"Chủ nghĩa anh hùng theo mệnh lệnh, bạo lực phi lý và tất cả những điều
vô nghĩa nhân danh lòng ái quốc - tôi mới căm ghét chúng làm sao!" -Albert Einstein
"Dân ta phải biết sử ta, cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam. Sử ta dạy
cho ta những chuyện vẻ vang của tổ tiên ta. Dân ta là con Rồng cháu
Tiên, có nhiều người tài giỏi đánh Bắc dẹp Nam, yên dân trị nước, tiếng
để muôn đời. Sử ta dạy cho ta bài học này: Lúc nào dân ta đoàn kết muôn
người như một thì nước ta độc lập, tự do. Trái lại lúc nào dân ta không
đoàn kết thì bị nước ngoài xâm lấn"
Hồ Chí Minh
"Lòng yêu nước và sự đoàn kết của nhân dân là một lực lượng vô cùng to
lớn, không ai thắng nổi. Nhờ lực lượng ấy mà tổ tiên ta đã đánh thắng
quân Nguyên, quân Minh, đã giữ vững quyền tự do, tự chủ. Nhờ lực lượng
ấy mà chúng ta làm cách mạng thành công giành được độc lập. Nhờ lực
lượng ấy mà sức kháng chiến của ta càng ngày càng mạnh. Nhờ lực lượng ấy
mà quân và dân ta quyết chịu đựng muôn nỗi khó khăn, thiếu thốn, đói
khổ, tang tóc, quyết một lòng đánh tan quân giặc cướp nước."
Hồ Chí Minh
“Chiến
tranh có thể kéo dài 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa. Hà Nội,
Hải Phòng, và một số thành phố, xí nghiệp có thể bị tàn phá, song nhân
dân Việt Nam quyết không sợ! Không có gì quí hơn độc lập, tự do! Đến
ngày thắng lợi, nhân dân ta sẽ xây dựng lại đất nước ta đàng hoàng hơn,
to đẹp hơn!” Hồ Chí Minh
"Thà làm dân một nước độc lập còn hơn làm vua một nước nô lệ" Phạm Khắc Hòe
Chỉ
một ngày sau khi Hồ Chí Minh rời Việt Nam, ngày 1-6-1946, Đácgiăngliơ
đã lập ra cái gọi là “Chính phủ Nam Kỳ tự trị”, đứng đầu là Nguyễn Văn Thịnh. Hành động này hết sức ngang ngược, vi phạm thô bạo Hiệp định sơ bộ
6-3, trong đó có nêu rõ “vấn đề Nam Bộ sẽ giải quyết thông qua cuộc
trưng cầu dân ý”. Tệ hại hơn nữa, một đoàn đại biểu của cái nước tự trị
do Pháp nặn ra một cách vội vã này cũng được gửi sang Pari để thương
thuyết riêng với Pháp. Đúng là một trò hề!
Không
những thế, ngày 21-6, Đácgiăngliơ ra lệnh cho quân Pháp tiến chiếm Tây
Nguyên, mưu toan lập thêm một “xứ tự trị” giả hiệu nữa. Ngày 25-6, quân
Pháp chiếm giữ Phủ toàn quyền cũ ở Hà Nội (theo hiệp ước Việt - Pháp ký
ngày 20-4-1946 thì Phủ toàn quyền cũ không có trong danh sách những ngôi
nhà thuộc quyền của Pháp).
Hồ
Chí Minh, lúc đó đang ở Pháp, đã gửi hai bức thư vào ngày 27-6 và 12-7
để phản đối những hành động của Đácgiăngliơ. Trong bức thư đề ngày 27-6
gửi cho Bộ trưởng Bộ Pháp quốc hải ngoại (thực chất là Bộ Thuộc địa) là
Mariuýt Mutê, có đoạn:
“Thái
độ khiêu khích của những người chỉ huy quân sự cục bộ Pháp là nguy cơ
làm mất thiện chí của nhân dân Việt Nam đối với nước Pháp và có thể gây
trở ngại đáng kể cho diễn biến của cuộc đàm phán ngoại giao sắp tới giữa
hai đoàn đại biểu của hai chính phủ chúng ta”.
Trong bức thư đề ngày 12-7, gửi Chính phủ Pháp ở Pari, có đoạn:
“Những
người chỉ huy quân sự Pháp ở Việt Nam, với những hành động của họ ở Nam
Bộ từ ngày 6-3, ngày càng vi phạm đến Hiệp định sơ bộ đã được ký kết
giữa Việt Nam và Pháp, là người khởi xướng và chịu trách nhiệm về hai
hành động có tính xâm lược mà bản chất của nó là làm rối loạn nghiêm
trọng đến không khí của cuộc hội nghị Pháp - Việt sắp tới”.
Cả hai bức thư đó đã chẳng có tác động gì nhiều nếu không nói rằng bị quan chức Chính phủ Pháp thờ ơ, phớt lờ.
Toàn cảnh khai mạc Hội nghị Fontainebleau ở Pháp vào ngày 6/7/1946 (ảnh tư liệu).
Do
mâu thuẫn không hòa giải được với “thầy tu” Đácgiăngliơ bởi những quyết
định và hành động ngỗ ngược, trắng trợn của ông này nên tháng 7-1946,
Lơcléc đã xin từ chức tổng tư lệnh các lực lượng Pháp ở Viễn Đông. Sau
này, Lui Xôren, nhà sử học Pháp đã nhận định:
“Nếu
trong vấn đề Việt Nam, đại tướng Lơcléc tiêu biểu cho tương lai, chủ
trương một sự hợp tác tin cậy lẫn nhau giữa Việt Minh và nước Cộng hòa
Pháp vừa được giải phóng khỏi ách phát xít, thì đô đốc Đácgiăngliơ lại
tiêu biểu cho quá khứ lỗi thời, chủ trương một chính sách cực kỳ phản
động nhằm quay trở lại chủ nghĩa thực dân. Chính Đácgiăngliơ là một
trong những kẻ phải chịu trách nhiệm về sự bùng nổ cuộc chiến tranh Đông
Dương”.
Sau
một thời gian đàm phán Việt - Pháp (từ tháng 7 đến tháng 9-1946), điều
tất yếu xảy ra: Hội nghị Phôngtennơblô kết thúc thất bại, hai bên không
ký được hiệp ước chính thức. Tuy nhiên Hồ Chí Minh đã đạt được điều mong
muốn: trì hoãn thời điểm bùng nổ chiến tranh Đông Dương vào lúc có lợi
nhất cho Cách mạng Việt Nam, cũng như tạo thêm nhiều thiện cảm trong mọi
tầng lớp nhân dân Pháp.
Bộ Chỉ huy chiến dịch họp thảo luận kế hoạch Bắc Tây Nguyên, 1954 (Ảnh TLBTLSQG).
Bộ đội ta hành quân trong chiến dịch Bắc Tây Nguyên (Ảnh TLBTLSQG).
Cũng
theo nhà sử học King C. Chen thì sau thất bại của cuộc đàm phán Việt -
Pháp đó, Hồ Chí Minh đã nói với Mutê và Xanhtơni rằng: “Đừng để cho tôi
ra về như thế này. Hãy cho tôi một vũ khí nào đó để chống bọn quá
khích”. Với từ ngữ “quá khích”, không biết Hồ Chí Minh ám chỉ ai? Chúng
ta biết rằng quân Tưởng đã không đợi đến khi có một sự dàn xếp dứt khoát
giữa Việt Nam và Pháp như đã yêu cầu, mà rút hết vào tháng 6-1946. Bám
theo chúng là đám đầu têu phản cách mạng như Nguyễn Tường Tam, Vũ Hồng
Khanh… Đám lau nhau còn lại tự nhiên mất đầu, phải thay thầy đổi chủ,
quay sang làm tay sai cho Pháp. Tại Hà Nội, bọn này định lợi dụng quân
Pháp tổ chức diễu binh nhân dịp kỷ niệm “ngày 14-7” (Ngày 14-7-1789 quần
chúng cách mạng Pháp đánh chiếm pháo đài Baxti - biểu tượng của chế độ
phong kiến Pháp, ngày này đã vĩnh viễn đi vào lịch sử vinh quang của dân
tộc Pháp và trở thành ngày Quốc Khánh của nước Cộng hòa Pháp) để tiến
hành bạo loạn. Ngày 12-7-1946, nhờ sự giúp đỡ của quần chúng và sau một
thời gian điều tra, lực lượng an ninh Cách mạng đã bất ngờ bắt giữ hơn
120 kẻ phản loạn với đầy đủ tang chứng. Khi thấy rõ những chứng cứ về
tội ác đẫm máu của chúng như giết người, bắt cóc, tống tiền, in bạc giả…
tại phố Ôn Như Hầu (nay là phố Nguyễn Gia Thiều), Huỳnh Thúc Kháng,
quyền Chủ tịch nước (khi Chủ tịch Hồ Chí Minh đi Pháp), đã ký lệnh thi
hành nghiêm phép nước, đưa vụ này ra xét xử, tiệt trừ triệt để. Đến đây,
sự đe dọa của quân Tưởng không còn nữa, bè lũ phản cách mạng cũng tạm
thời bị dẹp yên. Vậy Hồ Chí Minh ám chỉ ai vào thời điểm ký tạm ước khi
dùng từ ngữ “quá khích” nếu không phải là chính quân Pháp ở Việt Nam?
Dù
sao thì tới khuya 14-9-1946, Hồ Chí Minh và Mutê đã ký được một tạm
ước. Tạm ước này là sự nhắc lại các điều khoản của Hiệp ước sơ bộ 6-3,
cho Pháp thêm nhiều quyền trong lĩnh vực kinh tế ở tại Bắc - Việt Nam,
còn Pháp hứa “sẽ dân chủ hơn” tại Nam Bộ. Vấn đề Nam Bộ, vẫn còn để ngỏ,
hai bên sẽ tiếp tục thương lượng tìm một giải pháp dứt khoát vào đầu
năm 1947.
Ký được tạm ước 14-9 là một bước đi tuyệt đẹp của Hồ Chí Minh.
Tạm
ước đó chắc chắn không thể loại trừ được chiến tranh, có thể về mặt giá
trị chẳng đáng là bao nhưng vẫn là một cái khiên tạm xài được và đối
với quân Pháp ở Bắc - Việt Nam nó vẫn là vòng kim cô pháp lý, dù lỏng
lẻo, nhưng có còn hơn không.
Hồ Chí Minh và Marius Moutet bắt tay sau khi ký Tạm ước Việt - Pháp Chủ tịch Hồ Chí Minh và Bộ trưởng Hải ngoại Pháp Marius Moutet ký bản tạm ước Việt – Pháp ngày 14-9-1946.Tạm ước 14/9/1946: Hòa để tiến. Bài đã được xuất bản.: 12/09/2011 09:00 GMT+7 , Tác giả: Vũ Khoan. Chủ tịch Hồ Chí Minh gặp Cao ủy Pháp d’Argenlieu trên vịnh Hạ Long ngày 24/3/1946 (ảnh tư liệu).
Ngày 14-10-1946, lúc 15 giờ, Hồ Chí Minh về tới Hà Nội trong sự đón mừng nồng nhiệt của toàn thể nhân dân thủ đô.
Bản
tạm ước dù có thể đã làm chậm tiến trình nhưng không ngăn cản được sự
ráo riết chuẩn bị chiến tranh của những cái đầu thực dân bảo thủ của
Pháp ở Việt Nam. Ngày 23-11, quân đội Pháp công khai phá bỏ hiệp ước
bằng cách đòi kiểm soát quân sự cảng Hải Phòng và đã bắn phá thành phố
này làm rất nhiều người Việt Nam thiệt mạng (phía Pháp thừa nhận là
6.000 người, phía Việt Minh nói là 20.000 người). Xung đột quân sự đầu tiên nổ ra tại Hải Phòng. Đầu tháng 11 năm 1946, quân Pháp chiếm trụ sở hải quan
tại cảng Hải Phòng. Quốc hội Việt Nam phản đối hành động này và khẳng
định chủ quyền của Việt Nam trong việc kiểm soát tất cả các vấn đề liên
quan đến xuất nhập khẩu. Ngày 30/10/1946 Bộ chỉ huy quân viễn chinh Pháp ở Đông Dương ra mệnh
lệnh số 938- PC cùng với toàn bộ kế hoạch chi tiết triển khai đánh chiếm
Hải Phòng. Điều này buộc quân và dân Hải Phòng nổi đậy. Hải Phòng là cửa ngõ đường biển quan trọng có vị trí đặc biệt ở miền
Bắc. Tại đây, Pháp bố trí một lực lượng mạnh, đặc biệt là pháo binh và
thiết giáp, bao gồm: Trung đoàn pháo binh thuộc địa Ma-rốc 4; Trung đoàn
chiến xa cơ động và một bộ phận thủy quân, không quân; tổng cộng khoảng
3000 quân. Về phía ta có Trung đoàn 41 Vệ quốc đoàn, 1 đại đội công an
xung phong, 1 trung đội thủy quân cùng lực lượng tự vệ và nhân dân thành
phố Hải Phòng. 9 giờ sáng ngày 20/11/1946, quân Pháp gây ra xung đột trên bến Tam Kỳ,
xả súng bắn vào chiến sĩ và dân thường. Sau đó, chúng liên tục thực hiện
các vụ nổ súng tấn công vào các vị trí trọng yếu trong thành phố bất
chấp những thỏa thuận ngừng bắn tạm thời đã ký kết trước đó. Trắng trợn
hơn, chúng gửi tối hậu thư đến Ủy ban bảo vệ thành phố, đòi giải tán các
lực lượng vũ trang của ta ra khỏi khu vực nội thành. Va-luy, Tổng Chỉ
huy quân đội Pháp ở Đông Dương từ Sài Gòn yêu cầu Chỉ huy quân Pháp tại
Hải Phòng Đép-bơ: “Phải lợi dụng vụ rắc rối ngày 20 để củng cố thêm vị trí Hải Phòng của chúng ta”.
Sự kiềm chế của quân và dân Hải Phòng đã
đến ranh giới tận cùng. Ngay khi các xung đội xảy ra, Ủy ban bảo vệ
thành phố đã phát lệnh “chuẩn bị tác chiến”. Ngay lập tức, các hàng rào,
chiến lũy được xây dựng tại các ngã tư quan trọng trong thành phố ngăn
chặn các hướng tấn công của địch.
Ngày 21/11/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh
gửi thư cho Moóclie, Chỉ huy quân sự miền Bắc Đông Dương. Trong thư,
Người đề nghị hai bên cần thương lượng đề có giải pháp và trở về “Tình
trạng trước ngày 20/11 nhằm ổn định tình hình ở Hải Phòng”.
Phớt lờ đề nghị thương lượng, sáng
23/11/1946, quân Pháp tiến công khắp nơi trong thành phố. Máy bay địch
oanh tạc liên tiếp, pháo hạm từ ngoài biển bắn dữ dội vào các vị trí của
ta trong nội thành và khu vực lân cận, nhất là khu vực Nhà hát thành
phố, nhà ga, bưu điện, nhà đốc lý,… hòng hủy diệt thành phố. Bất chấp sự
tiến công ồ ạt của kẻ thù, quân và dân thành phố vẫn kiên cường bám
trụ. Dựa vào từng ổ đề kháng, tường nhà, góc phố, các chiến sĩ chiến đấu
anh dũng, hiệp đồng đánh cả mặt trước, sau lưng, bên sườn quân địch,
không cho chúng tiến công, giữ vững trận địa. Quân và dân Thủ đô dựng chiến lũy cản bước tiến của giặc Pháp. (Ảnh tư liệu TTXVN)
Hình 2: Nhân dân Hà Nội dùng đồ đạc, tài sản dựng chiến lũy trên
đường, cản bước xe tăng địch ( Phố Mai Hắc Đế tháng 12-1946). Ảnh:
TTXVN
Trước tình hình đang diễn biến nghiêm
trọng, trưa ngày 23/11/1946, Đài tiếng nói Việt Nam phát đi lời kêu gọi
của Chủ tịch Hồ Chí Minh về việc quân Pháp gây hấn ở Hải Phòng, Người
kêu gọi “toàn thể đồng bào phải trấn tĩnh, các bộ đội và tự vệ phải
sẵn sàng bảo vệ chính quyền của Tổ quốc, bảo vệ tính mệnh, tài sản của
ngoại kiều”.
Đáp lời kêu gọi thiêng liêng của Bác Hồ,
quân và dân thành phố Hải Phòng đã thề “Quyết tử để Tổ quốc quyết
sinh”, quyết bảo vệ vị trí cửa ngõ Đông Bắc của Tổ quốc. Quân ta tổ chức
nhiều cuộc phản kích ở khu vực nhà ga, Ngã Sáu, Phố Khách, phố Ba Ti,
Nhà hát Lớn, Nhà máy đèn, Nhà máy nước; tiến công sân bay Cát Bi, đánh
địch ở khu vực Trại bảo an binh, Trại Cau... Kết quả loại khỏi chiến đấu
hơn 160 địch, thu hơn 20 súng các loại.
Ngày
26/11/1946, địch huy động lực lượng
lớn tiến công, đánh phá các khu phố Lý Thường Kiệt, Hoàng Văn Thụ,
Quang Trung, Cầu Đất nhằm đánh vào Sở Chỉ huy Trung đoàn 41. Cán bộ,
chiến sĩ trung đoàn dựa vào công sự đẩy lui được nhiều đợt tiến công,
buộc chúng phải co cụm. Quân Pháp gặp phải hỏa lực mạnh của lực lượng
Việt Minh bảo vệ thành phố. Quân Tự vệ Việt Nam chỉ có súng trường
Mousqueton, mã tấu và lựu đạn
nhưng vẫn quyết tâm chiến đấu bảo vệ Hải Phòng. Chiến sự kéo dài cho
đến khi người lính Việt Minh cuối cùng rút khỏi chiến trường vào ngày 28
tháng 11.
Tin chiến sự lan ra toàn quốc. Hồ Chí Minh kêu gọi nhân dân hãy bình tĩnh. Trong khi đó thì Võ Nguyên Giáp
yêu cầu được gặp Tướng Molière (Tư lệnh Pháp tại Bắc Việt Nam) vào ngày
27/11/1946 để đàm phán. Mãi tới ngày 29/11, Tướng Molière mới chịu gặp
Giáp. Khi nói chuyện, Tướng Molière nói thẳng lập trường của Pháp là
Pháp phải kiểm soát Hải Phòng cùng các vùng phụ cận và quốc lộ số 5 (nối
liền Hà Nội với Hải Phòng) cũng như tất cả các thông lộ nối liền với
các đồn trú quân của Pháp. Nếu chính phủ Việt Nam không chấp nhận những
điều kiện này thì không có đàm phán gì hết. Đòi hỏi của Pháp khíến cho
chính quyền Việt Nam không còn hy vọng gì thương thuyết được với người
Pháp và phải chuẩn bị chiến tranh. Tất các cơ quan chính quyền Việt Nam
chuẩn bị rút lui ra khỏi thủ đô Hà Nội để chuẩn bị kháng chiến lâu dài.
Hình 4: Pháo của bộ đội tại trận địa Láng - Hà Nội chuẩn bị khai hoả.
Hình 5: Ngày 19/12/1946, pháo đài Láng là nơI bắn phát đạn đầu tiên vào thành Hà Nội, mở đầu ngày toàn quốc kháng chiến.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Dân tộc ta có thể trường kỳ kháng chiến, nhưng thực dân Pháp không thể trường kỳ xâm lược”.
Bảy ngày đêm chiến đấu (từ ngày 20 đến ngày 26/11/1946) chống lại hàng
nghìn quân tinh nhuệ của Pháp, được trang bị vũ khí hiện đại, có sự hỗ
trợ của hải quân và không quân là một thử thách lớn trong những ngày đầu
trước khi toàn quốc kháng chiến bùng nổ. Với tinh thần “Quyết tử để Tổ
quốc quyết sinh”, quân và dân thành phố Hải Phòng đã kiên cường bám trụ,
chiến đấu anh dũng, khiến kẻ địch bị bất ngờ vì phải đương đầu với sức
mạnh của toàn dân, một sức mạnh “cả thành phố một lòng, quân dân cùng
chiến đấu”. Bảy ngày đêm giữ vững Hải Phòng tuy không dài nhưng để lại
nhiều bài học lớn về tác chiến trong thành phố của quân và dân ta. Cuộc
chiến đấu “có tác dụng của một cuộc tổng diễn tập thực sự chuẩn bị cho
trận đánh nhiều ngày ở Thủ đô Hà Nội xảy ra sau đó một tháng” như lời
đánh giá của Đại tướng Võ Nguyên Giáp sau này. Với hành động này, coi
như Pháp đã mở lời thách thức chiến đấu với quân dân Việt Nam và như
thế, đối với một chính quyền đứng đầu là Hồ Chí Minh lấy mục đích tối
cao: “Dân tộc trên hết, Tổ quốc trên hết” làm lẽ sống, thì không thể
không phát động kháng chiến. Ngày 29-11-1946, báo “Sự thật” ở Hà Nội, số
64, đăng lời kêu gọi của Hội nghiên cứu chủ nghĩa Mác ở Đông Dương (tức
là Đảng Cộng sản Đông Dương rút vào hoạt động bí mật). Trong đó có
đoạn: “Sự thật đã chứng tỏ rằng: thực dân Pháp ngang nhiên khiêu hấn.
Chúng định dùng võ lực bắt ta phải nhượng bộ, nhưng không khi nào ta
chịu. Tạm ước ngày 14-9 là một bước nhân nhượng cuối cùng. Nhân nhượng
nữa là phạm đến chủ quyền đất nước, là hại quyền lợi cao trọng của dân
tộc”.
Sự nghiệp cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh qua ảnh
Làng Sen – quê nội Bác
Tháng 6-1911, Người ra nước ngoài, đi
đến nước Pháp và nhiều nước châu Âu, châu Á, châu Phi, châu Mỹ. Người
vừa lao động để sống, vừa học tập, nghiên cứu các học thuyết cách mạng.
Năm 1917, Nguyễn Ái Quốc đến với chủ nghĩa Mác – Lênin, Người đã nhận rõ
đây là đường lối duy nhất đúng đắn để giải phóng dân tộc và giải phóng
xã hội. Trong ảnh: Bác Hồ làm phụ bếp trên con tàu đã đưa Người ra đi
tìm đường cứu nước năm 1911
Năm 1919, Người gia nhập Đảng Xã hội
pháp và hoạt động trong phong trào công nhân Pháp. Đầu năm đó, Người gửi
đến Hội nghị Véc-xây (Pháp) “Bản yêu sách của nhân dân Việt Nam”, đòi
Chính phủ Pháp phải thừa nhận các quyền tự do và bình đẳng của dân tộc
Việt Nam
Ngôi nhà số 9, ngõ hẻm Com-poăng (Paris), nơi Người trọ từ năm 1920 đến năm 1923
Tháng 12-1920, trong Đại hội lần thứ
18 của Đảng Xã hội Pháp, Người bỏ phiếu tán thành gia nhập Quốc tế cộng
sản và tham gia thành lập Đảng Cộng sản Pháp.
Năm 1921, Người tham gia thành lập Hội
liên hiệp các dân tộc thuộc địa và năm 1922 xuất bản báo “Người cùng
khổ” ở Pháp. Trong ảnh: Hồ Chủ Tịch và tờ báo Le Paria – Người cùng khổ
Tháng 6-1923, Người từ Pháp đi Liên
Xô, tiếp tục nghiên cứu chủ nghĩa Mác – Lênin và tham gia công tác của
Quốc tế cộng sản. Năm 1924, người dự Đại hội lần thứ 5 của Quốc tế cộng
sản và được cử làm Ủy viên Bộ phương Đông, phụ trách Cục phương Nam,
hướng dẫn và xây dựng phong trào cách mạng và phong trào Cộng sản ở các
nước Đông – Nam châu Á. Năm 1925, Người thành lập Hội Liên hiệp các dân
tộc bị áp bức ở Á Đông. Trong ảnh: Đồng chí Nguyễn Ái Quốc với một số
đại biểu dự Đại Hội Quốc Tế Cộng Sản lần V
Từ 1930 đến 1940, Người ở nước ngoài
tham gia công tác của Quốc tế Cộng sản, đồng thời theo dõi sát phong
trào cách mạng trong nước và có những chỉ thị quý báu cho Ban chấp hành
Trung ương Đảng. Trong ảnh: Bác Hồ vào năm 1933 khi vừa từ Trung Quốc
trở lại Nga
Sau 30 năm bôn ba hải ngoại, tháng 2 năm
1941, Bác Hồ về nước trực tiếp chỉ huy phong trào cách mạng trong nước.
Bác sống và làm việc trong hang Pác Pó thuộc huyện Hà Quảng, tỉnh Cao
Bằng. Trong ảnh: Lễ thành lập đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân
Ngày 24 tháng 5, Bác Hồ từ Cao Bằng về
đến Tân Trào để chỉ đạo phong trào cách mạng trong cả nước. Trong ảnh:
Bác Hồ ở Hang Bòng (Tân Trào, Sơn Dương)
Bữa cơm của Bác Hồ và các chiến sỹ ở Tân Trào trong những ngày đấu tranh chống thực dân Pháp
Ngày 17 tháng 8, ngay sau Đại hội Quốc
dân, Bác Hồ ra lời kêu gọi đồng bào cả nước Tổng khởi nghĩa, động viên
quân dân ta nhất tề xông lên giành lấy chính quyền, xây dựng nước Việt
Nam độc lập, tự do. Trong ảnh: Lá cờ treo tại đình Tân Trào trong Đại
hội Quốc dân.
Ngày 19-8-1945, hơn 10 vạn quần chúng thủ đô Hà Nội đã tham gia mít tinh mở đầu cuộc tổng khởi nghĩa giành chính quyền.
Và kết quả đã làm nên cuộc Cách mạng Tháng 8 kỳ diệu với chiến thắng vang dội.
Ngày 22 tháng 8, Bác Hồ rời Tân Trào về
Hà Nội. Ngày 2-9-1945, Người đọc bản Tuyên ngôn độc lập khai sinh nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Lễ tuyên ngôn Độc Lập tại Quảng trường Ba Đình, Hà Nội ngày 2-9-1945
Người đọc bản Tuyên ngôn Độc lập khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
Tháng 9-1945 câu kết với các đế quốc Mỹ, Anh và bọn phản động Quốc
dân Đảng Trung Quốc, thực dân Pháp trở lại xâm lược nước ta một lần
nữa, âm mưu xóa bỏ mọi thành quả của Cách mạng Tháng Tám. Chủ tịch Hồ
Chí Minh cùng Ban chấp hành Trung ương Đảng lãnh đạo toàn quân, toàn dân
ta vừa đánh trả bọn thực dân Pháp xâm lược ở miền Nam, vừa đối phó với
bọn phản động Tưởng Giới Thạch ở miền Bắc. Trong ảnh: Quân đội Trung Hoa
Dân quốc đến Hải Phòng, năm 1945
Quân Anh đến Sài Gòn, tháng 9 năm 1945
Hiệp định sơ bộ ngày 6-3-1946 được ký kết giữa Việt Nam và Pháp. Quân Tưởng Giới Thạch rút khỏi miền Bắc Việt Nam.
Chủ tịch Hồ Chí Minh và thư ký riêng Vũ Đình Huỳnh tại Paris năm 1946
Chủ tịch Hồ Chí Minh và Bộ trưởng Hải ngoại Pháp Marius Moutet ký bản tạm ước Việt – Pháp ngày 14-9-1946
Quân đội Pháp mở rộng đánh chiếm miền Nam, kéo ra chiếm đóng miền
Bắc, âm mưu tiến tới xóa bỏ Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Trước
tình hình ấy, tháng 12-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi toàn
quốc kháng chiến. Trong ảnh: Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến – Hồ Chí
Minh (9-12-1946)
Sau đó Người trở lại Việt Bắc lãnh đạo cuộc kháng chiến chống
Pháp. Trong 9 năm, trường kỳ kháng chiến, Bác Hồ cùng với Trung ương
Đảng lãnh đạo quân và dân đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Trong
ảnh: Nhà sàn đầu tiên của Bác ở Vai Cày, Đại Từ, Thái Nguyên
Ở chiến khu, mọi sinh hoạt của Bác…
từ làm việc…
… đến việc ra các quyết định quan trọng đến vận mệnh dân tộc đều hết sức giản dị, đơn sơ.
Hình ảnh Bác làm việc ở chiến khu Việt Bắc
Bác Hồ đi công tác ở chiến khu Việt Bắc
Bác tăng gia sản xuất ở chiến khu Việt Bắc
Bác Hồ với đồng chí Phạm Văn Đồng, Đại tướng Võ Nguyên Giáp tại ATK Định Hóa
Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng các đồng chí bảo vệ và giúp việc tại chiến khu Việt Bắc
Bác Hồ đọc báo ở chiến khu Việt Bắc, năm 1951
Bác Hồ nói chuyện về tình hình cách mạng
trong nước và thế giới với cán bộ, chiến sỹ bảo vệ và phục vụ những ngày
ở Chiến khu Việt Bắc.
Ở Việt Bắc, Bác thường đi thăm bà con dân tộc
Ngoài giờ làm việc, Bác chơi thể thao và tập võ để nâng cao sức khỏe
Đến cuối năm 1953, Chiến tranh Đông Dương đã kéo dài 8 năm, Pháp
lâm vào thế bị động trên chiến trường, quân đội dưới sự lãnh đạo của Bác
và Đảng đã giải phóng nhiều khu vực rộng lớn ở Tây Nguyên, khu 5, các
tỉnh Cao Bắc Lạng... Thời cơ đã đến, Bác và các đồng chí lãnh đạo của
Đảng như Đại tướng Võ Nguyên Giáp, đồng chí Trường Chinh... đã họp bàn
và ra quyết định mở chiến dịch Điện BIên Phủ. Trong ảnh: Hình ảnh “Ông
Ké” trở nên quen thuộc, gần gũi với đồng bào các dân tộc.
Bác tại nhà sàn Việt Bắc
Hồ Chủ tịch ở chiến khu Việt Bắc trong
thời gian kháng chiến chống Pháp, cùng với Đại tướng Võ Nguyên Giáp và
đồng chí Trường Chinh, sau này là Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam.
Vào tháng 12 năm 1953, Bác và các đồng chí lãnh đạo của Đảng họp tại Việt Bắc quyết định mở chiến dịch Điện Biên Phủ
Chủ tịch Hồ Chí Minh trao nhiệm vụ cho Đại tướng Võ Nguyên Giáp chỉ huy chiến dịch Điện Biên Phủ
Sau hai đợt tiến công ở Điện Biên Phủ, ta
đã giành được nhiều thắng lợi rất lớn và rất quan trọng. Bộ Chính trị
và Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ đạo lực lượng cả nước phối hợp hoạt động với
mặt trận Điện Biên Phủ. Trong ảnh: Bộ đội hành quân ra mặt trận.
Ngày 19-4-1954,
Bộ Chính trị ra hai nghị quyết: một chỉ đạo Điện Biên Phủ tiếp tục thấu
triệt phương châm “đánh chắc, thắng chắc”; một chỉ đạo chiến trường
trong cả nước tiếp tục thấu triệt phương châm “đánh nhỏ, ăn chắc”. Trong
ảnh: Công binh, dân công, thanh niên xung phong mở đường Tuần giáo –
Điện Biên Phủ.
56 ngày đêm chiến đấu dũng cảm, kiên
cường, tập đoàn cứ điểm mạnh nhất Đông Dương của thực dân Pháp lúc bấy
giờ bị Quân đội Nhân dân Việt Nam đập tan. Chiến thắng Điện Biên Phủ là
kết quả hợp thành của một loạt nhân tố dân tộc và thời đại, là đỉnh cao
chói lọi của chủ nghĩa yêu nước, chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam
thời đại mới dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng Cộng sản Việt Nam và
Chủ tịch Hồ Chí Minh. Trong ảnh: Bộ đội Đại đoàn 351 và 312 kéo pháo vào
trận địa.
Bộ đội ta reo mừng chiến thắng bên xác máy bay địch.
Quân lính Pháp thất trận tại Điện Biên Phủ lũ lượt ra hàng.
17 giờ 40 phút ngày 7-5-1954, bộ đội ta đã cắm lá cờ “Quyết chiến quyết thắng” trên nóc hầm Tướng De Castries.
Bác Hồ trao tặng huy hiệu Chiến sĩ Điện Biên Phủ cho chiến sỹ trinh sát đã lập nhiều thành tích xuất sắc
Ngày 7-5-1954, quân đội Pháp đại bại ở
Điện Biên Phủ. Đúng 16 giờ 30 phút, ngày 8-5-1954, Hội nghị Giơ-ne-vơ về
Đông Dương khai mạc. Ngày 20-7-1954, Hiệp
định Giơ-ne-vơ về đình chỉ chiến sự ở Đông Dương được ký kết. Trong ảnh:
Đại diện Việt Nam Dân chủ cộng hoà Tạ Quang Bửu (ngồi thứ hai từ bên
trái) ký Hiệp định Giơ-ne-vơ.
Năm cửa ô đón mừng đoàn quân tiến về – bộ đội tiếp quản thủ đô Hà Nội tháng 10 năm 1954
Lịch sử Khí công Khởi nguồn và lịch sử phát triển YOGA - Ấn Độ PHẦN I: CÓ MỘT CÁI GÌ ĐÓ “Tại sao có một cái gì đó chứ không phải là không có gì?” Lepnit . CHƯƠNG IX: NHÌN LẠI -"Mục đích duy nhất của khoa học là giảm bớt vất vả cho nhân loại." Bleiste -"Đạo đức cao thượng nhất của nhân loại là gì?Đó chính là lòng yêu nước" Napoleon. -"Nhân loại luôn có một chỗ độc đáo: nó lưu giữ hai bộ phép tắc đạo đức - một bộ lén lút, một bộ công khai; một bộ chân chính, một...
(ĐC sưu tầm trên NET) Bản tin 113 online cập nhật ngày 14/3: Bắt phó giám đốc dùng tài liệu giả tham gia đấu thầu | ANTV TRỰC TIẾP: Thời sự quốc tế 15/3 | Nga lập thế trận siết vòng vây 3000 quân Kiev, Ukraine run rẩy Tin tức thời sự mới nhất hôm nay | Bản tin sáng ngày 14-3-2024 Các quan chức cộng sản cấp cao biến mất | Trung Quốc Không Kiểm Duyệt THIÊN TRANG - Chỉ Hai Đứa Mình Thôi Nhé || Nhạc Vàng Xưa Bất Hủ Thêm 162 người nhập viện sau khi ăn cơm gà ở Nha Trang 8 giờ trước Việt Nam đề nghị Trung Quốc tôn trọng và tuân thủ hiệp định về phân định vịnh Bắc Bộ 9 giờ trước Khoảnh khắc một căn nhà bị sông Cầu 'nuốt chửng' ở Bắc Ninh 5 giờ trước Hà Nội: Cô bán trứng bất ngờ "được" ném nhầm bọc tiền hơn 1 tỷ vào xe 17 giờ trước Vũ khí đặc biệt trong gói viện trợ của Mỹ dành cho Ukraine 12 giờ trước Video quân đội Nga bắn nổ 2 trực thăng của Ukraine ở Donetsk 18 giờ trước Ông Trump vượt Tổng thống Biden về tỉ lệ ủng hộ trong thăm dò dư luận 11 giờ trước Làm...
Nỗi Buồn Hoa Phượng - Ý Linh (Thần Tượng Bolero 2017) [MV Official] NGẬM SẦU Sầu ta chẳng biết sầu gì Cứ như cơn sốt li bì mê man Lê la đã khắp trần gian Mà nào gặp thuốc uống tan nỗi sầu... Sầu ta chẳng biết tại sao Càng cười ha hả càng đau thấu tình Đã từng trải hết phiêu linh Tưởng là bệnh khỏi, hóa trên đỉnh sầu. Ai ơi cứu được ta nào Ta xin hậu tạ một chầu sầu riêng... Trần Hanh Thu Hạ Thương - Hồ Phương Liên (Á Quân Thần Tượng Bolero 2017) [MV Official] 【Top】Những Hình Ảnh Buồn Về Tình Yêu Hay Và Ý Nghĩa Nhất By Hoàng Trung Văn Nghĩa - 26 Tháng Mười, 2019 0 1595 Share ...
Nhận xét
Đăng nhận xét