TT&HĐ III - 32/s
Đạo diễn Roman Karmen cùng hai đồng sự Xôviết Evghenhi Mukhin và Vladimia Echurin được Nhà nước Liên Xô giao nhiệm vụ sang Việt Nam làm phim tài liệu vào những ngày cuối cùng của chiến dịch Điện Biên Phủ. Được sự chỉ dẫn của Bác Hồ, sự giúp đỡ tận tình của các đồng nghiệp và nhân dân Việt Nam, Karmen đã miệt mài lao động, hoàn thành xuất sắc bộ phim màu "Việt Nam" (1954) ghi lại những giây phút hào hùng nhất của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và những năm tháng hòa bình đầu tiên ở miền Bắc Việt Nam.
CHƯƠNG XI (XXXII): ANH HÙNG
Đọc thêm tại: http://www.tudiendanhngon.vn/tabid/87/strcats/111/sw/a/charmode/true/default.aspx © TuDienDanhNgon.vn
Đọc thêm tại: http://www.tudiendanhngon.vn/tabid/87/strcats/111/sw/a/charmode/true/default.aspx © TuDienDanhNgon.vn
-Albert Einstein
"Lòng yêu nước và sự đoàn kết của nhân dân là một lực lượng vô cùng to lớn, không ai thắng nổi. Nhờ lực lượng ấy mà tổ tiên ta đã đánh thắng quân Nguyên, quân Minh, đã giữ vững quyền tự do, tự chủ. Nhờ lực lượng ấy mà chúng ta làm cách mạng thành công giành được độc lập. Nhờ lực lượng ấy mà sức kháng chiến của ta càng ngày càng mạnh. Nhờ lực lượng ấy mà quân và dân ta quyết chịu đựng muôn nỗi khó khăn, thiếu thốn, đói khổ, tang tóc, quyết một lòng đánh tan quân giặc cướp nước."
Hồ Chí Minh
"Thà làm dân một nước độc lập còn hơn làm vua một nước nô lệ"
Phạm Khắc Hòe
(Tiếp theo)
Đợt
3 từ 1 tháng 5 đến 7 tháng 5,
QĐNDVN đánh dứt điểm dẫy đồi phía đông và tổng tiến công tiêu diệt các
vị trí còn lại. Sau khi lực lượng của Pháp đã trở nên tuyệt vọng, suy
kiệt, bổ sung bằng dù không còn đủ để duy trì sức chiến đấu, và quân
Pháp ở Bắc Bộ cũng đã hết lính dù và lính lê dương (légionnaire) có thể
ném tiếp xuống Điện Biên Phủ, QĐNDVN tổ chức đợt đánh dứt điểm các quả
đồi phía đông.
Để chống lại hệ thống hầm ngầm cố thủ không thể xung phong đánh chiếm được trên đồi A1 có vị trí quyết định, công binh
Việt Nam đào đường hầm từ trận địa tại A1 tới dưới hầm ngầm, đưa bộc
phá với số lượng lớn vào đặt rồi cho nổ. Một đội đặc biệt gồm 25 cán bộ,
chiến sĩ do Nguyễn Phú Xuyên Khung,
cán bộ công binh của Bộ, trực tiếp chỉ huy, đã tiến hành công việc ngay
trước mũi súng quân Pháp, trong tầm kiểm soát của lựu đạn, khắc phục
thêm khó khăn: thiếu không khí, đèn, đuốc mang vào hầm đều bị tắt, số
đất moi từ lòng núi ra ngày càng nhiều không được để cho quân Pháp phát
hiện. Các chiến sĩ phòng ngự tại A1 đã có kế hoạch chiến đấu không cho
quân Pháp tiến xuống cửa hầm, dù phải hy sinh tới người cuối cùng, để
bảo vệ bí mật tuyệt đối ý đồ đào hầm.
Tại phía đông, trung đoàn 98 tiến công cứ điểm C1 lần thứ hai. Thiếu tá
Jean Bréchignac, vẫn đặt sở chỉ huy trên Eliane 4, đã linh cảm trận đánh
Eliane 1 sắp nổ ra. Ngày 1 tháng 5, Bréchignac quyết định đưa đại đội 3
của tiểu đoàn dù tiêm kích số 2 lên thay thế cho đại đội Clédic đã bị
tiêu hao, đồng thời ra lệnh cho đại đội 1 sẵn sàng tham gia phản kích.
Thừa
thắng xông lên, quân đội Việt Nam mở đợt tấn công lần
3, từ ngày 1/5 đến 7/5, Việt Minh đánh chiếm các cứ điểm còn lại. Riêng
đồi A1, cứ điểm được xây dựng kiên cố nhất đã tiến hành tới 4 đợt tiến
công nhưng chỉ chiếm được nửa quả đồi. Đêm 6/5, quân đội Việt Nam phải
dùng 1000 tấn thuốc nổ bí mật phá sập hệ thống hầm ngầm, chiếm được quả
đồi.
| ||
17h30 ngày 7/5/1954, lá cờ "Quyết chiến quyết thắng" của Quân đội nhân dân Việt Nam tung bay trên nóc hầm của Tướng De Castries. | ||
Tướng De Castries và toàn bộ Bộ chỉ huy tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ phải ra hàng. Sau này De Castries - người từng theo học Trường Quân sự Saint Cyr nổi tiếng thế giới - đã thốt lên rằng: "Điều làm tôi hết sức ngạc nhiên là không biết Tướng Võ Nguyên Giáp đã tốt nghiệp từ những trường, học viện võ bị cao cấp nào". | ||
Toàn bộ 16.000 lính Pháp ở tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ bị tiêu diệt hoặc bắt sau khi kết thúc chiến dịch. | ||
Sau khi Pháp thất thủ ở Điện Biên Phủ, ngày 8/5/1954, Hội nghị Geneva bắt đầu bàn về vấn đề Đông Dương. | ||
Đại diện cho Tổng tư lệnh quân đội Việt Nam, ông Tạ Quang Bửu, ký hiệp định đình chiến năm 1954. | ||
Thiếu tướng Delteil thay mặt Bộ Tổng
tư lệnh Quân đội liên hiệp Pháp ở Đông Dương ký bản hiệp định đình
chiến ở Việt Nam và Lào ở Hội nghị Geneva.
|
Nửa đêm, toàn bộ quân Pháp bị tiêu diệt. Dây thép gai và mìn lấy từ trận địa lập tức được trải ra sườn đồi thành một bãi chướng ngại dày đặc, đề phòng quân Pháp phản kích. Sau hơn 30 ngày đêm liên tục chiến đấu, trận đánh tại C1 lúc này đã kết thúc.
Ở phía đông sông Nậm Rốm, hai tiểu đoàn 166 và 154 của trung đoàn 209 tiến công các cứ điểm 505 và 505A (Dominique 3). Một đại đội của tiểu đoàn6e BPCvà những đơn vị lính Algérie, lính Thái tại đây, do tiểu đoàn trưởng Chenel chỉ huy, chống cự khá quyết liệt. 2 giờ sáng ngày 2 tháng 5, trung đoàn 209 tiêu diệt hoàn toàn hai cứ điểm này, chấm dứt sự tồn tại của trung tâm đề kháng Dominique.
Trên cánh đồng phía tây, trận đánh tiêu diệt cứ điểm 811A (Huguette 5) của trung đoàn 88 diễn ra rất nhanh chóng. Với những đường hào đã đào xuyên qua hàng rào cứ điểm, bộ đội bất thần tổ chức xung phong. Toàn bộ đại đội Âu Phi vừa tới thay quân để tăng cường phòng thủ cứ điểm này, bị diệt gọn trong vòng không đầy 80 phút.
Như vậy, ngay trong đêm đầu của đợt tiến cống thứ ba, Pháp đã mất thêm bốn cứ điểm: C1, 505, 505A ở phía đông, và 311A ở phía tây.
Đêm ngày 4 tháng 5, trên cánh đồng phía tây, sau khi tiêu diệt 311A, đại đoàn 308 tiếp tục đánh 311B '(Huguette 4)' ở phía trong. Trung đoàn 36 tiêu diệt 1 đại đội gồm lính lê dương và lính Maroc, đưa trận địa tới gần trung tâm đề kháng Lili (Lilie, từ Claudine mới tách ra), tấm bình phong cuối cùng che chở cho sở chỉ huy Đờ Cát ở hướng này. Buổi sáng, Pháp phản kích định chiếm lại nhưng thất bại.
Cũng trong ngày 5 tháng 5, trung đoàn 174 báo cáo đường hầm ở A1 đã hoàn thành. Trong đêm, một tấn bộc phá chia thành những gói hai mươi kg, được đưa vào đặt dưới hầm ngầm Pháp. Sáng ngày 6 tháng 5 năm 1954, tiểu đoàn 255 của 174 phòng ngự suốt 34 ngày đêm trên đồi A1 được lệnh rút qua Đồi Cháy làm lực lượng dự bị. Tiếng nổ của khối bộc phá trên đồi A1 được chọn làm hiệu lệnh xung phong cho đợt tiến công tối hôm đó.
Trước giờ G năm phút, các chiến sĩ ở chiến hào xuất phát xung phong được lệnh quay lưng về A1, nhắm mắt, há mồm đề phòng sóng xung kích và ánh chớp của ngàn cân bộc phá. Đúng 20 giờ 30, một tiếng nổ trầm, trên đồi A1 có một đám khói lớn phụt lên. Khối bộc phá nổ cách hầm ngầm vài chục mét thổi bay chiếc lô cốt bên trên, diệt phần lớn đại đội dù 2 của Trung úy Edme (Étmơ) đóng ở đây. Nguyễn Hữu An lập tức ra lệnh cho pháo của trung đoàn nổ súng. Khối bộc phá một tấn đã tiêu diệt một phần tuyến ngang gây khó khăn cho các đơn vị đánh A1 trong đợt trước, tạo nên một cửa mở quan trọng giúp cho hai đại đội của tiểu đoàn 249 xung phong thuận lợi. Trên đỉnh đồi, lính dù dựa vào chiến hào và công sự đã được củng cố trong thời gian qua ra sức chống đỡ chờ quân viện. Quá nửa đêm, trung đoàn trưởng Nguyễn Hữu An quyết định đưa đại đội dự bị của tiểu đoàn 249 vào giải quyết trận đánh. Bộ đội chia thành từng tổ nhỏ tiêu diệt dần dần từng ụ đề kháng của quân Pháp.
4 giờ sáng ngày 7 tháng 5 năm 1954, Đại úy Jean Pouget chỉ còn lại 34 lính dù. Quân dù đã sử dụng đến những viên đạn, quả lựu đạn cuối cùng. Pouget bị thương nặng và bị bắt. Sáng ngày 7 tháng 5 năm 1954, lá cờ "Quyết chiến Quyết thắng" tung bay trên cao điểm A1 báo hiệu giờ tàn của tập đoàn cứ điểm.
Tiến quân tiêu diệt cứ điểm đồi Độc Lập
Lính Pháp phản kích cứ điểm Độc Lập, bị bộ đội đánh trả quyết liệt phải tháo chạy
Đúng 3 giờ chiều, các đại đoàn được lệnh: "Không cần đợi trời tối, lập tức mở cuộc tổng công kích vào Mường Thanh. Đơn vị phía đông đánh thẳng vào khu vực trung tâm, đơn vị phía tây giáp công sang, cùng tiến vào sở chỉ huy của địch. Phải đánh thật mạnh, bao vây thật chặt, không để cho Đờ Cát hoặc bất cứ tên địch nào chạy thoát".
QĐNDVN tổng tiến công trên khắp các mặt trận. Quân Pháp đã sức tàn lực kiệt, rệu rã kéo cờ quyết định đầu hàng. Đại đội trưởng Tạ Quốc Luật lập tức dẫn đại đội 360 luồn dưới làn đạn của những khẩu trọng liên bốn nòng, băng qua cầu Mường Thanh. Nhận thấy quân Pháp hầu như không chống cự, Tạ Quốc Luật nhảy lên mặt đất, dùng một lính bảo an người Việt dẫn theo đường tắt tiến thật nhanh tới sở chỉ huy của de Castries. Các đài quan sát báo cáo về: "Quân ta từ ba phía đang đánh vào khu trung tâm, 312 từ phía đông tiến qua cầu Mường Thanh, 308 từ phía tây mở đường qua sân bay, và từ phía tây nam mở đường vào Lili, hướng về sở chỉ huy của Đờ Cát. Quân địch chỉ chống cự lẻ tẻ."
Lúc đó, Đại đội 360 chỉ còn 5 người: Tạ Quốc Luật, Hoàng Đăng Vinh, Bùi Văn Nhỏ, Nguyễn Văn Lam và Đào Văn Hiếu. Khoảng 17 giờ, sau khi dùng thủ pháo tiêu diệt tổ bảo vệ ở phòng ngoài sát cửa ra vào, 5 chiến sĩ vượt qua gian hầm thứ 2, tiến vào gian hầm giữa khá rộng có tướng de Castries và các sĩ quan Pháp đang ở đấy. Tạ Quốc Luật nói bằng tiếng Pháp, đại ý: "Các ông hàng đi. Các ông thua rồi. Các ông phải ra lệnh cho các ổ đề kháng bỏ súng, đầu hàng và điện về Hà Nội không cho máy bay ném bom xuống Điện Biên nữa".
Quân lính Pháp thất trận tại Điện Biên Phủ lũ lượt ra hàng.
17 giờ 40 phút ngày 7-5-1954, bộ đội ta đã cắm lá cờ “Quyết chiến quyết thắng” trên nóc hầm Tướng De Castries.
Cụm phân khu Nam Hồng Cúm mưu toan chạy sang Lào nhưng bị các đơn vị QĐNDVN đuổi theo, tất cả đã bị bắt không đi thoát. Gần 12.000 quân Pháp còn lại tại Điện Biên Phủ đều bị bắt làm tù binh.
Dù quân Pháp đã phải gia tăng quân số lên đến 16.000 người, họ đã không thể nào lật ngược thế cờ. Toàn bộ quân Pháp ở Điện Biên Phủ bị tiêu diệt và bị bắt làm tù binh. Thiệt hại về phía Pháp là 1.747 tới 2.293 người chết, 5.240 tới 6.650 người bị thương, 1.729 người mất tích và 11.721 bị bắt làm tù binh. Toàn bộ 17 tiểu đoàn bộ binh và lính dù, 3 tiểu đoàn pháo binh, 10 đại đội Quân đội Quốc gia Việt Nam bị tiêu diệt. Tổng số sĩ quan và hạ sĩ quan bị diệt và bị bắt là 1.706, gồm 1 chuẩn tướng, 16 đại tá và trung tá, 353 sĩ quan từ thiếu úy đến thiếu tá. Thiệt hại về phía Mỹ là 2 phi công chết và 1 bị thương.
Về không quân, Pháp bị tổn thất 59 phi cơ bị phá hủy (38 chiếc bị bắn rơi, 21 chiếc bị phá hủy khi đậu trên sân bay), trong đó có 3 máy bay khác bị phá hủy trước ngày 13 tháng 3 năm 1954, 2 trực thăng cũng bị phá hủy. Ngoài ra còn có 186 phi cơ khác bị trúng đạn và hư hại ở các mức độ khác nhau. Phía Mỹ có 1 phi cơ C-119 bị bắn rơi. Về trang bị nặng, Pháp mất toàn bộ trang bị vũ khí, xe tăng và pháo binh ở Điện Biên Phủ. Phía QĐNDVN thu giữ 3 xe tăng, 28 đại bác, 5.915 súng các loại, 20.000 lít xăng dầu cùng rất nhiều đạn dược, quân trang quân dụng khác.
Thiệt hại về phía Quân đội Nhân dân Việt Nam theo hồ sơ quân y của Việt Nam là 4.020 người chết, 9.691 người bị thương, và 792 mất tích. Hiện nay tại Điện Biên Phủ, có 3 nghĩa trang liệt sĩ trận này là nghĩa trang phía gần đồi Độc Lập, nghĩa trang gần đồi Him Lam và nghĩa trang gần đồi A1, lần lượt các nghĩa trang trên có 2.432 ngôi, 896 ngôi và 648 ngôi mộ, tổng cộng là 3.976 ngôi. Do một trận lũ lớn vào năm 1954 cuốn trôi các bia mộ nên 3.972 mộ đều là liệt sĩ vô danh. Chỉ có 4 ngôi được đặt riêng biệt là mộ các anh hùng Bế Văn Đàn, Phan Đình Giót, Tô Vĩnh Diện, Trần Can là còn biết được.
Ngày hôm sau, 8 tháng 5 năm 1954, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư khen: "Quân ta đã giải phóng Điện Biên Phủ, Bác và Chính phủ thân ái gửi lời ngợi khen cán bộ, chiến sĩ, dân công, thanh niên xung phong và đồng bào đia phương đã làm tròn nhiệm vụ một cách vẻ vang. Thắng lợi tuy lớn nhưng mới là bắt đầu. Chúng ta không nên vì thắng mà kiêu, không nên chủ quan khinh địch. Chúng ta kiên quyết kháng chiến để tranh độc lập, thống nhất, dân chủ, hòa bình. Bất kỳ đấu tranh về quân sự hay ngoại giao cũng đều phải trường kỳ gian khổ mới đi đến thắng lợi hoàn toàn... "
Sau đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đến gặp và chúc mừng Bộ tổng tham mưu và đại tướng Võ Nguyên Giáp. Tại đây bằng kinh nghiệm chính trị, ông đã nói một câu chúc mừng kèm dự đoán chính xác: "Chúc mừng chú (Võ Nguyên Giáp) thắng trận. Nhưng đừng chủ quan, còn phải đánh với Mỹ nữa. Sớm muộn gì chúng cũng sẽ nhảy vào Đông Dương thế chỗ Pháp"
Thế là, sau 55 ngày đêm "khoét núi,ngủ hầm, mưa dầm, cơm vắt. Máu trộn bùn non, gan không núng, chí không mòn...", cứ điểm Điện Biên Phủ đã thất thủ, toàn bộ hơn 16.000 quân Pháp bị tiêu diệt hoặc bị bắt làm tù binh.
Tô Vĩnh Diện | |
---|---|
Tiểu sử | |
Quốc tịch | Việt Nam |
Sinh | 1924 Triệu Sơn, Thanh Hóa, Liên bang Đông Dương |
Mất | 1954 (29–30 tuổi) |
Trần Can | |
---|---|
Tiểu sử | |
Quốc tịch | Việt Nam |
Sinh | 1931 Sơn Thành, Yên Thành, Nghệ An |
Mất | 1954 |
Bế Văn Đàn | |
---|---|
Tiểu sử | |
Quốc tịch | Việt Nam |
Sinh | 1931 Triệu Ẩu, Phục Hòa, Cao Bằng |
Mất | 12 tháng 12 năm 1953 |
Sau này, Bộ trưởng quốc phòng Pháp Marcel Bigeard, nguyên là trung tá phó chỉ huy của tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, sang thăm Việt Nam năm 1993, nhìn lại chiến trường cũ, đã có một câu với một nhà quay phim nước ngoài: "Nếu tôi là người Việt Nam, tôi cũng sẽ trở thành Việt Minh". Còn tướng De Castries, sau khi thất bại trở về Pháp, đã trả lời trước Ủy ban Điều tra của Bộ Quốc phòng Pháp rằng: "Người ta có thể đánh bại một quân đội, chứ không thể đánh bại được một dân tộc".
Chỉ huy phó của Tập đoàn cứ điểm, đại tá Pierre Langlais cũng viết trong cuốn hồi ký Điện Biên Phủ của ông rằng: "Ở Điện Biên Phủ, nếu người ta muốn nhìn thẳng vào sự thật, thì ắt phải thấy rằng viện trợ cho Việt Minh chỉ là một giọt nước đặt bên cạnh dòng thác vật tư của Mỹ đổ vào cho người Pháp chúng ta". Nhà báo Pháp Giuyn Roa khẳng định: "Không phải viện trợ của Trung Quốc đã đánh bại tướng Navarre mà chính là những chiếc xe đạp Peugeot thồ 200, 300 kg hàng và đẩy bằng sức người, những con người ăn chưa đủ no và ngủ thì nằm ngay dưới đất trải tấm nilông. Cái đã đánh bại tướng Navarre không phải bởi các phương tiện mà là sự thông minh và ý chí của đối phương..."
Trận Điện Biên Phủ được coi là một trong những trận đánh được phân tích tỉ mỉ nhất trong lịch sử. Thắng lợi quyết định của lực lượng Việt Minh dưới quyền Võ Nguyên Giáp trong Chiến dịch ác liệt đánh dấu sự chấm dứt của Chiến tranh Đông Dương, chính trận chiến này đã đưa Việt Nam lên trở thành quốc gia thuộc địa đầu tiên dùng vũ lực buộc quân đội một nước phương Tây rút về nước, giành được độc lập, được xem là một đòn giáng mạnh vào nước Pháp nói riêng và thế giới phương Tây nói chung. (1940-2005) Theo cuốn The French Secret Services của sử gia Douglas Porch, thảm bại Điện Biên Phủ đã "thay đổi diễn tiến lịch sử Pháp" và sánh vai với các thất bại trước kia của Pháp dưới quyền tướng Joseph Joffre (1914) và Maurice Gamelin (1940). Được chiến thắng của người Việt Nam cổ vũ, các khu vực thuộc địa ở châu Phi cũng đồng loạt nổi dậy.
Điện Biên Phủ là chiến thắng quân sự lớn nhất của Quân đội Nhân dân Việt Nam trong toàn bộ Kháng chiến chống Pháp. Trên phương diện quốc tế trận này có một ý nghĩa rất lớn: lần đầu tiên quân đội của một quốc gia thuộc địa,nghèo nàn và lạc hậu châu Á đánh thắng bằng quân sự một quân đội của một cường quốc hiện đại châu Âu. Trận Điện Biên Phủ đã đánh bại ý chí duy trì Đông Dương là lãnh thổ thuộc Liên hiệp Pháp của Pháp và buộc nước này ra khỏi Đông Dương. Đại tướng Võ Nguyên Giáp tổng kết:
"Dân tộc ta có thể tự hào rằng: Dưới sự lãnh đạo của Đảng ta, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu, chúng ta đã chứng minh một chân lý vĩ đại. Chân lý đó là trong thời đại ngày nay một dân tộc thuộc địa bị áp bức, khi đã biết đứng dậy đoàn kết đấu tranh, kiên quyết chiến đấu cho độc lập, tự do và chủ nghĩa xã hội thì có đầy đủ khả năng để chiến thắng quân đội xâm lược hùng mạnh của một nước đế quốc chủ nghĩa"
Lúc này phần lớn lãnh thổ Việt Nam trong tay Việt Minh. Các vùng kiểm soát bao gồm hầu hết miền Bắc (trừ Hà Nội, Hải Phòng, Vĩnh Yên, Móng Cái,...) hầu hết Bắc Trung Bộ (trừ duyên hải nhỏ Quảng Bình đến Quảng Nam), hầu hết Trung Trung Bộ (gồm cả Quảng Ngãi, Quy Nhơn,...), Bắc Tây Nguyên, một phần nhỏ Nam Tây Nguyên, một phần cực Nam Trung Bộ và Nam Bộ (trong đó có các địa phương phía nam đồng bằng sông Hồng, bắc Tây Nguyên và một số vùng khác, cùng với một số thị xã nhỏ ở miền bắc có Việt Trì, một số thị xã nam đồng bằng sông Hồng, Công Tum, An Khê...mới giành được). Phần lớn lãnh thổ Lào (vùng núi phía đông), một phần lãnh thổ Campuchia (đông bắc, nhỏ hơn là vùng rừng núi tây và tây nam, một phần đông nam) thuộc phe cách mạng.
Nhìn vào lịch sử, nước Pháp đã tạo ra nhiều sự kiện chấn động thế giới, cả tự hào lẫn hổ thẹn. Dân tộc Pháp đã để lại trong lịch sử sự oanh liệt, quả cảm bao nhiêu thì tầng lớp thống trị quí tộc - thực dân của nó cũng để lại sự nhục nhã, yếu hèn bấy nhiêu. Biểu hiện nhục nhã nhất của thực dân Pháp là hành động của chúng ở Đông Dương, chủ yếu là ở Việt Nam. Bị phát xít Đức thôn tính dễ dàng tại chính quốc, bị Nhật hất cẳng quá dễ dàng ở thuộc địa, phải xin xỏ, chạy chọt Đồng Minh (Anh - Mỹ) để vào Nam Bộ; ký hiệp ước thua thiệt với Tàu Tưởng để thực ra là xin xỏ vào Bắc Bộ; lật lọng hiệp ước với chính phủ Việt Minh, bước đường cùng lại phải đi xin xỏ Mỹ để rồi vẫn cứ bị Việt Minh đánh tan ở Điện Biên Phủ, đành phải “bán cái” cho Mỹ. Trận Điện Biên Phủ đã là cái mốc đánh dấu sự suy tàn không khắc phục nổi của chủ nghĩa thực dân cũ trên khắp thế giới.
Do sức ép của Trung Quốc và Liên Xô, đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đồng ý với một bản hiệp định mang lại cho họ ít hơn những gì họ đã giành được trên chiến trường. Tuy ba nước Lào, Campuchia và Việt Nam được tuyên bố độc lập, và điều quan trọng là sự thống nhất toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam được công nhận, nhưng Việt Nam bị tạm thời chia đôi thành hai khu vực quân sự để hai bên quân đội, Việt Minh và Pháp, tập kết. Quân Pháp sẽ rút dần khỏi Việt Nam. Cuộc tổng tuyển cử đi đến thống nhất Việt Nam sẽ được thực hiện trong vòng 2 năm.
Năm cửa ô đón mừng đoàn quân tiến về – bộ đội tiếp quản thủ đô Hà Nội tháng 10 năm 1954
Đại tướng Võ Nguyên Giáp (trái) và cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng ra đón Bác Hồ tại Hà Nội hồi năm 1955. “
Ngày 22-7-1954, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra lời kêu gọi: "Đấu tranh để củng cố hoà bình, thực hiện thống nhất, hoàn thành độc lập dân chủ cũng là một cuộc đấu tranh lâu dài và gian khổ" và khẳng định: "Trung, Nam, Bắc đều là bờ cõi của nước ta, nước ta nhất định thống nhất, đồng bào cả nước nhất định được giải phóng". Cũng trong ngày này Thủ tướng Quốc gia Việt Nam Ngô Đình Diệm ra lệnh treo cờ rủ toàn Miền Nam từ vĩ tuyến 17 trở vào để bày tỏ quan điểm phản đối sự chia đôi đất nước. Tuy nhiên, trưởng đoàn đại biểu Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đã lên tiếng: "Những ai yêu nước Việt Nam, những ai yêu sự thống nhất Việt Nam thì không cần phải khóc hôm nay. Hãy thực hiện tốt những gì đã ký kết hôm nay, thì 2 năm nữa sẽ có một nước Việt Nam thống nhất, độc lập, hoà bình và giàu mạnh. Những gì Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà làm trong những năm qua chính là vì mục đích đó. Nước mắt của chúng tôi đổ ra trong cuộc đấu tranh cho sự nghiệp đó nhiều hơn rất nhiều so với những giọt lệ mà quý vị (Quốc gia Việt Nam) nhỏ ra ở đây". Ngày 20-7-1954, Hội nghị Giơnevơ (Thụy Sĩ) về Đông Dương kết thúc. Bản Tuyên ngôn chính trị của Hội nghị và Hiệp định đình chiến ở Đông Dương được công bố. Hòa bình được lập lại trên cơ sở Pháp và các cường quốc dự Hội nghị (riêng Mỹ đã không chịu ký vào bản Tuyên bố chung) công nhận sự độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam; Lào; Cămpuchia; quân viễn chinh Pháp phải rút khỏi miền Bắc Việt Nam (lấy vĩ tuyến 17 làm giới tuyến quân sự tạm thời); công việc nội bộ của Việt Nam, do Việt Nam tự giải quyết (sẽ thực hiện tổng tuyển cử tự do vào tháng 7-1956 để đi tới thống nhất đất nước); đến năm 1956, quân Pháp phải rút hết khỏi Đông Dương.
Trong cuộc xâm lược của thực dân Pháp này, thương vong của Pháp là 140.992, trong đó có 75.867 chết và mất tích, 65.125 bị thương. Quân bản xứ ở Đông Dương có 419.000 chết, bị thương hoặc bị bắt. Về vũ khí, Pháp mất 435 máy bay, 603 tàu chiến và ca nô, 9.283 xe quân sự, 255 pháo, 504 xe quân sự và 130 nghìn súng các loại. Số thương vong của Việt Minh được Pháp ước tính khoảng 175.000 - 300.000 chết và 300.000 - 500.000 bị thương (hiện vẫn chưa có số liệu kiểm chứng từ phía Việt Nam). Khoảng 125.000–400.000 dân thường thiệt mạng.
Cuộc chiến đã góp phần làm nước Pháp suy sụp và phân hóa. Càng về cuối cuộc chiến, sự phản đối chiến tranh trong lòng nước Pháp ngày càng dữ dội hơn. Đại tướng Pháp Henry Navare viết:
"Các đảng viên Cộng sản (Pháp) ngay từ lúc này đã tích cực bênh vực Việt Minh. Cuộc chiến tranh xâm lược của Pháp, đối với họ là một "cuộc chiến tranh bẩn thỉu". Còn đối với những người khác, đây là một "cuộc chiến tranh nhục nhã", "cuộc chiến tranh không dám xưng tên"" | ||
— Henry Navare
|
(Còn tiếp)
-------------------------------------------------------------------------
Nhận xét
Đăng nhận xét