CHUYỆN ÍT BIẾT 81
(ĐC sưu tầm trên NET)
Ngược dòng lịch sử, chiếc khẩu trang đầu tiên ra đời năm 1619, khi bệnh dịch hạch giết chết gần nửa triệu người ở Pháp, Italy, Đức, Tây Ban Nha....
Nói một cách chính xác, chiếc khẩu trang có lẽ đã xuất hiện từ lâu lắm. Dựa vào những ghi chép của nhà thám hiểm người Italy là Marco Polo, khi đến Trung Quốc hồi thế kỷ 13 rồi khi được một vị quan lớn nhà Nguyên mời dự yến tiệc, Marco Polo thấy những người hầu đều đeo quanh miệng một mảnh vải lụa mà theo giải thích là nhằm ngăn không cho hơi thở của họ "ám" vào thức ăn.
Tuy nhiên, loại "khẩu trang" này chỉ xuất hiện ở những nơi quyền quý, và hoàn toàn không có mục đích phòng ngừa bệnh tật.
Mãi đến mùa hè năm 1619, lúc những bệnh nhân đầu tiên mắc bệnh dịch hạch ở Pháp rồi sau đó nhanh chóng lan sang các quốc gia láng giềng như Italy, Tây Ban Nha, Đức..., thì do y học chưa hiểu biết tường tận về nguyên nhân gây bệnh cũng như cơ chế lây truyền, mà chỉ biết rằng nó phát xuất từ loài chuột đen.
Vì vậy, người ta gọi nó là "cái chết đen". Tất cả bệnh nhân bị nhiễm
đều chết vì không có thuốc chữa nên ý tưởng về việc phòng ngừa xuất
hiện, đi đầu là bác sĩ Charles de Lorme bởi lẽ khi đó người ta chỉ biết
giết chuột hoặc tránh xa loài chuột!
Thời điểm "cái chết đen" khởi phát, bác sĩ Charles de Lorme làm việc tại Bệnh viện St Louis, Paris, Pháp. Nhận thấy khá nhiều đồng nghiệp của ông bị lây khi tham gia những ca mổ xác để tìm hiểu lý do dẫn đến tử vong nhưng do y học chưa phát triển nên Charles de Lorme nghĩ rằng cái mùi "tử khí" bốc ra từ xác chết là nguyên nhân, trong lúc thực tế thì các bác sĩ bị nhiễm đều là những người đã tiếp xúc với xác chết ngay khi họ vừa chết được 1, 2 tiếng đồng hồ, xác chưa bị phân hủy.
Bên ngoài mỏ, Charles de Lorme bọc vải lanh rồi cho vào trong mỏ một số thảo mộc tỏa ra mùi thơm. Khi tiến hành phẫu thuật tử thi, bác sĩ đeo khẩu trang "mỏ chim" cùng với một cặp kính, gọng làm bằng đồng rồi mặc một chiếc áo choàng dài tới gót chân, có mũ trùm kín đầu.
Thế nhưng hiện tượng nhiễm bệnh vẫn không chấm dứt bởi lẽ mãi về sau này, người ta mới hiểu nguyên nhân lây truyền bệnh dịch hạch phát xuất từ loài bọ chét, sống bằng cách hút máu động vật lẫn con người nên khi bệnh nhân chết, máu đông lại, cơ thể không còn nóng, bọ chét phải tìm một nguồn nuôi dưỡng khác.
Bác sĩ mổ tử thi khi ấy chính là vật chủ bởi lẽ họ không mang găng tay, áo choàng không ngăn được những con bọ chét tìm đủ mọi cách để bám vào. Chiếc khẩu trang "mỏ chim" cũng vì thế mà lặng lẽ biến mất.
Đến đầu thế kỷ 17, bác sĩ Collin Mayer, người Mỹ, làm việc tại bệnh viện St George, bang Alabama nghĩ ra một loại khẩu trang khác. Lúc ấy, khá nhiều nô lệ da đen làm việc tại các đồn điền trồng cây bông vải trong bang mắc bệnh thủy đậu. Sau nhiều ngày theo dõi, bác sĩ Collin nhận thấy bệnh lây khi người bệnh ho, hắt hơi hoặc nói chuyện. Vì thế, ông may một cái túi bằng vải, có khoét 2 lỗ cho 2 con mắt.
Mỗi khi thăm khám, ông trùm cái "khẩu trang" này vào đầu cùng với một cặp kính. Kết quả là bác sĩ Collin không nhiễm bệnh nhưng con số nô lệ da đen bị nhiễm vẫn tăng lên mà nguyên nhân là bệnh thủy đậu - ngoài lây theo đường hô hấp - nó còn lây qua việc sử dụng chung những đồ dùng cá nhân, hoặc ăn uống chung với người đã nhiễm bệnh.
Bước sang thế kỷ 19 - năm 1827 - Fernandez Carlos, bác sĩ người Tây Ban Nha thiết kế chiếc khẩu trang dựa theo hình dáng của tấm chàng mạng mà phụ nữ Arab dùng để che mặt. Đó là một miếng vải hình chữ nhật, ở phần trên có dây buộc vòng quanh đầu còn phần dưới may liền vào áo choàng.
Năm 1897, phát triển từ mẫu khẩu trang của bác sĩ Fernandez Carlos, nhà vi khuẩn học người Đức là Carl Flugge và bác sĩ phẫu thuật người Pháp Paul Berger thay miếng vải bằng miếng băng gạc hình chữ nhật với 6 lớp. Nhưng giống như chiếc khẩu trang của bác sĩ Fernandez Carlos, loại khẩu trang của Carl Flugge và Paul Berger cũng có phần trên buộc vòng qua đầu còn phần dưới may dính vào áo choàng. Vì vậy, tác dụng ngăn ngừa nhiễm khuẩn của nó không hiệu quả lắm.
Năm 1899, chiếc khẩu trang tiến thêm một bước nhưng lần này đơn giản hơn: Mỗi khi khám bệnh, các bác sĩ người Mỹ dùng một miếng băng gạc dài khoảng 40cm, ngang 10cm, chính giữa có thêm 4 lớp gạc, cuốn quanh miệng và mũi rồi buộc lại ở phía sau gáy. Sử dụng xong, nó được mang đi giặt ngay nhưng hầu hết bác sĩ đều cho rằng nó gây khó thở nếu phải đeo nó trong những ca khám bệnh kéo dài. Tuy vậy, ở Trung Quốc, Singapore, Malaysia và ngay cả ở Australia, nó vẫn được sử dụng.
Cho đến cuối thế kỷ 19, khẩu trang vẫn được mặc định là chỉ dành riêng cho ngành y nhưng trong 2 năm 1918-1919, đại dịch cúm Tây Ban Nha lây nhiễm cho 500 triệu người (1/4 nhân loại trên toàn Trái đất lúc ấy), giết chết khoảng 50 triệu người, phần lớn là người trẻ, tuổi từ 20-40, những người tưởng như có hệ miễn dịch hoàn hảo nhất.
Biểu hiện của bệnh là xuất huyết ở mũi, dạ dày, ruột, sau đó xuất huyết và tràn dịch màng phổi khiến người bệnh "chết đuối" bởi chính chất lỏng bên trong cơ thể mình thì quan niệm về chiếc khẩu trang mới bắt đầu thay đổi.
Khi ấy, với sự tiến bộ của y học, các bác sĩ biết rằng bệnh cúm gây ra bởi virus. Bệnh nhân khi ho sẽ truyền bệnh cho người khác bởi những giọt nước bọt nhỏ li ti bắn ra từ miệng nên ngoài việc cách ly những người đã nhiễm bệnh, thì cần phải có biện pháp ngăn ngừa những người đang mang mầm bệnh nhưng chưa bộc phát.
Vì thế, các bác sĩ Anh quốc chế ra loại khẩu trang chỉ che kín phần miệng. Nó gồm một cuộn băng gạc, buộc túm 2 đầu rồi buộc dây vòng qua gáy. Tất cả mọi người dù nhiễm bệnh hay không, mỗi khi ra đường đều phải đeo. Đó cũng là chiếc khẩu trang phổ thông đại chúng đầu tiên.
Người dân London gọi nó một cách khôi hài là "xúc xích trắng" vì nhìn nó giống như chiếc xúc xích, nhất là nó lại nằm ở ngang miệng. Cho đến đầu năm 1919, cả châu Âu và nước Mỹ hầu như đều sử dụng loại khẩu trang "xúc xích" này.
Lúc bấy giờ, khẩu trang may bằng hai lớp vải cotton, còn màu sắc thì tùy theo ý thích của người dùng. Nó được phủ một lớp hồ ở mặt ngoài để tạo hình chóp nón và có độ cứng. Nó có 4 sợi dây ở 2 bên để đeo vòng qua tai.
Năm 1930, khi ngành nhựa phát triển, khẩu trang được làm bằng nhựa trong. Suốt một thập niên, ngoài những người ở ngành y thì loại khẩu trang này rất phổ biến trong giới đi xe phân khối lớn. Nó vừa ngăn được bụi, lại vừa không làm giảm tầm nhìn, dễ dàng chùi rửa nhưng đeo vào chỉ khoảng 15 phút, người đeo sẽ thấy khó thở vì nó quá kín.
Khi Thế chiến II bùng nổ, khẩu trang phổ biến đến nỗi ở London, Anh quốc, cứ 3 người thì có 1 người đeo khẩu trang khi ra đường. Do bị máy bay Đức Quốc xã ném bom, người dân London đeo khẩu trang vừa để ngừa bụi bốc ra từ những căn nhà bị trúng bom, vừa để giảm bớt cái mùi hôi thối của những tử thi chôn vùi trong những đống đổ nát.
Lúc ấy, nó được may 2 lớp bằng vải bông. Riêng quân đội Mỹ, khẩu trang y tế may 4 lớp với 4 loại vải khác nhau, gồm lụa, lanh, gai và cotton trong lúc ở Đông Nam Á, khẩu trang của quân đội phát xít Nhật tại những vùng do họ chiếm đóng vẫn chỉ là một miếng vải kaki hình chữ nhật, buộc quanh miệng.
Năm 1947, vải không dệt ra đời. Đây là dạng vải cấu tạo từ nhựa tổng hợp với một số thành phần các chất khác nhau tùy theo mục đích sử dụng. Nó được kéo dài thành từng sợi nhỏ nhưng không được dệt thành vải mà nó liên kết với nhau bằng hóa chất (chất dính) hoặc nhiệt độ (ép nóng) để tạo ra loại vải nhẹ và xốp. Từ loại vải không dệt này, chiếc khẩu trang y tế có cấu tạo và hình dạng như ngày nay.
Năm 1995, khi nhà ga tàu điện ngầm ở Tokyo bị khủng bố bằng chất độc sarin khiến 13 người thiệt mạng và 6.000 người nhiễm độc thì hãng sản xuất khẩu trang U-Mask, Mỹ cho ra đời chiếc khẩu trang chống hơi độc. Nó được làm bằng nhựa tổng hợp có gắn thêm bộ lọc không khí. Chỉ trong 1 tháng, U-Mask đã bán được 1,2 triệu chiếc khẩu trang loại này.
Hiện tại, có khá nhiều loại khẩu trang đang lưu hành khắp thế giới, từ loại kháng virus, kháng khuẩn, kháng bụi đến loại kháng bụi mịn và thậm chí kháng cả bụi phóng xạ, hầu hết được làm từ vải không dệt. Trong những ngày mà cả thế giới đang quay cuồng vì dịch viêm đường hô hấp cấp Covid-19 gây ra thì khẩu trang là mặt hàng bán chạy nhất.
Tuy nhiên, đối với loại khẩu trang y tế, thay vì chỉ dùng 1 lần theo khuyến cáo thì nhiều người dùng đi dùng lại nhiều lần, sau mỗi lần dùng lại treo trên móc xe, hoặc bỏ vào túi quần, áo, bỏ trong túi xách nên điều này đã góp phần làm lây lan dịch bệnh.
Theo Vũ Cao (theo Medical History) (Công an nhân dân)
Ngày nay, rửa tay sạch sẽ là một trong những phương cách đơn giản mà hiệu quả nhất để ngăn chặn sự lây lan của các loại bệnh tật, đó là điều mà tất cả các chuyên gia y tế trên khắp thế giới, bao gồm cả Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), đang nhấn mạnh trong những ngày này một cách thường xuyên, khi toàn thế giới đang cùng chiến đấu với dịch bệnh Covid-19.
Trong khi dịch Covid-19 vẫn đang tiếp tục gây ảnh hưởng tới cuộc sống của người dân trên khắp thế giới, công cụ tìm kiếm Google đã nhấn mạnh tầm quan trọng của việc rửa tay thông qua đoạn clip hoạt họa dành để tôn vinh sự nghiệp của bác sĩ Ignaz Semmelweis, người vốn được biết tới là “cha đẻ của kiểm soát lây nhiễm”.
Bác sĩ Ignaz Semmelweis được giới y khoa nhìn nhận là người đầu tiên phát hiện ra những lợi ích y tế quan trọng của việc rửa tay.
Vào ngày 20/3/1847, ông Ignaz Semmelweis đã khẳng định tầm quan trọng của việc rửa tay sạch sẽ khi ông được bổ nhiệm làm người đứng đầu khoa sản của Bệnh viện Đa khoa Vienna, ông bắt đầu yêu cầu tất cả các y bác sĩ, nhân viên y tế trong khoa phải khử khuẩn hai bàn tay một cách thường xuyên bằng chất tẩy rửa y tế.
Trước khi ông được bổ nhiệm, các sản phụ có tỷ lệ tử vong cao vì họ thường bị nhiễm trùng sau sinh nở, nhưng người ta không nhìn nhận thấu đáo nguyên nhân dẫn tới việc này. Sau khi tự tiến hành những hoạt động điều tra, ông Semmelweis đã nhận ra rằng nguyên nhân là bởi các bác sĩ đã mang những mầm bệnh trên bàn tay của họ khi tiếp xúc với các sản phụ.
Ngay sau khi bác sĩ Semmelweis yêu cầu các y bác sĩ trong khoa phải thường xuyên làm vệ sinh tay, tỷ lệ tử vong của các sản phụ đã giảm từ 18,27% xuống còn 1,27%, và trong khoảng thời gian từ tháng 3 tới tháng 8 năm 1848, không có sản phụ nào qua đời trong khi lưu lại khoa sản do bác sĩ Semmelweis đứng đầu.
Mặc dù có những thành tựu như vậy, nhưng nhiều đồng nghiệp của bác sĩ Semmelweis trong giới y khoa vẫn phủ nhận ý tưởng của ông, không coi đó là nghiêm túc.
Bác sĩ Semmelweis dần cảm thấy “tuyệt vọng” vì những người đồng nghiệp của mình, những người mà ông không thể nào thuyết phục họ thực sự tin tưởng vào tầm quan trọng của việc giữ gìn vệ sinh sạch sẽ trong lĩnh vực y tế, của đôi bàn tay sạch mầm bệnh của các y bác sĩ khi tiếp xúc với bệnh nhân, cuối cùng, ông rơi vào bất ổn tâm lý và phải nhập bệnh viện tâm thần, rồi qua đời tại đây.
Chỉ tới sau khi ông Semmelweis đã qua đời, những quan niệm của ông về vấn đề vệ sinh trong hoạt động y tế mới được khẳng định, lúc này, các y bác sĩ trên khắp thế giới đã bắt đầu tiếp cận và chấp nhận rộng rãi những lý thuyết về vi khuẩn, mầm bệnh...
Bên cạnh việc tôn vinh sự nghiệp của bác sĩ Semmelweis, đoạn clip hoạt họa của Google cũng nâng cao nhận thức cho người dân trên khắp thế giới về cách thức chuẩn xác để rửa tay sạch - một trong những biện pháp hiệu quả nhất trong việc ngăn chặn lây lan dịch bệnh. Điều này được Google thực hiện đúng thời điểm khi dịch bệnh Covid-19 đang lây lan trên toàn cầu.
SỰ THẬT VỀ CHIẾC KHẨU TRANG HOẠT TÍNH
Lịch sử chiếc khẩu trang y tế
Thứ Hai, ngày 16/03/2020 16:00 PM (GMT+7)
Ngược dòng lịch sử, chiếc khẩu trang đầu tiên ra đời năm 1619, khi bệnh dịch hạch giết chết gần nửa triệu người ở Pháp, Italy, Đức, Tây Ban Nha....
Trong những ngày mà cả thế giới đang chao đảo vì dịch viêm đường hô hấp cấp, lây truyền do dịch Covid-19 thì vật dụng không thể thiếu mỗi khi ra đường hoặc lui tới những chỗ đông người chính là chiếc khẩu trang.Ngược dòng lịch sử, chiếc khẩu trang đầu tiên ra đời năm 1619, khi bệnh dịch hạch giết chết gần nửa triệu người ở Pháp, Italy, Đức, Tây Ban Nha....
Nói một cách chính xác, chiếc khẩu trang có lẽ đã xuất hiện từ lâu lắm. Dựa vào những ghi chép của nhà thám hiểm người Italy là Marco Polo, khi đến Trung Quốc hồi thế kỷ 13 rồi khi được một vị quan lớn nhà Nguyên mời dự yến tiệc, Marco Polo thấy những người hầu đều đeo quanh miệng một mảnh vải lụa mà theo giải thích là nhằm ngăn không cho hơi thở của họ "ám" vào thức ăn.
Tuy nhiên, loại "khẩu trang" này chỉ xuất hiện ở những nơi quyền quý, và hoàn toàn không có mục đích phòng ngừa bệnh tật.
Mãi đến mùa hè năm 1619, lúc những bệnh nhân đầu tiên mắc bệnh dịch hạch ở Pháp rồi sau đó nhanh chóng lan sang các quốc gia láng giềng như Italy, Tây Ban Nha, Đức..., thì do y học chưa hiểu biết tường tận về nguyên nhân gây bệnh cũng như cơ chế lây truyền, mà chỉ biết rằng nó phát xuất từ loài chuột đen.
Thời điểm "cái chết đen" khởi phát, bác sĩ Charles de Lorme làm việc tại Bệnh viện St Louis, Paris, Pháp. Nhận thấy khá nhiều đồng nghiệp của ông bị lây khi tham gia những ca mổ xác để tìm hiểu lý do dẫn đến tử vong nhưng do y học chưa phát triển nên Charles de Lorme nghĩ rằng cái mùi "tử khí" bốc ra từ xác chết là nguyên nhân, trong lúc thực tế thì các bác sĩ bị nhiễm đều là những người đã tiếp xúc với xác chết ngay khi họ vừa chết được 1, 2 tiếng đồng hồ, xác chưa bị phân hủy.
Khẩu trang mỏ chim năm 1619
Vì tin rằng cái mùi "tử khí" là thủ phạm nên theo Charles de Lorme,
cần phải cách ly cái mũi của bác sĩ khỏi "tử khí". Sau nhiều ngày nghiên
cứu, Charles de Lorme cho ra đời chiếc khẩu trang đầu tiên của nhân
loại. Nó làm bằng những thanh gỗ thông vót mỏng, uốn thành hình cái mỏ
của một con chim.Bên ngoài mỏ, Charles de Lorme bọc vải lanh rồi cho vào trong mỏ một số thảo mộc tỏa ra mùi thơm. Khi tiến hành phẫu thuật tử thi, bác sĩ đeo khẩu trang "mỏ chim" cùng với một cặp kính, gọng làm bằng đồng rồi mặc một chiếc áo choàng dài tới gót chân, có mũ trùm kín đầu.
Thế nhưng hiện tượng nhiễm bệnh vẫn không chấm dứt bởi lẽ mãi về sau này, người ta mới hiểu nguyên nhân lây truyền bệnh dịch hạch phát xuất từ loài bọ chét, sống bằng cách hút máu động vật lẫn con người nên khi bệnh nhân chết, máu đông lại, cơ thể không còn nóng, bọ chét phải tìm một nguồn nuôi dưỡng khác.
Bác sĩ mổ tử thi khi ấy chính là vật chủ bởi lẽ họ không mang găng tay, áo choàng không ngăn được những con bọ chét tìm đủ mọi cách để bám vào. Chiếc khẩu trang "mỏ chim" cũng vì thế mà lặng lẽ biến mất.
Đến đầu thế kỷ 17, bác sĩ Collin Mayer, người Mỹ, làm việc tại bệnh viện St George, bang Alabama nghĩ ra một loại khẩu trang khác. Lúc ấy, khá nhiều nô lệ da đen làm việc tại các đồn điền trồng cây bông vải trong bang mắc bệnh thủy đậu. Sau nhiều ngày theo dõi, bác sĩ Collin nhận thấy bệnh lây khi người bệnh ho, hắt hơi hoặc nói chuyện. Vì thế, ông may một cái túi bằng vải, có khoét 2 lỗ cho 2 con mắt.
Mỗi khi thăm khám, ông trùm cái "khẩu trang" này vào đầu cùng với một cặp kính. Kết quả là bác sĩ Collin không nhiễm bệnh nhưng con số nô lệ da đen bị nhiễm vẫn tăng lên mà nguyên nhân là bệnh thủy đậu - ngoài lây theo đường hô hấp - nó còn lây qua việc sử dụng chung những đồ dùng cá nhân, hoặc ăn uống chung với người đã nhiễm bệnh.
Bước sang thế kỷ 19 - năm 1827 - Fernandez Carlos, bác sĩ người Tây Ban Nha thiết kế chiếc khẩu trang dựa theo hình dáng của tấm chàng mạng mà phụ nữ Arab dùng để che mặt. Đó là một miếng vải hình chữ nhật, ở phần trên có dây buộc vòng quanh đầu còn phần dưới may liền vào áo choàng.
Khẩu trang của bác sĩ hồi cuối thế kỷ 19
Tuy nhiên, lúc nhiều bác sĩ nhiễm lao trong quá trình thăm khám người
bệnh thì loại khẩu trang này bị hủy bỏ vì y học khi ấy tin rằng vi
trùng lao có thể đi xuyên qua vải, mặc dù nguyên nhân thực tế là do khẩu
trang không che kín được mũi và miệng. Hơn nữa, sau khi thăm khám, áo
choàng cũng không được giặt ngay mà thường thì chỉ được giặt sau 2 hoặc 3
ngày.Năm 1897, phát triển từ mẫu khẩu trang của bác sĩ Fernandez Carlos, nhà vi khuẩn học người Đức là Carl Flugge và bác sĩ phẫu thuật người Pháp Paul Berger thay miếng vải bằng miếng băng gạc hình chữ nhật với 6 lớp. Nhưng giống như chiếc khẩu trang của bác sĩ Fernandez Carlos, loại khẩu trang của Carl Flugge và Paul Berger cũng có phần trên buộc vòng qua đầu còn phần dưới may dính vào áo choàng. Vì vậy, tác dụng ngăn ngừa nhiễm khuẩn của nó không hiệu quả lắm.
Năm 1899, chiếc khẩu trang tiến thêm một bước nhưng lần này đơn giản hơn: Mỗi khi khám bệnh, các bác sĩ người Mỹ dùng một miếng băng gạc dài khoảng 40cm, ngang 10cm, chính giữa có thêm 4 lớp gạc, cuốn quanh miệng và mũi rồi buộc lại ở phía sau gáy. Sử dụng xong, nó được mang đi giặt ngay nhưng hầu hết bác sĩ đều cho rằng nó gây khó thở nếu phải đeo nó trong những ca khám bệnh kéo dài. Tuy vậy, ở Trung Quốc, Singapore, Malaysia và ngay cả ở Australia, nó vẫn được sử dụng.
Cho đến cuối thế kỷ 19, khẩu trang vẫn được mặc định là chỉ dành riêng cho ngành y nhưng trong 2 năm 1918-1919, đại dịch cúm Tây Ban Nha lây nhiễm cho 500 triệu người (1/4 nhân loại trên toàn Trái đất lúc ấy), giết chết khoảng 50 triệu người, phần lớn là người trẻ, tuổi từ 20-40, những người tưởng như có hệ miễn dịch hoàn hảo nhất.
Biểu hiện của bệnh là xuất huyết ở mũi, dạ dày, ruột, sau đó xuất huyết và tràn dịch màng phổi khiến người bệnh "chết đuối" bởi chính chất lỏng bên trong cơ thể mình thì quan niệm về chiếc khẩu trang mới bắt đầu thay đổi.
Khi ấy, với sự tiến bộ của y học, các bác sĩ biết rằng bệnh cúm gây ra bởi virus. Bệnh nhân khi ho sẽ truyền bệnh cho người khác bởi những giọt nước bọt nhỏ li ti bắn ra từ miệng nên ngoài việc cách ly những người đã nhiễm bệnh, thì cần phải có biện pháp ngăn ngừa những người đang mang mầm bệnh nhưng chưa bộc phát.
Vì thế, các bác sĩ Anh quốc chế ra loại khẩu trang chỉ che kín phần miệng. Nó gồm một cuộn băng gạc, buộc túm 2 đầu rồi buộc dây vòng qua gáy. Tất cả mọi người dù nhiễm bệnh hay không, mỗi khi ra đường đều phải đeo. Đó cũng là chiếc khẩu trang phổ thông đại chúng đầu tiên.
Người dân London gọi nó một cách khôi hài là "xúc xích trắng" vì nhìn nó giống như chiếc xúc xích, nhất là nó lại nằm ở ngang miệng. Cho đến đầu năm 1919, cả châu Âu và nước Mỹ hầu như đều sử dụng loại khẩu trang "xúc xích" này.
Khẩu trang ngừa cúm chỉ che phần miệng, năm 1918
Thế nhưng, chỉ một thời gian ngắn, các bác sĩ Mỹ nhận ra rằng mỗi khi
muốn ho hay khạc nhổ, người ta phải kéo cái "xúc xích" ra khỏi miệng và
như vậy, nguy cơ lây truyền vẫn hiện hữu. Bên cạnh đó, sự hắt hơi cũng
có thể phát tán mầm bệnh nên lần này, người Mỹ cho ra đời chiếc khẩu
trang chỉ che kín phần mũi!Lúc bấy giờ, khẩu trang may bằng hai lớp vải cotton, còn màu sắc thì tùy theo ý thích của người dùng. Nó được phủ một lớp hồ ở mặt ngoài để tạo hình chóp nón và có độ cứng. Nó có 4 sợi dây ở 2 bên để đeo vòng qua tai.
Khẩu trang che mũi, năm 1919
Điều bất tiện là khi giặt để tái sử dụng, lớp hồ trôi hết nên phải hồ
lại nhưng không phải nhà ai cũng có sẵn hồ và biết cách hồ. Vì thế, cứ
vài ngày một lần, họ gom tất cả khẩu trang của những người trong gia
đình rồi mang ra những cửa hàng chuyên "hồ khẩu trang", chưa kể nếu gặp
nước hoặc đi ngoài mưa, hồ tan ra gây dính, nhớp, bụi bặm bám đầy vào
lớp hồ ướt.Năm 1930, khi ngành nhựa phát triển, khẩu trang được làm bằng nhựa trong. Suốt một thập niên, ngoài những người ở ngành y thì loại khẩu trang này rất phổ biến trong giới đi xe phân khối lớn. Nó vừa ngăn được bụi, lại vừa không làm giảm tầm nhìn, dễ dàng chùi rửa nhưng đeo vào chỉ khoảng 15 phút, người đeo sẽ thấy khó thở vì nó quá kín.
Khẩu trang nhựa năm 1935
Và bởi vì lớp nhựa rất mỏng, dễ bị biến dạng khi đeo nên nó còn có
một chiếc đai kim loại ràng quanh khiến nó khá nặng nề. Để cải tiến, các
nhà chế tạo để hở phần dưới cằm cho không khí dễ dàng lưu thông nhưng
nó lại hạn chế việc ngăn ngừa vi khuẩn xâm nhập qua đường hô hấpKhi Thế chiến II bùng nổ, khẩu trang phổ biến đến nỗi ở London, Anh quốc, cứ 3 người thì có 1 người đeo khẩu trang khi ra đường. Do bị máy bay Đức Quốc xã ném bom, người dân London đeo khẩu trang vừa để ngừa bụi bốc ra từ những căn nhà bị trúng bom, vừa để giảm bớt cái mùi hôi thối của những tử thi chôn vùi trong những đống đổ nát.
Lúc ấy, nó được may 2 lớp bằng vải bông. Riêng quân đội Mỹ, khẩu trang y tế may 4 lớp với 4 loại vải khác nhau, gồm lụa, lanh, gai và cotton trong lúc ở Đông Nam Á, khẩu trang của quân đội phát xít Nhật tại những vùng do họ chiếm đóng vẫn chỉ là một miếng vải kaki hình chữ nhật, buộc quanh miệng.
Năm 1947, vải không dệt ra đời. Đây là dạng vải cấu tạo từ nhựa tổng hợp với một số thành phần các chất khác nhau tùy theo mục đích sử dụng. Nó được kéo dài thành từng sợi nhỏ nhưng không được dệt thành vải mà nó liên kết với nhau bằng hóa chất (chất dính) hoặc nhiệt độ (ép nóng) để tạo ra loại vải nhẹ và xốp. Từ loại vải không dệt này, chiếc khẩu trang y tế có cấu tạo và hình dạng như ngày nay.
Năm 1995, khi nhà ga tàu điện ngầm ở Tokyo bị khủng bố bằng chất độc sarin khiến 13 người thiệt mạng và 6.000 người nhiễm độc thì hãng sản xuất khẩu trang U-Mask, Mỹ cho ra đời chiếc khẩu trang chống hơi độc. Nó được làm bằng nhựa tổng hợp có gắn thêm bộ lọc không khí. Chỉ trong 1 tháng, U-Mask đã bán được 1,2 triệu chiếc khẩu trang loại này.
Hiện tại, có khá nhiều loại khẩu trang đang lưu hành khắp thế giới, từ loại kháng virus, kháng khuẩn, kháng bụi đến loại kháng bụi mịn và thậm chí kháng cả bụi phóng xạ, hầu hết được làm từ vải không dệt. Trong những ngày mà cả thế giới đang quay cuồng vì dịch viêm đường hô hấp cấp Covid-19 gây ra thì khẩu trang là mặt hàng bán chạy nhất.
Tuy nhiên, đối với loại khẩu trang y tế, thay vì chỉ dùng 1 lần theo khuyến cáo thì nhiều người dùng đi dùng lại nhiều lần, sau mỗi lần dùng lại treo trên móc xe, hoặc bỏ vào túi quần, áo, bỏ trong túi xách nên điều này đã góp phần làm lây lan dịch bệnh.
Nguồn: http://antg.cand.com.vn/Khoa-hoc-Ky-thuat-hinh-su/Lich-su-chiec-khau-trang-y-te-583281/
Nhiều người truyền tai nhau phương pháp đốt bồ kết ở nhà, bôi dầu tràm vào khẩu trang, ngâm muối vào khẩu trang có thể...
Theo Vũ Cao (theo Medical History) (Công an nhân dân)
Lịch sử của khẩu trang - từ miếng gạc y tế đến vật bất ly thân
Dịch SARS, cúm gia cầm, Ebola
và gần đây nhất là virus corona cùng sự ô nhiễm không khí, bụi mịn gia
tăng khiến khẩu trang trở thành vật dụng không thể thiếu khi ra đường.
Theo tác giả Charles A. Rockwood và Don O'Donoghue của nghiên cứu The Surgical Mask: Its Development, Usage, and Efficiency, chiếc mặt nạ y tế - phiên bản đầu tiên của khẩu trang ngày nay - là ý tưởng của nhà vi khẩu học người Đức Carl Flugge và được phát triển bởi bác sĩ phẫu thuật người Pháp Paul Berger vào khoảng năm 1897-1899. Tiền thân của chiếc khẩu trang là một miếng gạc hình chữ nhật gồm 6 lớp gạc, được khâu ở mép dưới với phần tạp dề vải lanh đã khử trùng và đường viền phía trên giữ sát gốc mũi bằng dây buộc sau cổ. Ảnh: Axios. |
Khẩu trang trong những năm đầu thế kỷ 20 được sử dụng chủ yếu trong lĩnh vực y tế, để tránh lây lan các bệnh truyền nhiễm giữa bệnh nhân và bác sĩ. Trong quá trình phát triển, khẩu trang ngày càng được giới y khoa, nghiên cứu cải thiện về hình dáng, chức năng và dần trở thành vật dụng không thể thiếu khi ra đường. Ảnh: New York Post. |
Theo trang Quartz, khẩu trang bắt đầu du nhập và phổ biến ở các nước châu Á vào những năm đầu thế kỷ 20 khi một đại dịch cúm đã khiến 20-40 triệu người tử vong trên khắp thế giới, trong đó Ấn Độ chịu hậu quả nặng nề khi mất hơn 5% dân số. Ảnh: AP. |
Ngày nay khẩu trang thông dụng ở hầu hết mọi quốc gia song đặc biệt phổ biến ở các nước Đông Á như Nhật Bản, Hàn Quốc và Trung Quốc. Điều này được lý giải bởi các đại dịch từng bùng phát ở khu vực này cũng như bầu không khí ô nhiễm và quan niệm của người phương Đông - hơi thở là yếu tố quyết định sức khỏe. Ảnh: Getty. |
Dịch SARS bùng phát năm 2002-2003, cúm gia cầm năm 2006-2009, Ebola năm 2014 và gần đây nhất là virus corona với tâm dịch là thành phố Vũ Hán (Trung Quốc) cùng sự ô nhiễm không khí, bụi mịn gia tăng khiến khẩu trang trở thành vật dụng không thể thiếu với người dân tại các nơi công cộng. Ảnh: MEO. |
Không chỉ là vật dụng chống lại ô nhiễm không khí và bệnh tật, khẩu trang ngày nay còn là một item thời trang với giới trẻ. Khẩu trang với muôn kích cỡ, kiểu dáng với đủ các loại họa tiết lạ mắt, thời thượng đã được giới thiệu trên các sàn diễn thời trang danh tiếng tại Trung Quốc, Nhật Bản trong một vài năm trở lại đây. Ảnh: Tokyo Fashion, @kaya127s. |
Các nghiên cứu còn chỉ ra rằng, với nhiều thanh thiếu niên châu Á, khẩu trang còn có vai trò như "tường lửa xã hội". Nhiều người sử dụng khẩu trang, đội mủ, đeo tai nghe ở nơi công cộng như một dấu hiệu tránh né các giao tiếp xã hội với người xung quanh. Ảnh: pollutionairmask. |
Giữa đại dịch Covid-19, nhớ người bác sĩ đầu tiên đề cao chuyện... rửa tay
Dân trí Hôm nay, công cụ tìm kiếm Google tôn vinh bác sĩ người Hungary - Ignaz Semmelweis (1818 - 1865), ông được xem là “cha đẻ của kiểm soát lây nhiễm”.
Ngày nay, rửa tay sạch sẽ là một trong những phương cách đơn giản mà hiệu quả nhất để ngăn chặn sự lây lan của các loại bệnh tật, đó là điều mà tất cả các chuyên gia y tế trên khắp thế giới, bao gồm cả Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), đang nhấn mạnh trong những ngày này một cách thường xuyên, khi toàn thế giới đang cùng chiến đấu với dịch bệnh Covid-19.
Trong khi dịch Covid-19 vẫn đang tiếp tục gây ảnh hưởng tới cuộc sống của người dân trên khắp thế giới, công cụ tìm kiếm Google đã nhấn mạnh tầm quan trọng của việc rửa tay thông qua đoạn clip hoạt họa dành để tôn vinh sự nghiệp của bác sĩ Ignaz Semmelweis, người vốn được biết tới là “cha đẻ của kiểm soát lây nhiễm”.
Bác sĩ Ignaz Semmelweis được giới y khoa nhìn nhận là người đầu tiên phát hiện ra những lợi ích y tế quan trọng của việc rửa tay.
Vào ngày 20/3/1847, ông Ignaz Semmelweis đã khẳng định tầm quan trọng của việc rửa tay sạch sẽ khi ông được bổ nhiệm làm người đứng đầu khoa sản của Bệnh viện Đa khoa Vienna, ông bắt đầu yêu cầu tất cả các y bác sĩ, nhân viên y tế trong khoa phải khử khuẩn hai bàn tay một cách thường xuyên bằng chất tẩy rửa y tế.
Trước khi ông được bổ nhiệm, các sản phụ có tỷ lệ tử vong cao vì họ thường bị nhiễm trùng sau sinh nở, nhưng người ta không nhìn nhận thấu đáo nguyên nhân dẫn tới việc này. Sau khi tự tiến hành những hoạt động điều tra, ông Semmelweis đã nhận ra rằng nguyên nhân là bởi các bác sĩ đã mang những mầm bệnh trên bàn tay của họ khi tiếp xúc với các sản phụ.
Ngay sau khi bác sĩ Semmelweis yêu cầu các y bác sĩ trong khoa phải thường xuyên làm vệ sinh tay, tỷ lệ tử vong của các sản phụ đã giảm từ 18,27% xuống còn 1,27%, và trong khoảng thời gian từ tháng 3 tới tháng 8 năm 1848, không có sản phụ nào qua đời trong khi lưu lại khoa sản do bác sĩ Semmelweis đứng đầu.
Mặc dù có những thành tựu như vậy, nhưng nhiều đồng nghiệp của bác sĩ Semmelweis trong giới y khoa vẫn phủ nhận ý tưởng của ông, không coi đó là nghiêm túc.
Bác sĩ Semmelweis dần cảm thấy “tuyệt vọng” vì những người đồng nghiệp của mình, những người mà ông không thể nào thuyết phục họ thực sự tin tưởng vào tầm quan trọng của việc giữ gìn vệ sinh sạch sẽ trong lĩnh vực y tế, của đôi bàn tay sạch mầm bệnh của các y bác sĩ khi tiếp xúc với bệnh nhân, cuối cùng, ông rơi vào bất ổn tâm lý và phải nhập bệnh viện tâm thần, rồi qua đời tại đây.
Chỉ tới sau khi ông Semmelweis đã qua đời, những quan niệm của ông về vấn đề vệ sinh trong hoạt động y tế mới được khẳng định, lúc này, các y bác sĩ trên khắp thế giới đã bắt đầu tiếp cận và chấp nhận rộng rãi những lý thuyết về vi khuẩn, mầm bệnh...
Bên cạnh việc tôn vinh sự nghiệp của bác sĩ Semmelweis, đoạn clip hoạt họa của Google cũng nâng cao nhận thức cho người dân trên khắp thế giới về cách thức chuẩn xác để rửa tay sạch - một trong những biện pháp hiệu quả nhất trong việc ngăn chặn lây lan dịch bệnh. Điều này được Google thực hiện đúng thời điểm khi dịch bệnh Covid-19 đang lây lan trên toàn cầu.
Bích Ngọc
Theo Independent
Nhận xét
Đăng nhận xét