TT&HĐ III - 32/k

 

Bàn cờ thế - Ứng vạn biến - Tập 1 - 2
 
Ứng vạn biến - Phần 3

PHẦN III:     NGUỒN CỘI 

" Đi đi con!
Trong khinh khi may nhớ nước non
Mà ôn lại cho đừng quên lịch sử
Bốn ngàn năm rồi, Việt Nam bất tử
Dằng dặc đoạn trường chống giặc ngoại xâm
Biết mấy đau thương, biết mấy anh hùng
Ghi tạc địa cầu bao chiến công hiển hách
..."

                                                                                Trần Hạnh Thu

"Lịch sử hoài thai chân lý, nó có thể kháng cự với thời gian, có thể dìm đi những việc cũ, nó là dấu tích của thời xa xưa, là gương soi của đương đại, là lời giáo huấn cho thế hệ sau."
                                                                 
Cervantes (Tây Ban Nha)

"Lịch sử là bằng chứng của thời đại, là ngọn lửa của chân lý, là sinh mệnh của kí ức, là thầy giáo của cuộc sống và là sứ giả của cổ nhân."
                                                                                                      Cicero (La Mã)
 
“Đừng chê cõi trần nhơ
Đừng khen cõi trần đẹp
Cõi trần là thản nhiên
Chỉ có đời nhơ, đẹp.” 
.


.

CHƯƠNG XI (XXXII): ANH HÙNG


Heroism on command, senseless violence, and all the loathsome nonsense that goes by the name of patriotism - how passionately I hate them!


Đọc thêm tại: http://www.tudiendanhngon.vn/tabid/87/strcats/111/sw/a/charmode/true/default.aspx © TuDienDanhNgon.vn

Heroism on command, senseless violence, and all the loathsome nonsense that goes by the name of patriotism - how passionately I hate them!


Đọc thêm tại: http://www.tudiendanhngon.vn/tabid/87/strcats/111/sw/a/charmode/true/default.aspx © TuDienDanhNgon.vn


"Chủ nghĩa anh hùng theo mệnh lệnh, bạo lực phi lý và tất cả những điều vô nghĩa nhân danh lòng ái quốc - tôi mới căm ghét chúng làm sao!"
-Albert Einstein
 
"Dân ta phải biết sử ta, cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam. Sử ta dạy cho ta những chuyện vẻ vang của tổ tiên ta. Dân ta là con Rồng cháu Tiên, có nhiều người tài giỏi đánh Bắc dẹp Nam, yên dân trị nước, tiếng để muôn đời. Sử ta dạy cho ta bài học này: Lúc nào dân ta đoàn kết muôn người như một thì nước ta độc lập, tự do. Trái lại lúc nào dân ta không đoàn kết thì bị nước ngoài xâm lấn"
Hồ Chí Minh

"Lòng yêu nước và sự đoàn kết của nhân dân là một lực lượng vô cùng to lớn, không ai thắng nổi. Nhờ lực lượng ấy mà tổ tiên ta đã đánh thắng quân Nguyên, quân Minh, đã giữ vững quyền tự do, tự chủ. Nhờ lực lượng ấy mà chúng ta làm cách mạng thành công giành được độc lập. Nhờ lực lượng ấy mà sức kháng chiến của ta càng ngày càng mạnh. Nhờ lực lượng ấy mà quân và dân ta quyết chịu đựng muôn nỗi khó khăn, thiếu thốn, đói khổ, tang tóc, quyết một lòng đánh tan quân giặc cướp nước."
Hồ Chí Minh
 
“Chiến tranh có thể kéo dài 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa. Hà Nội, Hải Phòng, và một số thành phố, xí nghiệp có thể bị tàn phá, song nhân dân Việt Nam quyết không sợ! Không có gì quí hơn độc lập, tự do! Đến ngày thắng lợi, nhân dân ta sẽ xây dựng lại đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn!” 
                                                          Hồ Chí Minh

"Thà làm dân một nước độc lập còn hơn làm vua một nước nô lệ"
                                                          Phạm Khắc Hòe

Heroism on command, senseless violence, and all the loathsome nonsense that goes by the name of patriotism - how passionately I hate them!


Đọc thêm tại: http://www.tudiendanhngon.vn/tabid/87/strcats/111/sw/a/charmode/true/default.aspx © TuDienDanhNgon.vn

Heroism on command, senseless violence, and all the loathsome nonsense that goes by the name of patriotism - how passionately I hate them!


Đọc thêm tại: http://www.tudiendanhngon.vn/tabid/87/strcats/111/sw/a/charmode/true/default.aspx © TuDienDanhNgon.vn

 

 

(Tiếp theo)


Chỉ một ngày sau khi Hồ Chí Minh rời Việt Nam, ngày 1-6-1946, Đácgiăngliơ đã lập ra cái gọi là “Chính phủ Nam Kỳ tự trị”, đứng đầu là Nguyễn Văn Thịnh. Hành động này hết sức ngang ngược, vi phạm thô bạo Hiệp định sơ bộ 6-3, trong đó có nêu rõ “vấn đề Nam Bộ sẽ giải quyết thông qua cuộc trưng cầu dân ý”. Tệ hại hơn nữa, một đoàn đại biểu của cái nước tự trị do Pháp nặn ra một cách vội vã này cũng được gửi sang Pari để thương thuyết riêng với Pháp. Đúng là một trò hề!
Không những thế, ngày 21-6, Đácgiăngliơ ra lệnh cho quân Pháp tiến chiếm Tây Nguyên, mưu toan lập thêm một “xứ tự trị” giả hiệu nữa. Ngày 25-6, quân Pháp chiếm giữ Phủ toàn quyền cũ ở Hà Nội (theo hiệp ước Việt - Pháp ký ngày 20-4-1946 thì Phủ toàn quyền cũ không có trong danh sách những ngôi nhà thuộc quyền của Pháp).


Quân đội của thế lực thuộc địa Pháp ở Việt Nam (khoảng 1950)
Quân đội của thế lực thuộc địa Pháp ở Việt Nam (khoảng 1950)
Hồ Chí Minh, lúc đó đang ở Pháp, đã gửi hai bức thư vào ngày 27-6 và 12-7 để phản đối những hành động của Đácgiăngliơ. Trong bức thư đề ngày 27-6 gửi cho Bộ trưởng Bộ Pháp quốc hải ngoại (thực chất là Bộ Thuộc địa) là Mariuýt Mutê, có đoạn:
“Thái độ khiêu khích của những người chỉ huy quân sự cục bộ Pháp là nguy cơ làm mất thiện chí của nhân dân Việt Nam đối với nước Pháp và có thể gây trở ngại đáng kể cho diễn biến của cuộc đàm phán ngoại giao sắp tới giữa hai đoàn đại biểu của hai chính phủ chúng ta”.
Trong bức thư đề ngày 12-7, gửi Chính phủ Pháp ở Pari, có đoạn:
“Những người chỉ huy quân sự Pháp ở Việt Nam, với những hành động của họ ở Nam Bộ từ ngày 6-3, ngày càng vi phạm đến Hiệp định sơ bộ đã được ký kết giữa Việt Nam và Pháp, là người khởi xướng và chịu trách nhiệm về hai hành động có tính xâm lược mà bản chất của nó là làm rối loạn nghiêm trọng đến không khí của cuộc hội nghị Pháp - Việt sắp tới”.
Cả hai bức thư đó đã chẳng có tác động gì nhiều nếu không nói rằng bị quan chức Chính phủ Pháp thờ ơ, phớt lờ.

tam uoc viet phap 14 9 1946 ho chi minh chan thanh muon hoa binh  hinh 4                  Toàn cảnh khai mạc Hội nghị Fontainebleau ở Pháp vào ngày 6/7/1946 (ảnh tư liệu).
 
Do mâu thuẫn không hòa giải được với “thầy tu” Đácgiăngliơ bởi những quyết định và hành động ngỗ ngược, trắng trợn của ông này nên tháng 7-1946, Lơcléc đã xin từ chức tổng tư lệnh các lực lượng Pháp ở Viễn Đông. Sau này, Lui Xôren, nhà sử học Pháp đã nhận định:
“Nếu trong vấn đề Việt Nam, đại tướng Lơcléc tiêu biểu cho tương lai, chủ trương một sự hợp tác tin cậy lẫn nhau giữa Việt Minh và nước Cộng hòa Pháp vừa được giải phóng khỏi ách phát xít, thì đô đốc Đácgiăngliơ lại tiêu biểu cho quá khứ lỗi thời, chủ trương một chính sách cực kỳ phản động nhằm quay trở lại chủ nghĩa thực dân. Chính Đácgiăngliơ là một trong những kẻ phải chịu trách nhiệm về sự bùng nổ cuộc chiến tranh Đông Dương”.
Sau một thời gian đàm phán Việt - Pháp (từ tháng 7 đến tháng 9-1946), điều tất yếu xảy ra: Hội nghị Phôngtennơblô kết thúc thất bại, hai bên không ký được hiệp ước chính thức. Tuy nhiên Hồ Chí Minh đã đạt được điều mong muốn: trì hoãn thời điểm bùng nổ chiến tranh Đông Dương vào lúc có lợi nhất cho Cách mạng Việt Nam, cũng như tạo thêm nhiều thiện cảm trong mọi tầng lớp nhân dân Pháp.

 Bộ Chỉ huy chiến dịch họp thảo luận kế hoạch Bắc Tây Nguyên, 1954 (Ảnh TLBTLSQG).
 Bộ đội ta hành quân trong chiến dịch Bắc Tây Nguyên (Ảnh TLBTLSQG).
Cũng theo nhà sử học King C. Chen thì sau thất bại của cuộc đàm phán Việt - Pháp đó, Hồ Chí Minh đã nói với Mutê và Xanhtơni rằng: “Đừng để cho tôi ra về như thế này. Hãy cho tôi một vũ khí nào đó để chống bọn quá khích”. Với từ ngữ “quá khích”, không biết Hồ Chí Minh ám chỉ ai? Chúng ta biết rằng quân Tưởng đã không đợi đến khi có một sự dàn xếp dứt khoát giữa Việt Nam và Pháp như đã yêu cầu, mà rút hết vào tháng 6-1946. Bám theo chúng là đám đầu têu phản cách mạng như Nguyễn Tường Tam, Vũ Hồng Khanh… Đám lau nhau còn lại tự nhiên mất đầu, phải thay thầy đổi chủ, quay sang làm tay sai cho Pháp. Tại Hà Nội, bọn này định lợi dụng quân Pháp tổ chức diễu binh nhân dịp kỷ niệm “ngày 14-7” (Ngày 14-7-1789 quần chúng cách mạng Pháp đánh chiếm pháo đài Baxti - biểu tượng của chế độ phong kiến Pháp, ngày này đã vĩnh viễn đi vào lịch sử vinh quang của dân tộc Pháp và trở thành ngày Quốc Khánh của nước Cộng hòa Pháp) để tiến hành bạo loạn. Ngày 12-7-1946, nhờ sự giúp đỡ của quần chúng và sau một thời gian điều tra, lực lượng an ninh Cách mạng đã bất ngờ bắt giữ hơn 120 kẻ phản loạn với đầy đủ tang chứng. Khi thấy rõ những chứng cứ về tội ác đẫm máu của chúng như giết người, bắt cóc, tống tiền, in bạc giả… tại phố Ôn Như Hầu (nay là phố Nguyễn Gia Thiều), Huỳnh Thúc Kháng, quyền Chủ tịch nước (khi Chủ tịch Hồ Chí Minh đi Pháp), đã ký lệnh thi hành nghiêm phép nước, đưa vụ này ra xét xử, tiệt trừ triệt để. Đến đây, sự đe dọa của quân Tưởng không còn nữa, bè lũ phản cách mạng cũng tạm thời bị dẹp yên. Vậy Hồ Chí Minh ám chỉ ai vào thời điểm ký tạm ước khi dùng từ ngữ “quá khích” nếu không phải là chính quân Pháp ở Việt Nam?
Dù sao thì tới khuya 14-9-1946, Hồ Chí Minh và Mutê đã ký được một tạm ước. Tạm ước này là sự nhắc lại các điều khoản của Hiệp ước sơ bộ 6-3, cho Pháp thêm nhiều quyền trong lĩnh vực kinh tế ở tại Bắc - Việt Nam, còn Pháp hứa “sẽ dân chủ hơn” tại Nam Bộ. Vấn đề Nam Bộ, vẫn còn để ngỏ, hai bên sẽ tiếp tục thương lượng tìm một giải pháp dứt khoát vào đầu năm 1947.
Ký được tạm ước 14-9 là một bước đi tuyệt đẹp của Hồ Chí Minh.
Tạm ước đó chắc chắn không thể loại trừ được chiến tranh, có thể về mặt giá trị chẳng đáng là bao nhưng vẫn là một cái khiên tạm xài được và đối với quân Pháp ở Bắc - Việt Nam nó vẫn là vòng kim cô pháp lý, dù lỏng lẻo, nhưng có còn hơn không.


                      Hồ Chí Minh và Phạm Văn Đồng tại Paris,

                              Hồ Chí Minh và Marius Moutet bắt tay sau khi ký Tạm ước Việt - Pháp

Chủ tịch Hồ Chí Minh và Bộ trưởng Hải ngoại Pháp Marius Moutet ký bản tạm ước Việt – Pháp ngày 14-9-1946.Tạm ước 14/9/1946: Hòa để tiến. Bài đã được xuất bản.: 12/09/2011 09:00 GMT+7 , Tác giả: Vũ Khoan.

tam uoc viet phap 14 9 1946 ho chi minh chan thanh muon hoa binh  hinh 1               Chủ tịch Hồ Chí Minh gặp Cao ủy Pháp d’Argenlieu trên vịnh Hạ Long ngày 24/3/1946 (ảnh tư liệu). 
 
Ngày 14-10-1946, lúc 15 giờ, Hồ Chí Minh về tới Hà Nội trong sự đón mừng nồng nhiệt của toàn thể nhân dân thủ đô.
Bản tạm ước dù có thể đã làm chậm tiến trình nhưng không ngăn cản được sự ráo riết chuẩn bị chiến tranh của những cái đầu thực dân bảo thủ của Pháp ở Việt Nam. Ngày 23-11, quân đội Pháp công khai phá bỏ hiệp ước bằng cách đòi kiểm soát quân sự cảng Hải Phòng và đã bắn phá thành phố này làm rất nhiều người Việt Nam thiệt mạng (phía Pháp thừa nhận là 6.000 người, phía Việt Minh nói là 20.000 người).
Xung đột quân sự đầu tiên nổ ra tại Hải Phòng. Đầu tháng 11 năm 1946, quân Pháp chiếm trụ sở hải quan tại cảng Hải Phòng. Quốc hội Việt Nam phản đối hành động này và khẳng định chủ quyền của Việt Nam trong việc kiểm soát tất cả các vấn đề liên quan đến xuất nhập khẩu.
Ngày 30/10/1946 Bộ chỉ huy quân viễn chinh Pháp ở Đông Dương ra mệnh lệnh số 938- PC cùng với toàn bộ kế hoạch chi tiết triển khai đánh chiếm Hải Phòng. Điều này buộc quân và dân Hải Phòng nổi đậy.
Hải Phòng là cửa ngõ đường biển quan trọng có vị trí đặc biệt ở miền Bắc. Tại đây, Pháp bố trí một lực lượng mạnh, đặc biệt là pháo binh và thiết giáp, bao gồm: Trung đoàn pháo binh thuộc địa Ma-rốc 4; Trung đoàn chiến xa cơ động và một bộ phận thủy quân, không quân; tổng cộng khoảng 3000 quân. Về phía ta có Trung đoàn 41 Vệ quốc đoàn, 1 đại đội công an xung phong, 1 trung đội thủy quân cùng lực lượng tự vệ và nhân dân thành phố Hải Phòng.
9 giờ sáng ngày 20/11/1946, quân Pháp gây ra xung đột trên bến Tam Kỳ, xả súng bắn vào chiến sĩ và dân thường. Sau đó, chúng liên tục thực hiện các vụ nổ súng tấn công vào các vị trí trọng yếu trong thành phố bất chấp những thỏa thuận ngừng bắn tạm thời đã ký kết trước đó. Trắng trợn hơn, chúng gửi tối hậu thư đến Ủy ban bảo vệ thành phố, đòi giải tán các lực lượng vũ trang của ta ra khỏi khu vực nội thành. Va-luy, Tổng Chỉ huy quân đội Pháp ở Đông Dương từ Sài Gòn yêu cầu Chỉ huy quân Pháp tại Hải Phòng Đép-bơ: “Phải lợi dụng vụ rắc rối ngày 20 để củng cố thêm vị trí Hải Phòng của chúng ta”.
Sự kiềm chế của quân và dân Hải Phòng đã đến ranh giới tận cùng. Ngay khi các xung đội xảy ra, Ủy ban bảo vệ thành phố đã phát lệnh “chuẩn bị tác chiến”. Ngay lập tức, các hàng rào, chiến lũy được xây dựng tại các ngã tư quan trọng trong thành phố ngăn chặn các hướng tấn công của địch.
Ngày 21/11/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cho Moóclie, Chỉ huy quân sự miền Bắc Đông Dương. Trong thư, Người đề nghị hai bên cần thương lượng đề có giải pháp và trở về “Tình trạng trước ngày 20/11 nhằm ổn định tình hình ở Hải Phòng”.
Phớt lờ đề nghị thương lượng, sáng 23/11/1946, quân Pháp tiến công khắp nơi trong thành phố. Máy bay địch oanh tạc liên tiếp, pháo hạm từ ngoài biển bắn dữ dội vào các vị trí của ta trong nội thành và khu vực lân cận, nhất là khu vực Nhà hát thành phố, nhà ga, bưu điện, nhà đốc lý,… hòng hủy diệt thành phố. Bất chấp sự tiến công ồ ạt của kẻ thù, quân và dân thành phố vẫn kiên cường bám trụ. Dựa vào từng ổ đề kháng, tường nhà, góc phố, các chiến sĩ chiến đấu anh dũng, hiệp đồng đánh cả mặt trước, sau lưng, bên sườn quân địch, không cho chúng tiến công, giữ vững trận địa.
Quân và dân Thủ đô dựng chiến lũy cản bước tiến của giặc Pháp. (Ảnh tư liệu TTXVN)


Hình 2: Nhân dân Hà Nội dùng đồ đạc, tài sản dựng chiến lũy trên đường, cản bước xe tăng địch ( Phố Mai Hắc Đế tháng 12-1946). Ảnh: TTXVN
 
Trước tình hình đang diễn biến nghiêm trọng, trưa ngày 23/11/1946, Đài tiếng nói Việt Nam phát đi lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh về việc quân Pháp gây hấn ở Hải Phòng, Người kêu gọi “toàn thể đồng bào phải trấn tĩnh, các bộ đội và tự vệ phải sẵn sàng bảo vệ chính quyền của Tổ quốc, bảo vệ tính mệnh, tài sản của ngoại kiều”.
Đáp lời kêu gọi thiêng liêng của Bác Hồ, quân và dân thành phố Hải Phòng đã thề “Quyết tử để Tổ quốc quyết sinh”, quyết bảo vệ vị trí cửa ngõ Đông Bắc của Tổ quốc. Quân ta tổ chức nhiều cuộc phản kích ở khu vực nhà ga, Ngã Sáu, Phố Khách, phố Ba Ti, Nhà hát Lớn, Nhà máy đèn, Nhà máy nước; tiến công sân bay Cát Bi, đánh địch ở khu vực Trại bảo an binh, Trại Cau... Kết quả loại khỏi chiến đấu hơn 160 địch, thu hơn 20 súng các loại.
Ngày 26/11/1946, địch huy động lực lượng lớn tiến công, đánh phá các khu phố Lý Thường Kiệt, Hoàng Văn Thụ, Quang Trung, Cầu Đất nhằm đánh vào Sở Chỉ huy Trung đoàn 41. Cán bộ, chiến sĩ trung đoàn dựa vào công sự đẩy lui được nhiều đợt tiến công, buộc chúng phải co cụm. Quân Pháp gặp phải hỏa lực mạnh của lực lượng Việt Minh bảo vệ thành phố. Quân Tự vệ Việt Nam chỉ có súng trường Mousqueton, mã tấu và lựu đạn nhưng vẫn quyết tâm chiến đấu bảo vệ Hải Phòng. Chiến sự kéo dài cho đến khi người lính Việt Minh cuối cùng rút khỏi chiến trường vào ngày 28 tháng 11.
Tin chiến sự lan ra toàn quốc. Hồ Chí Minh kêu gọi nhân dân hãy bình tĩnh. Trong khi đó thì Võ Nguyên Giáp yêu cầu được gặp Tướng Molière (Tư lệnh Pháp tại Bắc Việt Nam) vào ngày 27/11/1946 để đàm phán. Mãi tới ngày 29/11, Tướng Molière mới chịu gặp Giáp. Khi nói chuyện, Tướng Molière nói thẳng lập trường của Pháp là Pháp phải kiểm soát Hải Phòng cùng các vùng phụ cận và quốc lộ số 5 (nối liền Hà Nội với Hải Phòng) cũng như tất cả các thông lộ nối liền với các đồn trú quân của Pháp. Nếu chính phủ Việt Nam không chấp nhận những điều kiện này thì không có đàm phán gì hết. Đòi hỏi của Pháp khíến cho chính quyền Việt Nam không còn hy vọng gì thương thuyết được với người Pháp và phải chuẩn bị chiến tranh. Tất các cơ quan chính quyền Việt Nam chuẩn bị rút lui ra khỏi thủ đô Hà Nội để chuẩn bị kháng chiến lâu dài. 
 

Hình 4: Pháo của bộ đội tại trận địa Láng - Hà Nội chuẩn bị khai hoả.

Hình 5: Ngày 19/12/1946, pháo đài Láng là nơI bắn phát đạn đầu tiên vào thành Hà Nội, mở đầu ngày toàn quốc kháng chiến.
     Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Dân tộc ta có thể trường kỳ kháng chiến, nhưng thực dân Pháp không thể trường kỳ xâm lược”. Bảy ngày đêm chiến đấu (từ ngày 20 đến ngày 26/11/1946) chống lại hàng nghìn quân tinh nhuệ của Pháp, được trang bị vũ khí hiện đại, có sự hỗ trợ của hải quân và không quân là một thử thách lớn trong những ngày đầu trước khi toàn quốc kháng chiến bùng nổ. Với tinh thần “Quyết tử để Tổ quốc quyết sinh”, quân và dân thành phố Hải Phòng đã kiên cường bám trụ, chiến đấu anh dũng, khiến kẻ địch bị bất ngờ vì phải đương đầu với sức mạnh của toàn dân, một sức mạnh “cả thành phố một lòng, quân dân cùng chiến đấu”. Bảy ngày đêm giữ vững Hải Phòng tuy không dài nhưng để lại nhiều bài học lớn về tác chiến trong thành phố của quân và dân ta. Cuộc chiến đấu “có tác dụng của một cuộc tổng diễn tập thực sự chuẩn bị cho trận đánh nhiều ngày ở Thủ đô Hà Nội xảy ra sau đó một tháng” như lời đánh giá của Đại tướng Võ Nguyên Giáp sau này.  Với hành động này, coi như Pháp đã mở lời thách thức chiến đấu với quân dân Việt Nam và như thế, đối với một chính quyền đứng đầu là Hồ Chí Minh lấy mục đích tối cao: “Dân tộc trên hết, Tổ quốc trên hết” làm lẽ sống, thì không thể không phát động kháng chiến. Ngày 29-11-1946, báo “Sự thật” ở Hà Nội, số 64, đăng lời kêu gọi của Hội nghiên cứu chủ nghĩa Mác ở Đông Dương (tức là Đảng Cộng sản Đông Dương rút vào hoạt động bí mật). Trong đó có đoạn: “Sự thật đã chứng tỏ rằng: thực dân Pháp ngang nhiên khiêu hấn. Chúng định dùng võ lực bắt ta phải nhượng bộ, nhưng không khi nào ta chịu. Tạm ước ngày 14-9 là một bước nhân nhượng cuối cùng. Nhân nhượng nữa là phạm đến chủ quyền đất nước, là hại quyền lợi cao trọng của dân tộc”.

Sự nghiệp cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh qua ảnh


Làng Sen – quê nội Bác
Làng Sen – quê nội Bác
Tháng 6/1911, Người ra nước ngoài, đi đến nước Pháp và nhiều nước châu Âu, châu Á, châu Phi, châu Mỹ. Người vừa lao động để sống, vừa học tập, nghiên cứu các học thuyết cách mạng. Năm 1917, Nguyễn Ái Quốc đến với chủ nghĩa Mác – Lênin, Người đã nhận rõ đây là đường lối duy nhất đúng đắn để giải phóng dân tộc và giải phóng xã hội.
Tháng 6-1911, Người ra nước ngoài, đi đến nước Pháp và nhiều nước châu Âu, châu Á, châu Phi, châu Mỹ. Người vừa lao động để sống, vừa học tập, nghiên cứu các học thuyết cách mạng. Năm 1917, Nguyễn Ái Quốc đến với chủ nghĩa Mác – Lênin, Người đã nhận rõ đây là đường lối duy nhất đúng đắn để giải phóng dân tộc và giải phóng xã hội. Trong ảnh: Bác Hồ làm phụ bếp trên con tàu đã đưa Người ra đi tìm đường cứu nước năm 1911
Năm 1919, Người gia nhập Đảng Xã hội pháp và hoạt động trong phong trào công nhân Pháp. Đầu năm đó, Người gửi đến Hội nghị Véc-xây (Pháp) “Bản yêu sách của nhân dân Việt Nam”, đòi Chính phủ Pháp phải thừa nhận các quyền tự do và bình đẳng của dân tộc Việt Nam
Năm 1919, Người gia nhập Đảng Xã hội pháp và hoạt động trong phong trào công nhân Pháp. Đầu năm đó, Người gửi đến Hội nghị Véc-xây (Pháp) “Bản yêu sách của nhân dân Việt Nam”, đòi Chính phủ Pháp phải thừa nhận các quyền tự do và bình đẳng của dân tộc Việt Nam
Ngôi nhà số 9, ngõ hẻm Com-poăng (Paris), nơi Người trọ từ năm 1920 đến năm 1923
Ngôi nhà số 9, ngõ hẻm Com-poăng (Paris), nơi Người trọ từ năm 1920 đến năm 1923
Tháng 12/1920, trong Đại hội lần thứ 18 của Đảng Xã hội Pháp, Người bỏ phiếu tán thành gia nhập Quốc tế cộng sản và tham gia thành lập Đảng Cộng sản Pháp.
Tháng 12-1920, trong Đại hội lần thứ 18 của Đảng Xã hội Pháp, Người bỏ phiếu tán thành gia nhập Quốc tế cộng sản và tham gia thành lập Đảng Cộng sản Pháp.
Năm 1921, Người tham gia thành lập Hội liên hiệp các dân tộc thuộc địa và năm 1922 xuất bản báo “Người cùng khổ” ở Pháp.
Năm 1921, Người tham gia thành lập Hội liên hiệp các dân tộc thuộc địa và năm 1922 xuất bản báo “Người cùng khổ” ở Pháp. Trong ảnh: Hồ Chủ Tịch và tờ báo Le Paria – Người cùng khổ
Tháng 6/1923, Người từ Pháp đi Liên Xô, tiếp tục nghiên cứu chủ nghĩa Mác – Lênin và tham gia công tác của Quốc tế cộng sản. Năm 1924, người dự Đại hội lần thứ 5 của Quốc tế cộng sản và được cử làm Ủy viên Bộ phương Đông, phụ trách Cục phương Nam, hướng dẫn và xây dựng phong trào cách mạng và phong trào Cộng sản ở các nước Đông – Nam châu Á. Năm 1925, Người thành lập Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức ở Á Đông.
Tháng 6-1923, Người từ Pháp đi Liên Xô, tiếp tục nghiên cứu chủ nghĩa Mác – Lênin và tham gia công tác của Quốc tế cộng sản. Năm 1924, người dự Đại hội lần thứ 5 của Quốc tế cộng sản và được cử làm Ủy viên Bộ phương Đông, phụ trách Cục phương Nam, hướng dẫn và xây dựng phong trào cách mạng và phong trào Cộng sản ở các nước Đông – Nam châu Á. Năm 1925, Người thành lập Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức ở Á Đông. Trong ảnh: Đồng chí Nguyễn Ái Quốc với một số đại biểu dự Đại Hội Quốc Tế Cộng Sản lần V
Từ 1930 đến 1940, Người ở nước ngoài tham gia công tác của Quốc tế Cộng sản, đồng thời theo dõi sát phong trào cách mạng trong nước và có những chị thị quý báu cho Ban chấp hành Trung ương Đảng.
Từ 1930 đến 1940, Người ở nước ngoài tham gia công tác của Quốc tế Cộng sản, đồng thời theo dõi sát phong trào cách mạng trong nước và có những chỉ thị quý báu cho Ban chấp hành Trung ương Đảng. Trong ảnh: Bác Hồ vào năm 1933 khi vừa từ Trung Quốc trở lại Nga
Sau 30 năm bôn ba hải ngoại, tháng 2 năm 1941, Bác Hồ về nước trựctiếp chỉ huy phong trào cách mạng trong nước. Bác sống và làm việc trong hang Pác Pó thuộc huyện Hà Quảng tỉnh Cao Bằng.
Sau 30 năm bôn ba hải ngoại, tháng 2 năm 1941, Bác Hồ về nước trực tiếp chỉ huy phong trào cách mạng trong nước. Bác sống và làm việc trong hang Pác Pó thuộc huyện Hà Quảng, tỉnh Cao Bằng. Trong ảnh: Lễ thành lập đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân
Ngày 24 tháng 5, Bác Hồ từ Cao Bằng về đến Tân Trào để chỉ đạo phong trào cách mạng trong cả nước.
Ngày 24 tháng 5, Bác Hồ từ Cao Bằng về đến Tân Trào để chỉ đạo phong trào cách mạng trong cả nước. Trong ảnh: Bác Hồ ở Hang Bòng (Tân Trào, Sơn Dương) 
Bữa cơm của Bác Hồ và các chiến sỹ ở Tân Trào trong những ngày kháng chiến chống thực dân Pháp
Bữa cơm của Bác Hồ và các chiến sỹ ở Tân Trào trong những ngày đấu tranh chống thực dân Pháp
Ngày 17 tháng 8, ngay sau Đại hội Quốc dân, Bác Hồ ra lời kêu gọi, đồng bào cả nước Tổng khởi nghĩa, động viên quân dân ta nhất tề xông lên giành lấy chính quyền, xây dựng nước Việt Nam độc lập, tự do.
Ngày 17 tháng 8, ngay sau Đại hội Quốc dân, Bác Hồ ra lời kêu gọi đồng bào cả nước Tổng khởi nghĩa, động viên quân dân ta nhất tề xông lên giành lấy chính quyền, xây dựng nước Việt Nam độc lập, tự do. Trong ảnh: Lá cờ treo tại đình Tân Trào trong Đại hội Quốc dân.
Ngày 19.8.1945, hơn 10 vạn quần chúng thủ đô Hà Nội đã tham gia mít tinh mở đầu cuộc tổng khởi nghĩa giành chính quyền.
Ngày 19-8-1945, hơn 10 vạn quần chúng thủ đô Hà Nội đã tham gia mít tinh mở đầu cuộc tổng khởi nghĩa giành chính quyền.
Và kết quả đã làm nên cuộc cách mạng tháng 8 kỳ diệu với chiến thắng vang dội.
Và kết quả đã làm nên cuộc Cách mạng Tháng 8 kỳ diệu với chiến thắng vang dội.
Ngày 22 tháng 8, Bác Hồ rời Tân Trào về Hà Nội. Ngày 2/9/1945, Người đọc bản Tuyên ngôn độc lập khai sinh nước Việt Nam dân chủ cộng hòa.
Ngày 22 tháng 8, Bác Hồ rời Tân Trào về Hà Nội. Ngày 2-9-1945, Người đọc bản Tuyên ngôn độc lập khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Lễ tuyên ngôn Độc Lập tại Quảng trường Ba Đình, Hà Nội ngày 2-9-1945
Lễ tuyên ngôn Độc Lập tại Quảng trường Ba Đình, Hà Nội ngày 2-9-1945
Người đọc bản Tuyên ngôn Độc lập khai sinh nước Việt Nam dân chủ cộng hòa
Người đọc bản Tuyên ngôn Độc lập khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
Tháng 9/1945 câu kết với các đế quốc Mỹ, Anh và bọn phản động Quốc dân Đảng Trung Quốc, thực dân Pháp trở lại xâm lược nước ta một lần nữa, âm mưu xóa bỏ mọi thành quả của Cách mạng tháng Tám. Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng Ban chấp hành Trung ương Đảng lãnh đạo toàn quân, toàn dân ta vừa đánh trả bọn thực dân Pháp xâm lược ở miền Nam, vừa đối phó với bọn phản động Tưởng Giới Thạch ở miền Bắc.

Tháng 9-1945 câu kết với các đế quốc Mỹ, Anh và bọn phản động Quốc dân Đảng Trung Quốc, thực dân Pháp trở lại xâm lược nước ta một lần nữa, âm mưu xóa bỏ mọi thành quả của Cách mạng Tháng Tám. Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng Ban chấp hành Trung ương Đảng lãnh đạo toàn quân, toàn dân ta vừa đánh trả bọn thực dân Pháp xâm lược ở miền Nam, vừa đối phó với bọn phản động Tưởng Giới Thạch ở miền Bắc. Trong ảnh: Quân đội Trung Hoa Dân quốc đến Hải Phòng, năm 1945

Quân Anh đến Sài Gòn, tháng 9 năm 1945
Quân Anh đến Sài Gòn, tháng 9 năm 1945
Hiệp định sơ bộ ngày 6/3/1946 được ký kết giữa Việt Nam và Dân chủ Cộng hòa Pháp. Quân Tưởng Giới Thạch rút khỏi miền Bắc Việt Nam.
Hiệp định sơ bộ ngày 6-3-1946 được ký kết giữa Việt Nam và Pháp. Quân Tưởng Giới Thạch rút khỏi miền Bắc Việt Nam.
Chủ tịch Hồ Chí Minh và thư ký riêng Vũ Đình Huỳnh tại Paris năm 1946
Chủ tịch Hồ Chí Minh và thư ký riêng Vũ Đình Huỳnh tại Paris năm 1946
Chủ tịch Hồ Chí Minh và Bộ trưởng Hải ngoại Pháp Marius Moutet ký bản tạm ước Việt – Pháp ngày 14-9-1946
Chủ tịch Hồ Chí Minh và Bộ trưởng Hải ngoại Pháp Marius Moutet ký bản tạm ước Việt – Pháp ngày 14-9-1946
Quân đội Pháp mở rộng đánh chiếm miền Nam, kéo ra chiếm đóng miền Bắc, âm mưu tiến tới xóa bỏ Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Trước tình hình ấy, tháng 12/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến.

Quân đội Pháp mở rộng đánh chiếm miền Nam, kéo ra chiếm đóng miền Bắc, âm mưu tiến tới xóa bỏ Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Trước tình hình ấy, tháng 12-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến. Trong ảnh: Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến – Hồ Chí Minh (9-12-1946)

Sau đó Người trở lại Việt Bắc lãnh đạo cuộc kháng chiến chống Pháp. Trong 9 năm, trường kỳ kháng chiến, Bác Hồ cùng với Trung ương Đảng lãnh đạo quân và dân đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.

Sau đó Người trở lại Việt Bắc lãnh đạo cuộc kháng chiến chống Pháp. Trong 9 năm, trường kỳ kháng chiến, Bác Hồ cùng với Trung ương Đảng lãnh đạo quân và dân đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Trong ảnh: Nhà sàn đầu tiên của Bác ở Vai Cày, Đại Từ, Thái Nguyên

Ở chiến khu, mọi sinh hoạt của Bác…
Ở chiến khu, mọi sinh hoạt của Bác…
từ làm việc…
từ làm việc…
…đến việc ra các quyết định quan trọng đến vận mệnh dân tộc đều hết sức giản dị, đơn sơ
… đến việc ra các quyết định quan trọng đến vận mệnh dân tộc đều hết sức giản dị, đơn sơ.
Những hình ảnh Bác làm việc ở chiến khu Việt Bắc
Hình ảnh Bác làm việc ở chiến khu Việt Bắc
Bác Hồ đi công tác ở chiến khu Việt Bắc
Bác Hồ đi công tác ở chiến khu Việt Bắc
Bác tăng gia sản xuất ở chiến khu Việt Bắc
Bác tăng gia sản xuất ở chiến khu Việt Bắc
Bác Hồ với đồng chí Phạm Văn Đồng, Đại tướng Võ Nguyên Giáp tại ATK Định Hóa
Bác Hồ với đồng chí Phạm Văn Đồng, Đại tướng Võ Nguyên Giáp tại ATK Định Hóa
Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng các đồng chí bảo vệ và giúp việc tại chiến khu Việt Bắc
Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng các đồng chí bảo vệ và giúp việc tại chiến khu Việt Bắc
Bác Hồ đọc báo ở chiến khu Việt Bắc, năm 1951
Bác Hồ đọc báo ở chiến khu Việt Bắc, năm 1951
Bác Hồ nói chuyện về tình hình cách mạng trong nước và thế giới với cán bộ, chiến sỹ bảo vệ và phục vụ những ngày ở Chiến khu Việt Bắc.
Bác Hồ nói chuyện về tình hình cách mạng trong nước và thế giới với cán bộ, chiến sỹ bảo vệ và phục vụ những ngày ở Chiến khu Việt Bắc.
Ở Việt Bắc, Bác thường đi thăm bà con dân tộc
Ở Việt Bắc, Bác thường đi thăm bà con dân tộc
 
 
Ngoài giờ làm việc, Bác chơi thể thao và tập võ để nâng cao sức khỏe
Ngoài giờ làm việc, Bác chơi thể thao và tập võ để nâng cao sức khỏe
Đến cuối năm 1953, Chiến tranh Đông Dương đã kéo dài 8 năm, Pháp lâm vào thế bị động trên chiến trường, quân đội dưới sự lãnh đạo của Bác và Đảng đã giải phóng nhiều khu vực rộng lớn ở Tây Nguyên, khu 5, các tỉnh Cao Bắc Lạng,.. Thời cơ đã đến, Bác và các đồng chí lãnh đạo của Đảng như Đại tướng Võ Nguyên Giáp, đồng chí Trường Chinh … đã họp bàn và ra quyết định mở chiến dịch Điện BIên Phủ.

Đến cuối năm 1953, Chiến tranh Đông Dương đã kéo dài 8 năm, Pháp lâm vào thế bị động trên chiến trường, quân đội dưới sự lãnh đạo của Bác và Đảng đã giải phóng nhiều khu vực rộng lớn ở Tây Nguyên, khu 5, các tỉnh Cao Bắc Lạng... Thời cơ đã đến, Bác và các đồng chí lãnh đạo của Đảng như Đại tướng Võ Nguyên Giáp, đồng chí Trường Chinh... đã họp bàn và ra quyết định mở chiến dịch Điện BIên Phủ. Trong ảnh: Hình ảnh “Ông Ké” trở nên quen thuộc, gần gũi với đồng bào các dân tộc.

Bác tại nhà sàn Việt Bắc
Bác tại nhà sàn Việt Bắc
Hồ Chủ tịch ở chiến khu Việt Bắc trong thời gian kháng chiến chống Pháp, cùng với Đại tướng Võ Nguyên Giáp và đồng chí Trường Chinh, sau này là Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam.
Hồ Chủ tịch ở chiến khu Việt Bắc trong thời gian kháng chiến chống Pháp, cùng với Đại tướng Võ Nguyên Giáp và đồng chí Trường Chinh, sau này là Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam.
Vào tháng 12 năm 1953, Bác và các đồng chí lãnh đạo của Đảng họp tại Việt Bắc quyết định mở chiến dịch Điện Biên Phủ
Vào tháng 12 năm 1953, Bác và các đồng chí lãnh đạo của Đảng họp tại Việt Bắc quyết định mở chiến dịch Điện Biên Phủ
Chủ tịch Hồ Chí Minh trao nhiệm vụ cho Đại tướng Võ Nguyên Giáp chỉ huy chiến dịch Điện Biên Phủ
Chủ tịch Hồ Chí Minh trao nhiệm vụ cho Đại tướng Võ Nguyên Giáp chỉ huy chiến dịch Điện Biên Phủ
Bộ đội hành quân ra mặt trận.
Sau hai đợt tiến công ở Điện Biên Phủ, ta đã giành được nhiều thắng lợi rất lớn và rất quan trọng. Bộ Chính trị và Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ đạo lực lượng cả nước phối hợp hoạt động với mặt trận Điện Biên Phủ. Trong ảnh: Bộ đội hành quân ra mặt trận.
Công binh, dân công, thanh niên xung phong mở đường Tuần giáo – Điện Biên Phủ.
Ngày 19-4-1954, Bộ Chính trị ra hai nghị quyết: một chỉ đạo Điện Biên Phủ tiếp tục thấu triệt phương châm “đánh chắc, thắng chắc”; một chỉ đạo chiến trường trong cả nước tiếp tục thấu triệt phương châm “đánh nhỏ, ăn chắc”. Trong ảnh: Công binh, dân công, thanh niên xung phong mở đường Tuần giáo – Điện Biên Phủ.
Bộ đội Đại đoàn 351 và 312 kéo pháo vào trận địa.
56 ngày đêm chiến đấu dũng cảm, kiên cường, tập đoàn cứ điểm mạnh nhất Đông Dương của thực dân Pháp lúc bấy giờ bị Quân đội Nhân dân Việt Nam đập tan. Chiến thắng Điện Biên Phủ là kết quả hợp thành của một loạt nhân tố dân tộc và thời đại, là đỉnh cao chói lọi của chủ nghĩa yêu nước, chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam thời đại mới dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh. Trong ảnh: Bộ đội Đại đoàn 351 và 312 kéo pháo vào trận địa.
Bộ đội ta reo mừng chiến thắng bên xác máy bay địch.
Bộ đội ta reo mừng chiến thắng bên xác máy bay địch.
Quân lính Pháp thất trận tại Điện Biên Phủ lũ lượt ra hàng.
Quân lính Pháp thất trận tại Điện Biên Phủ lũ lượt ra hàng.
17 giờ 40 phút ngày 7-5-1954, bộ đội ta đã cắm lá cờ “Quyết chiến quyết thắng” trên nóc hầm Tướng De Castries.
17 giờ 40 phút ngày 7-5-1954, bộ đội ta đã cắm lá cờ “Quyết chiến quyết thắng” trên nóc hầm Tướng De Castries.
Bác Hồ trao tặng huy hiệu Chiến sĩ Điện Biên Phủ cho chiến sỹ trinh sát đã lập nhiều thành tích xuất sắc
Bác Hồ trao tặng huy hiệu Chiến sĩ Điện Biên Phủ cho chiến sỹ trinh sát đã lập nhiều thành tích xuất sắc
Ngày 7-5-1954, quân đội Pháp đại bại ở Điện Biên Phủ. Đúng 16 giờ 30 phút, ngày 8-5-1954, Hội nghị Giơ-ne-vơ về Đông Dương khai mạc. Ngày 20-7-1954, Hiệp định Giơ-ne-vơ về đình chỉ chiến sự ở Đông Dương được ký kết.
Ngày 7-5-1954, quân đội Pháp đại bại ở Điện Biên Phủ. Đúng 16 giờ 30 phút, ngày 8-5-1954, Hội nghị Giơ-ne-vơ về Đông Dương khai mạc. Ngày 20-7-1954, Hiệp định Giơ-ne-vơ về đình chỉ chiến sự ở Đông Dương được ký kết. Trong ảnh: Đại diện Việt Nam Dân chủ cộng hoà Tạ Quang Bửu (ngồi thứ hai từ bên trái) ký Hiệp định Giơ-ne-vơ.
Năm cửa ô đón mừng đoàn quân tiến về – bộ đội tiếp quản thủ đô Hà Nội tháng 10 năm 1954
Năm cửa ô đón mừng đoàn quân tiến về – bộ đội tiếp quản thủ đô Hà Nội tháng 10 năm 1954

 Theo GD&TĐ

Làng Trù – quê ngoại Bác
Làng Trù – quê ngoại Bác

(Còn tiếp)
-------------------------------------------------------------




Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

TT&HĐ I - 9/d

MUÔN MẶT ĐỜI THƯỜNG III/104

NGẬM SẦU (ĐL)