là chiếc máy ảnh được các
điệp viên ưa thích.
Chim bồ câu mang theo máy ảnh do thám
Con người đã sử dụng những chú chim bồ câu để đưa thư
từ rất lâu, tuy nhiên ít ai nghĩ rằng những chú chim này có thể mang
theo một chiếc camera siêu nhỏ để chụp ảnh do thám. Những chiếc camera
này có thể chụp hàng trăm bức ảnh với tốc độ chụp tùy chỉnh, chất lượng
bức ảnh cũng rất rõ nét do những chú chim có thể bay ở độ cao rất thấp
mà không ai để ý. Tuy nhiên cũng có trường hợp những chú chim này bị
phát hiện và bắn chết.
Chuồn chuồn gián điệp
Đó là một con chuồn chuồn robot có khả năng bay hơn
200m trong vòng 60 giây bằng điều khiển từ xa. Nó cũng được trang bị một
chiếc microphone siêu nhỏ để thu âm. Tuy nhiên việc điều khiển chú
chuồn chuồn này không đơn giản một chút nào, chỉ cần một cơn gió nhẹ
cũng có thể khiến cho nó mất cân bằng.
Do đó mà CIA chưa từng sử dụng nó trong một nhiệm vụ nào của mình.
Tuy nhiên đây vẫn là robot côn trùng đầu tiên được chế tạo để phục vụ
mục đích gián điệp.
Thiết bị phát hiện kẻ địch từ xa
Trong thời chiến, việc phát hiện quân địch từ khoảng
cách xa là rất cần thiết. Do đó mà CIA đã tạo ra một thiết bị có hình
dạng khá xấu xí, để nó có thể ngụy trang giống như một cục đất trên
đường đi. Nhiệm vụ của nó là phát hiện các rung động trên mặt đất và
truyền lại tín hiệu radio thông qua một ăng-ten để cảnh báo kẻ thù xuất
hiện cách đó hàng trăm mét.
Bộ trang điểm được mã hóa
Chiếc gương trang điểm tưởng chừng rất đơn giản này
lại được CIA mã hóa một cách vô cùng đặc biệt. Đó là khi bạn nghiêng
chiếc gương ở một góc nhất định so với nguồn sáng thì mới thấy được
thông điệp ẩn phía sau nó.
Chiếc la bàn siêu chính xác
Không giống như la bàn bình thường, chiếc la bàn do
CIA chế tạo được trang bị cả một chiếc kính lúp và độ chính xác của nó
là cực cao. Nó cũng được quân đội Mỹ sử dụng từ những năm 1950. Chiếc la
bàn còn có thể phát sáng trong đêm.
Cá robot “Charlie”
Trong những năm 1990, CIA đã chế tạo một chú cá robot
có tên Charlie, để thu thập các tín hiệu của tàu ngầm đối phương phía
dưới mặt nước. Chú cá này được điều khiển bằng sóng radio, nó được trang
bị một động cơ cánh quạt nhỏ ở đuôi và microphone ở phần đầu.
Máy khoan quay tay
Với bộ công cụ này, các điệp viên của CIA có thể dễ
dàng khoan một lỗ nhỏ trên tường để gắn những chiếc microphone theo dõi.
Chiếc máy khoan quay tay đơn giản này cũng được trang bị nhiều đầu
khoan khác nhau để có thể phá thủng mọi loại vật liệu.
Một đồng bạc rỗng
Bề ngoài thì đồng bạc này trông giống như một đồng
đô-la bình thường, tuy nhiên bên trong nó rỗng để có thể chứa các tài
liệu bí mật hoặc phim âm bản. Đây chính là cách để các điệp viên trao
đổi tin tức và các tài liệu mật với nhau.
Nếu bạn để ý thì trong bộ phim Bridge of Spies (người đàm phán) vừa
mới công chiếu, thì kẻ gián điệp của Liên Xô cũng đã sử dụng đồng bạc
rỗng này để trao đổi các tài liệu và qua mắt cả những đặc vụ người Mỹ.
Tham khảo: techinsider
Có thể nói tình báo chính trị lần đầu tiên được sử dụng một cách có
hệ thống bắt đầu do Joseph Fouché, duc d’Otrante, bộ trưởng cảnh sát
trong cuộc cách mạng Pháp và triều đại của Napoleon. Dưới quyền chỉ huy
của Fouché, một mạng lưới điệp viên cảnh sát và những điệp viên chuyên
mặc thường phục hoạt động bí mật để nắm rõ tiềm lực của những người theo
phái Gia-cô-banh và của những người bảo hoàng phản động. Chính khách
người Áo, Prince von Metternich cũng thành lập một tổ chức gián địêp
quân sự và chính trị có hiệu quả cao vào đầu thế kỷ 19. Trong thời gian giữa thế kỉ 19, cảnh sát mật của Phổ (nay là lãnh thổ
thuộc Đức) được cải tổ lại và sử dụng với nhiệm vụ bảo vệ an ninh bên
ngoài cũng như bên trong quốc gia. Hệ thống tình báo Phổ đã đóng vai trò quan trọng trong việc thống nhất đế chế Đức.
Nó cũng khống chế Pháp với một mạng lưới 30 ngàn điệp viên đã góp phần
vào chiến thắng của Đức trong cuộc chiến tranh Pháp-Phổ 1870-1871. Tuy
nhiên, mãi đến những năm của thế kỷ 19 thì các cục tình báo của các quốc
gia hiện đại mới hoạt động thường xuyên. Hệ thống tình báo đã hỗ trợ người Nhật chiến thắng người Nga trong cuộc Chiến tranh Nga-Nhật (1904-1905).
Khi chuẩn bị Chiến tranh thế giới thứ nhất, người Đức đã đưa vào Pháp
rất nhiều điệp viên, một vài trong số đó cải trang thành những đại diện
thương mại, giáo viên, lao động nông nghiệp hoặc người hầu. Bị cáo gián
điệp nổi tiếng nhất là Mata Hari, một diễn viên múa người Java ở Pari đã
bị người Pháp hành quyết. Các điệp viên người Đức cũng có những cố gắng
nhằm phá hoại hệ thống phòng thủ của Mỹ cả trước và sau khi Mỹ nhảy vào
Chiến tranh thế giới thứ nhất. Tuy nhiên, hầu hết các quốc gia đã tham chiến với những đội ngũ tình
báo không đầy đủ và các tin tình báo trong các cuộc chiến rất nghèo nàn.
Những bài học của cuộc chiến tranh này là cùng với những tiến bộ vượt
bậc về kĩ thuật, đặc biệt là trong lĩnh vực thông tin liên lạc và hàng
không, đã thúc đẩy một sự phát triển lớn các cơ quan tình báo. Điều này
càng cấp bách hơn nữa bởi sự có mặt của chính quyền Phát-xít ở châu Âu
và chế độ độc tài quân sự ở Nhật Bản và sự ra đời của các cơ quan phản
gián chẳng hạn như Gestapo của Đức Quốc xã. Những phát triển này đã dẫn
đến sự ra đời những hệ thống cơ quan phản gián của các nước dân chủ.
Chiến tranh thế giới lần thứ hai là tác nhân kích thích lớn cho sự
phát triển của các cơ quan tình báo trên khắp thế giới. Kĩ thuật quân sự
và thông tin liên lạc hiện đại đã giúp cho thông tin trở nên chính xác
và nhanh chóng cũng như những nỗ lực bảo vệ thông tin nhạy cảm. Một vài
trận đánh lớn trong Chiến tranh thế giới thứ II thực sự là những trận
đánh của tình báo và phản gián. Trong những năm gần đây chỉ có một vài
kỳ công và thất bại trong cuộc chiến bí mật này được tiết lộ. Nổi tiếng
là điệp vụ chơi hai mặt (Operation Double Cross), trong đó người Anh đã
bắt giữ gần như tất cả các điệp viên của Đức tại Anh trong thời gian
chiến tranh. Và Anh cùng với đồng minh cũng đã bẻ khóa mật mã của Đức và
xâm nhập vào nhiều sóng truyền tin bí mật của quân địch. Trận Trân Châu cảng ngày 7 tháng 12 năm 1941
là một thành công tình báo lớn của Nhật và tình báo Mỹ là kẻ thất bại.
Thất bại này đã thúc đẩy sự phát triển bộ máy tình báo khổng lồ của Mỹ
sau chiến tranh. Trước Chiến tranh thế giới thứ II, Mỹ hầu như không có
hệ thống tình báo; sau chiến tranh CIA trở nên có tiếng bởi tai mắt khắp
nơi, nối tiếp với các cơ quan tình báo như MI-6 của Anh, KGB của Liên
Xô, SDECE(the Service de Documentation Extérieure et de
Contre-Espionage) của Pháp, Cục tình báo đối ngoại của Israel, Văn phòng sự vụ xã hội của Trung Quốc và đông đảo các cơ quan khác trong cộng đồng tình báo và phản gián thế giới.
Thiên tài toán học người Anh, ông Alan Turing. Ảnh: Pinterest.
Một nhóm giải mã máy điện toán Enigma
được ra đời với người đứng đầu là giáo sư toán học Alan Turing, một
thiên tài toán học khi đó đang làm nhiệm vụ giảng dạy tại trường đại học
Cambridge
Chúng
ta sẽ kể vài câu chuyện trong lịch sử về tình báo - gián điệp, có phần
lược thuật đại khái tác phẩm “Tình báo qua các thời đại” của Jean -
Pierre Alen. (NXB Công an nhân dân, Hà Nội 1995):
Những dấu tích xưa nhất về nghề tình báo là các tài liệu của Mari, bắt đầu có từ thế kỷ XVIII trước Công nguyên.
Tài
liệu đó cho biết Mammurabi, người sáng lập Vương quốc Babilon, đã phái
gián điệp vào quân đội đối phương và ra lệnh cho quân mình bắt tù binh
để hỏi cung.
Người
Ai Cập cũng dùng gián điệp trong các cuộc chiến tranh với Xiri từ thế
kỷ XV đến thế kỷ XIII, TCN. Pharaông là Tutmét III, khi đến vùng Canaan
đã cho quân dừng lại để cùng sĩ quan nghiên cứu những báo cáo của điệp
viên trước khi chọn một trong ba con đường có thể tiến đánh vua Kadet.
Và ông đã chọn con đường Meggiđo, dẫn đến chiến thắng quyết định vào năm
1468 TCN.
Hai trăm năm sau, Tamxét II và kẻ thù là người Hittit cũng rất chú ý đến công tác tình báo.
Cũng
trong thời đại đó, Môidơ (Moise) dẫn dân Hêbrơ thiên di đến đất Canaan.
Đứng trên đỉnh núi Nabô, ngắm nhìn đất nước đầy mật và sữa, nhà tiên
tri già, trước khi quyết định đưa dân mình đến lập nghiệp ở đó, đã triệu
12 tộc trưởng đến và bảo họ: “Các vị đi xem tình hình đất nước này, dân
cư là khỏe hay yếu, đông hay ít, sản vật giàu hay nghèo, thành thị,
làng xóm, pháo đài ra sao, đất đai màu mỡ hay cằn cỗi, có cây cỏ hay
không. Các vị hãy hái hoa quả về đây”.
Gậy mật mã của người Hy Lạp là một trong những dụng cụ đầu tiên trong ngành mật mã hoá
Cũng
người Hêbrơ (tổ tiên của dân tộc Do Thái), sau nhiều trận thua người
Philixtanh rồi mới phát hiện ra rằng vũ khí của đối phương không phải
bằng đồng thau như của mình mà là bằng sắt. Từ đó trong các cuộc chinh
chiến, người Hêbrơ luôn coi trọng công tác tình báo. Giôduê, trong quá
trình lên kế hoạch chinh phục Canaan, đã phái hai điệp viên vào thulượm tin tức Giêricô và đến tận Sittun.
Ngay
từ thời Cổ đại, người Ba Tư đã biết dùng thủ đoạn đầu độc tin tức. Một
trong những người sử dụng thủ đoạn này một cách khéo léo nhất là Đariút
(Darius). Sau một năm đánh chiếm thành Babilon không thành công, nhà vua
đã phải nhờ đến hành động trá hàng của một người dũng cảm tên là Dôpyrơ
(Zopyre). Nhà viết sử bậc thầy Hêdôrốt đã thuật lại là sau khi tự cắt
mũi, tai, cạo trọc đầu và cho đánh nát người bằng roi. Dôpyrơ đến yết
kiến Đariút: “Tôi sẽ đóng vai phản bội để vào thành Babilon và kể rằng
chính bệ hạ đã hành hạ khiến tôi khổ thế này. Chắc rằng Babilon sẽ tin
tôi mà trao cho tôi quyền chỉ huy. Sau khi tôi vào thành 10 ngày, bệ hạ
cho 1.000 quân vào loại xoàng nhất tiến đánh cổng Sémiramis, 7 ngày sau
phái 2.000 quân về cổng Nini, 20 ngày sau đó nữa, bệ hạ cho 4.000 quân
đến cổng Chaldé. Các toán quân này chỉ mang gươm thôi. Cuối cùng, sau
thêm 20 ngày tiếp theo, bệ hạ đưa nốt số quân còn lại, vây quanh bốn
phía, rồi nhớ điều quân đến trước nơi tôi đóng và trước cổng Bêlidi và
cổng Xitxi. Tôi hy vọng quân Babilon, sau khi chứng kiến hành vi của tôi
trước những cuộc chạm trán đó sẽ trao cả cho tôi chìa khóa các cổng.
Lúc đó, chính tôi và quân Ba Tư sẽ hoàn tất nhiệm vụ”.
Quân
Ba Tư đã chiếm được Babilon như kế hoạch đó. Để thưởng công cho Dôpyrơ,
vua Đariút đã trao cho vị tướng này cai quản thành Babilon và miễn nộp
triều cống suốt đời.
Ở
Trung Hoa cổ đại chắc rằng nghề tình báo - gián điệp cũng được biết đến
từ rất sớm. Bởi vì ngay trong “Binh pháp Tôn Tử” - lý luận thành văn về
nghệ thuật quân sự được cho là cổ xưa nhất nhân loại - đã có một chương
(thiên) viết chuyên biệt và sâu sắc về công tác tình báo, gọi là “Dụng
gián” (sử dụng gián điệp). Trong chương này, Tôn Tử viết: “… Vua sáng
suốt, tướng hiền lương sở dĩ xuất quân là thắng, thành công hơn người là
nhờ biết trước tình hình địch. Muốn biết trước tình hình địch, không
thể cầu xin quỉ thần, không thể dựa vào ước đoán, không thể dùng độ số
vận hành của trời, trăng, sao để kiểm chứng, mà phải dùng người, phải
khai thác từ những người nắm được tình hình địch.
Hình ảnh một gậy mật mãGiả sử ta có một gậy mã hóa cho phép viết bốn chữ cái trong một vòng
của nó. Thông điệp muốn gửi đi là: "Cứu! Chúng tôi đang bị tấn công".
Để mã hóa, ta viết thông điệp dọc theo cây gậy:
_____________________________________________________________
| | | | | | |
| C | Ứ | U | C | H | |
__| Ú | N | G | T | Ô |__|
| | I | Đ | A | N | G |
| | B | Ị | T | Ấ | N |
| | C | Ô | N | G | |
| | | | | | |
_____________________________________________________________
bản mã sẽ như thế này: "CÚIBCỨNĐỊÔOUGATNCTNẤGHÔGN"
Giải mã
Để
giải mã, băng giấy được quấn vòng quanh cây gậy có cùng đường kính với
gậy mã hóa và đọc theo hàng dọc. Bản mã "CÚIBCỨNĐỊÔOUGATNCTNẤGHÔGN" trở
thành "CỨUCHÚNGTÔIĐANGBỊTẤNCÔNG". Thêm khoảng trắng vào ta được thông
điệp: "CỨU CHÚNG TÔI ĐANG BỊ TẤN CÔNG"
Có
5 cách dùng gián điệp là hương gián, nội gián, phản gián, tử gián, sinh
gián… Hương gián là dùng người dân địa phương bên địch làm gián điệp.
Nội gián là dùng người trong hàng ngũ, chính quyền địch làm gián điệp.
Phản gián là dùng ngay gián điệp của địch làm gián điệp cho mình. Tử
gián là tạo tin giả (ngụy tạo) rồi dùng gián điệp tung ra như một tin
tình báo thật nhằm đánh lừa địch. Sinh gián là cho người bí mật đi thám
thính địch tình (công tác trinh sát, thám báo) rồi trở về trình báo lại.
Cho
nên, việc quân không mật thiết với ai bằng mật thiết với gián điệp,
không thưởng ai hậu hơn thưởng gián điệp. Không mật thiết thì không được
lòng người, không hậu thưởng thì không sai khiến nổi, không kín đáo thì
khong thể thành việc.
… Vi diệu thay! Vi diệu thay! Không việc nào mà không cần dùng gián điệp.
…
Xưa,
nhà Ân mạnh lên là nhờ có Y Doãn làm gián điệp ở trong nhà Hạ, nhà Chu
mạnh lên là nhờ Lã Nha làm gián điệp ở trong nhà Ân. Cho nên minh quân,
hiền tướng biết sử dụng những bậc tài trí hơn người làm gián điệp thì
nhất định sẽ thành công lớn. Sử dụng gián điệp là điều trọng yếu trong
việc dùng binh, ba quân dựa vào đó mà quyết định hành động”.
Nói
chung thì tất cả các tướng lĩnh lãnh đạo quân đội thời Cổ đại, cả ở
phương Đông lẫn phương Tây, đều quan tâm sử dụng tình báo - gián điệp
trong các cuộc chiến tranh tấn công - tự vệ. Cách đây 1500 năm, tơ lụa là mặt hàng độc quyền của Trung Quốc,
giá cả tơ lụa trên thị trường thế giới do Trung Quốc khống chế. Công
nghệ nuôi tằm lấy tơ dệt lụa là một bí mật quốc gia được người Trung
Quốc cất giữ trong nhiều thế kỷ. Sau sự kiện công chúa Trung Hoa giấu con tằm giống trong khăn trùm đầu vượt qua biên giới Trung Quốc sang Ấn Độ, công nghệ tơ lụa bắt đầu phát triển ở mảnh đất Nam Á này. Để lấy được bí mật công nghệ sản xuất tơ lụa, Hoàng đế Đế chế Đông La Mã (nay là Hy Lạp), còn gọi là đế chế Byzantium, Justinian đã cho mời các Giáo sĩ Ba Tư
đang truyền giáo ở Ấn Độ tới gặp để nhằm nắm tình hình. Các giáo sĩ đã
cung cấp cho Hoàng đế những thông tin hết sức quan trọng, là muốn có lụa
tự nhiên cần phải nuôi một loại tằm nhả tơ đặc biệt chuyên ăn lá dâu để
thu kén làm nguyên liệu dệt lụa. Theo các giáo sĩ, điều kiện thổ nhưỡng
và khí hậu ở một số vùng của Hy Lạp rất giống với điều kiện ở Trung
Quốc và Ấn Độ phù hợp với loại cây dâu làm thức ăn cho tằm nhả tơ. Công việc đặt ra quan trọng và khó khăn nhất là làm sao phải đánh cắp
bằng được con tằm giống mà Trung Quốc và Ấn Độ bảo vệ rất chặt chẽ. Một
mặt, Justinian cho người tìm kiếm giống dâu, mặt khác treo thưởng lớn
nếu giáo sĩ Ba Tư nào đánh cắp được con tằm giống đem về nước. Lợi dụng
lúc đi truyền giáo tại Ấn Độ, các giáo sĩ đã đánh cắp được con tằm rồi
giấu vào trong chiếc gậy thiền trượng rỗng mang về Đông La Mã. Chính vì
việc này, mà Hoàng đế Justinian đã phá được sự độc quyền về tơ lụa của
Trung Quốc, và Vương quốc này trở nên giàu có, khiến cho Trung quốc mất
đi khoản thu nhập khổng lồ; và từ những con tằm này đã đặt nền móng cho
ngành công nghiệp tơ tằm Bizantin sau này.
danh sách 10 bí ẩn và mật mã chưa thể khám phá huyền bí nhất. 1. Bản viết tay Voynich
Được đặt theo tên của người bán sách cổ
người Mỹ gốc Ba Lan Wilfrid M.Voynich đã mua nó vào năm 1912, “Bản viết
tay Voynich” là cuốn sách dày 240 trang viết tỉ mỉ bằng một ngôn ngữ
hoàn toàn không được biết đến.
Các trang sách cũng đầy những hình vẽ
màu của các biểu đồ kỳ lạ, những hình ảnh của các sự kiện và cây cối
không hề giống bất cứ loại nào đã biết, điều này càng làm cho cuốn sách
thêm phần bí hiểm mà người ta không thể giải mã.
Không ai biết tác giả bản thảo viết tay
này là ai, nhưng phân tích carbon phóng xạ đã cho thấy các trang bản
thảo được thực hiện đâu đó vào giữa những năm 1404 và 1438. Bản thảo này
đã được gọi là “Bản viết tay bí ẩn nhất thế giới”.
Có nhiều thuyết khác nhau về nguồn gốc
và bản chất của bản thảo này. Một số cho rằng, đây là một dược điển, mô
tả các vấn đề kiến thức y học khác nhau của thời trung cổ và sơ kỳ hiện
đại. Nhiều bức vẽ các loại thảo mộc cũng khiến người ta phải giả định
rằng, nó là cái gì đó đại loại như một cuốn sách giáo khoa dành cho các
nhà giả kim thuật.
Việc nhiều biểu đồ dường như vẽ các hiện
tượng thiên văn, cùng với những phác họa sinh học không xác định được,
thậm chí còn khiến một số nhà lý luận giàu tưởng tượng phỏng đoán cuốn
sách có thể có nguồn gốc ngoài trái đất.
Song hầu như tất cả các nhà lý luận đều
thống nhất ở một điểm cho rằng, cuốn sách này khó có thể là trò đùa khi
xét đến thời lượng, số tiền bạc và lao động hết sức tỉ mỉ cần để tạo ra
nó.
2. Kryptos
Kryptos là một tác phẩm điêu khắc bí ẩn
được khắc 1.800 ký tự chứa những thông điệp được mã hóa do nhà điêu khắc
Mỹ Jim Sanborn tạo tác, được đặt ngay trước đại bản doanh Cục Tình báo
trung ương Mỹ CIA ở Langley, Virginia vào năm 1990. Nó bí ẩn đến nỗi
ngay chính cơ quan gián điệp khét tiếng thế giới CIA cũng không thể giải
mã được hoàn toàn mật mã của nó.
Tác phẩm điêu khắc này gồm bốn phần, và
mặc dù ba phần trong số đó đã giải được, song mật mã của phần thứ tư gồm
97 hay 98 ký tự đến nay vẫn không thể bẻ khóa.
Năm 2006, Sanborn hé lộ rằng, trong phần
thứ nhất có chứa manh mối để giải phá phần bốn, và năm 2010 ông lại
tiết lộ thêm một manh mối khác: các ký tự 64-69 NYPVTT trong phần thứ tư
giải mã ra có nghĩa là BERLIN.
May ra bạn sẽ có thể giải mã được nó chăng?
3. Các mật mã Beale
Các mật mã Beale là một bộ gồm ba đoạn
văn bản mã được cho là tiết lộ vị trí của một trong những kho báu bị
chôn giấu vĩ đại nhất trong lịch sử nước Mỹ với hàng ngàn bảng vàng, bạc
và đá quý. Kho báu ban đầu do một người đàn ông bí ẩn tên là Thomas
Jefferson Beale tìm được vào năm 1818 trong khi khai thác vàng ở
Colorado.
Trong ba đoạn mã, chỉ có đoạn thứ hai đã
giải mã được. Điều thú vị là chính bản Tuyên ngôn Độc lập của nước Mỹ
lại là khóa mã. Đây là một chuyện lạ lùng đáng kinh ngạc khi mà Beale
còn trùng tên với tác giả của bản Tuyên ngôn Độc lập.
Đoạn văn bản giải mã được chỉ ra địa
điểm chôn kho báu là Bedford County, Virginia, nhưng vị trí chính xác
của nó rõ ràng là được mã hóa trong một trong hai đoạn mã còn lại chưa
thể giải phá.
Cho đến nay, những kẻ săn tìm kho báu
vẫn đang lùng sục kỹ lưỡng (thường là bất hợp pháp) các sườn đồi của
Bedford County để truy tìm khối của cải khổng lồ này.
4. Đĩa Phaistos
Bí ẩn của đĩa Phaistos là câu chuyện có
vẻ giống như trong phim Indiana Jones. Được phát hiện bởi các nhà khảo
cổ Italia Luigi Pernier vào năm 1908 trong những phế tích của cung điện
Minos ở Faistos, trên đảo Crete của Hy Lạp, đĩa này được làm bằng đất
sét nung và chứa những ký hiệu bí ẩn mà có thể là một dạng chữ tượng
hình chưa được biết đến.
Người ta tin rằng nó đã được làm ra đâu đó vào thiên niên kỷ thứ hai trước Công nguyên.
Một số học giả tin rằng, những chữ tượng
hình này giống với các ký tự của Linear A và Linear B, những loại chữ
viết từng được sử dụng ở Crete cổ đại. Vậy vấn đề là ở chỗ nào? Là ở chỗ
Linear A không thể giải mã được.
Cho đến nay, đĩa Phaistos vẫn là một trong những bí ẩn nổi tiếng nhất của khảo cổ học. 5. Dòng chữ khắc ở Shugborough
Nhìn từ xa Đài tưởng niệm người chăn cừu
(Shepherd’s Monument) thời thế kỷ 18 ở Staffordshire, nước Anh, bạn có
thể nghĩ nó chẳng qua là sự tái hiện bằng điêu khắc của bức tranh nổi
tiếng “Những người chăn cừu ở Arcadia” của Nicolas Poussin. Nhưng nhìn
gần hơn, bạn sẽ thấy một chuỗi chữ cái kỳ lạ DOUOSVAVVM – một mật mã
không thể giải phá đã hơn 250 năm.
Và mặc dù không ai biết tác giả của mật
mã này, một số người đồ rằng, mật mã có thể là một đầu mối do các hiệp
sĩ dòng tu Đền Thánh để lại nhằm chỉ ra nơi tọa lạc của Chén Thánh.
Nhiều bộ óc vĩ đại nhất thế giới, trong đó có Charles Dickens và Charles Darwin, đã cố gắng để giải mã nhưng đều thất bại.
6. Vụ án Tamam Shud
Tamam Shud là một trong những bí ẩn lớn
nhất của Australia. Nó xoay quanh một người đàn ông lạ được tìm thấy đã
chết vào tháng 12/1948 trê bãi biển Somerton, Adelaide, Australia. Ngoài
việc không thể nhận dạng người đàn ông, sự việc trở nên bí ẩn hơn khi
một mảnh giấy nhỏ xíu với mấy từ “Tamam shud” được tìm thấy trong một
cái túi bí mật trong chiếc quần dài của người đàn ông đã chết.
Cụm từ này dịch ra có nghĩa là “hoàn
thành” hoặc “kết thúc” và được sử dụng trên trang cuối của tuyển tập thơ
“The Rubaiyat” của Omar Khayyam. Ngoài bí ẩn này, sau đó người ta còn
tìm thấy một bản sao của “The Rubaiyat”, trong đó có một mật mã lạ viết
nguệch ngoạc được cho là do người đàn ông đã chết này để lại.
Căn cứ nội dung bài thơ của Omar
Khayyam, nhiều người cho rằng, thông điệp này là một thư tuyệt mệnh,
nhưng đến nay nó vẫn chưa được giải phá, cũng như chính vụ án này.
7. Wow! Tín hiệu
Một đêm mùa hè năm 1977, Jerry Ehman,
một tình nguyện viên của chương trình SETI (Search for Extraterrestrial
Intelligence – một chương trình rộng lớn tìm kiếm các tín hiệu của trí
thông minh ngoài trái đất), có thể là người đầu tiên đã nhận được một
thông điệp có chủ ý từ hành tinh khác.
Trong khi quét các sóng vô tuyến điện từ
vũ trụ sâu thẳm với hy vọng ngẫu nhiên bắt được một tín hiệu mang trong
mình các dấu hiệu là nó được gửi bởi một chủng tộc có lý trí, Eman phát
hiện thấy có sự đột biến trong các phép đo của mình.
Tín hiệu kéo dài 72 giây – quãng thời
gian tối đa mà thiết bị quét sóng của Ehman có thể đo được. Tín hiệu này
to và dường như truyền từ một nơi mà con người chưa từng có mặt trước
đó: từ một điểm trong chòm sao Sagittarius, gần ngôi sao có tên gọi Tau
Sagittarii, cách trái đất 120 năm ánh sáng.
Ehman đã viết chữ “Wow!” trên bản in tín hiệu ban đầu, vì thế, nó được gọi là “Wow! Tín hiệu” (Wow! Signal).
Mọi nỗ lực một lần nữa bắt và định vị
tín hiệu này đều thất bại, dẫn đến những cuộc tranh cãi lớn và sự bí ẩn
về nguồn gốc và ý nghĩa của nó.
8. Những lá thư của tên cuồng sát Zodiac
Những lá thư của Zodia là một loạt 4 lá
thư mã hóa mà người ta cho là được viết bởi Zodiac, tên giết người hàng
loạt khét tiếng đã làm kinh hoàng dân chúng San Francisco vào nửa cuối
thập niên 1960 và đầu thập niên 1970. Những lá thư này có lẽ được viết
để chọc tức các nhà báo và cảnh sát, và tuy một bức thư đã giải mã được,
nhưng 3 lá thư còn lại vẫn chưa thể giải phá.
Danh tính của Zodia cũng không bao giờ
được xác định lập, mặc dù từ thập niên 1970, người ta không còn thấy các
vụ giết người của Zodiac.
9. Những tảng đá chỉ đường ở Georgia
Những tảng đá chỉ đường Georgia đôi khi
được coi là “Stonehenge của nước Mỹ”, là một tượng đài bằng đá hoa cương
được dựng lên ở Elbert County, bang Georgia vào năm 1979. Những tảng đá
được khắc 10 điều răn “mới” cho “Kỷ nguyên trí tuệ” viết bằng 8 ngôn
ngữ – Anh, Tây Ban Nha, Swahili, Hindi, Do Thái, Arab, Trung Quốc và
Nga. Các tảng đá cũng được xếp đặt theo những tính toán thiên văn nhất
định.
Mặc dù công trình không chứa các thông
điệp mã hóa, song mục đích và nguồn gốc của nó vẫn bao trùm bí ẩn. Nó
được xây dựng bởi người đàn ông có bí danh R.C. Christian mà danh tính
thật cuối cùng vẫn không thể xác định chính xác.
Trong 10 điều răn này, điều răn thứ nhất
có lẽ là gây tranh cãi nhất: “Hãy giữ dân số nhân loại ở mức dưới 500
triệu trong sự cân bằng vĩnh cửu với thiên nhiên”. Nhiều người cho rằng,
đó là lời kêu gọi làm giảm dân số này tới con số đã nêu đó, còn những
người chỉ trích “Những tảng đá chỉ đường” thì thậm chí còn kêu gọi phá
hủy những tảng đá này. Một số người đam mê thuyết âm mưu thậm chí còn
cho rằng, chúng được tạo ra bởi “Mật hội Lucifer” vốn kêu gọi một trật
tự thế giới mới.
10. Rongorongo
Rongorongo là một hệ những ký hiệu bí ẩn
được chạm vẽ trên các đồ tạo tác tìm thấy trên đảo Phục sinh. Nhiều
người cho rằng, chúng đại diện cho một hệ chữ viết hay chữ viết nguyên
thủy đã thất truyền, và có thể là một trong ba hay bốn hệ chữ viết được
phát minh độc lập trong lịch sử nhân loại.
Các ký hiệu đến nay vẫn chưa thể giải
mã, và ý nghĩa thực sự của chúng – mà một số người cho là có chứa những
manh mối về số phận của một nền văn minh đã biến mất từng xây dựng nên
những bức tượng trên đảo Phục Sinh – có thể bị mất đi mãi mãi.
Lịch sử Khí công Khởi nguồn và lịch sử phát triển YOGA - Ấn Độ PHẦN I: CÓ MỘT CÁI GÌ ĐÓ “Tại sao có một cái gì đó chứ không phải là không có gì?” Lepnit . CHƯƠNG IX: NHÌN LẠI -"Mục đích duy nhất của khoa học là giảm bớt vất vả cho nhân loại." Bleiste -"Đạo đức cao thượng nhất của nhân loại là gì?Đó chính là lòng yêu nước" Napoleon. -"Nhân loại luôn có một chỗ độc đáo: nó lưu giữ hai bộ phép tắc đạo đức - một bộ lén lút, một bộ công khai; một bộ chân chính, một...
(ĐC sưu tầm trên NET) Bản tin 113 online cập nhật ngày 14/3: Bắt phó giám đốc dùng tài liệu giả tham gia đấu thầu | ANTV TRỰC TIẾP: Thời sự quốc tế 15/3 | Nga lập thế trận siết vòng vây 3000 quân Kiev, Ukraine run rẩy Tin tức thời sự mới nhất hôm nay | Bản tin sáng ngày 14-3-2024 Các quan chức cộng sản cấp cao biến mất | Trung Quốc Không Kiểm Duyệt THIÊN TRANG - Chỉ Hai Đứa Mình Thôi Nhé || Nhạc Vàng Xưa Bất Hủ Thêm 162 người nhập viện sau khi ăn cơm gà ở Nha Trang 8 giờ trước Việt Nam đề nghị Trung Quốc tôn trọng và tuân thủ hiệp định về phân định vịnh Bắc Bộ 9 giờ trước Khoảnh khắc một căn nhà bị sông Cầu 'nuốt chửng' ở Bắc Ninh 5 giờ trước Hà Nội: Cô bán trứng bất ngờ "được" ném nhầm bọc tiền hơn 1 tỷ vào xe 17 giờ trước Vũ khí đặc biệt trong gói viện trợ của Mỹ dành cho Ukraine 12 giờ trước Video quân đội Nga bắn nổ 2 trực thăng của Ukraine ở Donetsk 18 giờ trước Ông Trump vượt Tổng thống Biden về tỉ lệ ủng hộ trong thăm dò dư luận 11 giờ trước Làm...
Nỗi Buồn Hoa Phượng - Ý Linh (Thần Tượng Bolero 2017) [MV Official] NGẬM SẦU Sầu ta chẳng biết sầu gì Cứ như cơn sốt li bì mê man Lê la đã khắp trần gian Mà nào gặp thuốc uống tan nỗi sầu... Sầu ta chẳng biết tại sao Càng cười ha hả càng đau thấu tình Đã từng trải hết phiêu linh Tưởng là bệnh khỏi, hóa trên đỉnh sầu. Ai ơi cứu được ta nào Ta xin hậu tạ một chầu sầu riêng... Trần Hanh Thu Hạ Thương - Hồ Phương Liên (Á Quân Thần Tượng Bolero 2017) [MV Official] 【Top】Những Hình Ảnh Buồn Về Tình Yêu Hay Và Ý Nghĩa Nhất By Hoàng Trung Văn Nghĩa - 26 Tháng Mười, 2019 0 1595 Share ...
Nhận xét
Đăng nhận xét